Huế của tôi (1)

ĐOÀN THỊ LỆ THANH.

Mai Nemesis, Inversely

Mai Nemesis, Inversely

.

Tôi sinh ra ở Huế, nhưng thời gian sống ở Huế không nhiều lắm. Ba mạ tôi kết hôn tại Huế, sau đó ba tôi thuyên chuyển nhiều nơi, Đà Nẵng, Sài Gòn rồi Nhatrang. Nhưng mỗi hè mạ tôi vẫn thường đưa chị em tôi về thăm ngoại.  Huế  trở thành kí ức của tôi kể từ năm tôi lên 5,6 tuổi. Đó chỉ là những nét chấm phá về  không gian cổ kính, hoang vắng và bí ẩn của Cung An Định, nhà của ngoại. Cung An Định, thuộc vùng An Cựu, vốn là cung điện vãng lai của  các hoàng thái tử, từ hoàng tử Bửu Đảo (vua Khải Định), đến Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại) và cuối cùng là Bửu Long. Khi vua Bảo Đại sống lưu vong bên Pháp, Cung An Định  bị tịch thu làm nơi ở cho các giáo sư và nhân viên thuộc Viện Đại Học Huế. Ông ngoại tôi làm phát ngân viên của Viện nên cả gia đình được ở đó. Mặt tiền cung có một cổng chính ít khi mở, và hai cổng phụ. Hai bên cổng phụ là hai cây ngọc lan sum suê, quanh năm xanh tốt. Dì Kim Kê của tôi- lúc đó khoảng 13,14 tuổi- thường hay dắt tôi ra ngồi dưới gốc cây, dì đọc truyện hay viết lách gì đó, trên tóc cài một búp ngọc lan trắng muốt. Sáng sớm thì dì một mình ra cổng, leo lên tường rồi chuyền theo cành lớn hái mấy búp còn ngậm sương đem để trên bàn học. (Chuyện này tôi thì tôi không nhớ, tôi nghe mấy dì kể lại, có lẽ vì tôi còn quá nhỏ để biết yêu hoa. Ngược lại, hai cây ngọc lan này là kỉ niệm biết tỏa hương của hai dì Tố Nga và Kim Kê). Qua khỏi cổng là một khoảng sân rộng, chính giữa có một ngôi nhà che cho bức tượng vua Khải Định bằng đồng đen (Sau này cậu Hoàng tôi giảng cho tôi nghe là cổng chính xây theo lối tam quan, còn ngôi nhà xây theo hình bát giác này gọi là Đình Trung Lập, bức tượng vua Khải Định được đúc từ năm 1920 theo tỉ lệ bằng người thật). Mỗi hè, có gia đình tôi và gia đình dì Quỳnh Hoa- em kế mạ tôi ở Quảng Ngãi -về thăm, cả nhà ra ngôi nhà bát giác đó để chụp hình. Tôi thấy mạ tôi và mấy dì, lần lượt leo lên đài, đứng cạnh vua cười rồi bước xuống, lòng cứ thắc mắc không biết tại sao ai cũng phải cười trước ống kính. Cho nên, trong hình, bên cạnh những quý bà quý cô xinh đẹp rạng rỡ gồm bà ngoại, mạ và mấy dì là cái tôi cau có, luôn nép một nửa người bên cạnh ai đó. Còn hai ông cậu nghịch ngợm của tôi lúc đó khoảng 9,10 tuổi – cậu Hoàng và cậu Khánh- cũng không cười, mà làm mắt lé, hoặc lè lưỡi, hoặc chỉa hai ngón tay lên đầu làm sừng.  Sau ngôi nhà có tượng vua là tòa lâu đài to lớn ( nhìn qua đôi mắt bé con) nơi vua ngự . Sau tòa lâu đài này là hí trường, mà mấy cậu dì tôi hay gọi là “ Lầu Bể” vì bị bom đạn đánh sạt mất một góc (sau này tôi biết tòa lâu đài đó tên là Khởi Tường Lâu, hí trường có tên là Cửu Tư Đài). Hai bên tòa lâu đài là hai dãy nhà dài, nhà của ngoại ở bên trái.

Cách nhà không xa là chuồng nuôi thú rất rộng. Chuồng có nhiều ngăn, mỗi ngăn có chấn song sắt to bằng cổ tay người lớn. Mỗi lần đi chợ không để mắt được tới hai ông cậu của tôi , bà ngoại tôi nhốt hai cậu vô đó. Tôi đứng ở cửa phòng nhìn vào thấy hai cậu rất tội nghiệp. Trái lại, hai cậu hết nhìn nhau cười hi hí, lại chỉa hai ngón tay từ khóe miệng giả làm rang nanh dọa tôi. Chờ bà ngoại đi chợ về , tôi chạy tới ôm chân bà ngoại, phụng phịu chỉ tay về “phòng giam”, bà ngoại quát: “Không được chọc cháu, hai cái thằng tê!” (làm sao mà  “hai cái thằng tê”  nghe được nhưng tôi cũng lấy làm hả dạ), rồi dắt tay tôi về căn bếp thơm nồng mùi khói, cho tôi một trái chuối sấy, hay một cái bánh bích quy.

