Huế của tôi (2)

Đoàn Thị Lệ Thanh

TobaMika005

Toba Mika

(tiếp theo)

Sau khi tốt nghiệp lớp 12- năm 1974- tôi về Huế, thi đậu vô trường Đại Học Sư Phạm thì ở lại luôn. Nỗi lo thi cử và nỗi mừng khoa bảng trôi qua thì nỗi nhớ nhà , nhớ biển dày vò tôi tàn nhẫn. Thêm nữa, tiếng nhạc từ mấy quán chè bên kia đường cứ than vãn hằng đêm “ Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về….” . Nhatrang êm ả, nhưng vui hơn Huế.  Mỗi sáng đạp xe ra biển tắm, mỗi tối cũng đạp xe ra biển hóng gió, cuối tuần xếp hàng ở quầy vé Tân Tân, Minh Châu, chiều chiều rủ bạn ngồi nghe nhạc, ăn kem. Không có mục gì đặc biệt thì diện thiệt đẹp, lượn lên lượn xuống trên phố Độc lập, tạt vô nhà sách Văn Lang coi sách, nhất là những cuốn tạp chí in hình ca sĩ, tài tử ciné; hay vô mấy tiệm Ấn độ ngắm vải vóc, son phấn, nước hoa, cũng thú vị lắm. Huế cũng có rạp Tân Tân như Nha Trang, nhưng cũ kĩ hơn, và không nhộn nhịp bằng.  Qua bên kia cầu Tràng Tiền là phố, có nhà sách, có chợ Đông Ba, tiệm kem, tiệm chè nhưng không sầm uất như chợ Đầm. Tôi nhớ Nha Trang nên chưa mấy yêu Huế, quả là ở quê hương mà nhớ quê nhà. Thương tôi không bạn bè, lại xa gia đình, nên cả nhà ngoại chìu chuộng tôi đủ cách. Trong nhà, người ít chất Huế nhất là Cậu Hoàng. Cậu đang chờ ngày nhận nhiệm sở nên khá rảnh rỗi. Tôi ngưỡng mộ cậu lắm, đối với tôi, cậu là một nghệ sĩ, không chỉ ở ngón đàn Flamenco hoặc cổ điển tuyệt hay- nhờ cậu mà tôi được thưởng thức những bản nhạc bất hủ  như  “Jeux interdit” (Romance),  “ Rain and tears”, “Granada”– mà còn ở tính tình phóng khoáng, trọng nghĩa khinh tài, lại dễ dãi xuề xòa. Nhưng với ông bà ngoại, cậu là đứa con có máu “nổi loạn” mà bà ngoại hay dùng từ “ bất trị” mỗi khi la rầy cậu. Tôi nghe kể năm cậu 17 tuổi, sau Tết Mậu Thân, cậu trốn nhà đi mấy ngày, tình nguyện xúc cát vô bao  để người ta xây hầm trốn pháo kích. Mấy ngày liền bà ngoại đau khổ ngồi ở hiên nhà ngóng cậu về. Sau này, khi nghe tin Ban Mê Thuộc thất thủ, tôi tận mắt thấy dáng vẻ còm cõi rũ rượi chờ đợi của bà ngoại.  Bà không ăn, không ngủ, ngồi bên cửa sổ, tay cầm cái radio nhỏ để nghe tin tức. Hễ bản tin đã hết, thì bà lại quay sang hỏi ông ngoại về tình hình chiến sự. Nhiều lúc tôi tưởng như bà ngoại bị mất trí. Trở lại chuyện cậu Hoàng . Cậu mê âm nhạc hơn ngồi chăm chỉ “tụng” bài,  cậu lén ghi danh học thêm vào buổi tối ở trường Âm Nhạc Huế, rồi thành lập ban nhạc. Ngoại rầy la dữ lắm mới bỏ ban nhạc trở lại học hành tử tế, đậu Tú tài, rồi đậu vô ĐHSP khoa sử địa, ra trường đậu cũng khá nên được chọn nhiệm sở ở  Ban Mê Thuột, thành phố gần Huế hơn cả trong danh sách lựa chọn. Cậu lại có trí nhớ đặc biệt, sách truyện thơ, đọc qua  một vài lần là nhớ làu làu. Mỗi bữa cơm hay lúc rảnh rỗi, cậu kể chuyện Tam quốc, Thủy hử, Tây du….. rành rọt như cầm sách đọc. Vì vậy cậu khá đào hoa, nhiều cô viết thư tán tỉnh cậu (Tôi không nghĩ rằng con gái Huế thì nhút nhát và kín đáo đâu ). Có lần, cậu kêu tôi và hai dì vô phòng, trải hai lá thư ra bàn, cười hì hì biểu ba chúng tôi đọc. Lạ một điều là hai lá thư của hai cô không quen biết nhau, mà viết cho cậu tôi lời lẽ y khuôn: “ Anh đến với em nhẹ nhàng và êm đềm như bướm lượn trên hoa”. Dì Trà và dì Thanh cùng cười phá lên: “ Sến dễ sợ, không biết chép chỗ mô ra rứa”. Hiện nay cậu sống ở Na Uy và đang chống chọi những cơn đau đớn của bệnh ung thư. Dù đối mặt với tử thần, cậu vẫn cười giỡn mỗi khi gọi cho tôi : “Ê con, Noel vui không? Cậu đi nhậu mấy bữa nay….” ( Cậu không uống được bia rượu, nhưng hay dùng từ “nhậu” để thay từ “ ăn”). Gần đây, cậu đã phải dùng morphin liều cao, nhưng giọng vẫn cứ vui: “ Ê, con…Phục sinh có chi vui không? Cậu bị shock thuốc phải vô nhà thương, uổng quá, mất mấy chầu nhậu! Mấy bữa ni cậu đau dữ dội lắm, con nhớ cầu nguyện cho cậu nghen”.  Rồi cười hà hà…Tôi nghe cậu cười mà chảy nước mắt.

