Mỗi năm cứ đến ngày 30 tháng 4 lòng tôi không tránh khỏi nỗi ngậm ngùi và nuối tiếc. Sự nuối tiếc về một quá khứ xa xôi nơi mảnh đất tôi đã được sinh ra và lớn khôn. Mảnh quá khứ đó đã hun đúc cho tôi một trí khôn mẫn tiệp, bơm vào dòng máu tôi một nhân bản thuần Việt và đã tạo cho tôi một hình hài khá đầy đủ tài và đức để hãnh diện bước vào đời ở nơi xứ lạ. Lòng tôi ngậm ngùi vì phải sống xa quê hương, như một cây ăn trái bị bứng đi khỏi mảnh đất màu mỡ để trồng vào một mảnh đất khác, tuy cũng màu mỡ, nhưng hoa trái đầu mùa phần nào đã bị biến thái.
Nhìn lại đất nước Việt sau bốn thập niên thống nhất, sự ngậm ngùi càng thêm cay đắng cho một cơ hội đã bị bỏ lỡ để quê hương lớn khôn vững chãi, để những nước chung quanh nể phục tinh thần Việt, con người Việt. Đối với tôi, một người lớn khôn lên ở miền Nam, ngày 30 tháng tư là ngày mất nước. Những người cộng sản xem đó là ngày chiến thắng, và hãnh diện về một trang sử oai hùng vì đã đánh bại hai đế quốc xâm lược. Tuy cái nhìn có khác nhau nhưng lịch sử đã gom hết lại những người Việt với nhau trên mảnh đất hình chữ S với chiều dài từ Ải Nam quan đến mũi Cà mau. Sự thống nhất hai miền Nam Bắc là một sự kiện lịch sử không ai chối cãi được. Nhưng sự kiện này là một điều may mắn hay là một rủi ro, bất hạnh?
Không cần phải đến giờ này, sau từng ấy năm thống nhất, những người Việt mới thấy đây là một bất hạnh. Bất hạnh vì cả một nền văn hóa bị đảo lộn hoàn toàn, những giá trị đạo đức căn bản bị coi rẻ hơn bèo, ngay đến giá trị con người cũng bị hủy diệt thật tàn bạo. Ngay sau ngày 30 tháng 4, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa trâng tráo đi thẳng vào Sàigòn bằng cách chà đạp lên nền văn hóa miền Nam, bằng cách ngồi xổm lên nền đạo đức căn bản của cha ông, bằng cách nói khoác thật thoải mái, bằng niềm tin ngây ngô “đồng hồ Trung quốc tốt hơn đồng hồ Thụy sĩ” và họ, những người cộng sản, bắt những người miền Nam phải tin và hành xử như thế. Cái nền văn hóa quái gở đó đã bỏ tù sỉ nhục biết bao binh lính miền Nam, làm thiệt đi khá nhiều nhân tài. Nhưng cái tai hại nhất là họ cố tình đẩy hết những người Việt ra biển, để cho chết, để có cớ đoạt của cải, với niềm tin rằng bọn “ma cô đĩ điếm” miền Nam nên chết hết để họ rảnh tay xây dựng một nền “văn minh xã hội chủ nghĩa”, một thế hệ mới với những con người mới. Phần nào họ đã thành công vì một nửa đã chết thê thảm trên biển chưa hề thấy lại mảnh đất liền. Nhiều thiếu nữ trên đường vượt biên bị bắt và bán vào các nhà thổ ở Thái, bắt đầu một cuộc chà đạp nhân phẩm của con cháu hai bà Trưng Triệu và kéo dài mãi cho đến ngày hôm nay, chỉ dưới một hình thức khác. Những người vượt biên bằng thuyền này đã từng là chất xám, góp phần không nhỏ vào nền văn minh khoa học của miền Nam khá nổi bật ở vùng Đông Nam Á. Họ ra đi vì không thể nào chịu đựng được cái niềm hãnh tiến của những tay lãnh tụ i-tờ. Một tay lãnh tụ chưa qua lớp năm trường làng chuyên nghề bẻ ghi hoặc hành nghề lái lợn thì đối với dân trí thức, nhất là trí thức của một nước bị bại trận thì lòng tự ti và sự căm thù của những tên lãnh tụ này phải nói là ngút