XÓM CŨ DÒNG KINH

Chu Thuỵ Nguyên­­­­­­

xomcudongkenh

Xóm cũ, nơi gia đình tôi sống lúc tôi lên 7 là xóm nhỏ lao động rất nghèo. Những ngôi nhà vách thiếc cao bồi, lợp tôn cũ, nửa đất, nửa sàn ván thùng trên bờ kinh nước đen. Vì là xóm lao động nên vẻ bát nháo của nó cũng là lẽ thường tình.

Để tôi thử nhớ lại coi. Trong kẹt con hẻm cùng đếm trở ra, bắt đầu là nhà anh Tư thợ điện. Nghe đâu cả gia đình anh chạy loạn từ miền trung vào Sài Gòn. Nhà anh gồm một mẹ già sáng xỉn chiều say. Có hôm mới 5 giờ sáng bà đã ngồi tu cả xị đế như uống nước lã. Rượu vào lời ra, bà bắt đầu nhắc chuyện năm trên. Lúc nào cũng bắt đầu bằng cái thời lam lũ, khổ ải của bà ở miền trung. Có hôm xỉn quá tay, bà nằm giữa con hẻm, thậm chí nằm cả trên vũng nước mưa mà hát, mà hò. Ngoài bà ra, gia đình còn có hai vợ chồng anh tư, em trai anh và người em gái út.Vợ chồng anh Tư có hai con, một trai và một gái. Anh Tư thợ điện là người làm ăn gặp thời. Anh lãnh một lúc mấy tòa nhà lớn mới cất để “đi” dây điện. Ngày càng ăn nên làm ra, em trai anh, anh Vĩnh cũng theo anh phụ việc. Nhà anh sắm không thiếu thứ chi, từ bàn ủi điện tự động xịt nước đến ti vi đen trắng hiệu Denon có hai cửa lùa. Ngoài ra, vợ chồng anh còn sắm chiếc Honda dame đời quân đội màu đỏ. Nghe nói chữ nghĩa chẳng bao nhiêu, nhưng gặp thời “đi” dây điện có tiền, anh Tư sanh tật nói nhiều, mà hễ nói nhiều thì hay nổ. Chuyện có nói không, chuyện không nói có, thêu dệt toàn chuyện trên trời dưới đất. Nhất là đêm đêm đến giờ tin tức trên tivi, anh Tư tha hồ nổ hết biết. Anh nói mà người nghe cứ tưởng anh từng là bạn nối khố với tổng thống cộng hòa Trung Phi Bokassa thời đó đang tìm con rơi và người vợ rớt ở Việt Nam. (Thời đó ở miền nam chẳng hiểu sao gọi tivi cụt ngủn là “ vô tuyến”).

Ăn cơm chiều xong là mọi người rũ nhau kéo qua hàng ba nhà anh Tư coi “vô tuyến” . Gặp bữa có cải lương, thiên hạ rần rần, lớp chen chúc dưới hàng ba, lớp đeo bám đen người ở cửa sổ. Tư thợ điện bập bập cái tẩu thuốc thơm, nhả khói khề khà cắt nghĩa tin tức, hoặc giải thích tuồng tích cải lương. Từ đó, chẳng biết tự lúc nào mà khu xóm nghèo chúng tôi đã đặt cho Tư thợ điện mỹ danh là “ chú tư kỹ sư “. Đầu trong xóm ngoài hình như chỉ mới ba căn nhà có “ vô tuyến”, nhưng xóm nghèo tôi đã có nhà Tư “kỹ sư”là có trước. Tiếng đồn lan nhanh,đêm nào trước sân nhà Tư “kỹ sư” cũng đông nghẹt. Tiếng nói cười ồn ào, tiếng Tư “ kỹ sư “oang oang, tiếng đập muỗi, tiếng quạt tay xành xạch, tiếng con nít khóc đòi bú, tiếng
chó sũa vang xóm là khung cảnh xóm tôi về đêm. Chưa kể tuồng tích có lúc gây cấn, thỉnh thoảng còn nghe những giọng chữi thề, kèm theo – “ Giết chết mẹ nó đi, đồ hôn quân vô đạo “. Gặp hôm có tuồng xã hội, vai nữ đi lấy chồng người ta. Ôi thôi, đủ lời xỉ vả , nào là :- “ Tạt át xít nó đi …nào là : “ Con đĩ ngựa, mày may mắn nên không gặp bà đó con”… Không khí mỗi đêm lại càng hấp dẫn hơn khi mọi người vừa nghe cải lương, vừa nghe “ Tư kỹ sư “ nổ chuyện về đời tư các nghệ sĩ. Chẳng biết hư thực thế nào mà chàng “kỹ sư” nhà ta cứ kể vanh vách chuyện tình của các nàng nghệ sĩ, y như chính chàng là người trong cuộc vậy.