Dì Thanh Trà, em kế cậu Hoàng, lúc đó đang học năm thứ ba ĐHSP khoa Anh, thường dẫn tôi đi ăn hàng: bánh bèo Thiên Mụ, bún bò mụ Rớt, cơm âm phủ, bánh xèo Thượng Tứ, bánh paté chaud Chaffmangeon…. Được bạn bè khen là xinh, tuy nhiên so với  mấy chị em, dì Trà không xinh đẹp bằng. Nhưng dì giống ông ngoại nhất “Con gái giống cha giàu ba họ”, chắc tục ngữ “bói” đúng, cuộc đời dì bằng phẳng êm đềm như dòng Hương Giang. Dì thương chìu tôi, nhưng hơi nghiêm, có phần giống tính bà ngoại, nên muốn bày tỏ tâm sự , tôi chọn dì Thanh Thanh, nhỏ hơn tôi 3 tuổi, học trường Kiểu Mẫu.  Dù vậy, dì luôn tỏ ra người lớn, vai dì mà, thỉnh thoảng cũng mắng yêu, và biết nhường nhịn tôi.  Theo gót các anh chị, dì cũng thi vào ĐHSP khoa  Anh văn, nhận nhiệm sở ở Quảng Ngãi. Dáng dì Thanh Thanh cao khỏe, nét mặt tươi tắn, da mịn hồng làm nổi bật đôi mắt to đen, long lanh trong sáng. Nhìn dì tràn đầy sức sống chứ không mảnh mai như dì Tố Nga, dì Kim Kê. Không ai ngờ dì qua đời sớm, lúc chưa qua tuổi 40. Lúc dì mất, mọi người giấu bà ngoại vì bà đang đau yếu, đến lúc hấp hối,  bà ngoại vẫn tưởng dì Thanh Thanh bận dạy học không về kịp. Tôi tưởng tượng khi gặp dì Thanh Thanh ở bên kia thế giới, hẳn bà ngoại đã rất ngạc nhiên!

Ông ngoại thương tôi theo cách của ông ngoại, có cách làm tôi cảm động, có cách làm tôi bất bình. Cách làm tôi cảm động là hôn lên trán hay lên má tôi mỗi khi tôi làm ông ngoại hài lòng. Khi có kết quả thi tuyển vào ĐHSP, ông ngoại đi làm về, kêu tôi tới bàn làm việc, hôn lên trán tôi,  cười: “ Con đậu rồi”. Cách làm tôi bất bình nhưng không dám giận là kiểm duyệt mọi thư từ của tôi. Mỗi sáng, ông ngoại đánh thức tôi bằng cách mở radio để vang lên tiếng nhạc hiệu của đài BBC. Ông ngoại là hình ảnh một viên chức Huế cần mẫn, hiền lành ít nói. Tính ông ngoại kĩ lưỡng, cẩn thận, nhất là chuyện ăn uống. Mỗi bữa cơm, trên bàn ăn chỗ của ông ngoại, dì Thanh Thanh ngoài việc dọn sẵn chén, dĩa , muỗng đũa, còn có hai trái ớt tươi đễ sẵn trong chén và một bình thủy nước sôi, để ông ngoại trụng chén đũa và hai trái ớt. Khi ông ngoại cắn trái ớt đỏ tươi rồi nhai rau ráu, tôi ngạc nhiên vì ớt Huế thơm lạ lùng, không giống ớt xiêm ở Nha Trang chỉ có vị cay một cách hiểm ác (cho nên người ta mới gọi là ớt hiểm), ớt chỉ thiên ở Sài Gòn cũng không thơm, mà có khi lại chẳng cay. Không có gì vô duyên cho bằng cắn nhằm một trái ớt không mùi, không vị, và không biết cay.Ông ngoại không uống rượu bia, mấy chục năm qua, ông ngoại chỉ giữ thú giải trí duy nhất là đi chơi bài tài bàn vào mỗi chủ nhật. Sau năm 1975, ông ngoại không được đi làm nữa. Mỗi chủ nhật, thay vì đi chơi bài tài bàn, ông ngoại phải đi lao động. Một lần, khi đạp xe đến chỗ lao động, xe đạp của ông ngoại vấp phải viên đá, xe ngã, ông ngoại bổ nhào xuống bị gãy xương hông.  Do không biết nên ông ngoại không chữa trị kịp thời, vết gãy thành sẹo, và ông ngoại phải chống nạng cho đến cuối đời. Lúc sắp mất, ông ngoại sống cùng với dì Nga ở Sài Gòn. Nằm trên giường bệnh, ông ngoại ngóng chờ con cháu tới thăm, hỏi han rồi  âu yếm ôm hôn . Nhưng mấy đứa cháu gái đã lớn như cứ “bị” ông ngoại ôm hôn hoài đâm ra ngại. Có lần tới thăm ông ngoại, tôi sợ ông ngoại hôn nên đứng ở cửa phòng nhìn vào.  Đó cũng là lần cuối cùng tôi gặp ông ngoại, tóc bạc trắng, người gầy còm nằm như dán vào giường, đôi mắt đục lờ nhìn lên trần nhà. Khi ông ngoại mất, tôi dạy học ở xa không về được. Nhớ thương ông ngoại nhưng tôi không biết làm sao bày tỏ khi ông ngoại đã mất,  chỉ còn biết ôm nỗi buồn và day dứt từ đó tới giờ.