trời xanh. Những kẻ trí thức miền Nam bị những tên lãnh tụ miền Bắc xem rẻ hơn cục phân bắt buộc phải ngậm ngùi trốn khỏi nước. Cũng có kẻ đã có kinh nghiệm với cộng sản nên cũng chạy trốn trong nỗi sợ hãi, cũng có người khinh tởm một mớ lý thuyết bạo lực bất nhân được lập đi lập lại ở môi miệng của những người cộng sản dốt đặc cán mai nên dứt khoát rũ bỏ mảnh quá khứ ở sau lưng. Những trí thức miền Nam đến định cư ở quê hương thứ hai đã tạo nên sự nghiệp vẻ vang. Họ dâng hiến cho đất nước tạm dung những thành quả của trí tuệ, đóng góp vào sự phồn thịnh phát triển không ngừng của quê hương thứ hai. Thế hệ con cháu lại càng vượt thế hệ cha ông. Những người trẻ này đã làm vẻ vang giống nòi ở xứ người. Người bản xứ không còn nhìn lớp người Việt bằng ánh mắt dè bỉu như những năm đầu tỵ nạn nữa, mà trái lại họ ngưỡng mộ tầng lớp trẻ đã cống hiến cho xứ sở này biết bao điều kỳ diệu.
Như thế lịch sử đã khẳng định một sự thật về tiềm năng của tầng lớp trí thức miền Nam. Họ đã giúp xây dựng một miền Nam khá trù phú trong chiến tranh và đã đóng góp hoa trái cho sự phát triển vượt bực của quốc gia nơi gia đình họ đang sinh sống. Nếu miền Nam thắng, chắc chắn số chất xám này sẽ không bị thất thoát ra hải ngoại. Cọng với tầng lớp trí thức miền Bắc, tuy ít oi nhưng không phải là không có. Cũng có người học rộng, hiểu biết nhiều. Sở dĩ tôi nói ít oi chỉ vì chính sách độc tài của những tên lãnh tụ vốn ít học. Họ không muốn đào tạo nhiều trí thức. Hơn nữa, mức độ tăng cường quân số trên các mặt trận khiến cho tầng lớp trẻ miền Bắc không được học hành nhiều. Tuy thế, nếu kết hợp được chất xám của hai miền Nam Bắc này lại thì chắc chắn Việt nam bây giờ phải khác, khác lắm chứ không èo uột như bây giờ. Khi trình độ tri thức trong nước gia tăng thì chúng ta có thể làm chủ lấy những tài nguyên thiên nhiên, vật lực và nhân lực chứ không thể để bọn ngoại nhân lũng đoạn nền kinh tế đất nước như hiện nay. Trong khi bọn lãnh tụ không có một chút kiến thức gì về việc điều hành đất nước, lại nắm trong tay hết quyền hành, cọng thêm máu ăn bẩn thu vén hết của công về riêng cho mình thì đất nước tan hoang là điều dễ hiểu.
Đó là nền kinh tế trên bình diện quốc gia, còn về tình người cũng chắc chắn phải khác. Nếu miền Nam thắng, bầy trẻ thơ đến trường sẽ không bao giờ phải học những hận thù giai cấp, những bài toán nhân chia trừ cọng bằng mạng người… một tên lính Mỹ bị giết hôm nay cọng với hai tên lính Ngụy chết hôm qua như thế quân ta giết được bao nhiêu đứa? Những bài toán như thế nhan nhản trong khắp sách toán ở bậc tiểu học. Thế giới thăng trầm qua nhiều chủ nghĩa, triết thuyết, học thuyết nhưng lịch sử nhân loại chưa bao giờ là nhân chứng cho một chủ nghĩa quái đản như chủ nghĩa cộng sản khi mớm cho các em từ thuở cắp sách đến trường lòng căm thù của người lớn. Một thế hệ lớn lên bằng máu chủ nghĩa luân lưu khắp cơ thể, bằng trái tim chai đá hận thù giai cấp, bằng khối óc đông cứng bạo lực, bằng những bàn tay chỉ biết cầm súng giết người không cùng chính kiến thì cho dù học tài hiểu rộng đến đâu vẫn không thể là một nhà lãnh đạo vẹn toàn được.