Sát bên vách nhà “ kỹ sư “ là nhà cha mẹ tôi.Cha tôi là tư chức nghèo, thư ký cho một hãng sơn tư nhân nhỏ. Hằng ngày ông gò lưng, lọc cọc trên chiếc xe đạp cũ, lương ba cọc ba đồng. Mẹ tôi phải ra chợ trải tấm nylon buôn bán thêm.Chúng tôi có năm anh em, ba trai hai gái. Anh em chúng tôi đều ham học. Đứa em gái lớn học thật xuất sắc, nhưng mới giữa lớp năm đã phải ngưng học, ra chợ phụ bán sạp quần áo cho người ta để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Mẹ tôi là người ít nói, thương yêu các con, và luôn tảo tần, hy sinh cho con. Cha tôi là người nghiêm nghị, hết giờ làm luôn đạp xe về lo cho các con. Nhà nghèo, cơm chiều xong, ông coi lại việc học của anh em chúng tôi rồi đi ngủ sớm. Cha mẹ tôi tuy vẫn giữ thái độ hòa nhã với mọi người, nhưng không lê la trong xóm. Anh em tôi, ngoài giờ học chỉ biết lo phụ mẹ ngoài chợ là hết thì giờ.

Kế bên nhà tôi là nhà bà Tư Trọc. Bà có 2 người con gái đã lớn là chị Thu khoảng 26 tuổi và chị Hà khoảng 22 tuổi. Cả hai chị đều nhan sắc và tánh hiền, ăn nói nhỏ nhẹ. Cũng chẳng hiểu vì sao bà Tư luôn cạo trọc đầu. Có đứa xấu miệng nói trước kia bà cho vay cắt cổ, nay ăn năn tu hành. Bà Tư mê hút thuốc, nhất là Bastos xanh, hoặc kẹt lắm thì Quân Tiếp Vụ cũng ô kê, ngón trỏ và ngón giữa hai bàn tay bà luôn đóng khói vàng khè. Bà Tư Trọc có cái radio hai băng hiệu Sony luôn bên cạnh bà. Bà mê vọng cổ, nhất là tuồng tích cải lương, hoặc vọng cổ hài. Thời đó bà mê giọng ca Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Phượng Liên. Nam nghệ sĩ bà mê Hữu Phước, Thành Được, Diệp Lang, Thanh Tú. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là giọng ca mùi Minh Cảnh. Thời đó Minh Cảnh mới nổi với những lớp như vua nước Sở trong chuyện con cua đực và con cua cái, hay Tu Là Cội Phúc với :” nhưng tín nữ đi tu làm sao cho thành chánh quả bởi làn phấn son còn in rõ …” . Về cổ nhạc hài, bà mê Văn Hường, Xuân Phát hay Văn Chung, nhất là tiếng cười dê độc nhất vô nhị của Văn Chung. Suốt ngày, bất cứ nằm ngồi đâu bà cũng rê cái radio theo bên mình. Sát vách tối ngày cứ nghe bà rọt rẹt dò tìm đài. Hai chị Thu và Hà suốt ngày chẳng thấy đi học hay đi làm, chỉ thấy thỉnh thoảng một trong hai chị xách giỏ đi chợ cho bà Tư. Ở nhà, hai chị cứ lo trang điểm, ngồi đâu cũng gương lược, săm soi. Lâu lâu thấy có một lão độ 60 đi Vespa xanh đến nhà, bà Tư bước ra xăng xái đón mời vô nhà. Có hôm lão đi thẳng vào buồng với chị Thu, có hôm với chị Hà. Lúc ấy, bà Tư và chị còn lại đóng cửa trước lại, hai mẹ con ra trước hàng ba. Bà Tư nằm võng nghe cải lương còn một chị lo nhổ tóc sâu cho bà. Độ hơn nửa giờ sau lão già đẩy cửa ra về, mấy mẹ con lại vào nhà đóng cửa lại. Ngoài lão Vespa xanh ra, thỉnh thoảng có ông Ba Tàu đi Mobylette, hay ông Năm đi xe sáu bảy…Khách đến nhà thường độ 5 người trở lại, nhưng khoảng cách thời gian rất đều nhau.