Huế nhất trong nhà chính là bà ngoại. Như bất kì người mẹ người bà nào,  cho ăn ngon là cách biểu hiện tình thương.  Mỗi khi thấy tôi chăm chỉ học bài (thật ra là đọc truyện hoặc viết nhật kí), bà ngoại đem lên cho tôi một chén xúp bột mình tinh nấu thịt bò, hay ly nước cam. Khi tôi tỏ ý không muốn ăn, bà ngoại không dỗ dành mà trợn mắt bặm môi, nạt “ Ăn đi, con mọi”. Bà ngoại thường mắng “ con mọi” khi yêu cũng như khi giận. Bà ngoại nghiêm khắc hơn ông ngoại, răn dạy con cái trong cách nói năng, ăn mặc, cư xử theo lễ giáo là trách nhiệm của bà ngoại. Đàn bà con gái đi ra ngoài hay có khách tới nhà là phải mặc áo dài, nói êm tiếng, đi nhẹ chân, cười không được thành tiếng ha hả mà chỉ nhẹ nhàng nhoẻn miệng như một nụ hoa, ra đường phải che nón chớ không được phơi cái mặt ra cho người ta “chộ”.Tôi nhớ và thương hình ảnh bà ngoại, người dong dỏng thanh quý trong tà áo dài nâu hoặc tím Huế. Mấy dì của tôi thừa hưởng được tất cả nét đẹp của bà ngoại từ nét mặt đến dáng vóc, đúng kiểu con gái Huế, riêng mạ tôi thì giống ông ngoại, thấp và hơi đẫy đà, và buồn thay (!) tôi lại giống mạ tôi…Bù lại, mạ tôi có khuôn mặt phúc hậu và tài nấu ăn của bà ngoại. Nét quý phái và tính đảm đang của bà ngoại một phần là do nếp sống con nhà quan. Bà cố của tôi không có con trai, chỉ sinh được hai con gái là bà dì Bé và bà ngoại. Vì vậy, mẹ chồng của bà cố đuổi bà cố về nhà mạ khi bà ngoại còn đỏ hỏn.  Ba mẹ con lên thuyền trong cơn mưa dầm lạnh nhức xương của xứ Huế. Rồi bà cố gá nghĩa với ông cố sau, làm quan tại tòa án Quảng Trị với ngạch trật Hồng lô tự khanh, thường được gọi là cụ Hường Lô, ông cố quý bà cố và rất mực thương yêu bà dì Bé và bà ngoại. Thời ấy, cung nội có thông lệ đưa các phu nhân vợ quan vô cung thay phiên nhau nấu nướng để vua ngự thiện. Lúc mới 12,13, bà ngoại thường theo bà cố vô cung, vốn thông minh và khéo léo, bà ngoại học được nhiều món cao lương mỹ vị của hoàng gia. Còn về chuyện làm quan của ông cố cũng có nhiều tình tiết li kì lắm. Bà ngoại kể rằng có lần bà cố nằm ngủ giữa trưa, thấy có một người đàn bà mặc toàn trắng, đầu quấn khăn tang, tay che quạt trắng ngang  mặt, từ ngoài cửa bước vô nhà, đứng cạnh bà ngoại kêu oan. Bà cố giật mình tỉnh dậy, lo lắng chờ ông cố về. Nghe bà cố kể lại giấc mơ, ông cố giật mình, thảng thốt kêu lên  “ Tôi vừa kí một án tử”. Lục lại hồ sơ, ông cố nhận ra là án oan, nhưng đã quá muộn, án đã thi hành. Ông cố tiếc hận quá nên từ quan. Từ chuyện ông cố, bà ngoại thường nhắc dì Tố Nga kể lại cho chú biện lí nghe để nhớ nằm lòng rằng “ chớ làm điều thất đức. Một khi gây oan nghiệt thì cả đời của mình không phút mô tâm được yên”.