Họ, những người cộng sản, muốn tẩy sạch những người miền Nam để xây dựng một thế hệ tiêu biểu như thế. Một thế hệ lớn lên sẽ cai trị đất nước bằng máu và nước mắt. Nền văn học cộng sản còn dạy cho tầng lớp thanh niên một trí tuệ nô bộc, lệ thuộc vào các nước cộng sản đàn anh khi thương khóc một Stalin như Tố Hữu, tên văn nô nổi tiếng nhất trong thế kỷ hai mươi. Ngày Stalin chết, các nước cộng sản khác trên thế giới cũng bày tỏ lòng thương tiếc, nhưng có lẽ không một nước cộng sản nào lại thương tiếc Stalin như nước Việt nam khi Tố Hữu làm bài thơ thương tiếc ông ta gấp mười lần cha mẹ mà cho đến giờ này mỗi khi đọc những hàng chữ đó tôi không khỏi đỏ mặt vì ngượng. Bài thơ dạy dỗ tầng lớp thanh niên phải biết ơn đảng, biết ơn một ông Tây râu xồm chưa hề một lần diện kiến hơn cả ông bà cha mẹ, là những người có công sinh thành và nuôi dưỡng. Những bài thơ nô bộc, biểu hiện một tinh thần khiếp nhược, được xem là kinh điển in đầy dẫy trong các sách giáo khoa ở bậc trung học. Với thái độ khom lưng cúi gập người trước một ông Nga mũi lõ của Tố Hữu, cái dáng đứng của tên văn nô này không quá chiều cao của một con lừa. Sự nô bộc còn được tuyên truyền qua truyền khẩu, đồng hồ Thụy sĩ không tốt hơn đồng hồ Trung quốc… một nước cộng sản tàn lụi nhân tài vì chính sách ngu xuẩn của Mao, tên lãnh tụ dâm ô nhất trong các lãnh tụ nước cộng sản. Ngay cả chị Hằng cũng bị đem ra bêu rếu khi so sánh, trăng ở Mỹ không sáng bằng trăng ở Liên sô… một câu truyền khẩu để lộ sự ngu dốt về khoa học. Cứ thế mà tuyên truyền, cứ vậy mà truyền khẩu khắp hang cùng ngõ hẻm ở Việt nam. Sách vở và báo chí tuyên truyền rầm rộ về hai kế hoạch ngũ niên 1976-1981 và 1981-1986 trong suốt những năm đầu sau khi cưỡng chiếm miền Nam rằng toàn dân sẽ tiến lên từ ăn no mặc ấm đến ăn ngon mặc đẹp. Trong trường học, trên đường phố giăng đầy những khẩu hiệu chứa đầy sự hãnh tiến của đảng cộng sản như, “Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng”, “Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”, “Thay trời làm mưa…”, “Thắng giặc Mỹ ta xây dựng bằng mười ngày nay”… Đồng bào miền Bắc vốn ít học, lại vừa “đánh bại” giặc Mỹ thống nhất đất nước nên đặt hết niềm tin vào những khẩu hiệu ngô nghê của đảng cộng sản. Hỡi ôi, qua hai ngũ niên, thực tế đập vào mặt những tên cộng sản i-tờ cho thấy rằng phá hoại thì dễ nhưng xây dựng thì rất khó, khó đến nỗi ông thủ tướng có cặp môi thâm sì như một tên nghiện phải đi ngửa tay xin viện trợ các nước tư bản. Và sau khi ngửa tay nhận viện trợ của những tên tư bản là đồng thời ký vào những khế ước cho chúng vào mặc sức khai thác, bòn vét cho hết tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
Nếu miền Nam thắng thống nhất đất nước, chắc chắn nền kinh tế của cả nước sẽ tiến nhanh, ít nhất là bỏ xa nền kinh tế vay mượn của nhà nước tư bản được ngụy trang bằng đầu xã hội như bây giờ. Có thể nền kinh tế sẽ nhảy vọt đến nỗi lực lượng lao động trong nước không đủ cung ứng cho thị trường và biết đâu công nhân ở các nước chung quanh phải đến xin việc ở nước Việt nam. Cho dù thế nào đi chăng nữa, một điều chắc chắn là những tên tư bản ngoại quốc sẽ không có quyền hoành hành như một ông vua con ở quê hương như hiện nay. Chắc chắn sẽ không có chuyện một con mẹ chủ xứ củ sâm dám cầm dép đập vào mặt công nhân Việt. Chắc chắn sẽ không có chuyện bọn Tàu cộng ngang ngược chiếm Hoàng sa, Trường sa. Chắc chắn bọn Tàu chệt sẽ không ngang nhiên mang cả sư đoàn người vào Tây nguyên khai thác bô-xít. Sẽ có nhiều sự kiện chắc chắn khác sẽ xảy ra làm rạng danh nước Việt ở vùng Đông nam á.