Sát vách nhà bà Tư Trọc là nhà chị Tư Ù. Chẳng biết ai cắc cớ đặt cho chị Tư biệt danh này quả không sai. Cơ thể chị có lẽ thừa mỡ, dư thịt. Tuy nhiên chị rất vui tánh với bà con lối xóm, nói chuyện luôn pha trò, miệng luôn nở nụ cười híp đôi mắt. Nhưng ông Trời đặt để oái oăm thay, chị thì ù, ngược lại anh Tư, chồng chị ốm như cây sậy. Anh làm công chức văn phòng, lương ba cọc ba đồng. Ấy vậy mà chị Tư Ù cứ đẻ chửa sòn sòn năm một, một hơi bốn đứa, ba trai một gái. Tánh anh Tư hiền hòa, không chỉ hiền hòa với mọi người mà còn hiền dưới mức cần thiết với vợ. Hàng ngày , ra khỏi sở anh chỉ biết gò lưng trên chiếc Mobylette vàng thẳng một mạch về nhà. Bước vào nhà chưa kịp thở đã nghe chị Tư Ù sai tới tấp, nào là tắm cho mấy đứa nhỏ, giặt thau đồ phơi lên, đút cơm cho con út… Tất cả những gì vợ nói anh đều làm râm rắp, chẳng có một lời nói lại. Phải chăng vì thế mà anh Tư được lối xóm ngầm đặt cho biệt danh là “Chàng Ngốc”.Lâu ngày, anh Tư cũng nghe và hiểu đến biệt danh của mình, nhưng anh vẫn cười mà chẳng có ý kiến gì.

Tiếp theo nhà chị Tư Ù là nhà chị Xẫm Lục, chị là người Hoa, cha mẹ chị ở Chợ Lớn Mới. Chị sống với ba đứa con, hai trai và một gái, nghe nói ba đứa là ba người cha khác nhau. Cũng nghe nói sở dĩ như vậy là do chị “vỡ tuyến phòng thủ” khi lâm trận. Cha của đứa con gái út cũng là người Hoa, đi lính sư đoàn 7 chết trận. Thời gian đầu mất chồng, lãnh tiền tử, chị đi buôn đồ hộp của Mỹ, thuốc lá Mỹ …Mỗi ngày chị nai nịt, dắt díu ba đứa con ra chợ. Tối đến, nhà chị và nhà chị Tư Ù trải chiếu ngoài hàng ba cho mấy đứa nhỏ chơi giỡn, hoặc kéo nhau qua nhà Kỹ Sư coi “ vô tuyến”. Sau này buôn bán ế ẩm, cụt vốn, thỉnh thoảng thấy có một anh chàng người Hoa lao xe Goebel vào hàng ba dựng đó rồi vào nhà. Chị Xẫm Lục lùa ba đứa con ra hàng ba rồi đóng cửa lại. Có hôm, anh chàng Goebel lại chỡ theo một anh bạn. Họ vào nhà nói đôi điều chi đó rồi anh chàng Goebel dắt ba đứa nhỏ ra sân chơi, đóng cửa để lại anh bạn và chị Xẩm Lục trong nhà. Về sau , có thêm người đàn ông khác đi Lambretta nữa, đa phần họ là người Hoa Chợ Lớn.