Tưởng rằng cuộc sống cứ bình lặng trôi qua , ông bà ngoại sẽ yên vui tuổi già trong cuộc sống thanh đạm, còn tôi,  nén nỗi nhớ thương Nha Trang và gia đình để hoàn thành 4 năm đại học, công thành danh toại thì trở về  Nha Trang làm cô giáo dạy Việt Văn. Ngày hôm trước vẫn là một ngày như lệ thường. Khi vừa về đến cửa, sau một buổi chiều đi dạo trên đường Phan Bội Châu,  tôi thấy dì Trà chờ sẵn ở mái hiên, hớt hải :

– Vô xếp áo quần mau, sáng mơi mình vô Đà Nẵng, Việt Cọng vô tới nơi rồi.

Tôi không hoảng hốt như dì Trà, bởi cho rằng chuyện đó thật khó xảy ra. Đó là do tôi chỉ biết mộng mơ ở cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới, không hề quan tâm đến chính trị, chứ thật ra chiến cuộc đã có dấu hiệu đáng lo từ lúc Ban Mê Thuột thất thủ. Sáng sớm, trong lúc bà ngoại và dì Trà còn chuẩn bị bữa điểm tâm, cậu Huyên rủ:

– Hai cậu cháu mình đi một vòng coi có chi lạ không .

Cậu Huyên lấy xe đạp chở tôi đi qua đường Lê Lợi, đường hàng Đoát, đường Nguyễn Tri Phương …. Huế vắng ngắt một cách bất thường, tưởng như đêm qua tất cả dân Huế đã bỏ Huế ra đi. Nhưng tôi vẫn không muốn nghĩ rằng mình sẽ xa Huế mãi mãi, như dì Trà cố vớt vát: “ Người ta đồn rứa thôi, giống như hồi sau Mậu Thân, cũng mấy lần nhà mình vô Đà Nẵng rồi bữa sau thì quay về.”

Nhưng lần này không phải tin đồn nữa. Tôi cùng gia đình ông  bà ngoại từ Đà Nẵng vô Nha Trang, từ NhaTrang vô Vũng Tàu, từ Vũng Tàu về Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn về lại Huế. Chuyến hải hành không dài, nhưng bất ngờ và bất an. Chỉ có hai tháng mà tưởng như đã chết đi và khi sống lại thì đổi sang một cuộc đời khác ở một thế giới khác. Thay đổi hết, từ thói quen, nề nếp đến  suy nghĩ. … Vài  tháng sau khi đổi chính quyền, gia đình bà ngoại trở về Huế, tôi ở lại Sài Gòn. Tiễn chân ông bà ngoại và mấy cậu dì, tôi ủ rũ lâu lắm mới nguôi ngoai. Những người thân yêu  ra đi biết bao giờ mới gặp lại trong thời buổi đổi thay không biết ra sao ngày mai, Huế bây giờ trở đi quả thật là xa để mà nhớ rồi chứ không được ở để mà thương nữa.

Những bức thư của mấy dì đều kể chuyện buồn, chuyện thiếu thốn, chuyện đổi thay, nhất là tình cảnh ngày càng sa sút của ngoại.  Cậu Khánh, dì Thanh Trà, cậu Huyên,  dì Thanh Thanh lần lượt ra trường và lập gia đình ra ở riêng, ông bà ngoại theo dì Tố Nga vô Sài Gòn. Tôi biết ông bà ngoại đã cố cầm cự và không đủ sức nữa. Ngôi nhà 18A Duy Tân đổi chủ. Nghe tin bà ngoại bỏ Huế, bỏ căn nhà mà ông bà dành dụm suốt đời mới mua được, tôi hụt hẫng, như đánh rơi báu vật. Tôi thương  Huế không phải vì đó là nơi tôi sinh ra, là vùng thiên nhiên kì thú, hay  kinh đô của một vương triều. Tôi thương Huế vì ở đó có những ngôi nhà đầy ắp kỉ niệm của  một thời kì yên bình, luôn tràn ngập niềm hạnh phúc, là suối nguồn của tình yêu thương, là niềm mộng mơ của thời xuân trẻ.