Nếu miền Nam thắng, chắc chắn tầng lớp con cháu sẽ học được hai chữ nhân bản, sẽ hiểu biết về tình người, sẽ biết sống sao cho xứng với thân phận làm người, sẽ biết đối xử nhân đạo với người, nhất là đồng bào trong nước. Tiếc thay, một nền văn hóa cộng sản áp đặt lên tâm trí của những thế hệ trong suốt 40 năm thời hậu chiến, để đến bây giờ xã hội tạo ra những tay công tử sống ăn bám vào cha mẹ, ăn chơi ngông nghênh không hề tiếc của. Nền văn hóa này tạo ra một thế hệ trong đó hầu hết thanh niên không hề biết dõng dạc tuyên ngôn sự vẹn toàn lãnh thổ như Lý Thường Kiệt, không hề đau lòng trước bất công như Việt Khang, bàn tay mềm nhũn không bóp nổi trái cam như Trần Quốc Toản. Ôi! Tiếc thay từ ngày thống nhất đất nước đến nay xã hội cộng sản đã sản sinh những thế hệ Việt lớn lên èo uột tình người vì trái tim chất chứa hận thù, và với khối óc đặc sệt những ích kỷ, ăn chơi sa đọa.
Thực tế là các công nhân vẫn bị tiếp tục đi kiếm sống ở các nước lân cận, con gái Việt vẫn bị đứng trần truồng để mấy tên Đài và Hàn chọn như một con vật, các công tử con nhà giàu vẫn vung tiền bao gái đến độ chóng mặt, những người bất đồng chính kiến vẫn bị cầm tù, tiếng nói đòi hỏi dân quyền và tiếng dân oan vẫn bị bóp nghẹt, các chức sắc tôn giáo vẫn bị trù dập không thương tiếc, phần lớn thanh thiếu niên chỉ biết làm thế nào để làm ra tiền, kể cả dùng những phương tiện hèn hạ hoặc bất lương…
Tất cả những thực trạng phũ phàng này đều có thể tránh khỏi nếu miền Nam thắng và áp dụng một chế độ dân chủ, công bằng, đầy nhân bản như trước năm 1975.
SƠN NGHỊ

Tất cả Thực trạng nêu ra…Rất đúng chính xác !Nhưng nếu Miền Nam Thắng Nền Dân Chủ-Chế độ Công Bằng-Tính Nhân Bản có ở mỗi người dân Liệu Nền Kinh Tế ”Có còn LỆ THUỘC ngoại bang như bấy lâu đã từng?Và Thắng -Bảo đảm đứng vững bao lâu?”Bài Viết rất thấm Ý người đọc-Phục! ”Hoài niệm quá khứ BUỒN ! Tương lai có lẽ-Được đi rồi SẼ BIẾT???”
ThíchThích
Tất cả những thực trạng phũ phàng này đều có thể tránh khỏi nếu miền Nam thắng và áp dụng một chế độ dân chủ, công bằng, đầy nhân bản như trước năm 1975.
Nếu Nam Việt thắng thì lòng dân không thấy được mặt “Lừa đảo, độc ác…” của csVN. Thì sự thắng này sẽ mau chóng sụp đổ.
ThíchThích