Căn nhà cuối cùng của dãy, sát nhà chị Xẩm Lục là nhà Tư bỏ báo. Anh Tư chỉ lớn hơn tụi tôi độ 5 tuổi. Sở dĩ hàng xóm gọi như vậy là vì anh Tư có nghề lấy báo phát hành buổi chiều về bỏ cho từng nhà, thu tiền hằng tháng. Anh tư là con ông Sáu Chấu. Ngoài nghề bỏ báo, sáng sáng anh Tư còn chèo chiếc tam bản dọc con kinh, thả dây điện chích cá về bán cho lối xóm. Ngày nào anh cũng chích được đủ loại cá : cá rô, cá sặc, cá trê, cá chốt, cá trào, cá lóc. Cá chích điện anh bán rẻ cho lối xóm, nhưng ăn không ngon bằng cá đánh lưới. Đêm đêm trăng sáng, anh Tư trải chiếu ngoài sân, cất tiếng ca vọng cổ. Giọng anh không vang như giọng Minh Cảnh, nhưng cũng mùi rệu. Anh thường ca những bài của Tấn Tài, nhưng anh mê nhất là “ Tình Anh Bán Chiếu “ của Út Trà Ôn. Mỗi lần xuống xề, anh đạp cái song lang dưới chân nghe cái cốc thật điệu nghệ như nghệ sĩ thứ thiệt.

Đối diện với dãy nửa đất, nửa sàn của chúng tôi là những căn nhà nằm hẵn trên đất. Tuy không phải ở nhà sàn nhưng bà con cũng là những dân nghèo, đa số chạy giặc giả từ miền tây lên. Căn bìa trái cùng,đối diện với nhà anh Tư bỏ báo là nhà ông Sáu xe ba gác. Gia đình ông gồm vợ chồng ông và chị hai Bé, nghe nói ông còn hai người con trai nữa, nhưng đều bị chết pháo kích ở Mỹ Tho. Ông chạy ba gác, vợ ông đi làm mướn, gánh nước phông tên, giặt đồ mướn cho người ta. Chị Bé thất học, hàng ngày theo phụ mẹ.

Sát vách ông Sáu Ba Gác là nhà bà Năm gánh nước. Nhà bà là một căn nhà lợp lá dột nát. Bà sống với hai cô con gái là chị Na và út Hiền. Bà Năm gánh nước mướn, ai kêu đâu bà gánh đó. Chị Na bán phụ ngoài chợ với người ta, còn út Hiền đi học. Hồi ở dưới quê, nghe nói chồng bà Năm đi lính bị chết trận.

Sát vách bà Năm gánh nước là nhà chú Tám Thời. Vợ chú chết bệnh. Chú ở vậy với thằng con. Chú lãnh làm hồ, sữa nhà cho người ta, sống qua ngày. Con chú thất học, hằng ngày đi theo phụ hồ cho cha.

Xóm tôi thời đó tuy nghèo, cuộc sống khá chật vật, ngày ngày mọi người lăn lộn tìm miếng cơm manh áo, nhưng về đêm cũng có cái yên ả, nồng ấm của xóm nghèo. Nhớ những lúc anh em chúng tôi thức đêm học thi Trung Học, rồi Tú Tài một, Tú tài toàn, chị Tư Ù nửa đêm giật mình thức dậy, khuấy ly
sữa thò qua vách, chị Xẩm Lục tối từ chợ về dúi cho gói giấy bánh tiêu, bánh bò, “cho tụi bây thức học thi, ráng thi cho đậu nghe em “.

Nhớ mỗi lần trời mưa to, cả xóm già trẻ lớn bé chạy ra tắm mưa, tiếng cười nói, hét la của lũ trẻ râm ran cả xóm. Trời mưa nhiều, dòng kinh đục ngầu, cá chốt bị ngộp, nổi lên mặt nước vễnh râu, lũ trẻ chúng tôi lấy đất, sỏi, nằm trên sàn nhà chọi chơi. Cá chốt nổi đầy mặt kinh nhưng chả ai buồn vớt để ăn. Tạnh mưa chúng tôi hay vớt cá 7 màu cho vào hủ chao nuôi. Khi con nước ròng, cạn trơ bùn sình, chúng tôi hay trèo xuống kinh mò bắt cá trào, cá kèo. Thời đó dưới bùn cá thòi lòi ( loại cá nhỏ như cá kèo nhưng lại có 2 chân trước. Loại cá này chẳng ai bắt vì không ai ăn. Hiện nay ở Việt Nam nghe nói dân nhậu lại khoái nhậu cá thòi lòi ?!)