Huế của tôi còn là khung trời khoáng đãng bên bờ sông Hương, là trường Đại Học Sư Phạm Huế, đường Lê Lợi. Mỗi sáng tôi thong thả đi bộ đến trường, áo dài trắng, áo len trắng, foulard trắng , tôi cố gắng tạo dáng của một thiếu nữ chốn cô đô, thướt tha từ đường Duy Tân qua đường Lê Lợi, yểu điệu dịu dàng  bước lên từng bậc cầu thang để vô lớp Việt Hán ¼. Phòng học nhìn ra sông có những khung cửa sổ lớn đủ cho mấy đứa con gái trong lớp chống cằm nhìn xa . Tôi đến lớp sớm hơn mọi người nên  bao giờ cũng giành được chỗ ngồi gần cửa sổ, để thỉnh thoảng liếc ra sông. Nhìn bãi cỏ mướt, vài con bò gặm cỏ, dòng nước trong xanh, lòng tôi nhẹ tênh một nỗi sung sướng thanh bình…. Bạn học đầu tiên của tôi  là Bác Nhã. Không phải chữ Bát trong Bát Nhã. Tôi giải thích với  Nhã rằng ba mẹ Nhã đặt cho Nhã cái tên đẹp như vậy mong muốn Nhã vừa học rộng lại vừa dễ thương. Nhã rất hài lòng vì cô không thích mình là một bộ kinh Phật. Hồi đó mình còn thơ trẻ, đâu nghĩ đến chuyện tu hành hay thuyết lí cao siêu.

Nhã cũng thích đi học sớm. Hai đứa vừa gặm ổ bánh mì ngọt còn nóng ấm tôi mua ở lò bánh mì gần nhà vừa ngắm sông và cầu Tràng Tiền. Nhã cũng là người Huế nhưng sống ở Quy Nhơn từ nhỏ. Nhã nhớ biển Quy Nhơn còn tôi nhớ biển Nhatrang, nên nhìn sông mà mường tượng biển. Nhã thích đọc cho tôi nghe bài Tràng giang của Huy Cận :

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp ,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

…..

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, 
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Cây cầu vắt qua dòng sông đôi khi cũng biết uốn mình làm duyên vì khói hoàng hôn. Tiếc là giữa chừng xuân thoắt gãy một nhịp cầu. Nhã thường băn khoăn: “ Cái cầu bị sún răng, không biết khi mô thì người ta mới trám lại cho nó hỉ?”. Tôi lấy làm lạ, tính từ 1968 đến 1974 là tám năm, mà chính phủ không lo trám răng cho cầu Tràng Tiền, không lẽ vì thiếu tiền, hay là họ muốn dân Huế nhìn vào cái khoảng trống ấy mà ghi tâm khắc cốt nỗi mất mát đau thương của xứ sở. Vài chục năm sau khi tôi rời Huế (1995), Nhã viết thư cho tôi báo tin là người ta đã trồng cái răng mới cho cầu, nhìn chưa thấy đẹp vì chưa quen, vì cầu có vài thay đổi, nhất là cầu đã đổi từ màu nhũ bạc thành màu xám. À, nhà nước đã lấp quá khứ đau buồn của dân Huế rồi, đáng lí phải vui vì cây cầu trở lại toàn vẹn như thuở mới được tạo hình, không dưng tôi lại ngậm ngùi, tại sao người ta không muốn lưu giũ những gì đẹp đẽ của thời cũ?

Những ngày đầu năm học, rảnh rang và muốn làm quen với Huế, tôi hay cùng Nhã đi loanh quanh, tới Liễu Quán xem sách, qua Đập Đá, đi ngang đi về cầu Bạch Hổ, đi thăm nhà thờ Phủ Cam. Nếu Nhã bận, tôi một mình lang thang qua cầu Tràng Tiền xuống phố. Tôi vô nhà sách Ưng Hạ đọc sách “cọp”, mua một cuốn truyện hay thơ, nhẩn nha ra bờ sông ngồi đọc. Đọc chán, tôi ngồi ngó mông lung về phía cầu, thấy người qua người về thong thả ung dung. Chiều xuống thành từng vệt nắng vàng vắt qua mấy nhịp cầu, lấp lánh sáng trên nền trời xanh lam. Chung quanh tôi lặng lẽ , chỉ tiếng gió thì thào qua tán lá. Khi ánh vàng trên mấy nhịp cầu phai dần là tôi biết đến lúc phải về. Trên đường về nhà thong dong tôi vừa đi vừa hát (đủ cho mình nghe thôi): ““ Hạnh phúc tôi..hạnh phúc tôi..từ những ngày con nước về. Ngoài trời mưa mau…ngoài trời mưa mau tay vuốt mặt không cùng….”.