Chiến tranh ngày càng bùng nổ lớn, năm năm sau xóm tôi cũng bắt đầu biến chuyển theo vận nước. Đầu tiên là anh Vĩnh, em của anh Tư Kỹ Sư vào lính trước. Anh đi lính không quân, xạ thủ đại liên trên trực thăng. Mỗi lần anh về phép, mặc đồ lính trông rất oai vệ. Kế đến là thằng Hùng, đứa con trai lớn của chị Tư Ù bị bắt quân dịch vào Quang Trung. Anh em tôi đều đậu vào đại học nên được hoãn đi lính vì lý do học vấn. Tuy nhiên cuộc chiến ngày càng khốc liệt, rời ghế giảng đường, tôi vào Võ Bị Đà Lạt, em trai kế tôi trúng tuyển vào trường Sĩ Quan Hải Quân. Sau đó nghe nói thằng Ngầu, con trai lớn chị Xẫm Lục cũng vào Quang Trung. Riêng anh Tư bỏ báo nghe nói sợ đi lính nên bậm gan, bó vải ngón tay trỏ bàn tay phải, mua thuốc tê chích rồi chặt bỏ ngón tay để khỏi đi lính.

Ba năm sau đó, tin đầu tiên gửi về từ chiến trường, thằng Ngầu, con lớn chị Xẫm Lục chết trận vì mìn.Nửa năm sau tôi bị thương nặng tưởng chết. Một năm sau đó, anh Vĩnh em anh Tư Kỹ Sư bị bắn rớt trực thăng chết. Sau đó vài tháng trong một đêm mưa bão, mẹ anh Tư Kỹ Sư say xỉn nặng té xuống vũng nước mưa , nằm đó chết. Xóm nhỏ của chúng tôi bắt đầu nhuốm màu tang tóc. Những ông bố, bà mẹ bạc tóc lần lượt đầu đã chít khăn tang con.

Sau tháng 5 năm 1975 xóm tôi bắt đầu tan rã. Lệnh giải tỏa của chính quyền mới được ban ra, mọi gia đình bắt buộc phải hồi hương hoặc đi kinh tế mới, sau khi các sĩ quan chúng tôi đều vào các trại tập trung trên toàn quốc. Sau này nghe kể lại, gia đình Tư Bỏ Báo hồi hương về miền Tây, còn tất cả các gia đình khác buộc phải đi kinh tế mới. Riêng hai gia đình anh Tư Kỹ Sư và Dì Năm Gánh Nước được đưa cùng lên kinh tế mới Bình Long. Phút chốc , khu xóm nhỏ thân thương bỗng chia lìa, tán lạc.

32 năm sau, tôi trở về tìm vào con hẻm cũ dẫn vào xóm nhỏ năm xưa. Con hẻm bây giờ hình như to hơn, nhưng chỉ dẫn vào đến đầu hẻm nhỏ ngày xưa tẻ vào xóm tôi là hết. Nhìn vào bên trong đó bây giờ chẳng còn một ngôi nhà nào . Dãy nhà trên đất ngày xưa đối diện với dảy nửa sàn nửa đất của chúng tôi nay cũng không còn. Khoảng rộng bao la của xóm cũ chúng tôi bây giờ là công viên, là ghế đá, là bồn hoa là thảm cỏ buồn hiu, chẳng thấy ma nào bén mảng tới. Dòng kênh bây giờ hình như đen hơn, dơ hơn, bốc mùi hơn. Tôi đứng chết lặng rất lâu, dáo dác nhìn chung quanh như những nhà địa chất hay khảo cổ, chuyên đi khai quật các thành phố di tích. Có lúc giật mình, tôi thấy mình quả ngớ ngẩn khi nhìn quanh hết chỗ này đến chỗ kia trên mặt đất . Tôi tự hỏi mình tìm gì ? Tìm những dấu chân chính mình năm xưa ở chốn này chăng ? Thừ người một chỗ hơn 45 phút, may quá, cuối cùng tôi cũng nhận ra một người quen xưa duy nhất, bác Phúc, trước năm 75 làm sở Mỹ. Thời trước nhà ông ở hẻm lớn bên ngoài. Ông mời tôi vào nhà, phía trước nhà ông bây giờ là quán cà phê nhìn ra bờ kinh. Công viên đã chiều nhưng nắng vẫn rát da, mùi kinh oi nồng hăng hắc. Nói chuyện một hồi, ông đoán biết tôi đang nôn nóng muốn tìm lại nền nhà cũ của mình, ông giơ tay chỉ ra chiếc ghế đá sát ngoài bờ kênh nói :