Huế mưa từ tháng 9. Bắt đầu là những trận mưa lớn, nước ngoài đường tràn vô, ngập mấy căn phòng ở nhà dưới, giam chúng tôi ở nhà trên cao hơn mấy bậc tam cấp,  nếu cần xuống nhà dưới  thì phải lội nước lạnh buốt hai chân, thiệt là chán. Ngoài đường, người ta phải mở nắp cống để nước thoát nhanh hơn. Có lần cậu Hoàng đi chơi về vừa cười vừa kể: “ Cậu đi với cậu Khoan, hắn nói đi khéo khéo cả bị lọt cống, xong thì không nghe tiếng hắn nữa, nhìn qua cũng nỏ chộ hắn mô cả. Té ra vừa nói xong là hắn bị lọt vô cống thiệt. Phải quay lai kéo hắn lên”. May mà hồi đó, kĩ thuật làm đường còn thô sơ, các ống cống nhỏ và cạn. Thời nay mà sụp cống là phải gọi cấp cứu, may mắn lắm mới toàn mạng chứ không phải chuyện chơi. Rồi đến mưa dầm , mưa mưa mãi không ngơi. Áo quần giặt treo cả tháng không khô. Bà ngoại tôi phải sấy cho cả nhà bằng phương pháp thủ công. Một cái thau nhôm bỏ than cháy đỏ, phủ tro lên trên, một cái lồng sắt chụp lên, bên trên là những cái áo quần ướt, cả ngày trời mới xong được vài bộ cho người trong nhà. Nửa đêm thức giấc nghe mưa gõ đều đều trên tàu lá chuối thì không thể ngủ lại được, bỗng nhớ …và nhớ ….nhớ ba mạ, các em, ngôi trường  có tượng  Chúa  rộng mở hai tay , chợt thảng thốt thấy đường về nhà còn xa lắm. Co quắp mình dưới  cái mền dày cộm vẫn không thấy ấm, lạnh từ trong xương lạnh ra.  Có những tuần trời chuyển mưa phùn không ướt áo, lấm tấm trên tóc như sương  khuya nhưng lạnh nhức xương, tựa như khi bị nhéo, dí hai ngón tay mà nhéo một chút xíu da thì đau phải biết. Sáng sớm đi học, gió bờ sông đánh hai hàm răng lập cập. Nhưng tôi không cảm thấy lạnh, vì cảnh trước mắt như một bức tranh lụa, con thuyền, cồn cỏ, hàng cây, sông Hương và cầu Tràng Tiền, tất cả cứ nhạt nhòa lung linh trong làn mưa.

Và Huế cứ lung linh hoài trong tâm trí tôi suốt 32 năm với hình ảnh dòng dông, ngôi trường, cây cầu, những con đường rợp bóng, ngôi nhà, hoa và hương.  32 năm sau ngày đột ngột chia tay Huế, hè, tôi trở về . Ông ngoại tôi mất ở Sài Gòn, giờ đưa ông ngoại về với đất quê hương. Tôi bồn chồn từ lúc máy may cất cánh cho đến khi sắp hạ cánh. Tôi về làng ngay trong ngày nên chỉ thấy Huế thoáng qua. Sau khi mọi việc đã xong, tôi chỉ còn một ngày ở Huế. Dì Trà chở tôi đi ngang đường Duy Tân để thăm lại ngôi nhà 18A. Dì Trà nói :

“ Đường Duy Tân đây nì”. Nhưng  “đây nì” là đâu? Tôi nào thấy con đường rợp mát bóng cây, có nhận ra đâu là ngôi nhà có dàn sử quân tử, cây tử vi tím, cây sứ vàng. Tôi hỏi dì Trà: “ Đường Duy Tân mô, nhà mình ở chỗ mô hả dì?”.  Dì Trà cười: “ Mình vừa đi qua. Nhà mình bây giờ người ta xây lên sát đường như nhà phố”. Tôi đòi dì chở tôi vòng lại đường Duy Tân -không phải- bây giờ là đường Hùng Vương, hai bên nhà san sát như những dãy phố Sài Gòn. Dì Trà nói thêm: “ Mô phải chỉ có con đường ni thay đổi, chỗ mô cũng rứa, đi về Vĩ Dạ mà coi, không còn lá trúc, hàng cau chi mô. Họ phá Huế tan nát rồi. Chỗ mô cũng nhà hàng, khách sạn,  phục vụ cho Tây với mấy người có tiền.”. Chỉ mới dạo qua mấy con đường thôi, tôi không nhận ra Huế. Huế bây giờ bắt chước …người ta thay hình đổi dạng, cô tôn nữ trầm mặc, đơn sơ mà sang quý ngày xưa.,  nay đã trở thành một mụ đàn bà diêm dúa, chợt nhớ câu thơ của Basho “Đang ở Kyoto, Nghe tiếng chim gù, mà nhớ Kyoto”. Tôi buồn nhiều trước cảnh vật đổi thay, nhưng đau đớn hơn cả khi thấy cái đẹp đang bị hủy hoại không thương tiếc.

Sau chuyến về Huế năm ấy, lòng tôi bớt náo nức. Tôi đã quen nghĩ Huế là ông bà ngoại nghiêm hiền, là mấy cậu mấy dì vui tính, ai cũng luôn yêu quý cưng chìu tôi và cưng chìu cháu, là ngôi nhà cũ kĩ rêu phong nhưng ấm cúng và đầy hương sắc. Bây giờ, Huế không giống như tôi đã hoài nhớ trong mấy chục năm, ngôi nhà thân yêu cũng không còn chút dấu vết. Nhưng sau một thời gian dài thất vọng và buồn rầu, tôi có cách nghĩ khác. Cuộc đời làm sao tránh được nỗi tang điền thương hải? Vạn vật hay con người làm gì có chuyện bất biến? Thôi đành chấp nhận Huế của thời đổi mới. Mà lòng thì thương hoài nhớ mãi Huế của tôi, Huế ngày xưa.

34 thoughts on “Huế của tôi (2)

  1. Hình đại diện của lê ngọc duyên hằng lê ngọc duyên hằng nói:

    Lang thang ra biển Nha Trang…
    Lồng lộng gió thổi bâng khuâng nhớ về…
    Có những ngày xưa thân ái…
    Chân đi rong ruổi cũng vì ưa quen..
    …Bách bộ ĐÔI MẮT tầm tìm…
    Chỗ nơi có bóng người mình yêu thương…
    Bóng cây…hàng quán…con đường…
    Dĩ vãng trở về mường tượng ngày nào…
    ….”Chợ Đông Ba -Huế hồi đó…
    Quán Kem ngồi ăn hai đứa Nhìn Cười…”
    ”Ghé vào Nhà Sách xem vui…
    SÁCH đầy trên KỆ chỉ coi Trả Về…”
    ….Nha Trang-Chợ Đầm cũng thế!
    Chè-Kem tấp vào vui vẻ ngồi ăn…
    Ăn rồi thầm lặng so sánh…
    ”Nha Trang-Huế ĐẶC SẢN Tuyệt ngon!”
    ….Nhà Ngoại -Vui nhất Cậu Hoàng!
    Hoàng tử BÉ-Đào hoa-Chuộng ÂM NHẠC…
    ”Bất tri-Ngựa chứng nhất hạng!”
    Giả bộ rầy rà-Ngoại MẮNG YÊU đó!
    ….Cậu chết vì bị UNG THƯ!
    Ngoại buồn ủ rũ ngẩn ngơ cả ngày!
    Rầu rĩ cả chuyện Con gái!
    Dì Thanh dạy học”MẤT lâu mới hay…!”
    ….Ông Ngoại vô tư thoải mái…
    Ưa thích”TÀI BÀN”Chủ nhật đi chơi…
    Vậy đó rồi cũng bị XUI!
    ”Gãy xương hông”-Xe tông người chạy luôn!
    …Ông Ngoại kỹ tính phải Nói:
    ”Ăn TRỤNG đôi đũa-Nước Sôi Sát Trùng!”
    ”Ớt HIỂM cũng vậy KHI DÙNG…
    SƠ qua bắng Nước Nong Nóng mới Ăn…”
    ….Ông bịnh nằm chỗ HOÀI -CHÁN!
    Thấy mấy Cháu gái đến THĂM Thường ÔM…
    Bất kể Cháu lớn tồng ngồng!
    Khiến Lũ Cháu gái ngượng ngùng đến gần…
    ….TÔI thừa hưởng chuyện NẤU ĂN…
    Từ Bà Ngoại mình”giỏi giang BẾP NÚC”
    Rong chơi cũng món KHOÁI NHỨT!
    Đà Nẵng-Nha Trang-Vũng Tàu rồi HUẾ!
    …Chỗ nào cũng ĐI cũng VỀ…
    ”Nhà Ngoại vẫn là NƠI đầy Kỷ Niệm…”
    Nhớ nhứt vẫn cầu Trường Tiền..
    Áo dài trong gió rất duyên dáng Hiền
    …BÁC NHÃ tên bạn gái quen..
    Cứ trêu”Yêu nhau HÒ HẸN phải biết…”
    ”BÁNH MÌ gặm cho BẰNG THÍCH…”
    ”Vừa đi vừa ăn…quên hết đường dài…”
    ….VỤN VẶT những chuyện nói hoài…
    Hai đứa ra đường tinh quái như quỉ!
    Khỏi sợ người lớn để ý..
    Khỏi lo Ngoại rầy”MẤT NẾT GÁI HƯ…”
    …Có một nhịp Cầu gãy đổ…
    Sửa xong không giống như xưa nhưng mà..
    Thông thương vẫn tốt đó chứ?
    TÔI lần tìm về chốn xưa mà Nhớ…
    …LIỄU QUÁN xem Sách cho đã!
    Qua Đập Đá-Cầu Bạch Hổ rồi sang…
    Ghé thăm Nhà Thờ Phú Cam…
    ”ƯNG HẠ”-Nhà Sách….Không Chán Đọc ”CỌP”….
    ….HUẾ giờ còn trong NỖI NHỚ….
    Còn trong tâm tưởng Người Xưa tìm về….
    Lãng mạn mơ mộng ngày ấy…
    Tre Trúc VĨ DẠ bốn bề xanh um….
    ….Hoàng hôn con đò dòng sông
    Trăng thanh gió mát vang vọng tiếng hò….
    Tất cả tất cả điều đó!
    Đọng lại trong hồn Cô Lữ nhớ nhung…!

    Thích

  2. Hay và xúc động lắm Lệ Thanh ơi.Thương nhớ Huế,nhớ về những kỷ niệm xa xưa nhưng cũng nhiều xót xa tiếc nuối vì Huế không còn như xưa nữa.