– Đó ! nhà cậu đó.

Tôi nhìn theo hướng ông vừa chỉ, chẳng thể nào có thể hình dung ra xóm tôi. Giờ đây, một nửa tình tự xóm tôi đã lọt thỏm xuống dòng kinh, trôi đi. Một nửa tình tự còn lại trên đất phảng phất trên thảm hoa, ngọn cỏ u uất, hay quá hãi sợ mùi hôi thối của dòng kinh nước đen đã tuôn chạy xa hút heo ?

Tôi vụt đứng lên, chạy thẳng ra chỗ cái ghế đá bác Phúc vừa chỉ. Tôi chụp lấy chiếc ghế đá trống không như tựa vào chính cánh cửa nhà mình. Bác Phúc lao ra theo tôi và lặp lại :

– Nhà cậu ở ngay chính chỗ này.

Chiếc ghế là phần cuối đất, chạy dài xuống kinh là phần nhà sàn. Tôi đứng lặng người nhìn xuống như cố tìm bất kỳ một di vật nhỏ nhoi nào sót lại. Chiếc đi-văng của cha tôi kê ngay chỗ này, bên kia là bàn uống trà. Chỗ kia là vách buồng. Giường ngủ của anh em tôi chỗ này, mẹ tôi nằm phía kia. Sàn ván bắt đầu từ kè đá này.Trên mặt kinh, chỗ kia là bếp…

Lặng người một lúc, tôi lại đếm bước ngang qua trái là nhà Tư Kỹ Sư.Rồi từ nhà tôi, qua phải, chỗ này là nhà bà Tư Trọc, nhà chị Tư Ù ở đây … Bất giác tôi ngước nhìn lên, bầu trời về chiều hình như nguyên vẹn bầu trời xóm cũ của tôi. Giờ này mọi người đang lo ăn cơm chiều để trải chiếu ngoài hàng ba, hoặc xách ghế con qua nhà anh Tư Kỹ Sư coi “ vô tuyến “. Những giọng nói lao xao của những người hàng xóm tôi ngày xưa giờ đâu cả rồi ? Tôi tự hỏi, anh Vĩnh, thằng Hùng, thằng Ngầu, hay má anh Tư kỹ Sư, những người xóm này đã khuất mặt, chẳng biết họ có thường về thăm xóm xưa không ? Hay về để rồi tủi buồn cho xóm cũ rồi tan tác phương nào ? Buổi chiều sụp xuống thật nhanh, ngoài công viên bây giờ bóng người ở đâu bỗng tụ về lố nhố. Tôi hỏi, bác Phúc lắc đầu ngao ngán :

– Ở đây bây giờ kinh lắm, mở công viên này ra chả ai đến hóng mát, chỉ toàn lũ giang hồ tụ tập về đây, lớp thì chích choác, mua bán xì ke, lớp thì mua bán dâm ngay tại chỗ, dù cái biển ở đầu hẻm kia sơn phết thật đẹp : “ công viên văn hóa phường …”

Trời tối dần, tôi quyết định phải trở ra ,nhưng không dám quay nhìn lại. Sau lưng tôi hình như âm vang xóm nhỏ bên dòng kinh ngày cũ vẫn còn đang râm ran …

Chu Thụy Nguyên

12 thoughts on “XÓM CŨ DÒNG KINH

  1. Hình đại diện của đinh tấn khương đinh tấn khương nói:

    Trong một bài viết ngắn như thế mà anh Chu Thụy Nguyên đã gợi nhắc biết bao nhiêu thứ (của ngày xưa), từ những nghệ sĩ, danh hài, những hiệu xe cho đến những con người với nghề nghiệp, tính tình, lối sống.. khác nhau trong một xóm nhà dọc theo bờ kinh..
    Chúng ta, tới lúc gần già thường nhớ và muốn nhìn lại “cảnh cũ người xưa”. Nhưng mọi sự vật luôn thay đổi, có chăng những gì mình muốn tìm lại thì chỉ tìm thấy trong tiềm (thức) của chính mình mà thôi!