    Thích

  3. Hình đại diện của Trần thị Bảo Vân Trần thị Bảo Vân nói:

    “Thôi đành chấp nhận Huế của thời đổi mới. Mà lòng thì thương hoài nhớ mãi Huế của tôi, Huế ngày xưa.”

    Đọc 2 phần, rồi cái kết, dù không là người Huế, nhưng sao cũng thấy lòng vương vương đầy lắng đọng đến thẳm thẳm…

    Quả đúng là cái hồn hoài nhớ…
    “Đang ở Kyoto.
    Nghe tiếng chim gù.
    Mà nhớ Kyoto! ”
    …vậy!
    Khiến, nhẹ giật mình, liên tưởng đến… Mường Mán:

    – “Chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
    Về đi thôi O nớ chiều rồi
    Ngó làm chi mây trắng xa xôi
    Mắt buồn quá chao ơi là tội!”

    Thích

  4. Hình đại diện của Tuấn Anh Tuấn Anh nói:

    Lệ Thanh nhắc rain & tears…Bài hát một thời kỷ niệm của tôi, cảm ơn bạn lắm…Tôi sẽ nghe lại vào tối nay sau bao năm quên lãng…

    Thích

  5. Hình đại diện của Ni Na Ni Na nói:

    Bữa ni , Tương Tri post bài hay hỉ ! THƠ CỦA ANH mà HUẾ CỦA TUI !!!

    Thích

  6. Hình đại diện của tương tri tương tri nói:

    Ban Biên Tập Tương Tri chúc mừng sinh nhật Lệ Thanh . Chúc bạn xinh đẹp mãi…

    Thích

  7. Hình đại diện của MIMOSA MIMOSA nói:

    Lệ Thanh viết thật xúc động , mình mong được đọc bạn nhiều nhiều nữa, tại đây. Mình biết Huế , biết Nha Trang , biết Sài Gòn …nên khi bạn viết tới địa phương nào mình đều lặng người đi vì thấy thân quen quá…Cảm ơn bạn rất nhiều .

    Thích

  8. Thanh Doan viết làm tôi xúc động ,mặc dù Huế tôi chỉ mới đến 1 lần vào năm 1996.

    Thích

  9. Hình đại diện của Nguyên Vi Nguyên Vi nói:

    Cảm ơn chị LT đã giới thiệu nhiều nét Huế mà NV chưa biết. Xin chép tặng chị mấy dòng thơ NV viết về Huế nhân một lần ghé lại.
    NẮNG NGOẠI Ô
    Khoác bộ cánh tao nhân mặc khách/ Độc ẩm bên thềm nắng ngoại ô/ Thi tứ say mềm hồn trúc bạch/ Phiêu du lòng trải mộng sông hồ/ Chiều ngoại ô long lanh sắc Huế/ Thủ thỉ lời A-li-ba-ba/ Ta quên tuốt thập bát ban võ nghệ/ Lâm nạn mê – hồn – hương – huệ – hoa/ Gác bút lén đưa tay xếp quyển/ Treo gươm ngồi ngắm dải tơ trời/ Hoàng hôn khép vội trang thuyền biển/ Lưu lạc mà chi thế, Huế ơi! (NV)

    Thích

  10. Hình đại diện của QUY. NGUYENHOANG QUY. NGUYENHOANG nói:

    Qua bài đầu của Lệ Thanh, NHQ…nhớ Huế, chờ được đọc bài này để nhớ tiếp, lại được nhớ Nha Trang, rạp Tân Tân, nhà sách Văn Lang, tiệm vải Ấn Độ của chị em bà Phạm Thị Một, Phạm Thị Hai…
    NHQ vẫn thuộc, không hoàn chỉnh một bài hát của “cậu Hoàng” viết theo điệu valse trong đó có câu này: “Chiều nay, anh tiễn đưa em về, còn ai thắm thiết trong vòng tay? Hàng cây không theo gót chim bay, cho tóc buông vai gầy và em…như chim bay trong ngàn mây”. Chỉ muốn hát cho Hoàng nghe một lần vì chắc chắn, “chàng” không bao giờ nghĩ rằng mấy chục năm rồi mà có người còn nhớ!!
    PS: Xin lỗi chị TD và tuongtri vì chuyện riêng tư này!

    Thích

  11. Hình đại diện của Thanh Doan Thanh Doan nói:

    Ừ Dung ơi, đọc lại thấy buồn lắm, giống như Nhatrang vậy, NT bây giờ đâu phải NT hồi tụi mình là những con nhỏ Thánh Tâm vừa nghịch ngợm vừa dịu hiền.

    Thích

  12. Nhưng sau một thời gian dài thất vọng và buồn rầu, tôi có cách nghĩ khác. Cuộc đời làm sao tránh được nỗi tang điền thương hải? Vạn vật hay con người làm gì có chuyện bất biến? Thôi đành chấp nhận Huế của thời đổi mới. Mà lòng thì thương hoài nhớ mãi Huế của tôi, Huế ngày xưa.Thương cái đoạn này , thương lắm…

    Thích

Gửi phản hồi cho Trần thị Bảo Vân Hủy trả lời