    Thích

  2. Hình đại diện của Nguyên Vi Nguyên Vi nói:

    Vật chất không tự có, không mất đi mà chuyển từ dạng này sang dạng khác – có một lão triết gia Pháp đã nói thế!

    Thích

  3. Anh còn nợ ai , công viên ghế đá ???
    Chỉ một cái ghế đá thôi , anh CTN đã kéo người đọc trôi tuột về quá khứ .
    Cảm ơn anh CTN về truyện ngắn này .

    Thích

    • Hình đại diện của Chu Thụy Nguyên Chu Thụy Nguyên nói:

      Cám ơn Tôn Nữ. Vì là xóm thật, chuyện thật, cảm xúc thật nên tuy chỉ là một cái ghế đó thôi, nhưng cả xóm cũ đã hiện ra quanh cái ghế đó. Thân chúc luôn an vui.

      Thích

  4. Anh viết về một thời đã xa , làm em nhớ về xóm nhỏ của mình ở Phan Thiết ngày xưa.Tháng 4 vừa rồi có về thăm lại ,thấy lạ lẫm vô cùng.Chỉ còn lại là những hoài niệm mà thôi…

    Thích

    • Hình đại diện của Chu Thụy Nguyên Chu Thụy Nguyên nói:

      Hình như ai cũng có riêng một xóm cũ để tìm lại, để bùi ngùi Nghĩa ơi. Thân chúc luôn an vui.

      Thích

  5. Văn anh viết nhè nhẹ, buồn buồn. Mất hết rồi anh CTN ạ!

    Thích

    • Hình đại diện của Chu Thụy Nguyên Chu Thụy Nguyên nói:

      Đúng là mất hết Tạ Chí Thân ơi. Chính vì vậy mới hoài niệm, mới buồn, mới ” tương tri “. Thân chúc luôn an vui.

      Thích

  6. Hình đại diện của NGUYỄN HOÀNG QUÝ NGUYỄN HOÀNG QUÝ nói:

    Cứ tưởng chỉ mình mình ưa tỉ mẩn lục lọi những kỷ niệm ngày xưa với việc sở đắc một ký ức khó phai mờ, không ngờ anh CTN cũng vẽ lại bức tranh thời trung học của anh với đầy đủ cảnh và người, những con người bình thường trong một nơi ở nghèo nàn của thành phố nơi anh đã sống trên 30 năm thật sinh động với tấm lòng nhân ái đầy ắp!.
    Những tên tuổi trên “vô tuyến”, những hiệu xe, hiệu máy anh kể lại như in mà nếu là người không biết trân trọng kỷ niệm chắc khó mà kể đúng!
    Chỉ một chữ dùng nói về công việc của “anh Tư kỹ sư” :“đi” (dây điện) cũng cho những nhà xã hội học trẻ tuổi thời nay – nếu tinh ý – sẽ thấy cái nhịp sống xã hội ngày xưa ít vội vã như của thời đại IT bây giờ: “chạy” (dây điện)/ “chạy (đường dây).
    Rất vui khi được đọc “Xóm cũ dòng kinh” của anh.

    Thích

    • Hình đại diện của Chu Thụy Nguyên Chu Thụy Nguyên nói:

      Rất cám ơn anh Nguyễn Hoàng Quý đã đọc, chia sẻ và chỉ ra cho những phân tích thật tinh tế của anh. Tôi cũng hoàn toàn đồng ý với anh về xã hội ngày xưa. Dù đất nước luôn mù mịt chiến tranh, nhưng nhịp sống của xã hội khá trật tự, khá tình tự và nhân bản. Thật vui với đóng góp của anh. Thân chúc anh luôn an vui.

      Thích

Comment