Từ cửa phòng ăn nhìn ra sau, là hai hồ sen rộng có lối đi nhỏ ở giữa. Sát bờ thành bên trái gần nhà là một khu rừng nhiều cỏ dại, cây hoang và dây leo, như bần quân, mâm xôi, móc, sim. Nói là rừng vì đối với đôi mắt non dại và trí tưởng tượng vu vơ của trẻ con, một khu vườn hoang phế quả là nơi bí ẩn đáng sợ. Tôi nghe dì Tố Nga kể rằng trước đây, đó là một vườn nhãn ngự, tức là trồng riêng cho vua. Nay không ai chăm sóc, nhãn ngự tuy sum suê cành lá, nhưng không đơm hoa kết quả. Kì lạ là có một cây gần nhà nhất thì ra trái, từng chùm nặng trĩu rất hấp dẫn. Bà ngoại sai người lồng những chùm nhãn đợi chín thì hái xuống để nấu chè hột sen bọc nhãn . Đáng lí phải nói ngược lại là chè nhãn bọc hột sen mới đúng. Hồi đó tôi chỉ biết ăn chớ đâu biết món chè là một sáng tạo độc đáo của nghệ thuật ẩm thực. Hột sen hấp chín, để nguội, nhãn bỏ hột lấy cơm cho khéo đừng để rách và dập, nhét hột sen vô giữa thay cho hột nhãn. Nhón tay để viên nhãn vô những cái chén kiểu (chén sứ lam ) rồi đổ nước đường phèn – đã nấu sôi lược kĩ – cho vừa ngập viên nhãn. Khi lớn, nâng chén chè nhãn bọc hột sen, mà tôi cho là cực phẩm của món chè, tôi không dám “ăn” theo lối phàm tục của con người, cố tưởng tượng và bắt chước cung cách ngự thiện, từ tốn “thưởng thức”, thần trí lâng lâng ngưỡng mộ vị đầu bếp nào đã sáng tạo món “cocktail hoàng gia” có một không hai trên thế giới như vậy.  Ngoài món chè , bà ngoại tôi thường làm chuối sấy. Chuối sau khi tắm nắng cho ráo rẻ, bà ngoại lột bỏ vỏ rồi đem sấy. Khi chuối tỏa mùi thơm ngọt ngào, bà ngoại lấy mấy cái thẩu thủy tinh lớn ra lau chùi, mạ tôi đem nia chuối để trên phản gỗ, là tôi vội vàng chạy lại đứng bên coi bà ngoại xếp chuối. Qua lớp thủy tinh trong vắt, những trái chuối nâu vàng càng thêm óng mướt. Tất nhiên bà ngoại không quên cho tôi nếm thử một trái, chuối chín cây thấm đẫm nắng hè nên sắt lại vị ngọt của đất trời, qua bàn tay khéo léo đầy kinh nghiệm bếp núc của bà ngoại – canh đúng độ nắng của trời và độ nóng của than-  mềm và dẻo vừa đủ để hàm răng sữa của tôi không phải vất vả. Lớn lên tôi vẫn mê chuối sấy, nhưng không trái chuối nào có hương vị như chuối của bà ngoại. Phải chăng người sản xuất quá nôn nóng thu lợi mà  bất kể thành quả, hay vị giác của tôi-người lớn đã chai lì, hoặc trái chuối của bà ngoại là do nỗi thương nhớ của tôi mà thành vị ngon duy nhất?

Lẩn quẩn bên bà hay mạ hoài cũng chán, tôi thơ thẩn tìm trò vui. Phía trước nhà, cậu Khiết có một hòn non bộ nuôi cá vàng. Mỗi lần cậu đi vắng, tôi lén ra bể cá, say mê ngắm nhìn những con cá thướt tha kéo lê cái đuôi trong nước. Có lần tôi dùng cái vợt nhỏ bắt được một con, nó vùng vẫy muốn thoát thân. Tôi cố giữ cái thân hình trơn ướt, nó nhớt nhợt làm tôi rùng mình vì gớm, mạnh tay bóp chặt cái bụng phệ của nó. Con cá nằm yên trong bàn tay đang run rẩy của tôi. Sợ quá tôi vứt nó nằm trên mấy viên đá của hòn non bộ và chạy về phòng  trốn. Chiều về, cậu Khiết hỏi cậu Hoàng và cậu Khánh về con cá chết. Hai cậu tất nhiên là không biết. Không ai tra hỏi tôi cả, có lẽ vì cho rằng cái con nhỏ nhát gan,ít cười, ít nói, suốt ngày níu áo bà hay mạ thì làm sao mà dám làm chuyện sát…ngư. Lương tâm của tôi cũng chưa đủ lớn để khuyên tôi tự thú trước …bình minh, nên tôi cứ âm thầm lo sợ đến mấy ngày. Còn cậu Khiết thì cứ đi vô đi ra chặc lưỡi:“ Không biết đứa mô mà ác rứa, bóp chết con cá của người ta”. Nhiều năm  sau, khi tôi về Huế học Đại Học, chuyện cũ kể lại, vỡ lẽ ra, ai cũng cười. Dì Kim Kê nói “ Cái con ni hắn ác ngầm!”, cậu Hoàng lắc đầu: “ Đúng là nhân chi sơ, tính bổn ác. Ác trong vô thức”. Dì Thanh Thanh chêm thêm : Người ta từ bi bất ngờ, còn hắn độc ác đột ngột”. Dì Tố Nga tôi, hiền nhất nhà, mỉm cười lườm mấy cậu mấy dì : “ Tụi bây nói chi quá quắt, cháu hắn lỡ tay!”. Chuyện con cá thời trẻ con vậy mà cũng làm tôi ngẫm nghĩ mãi, thì ra những người hiền lành thật thà cũng giống như trẻ con, rất dễ bị kích động. Một khi hoảng sợ, hay nhờm gớm, họ có thể trở thành những kẻ sát nhân tàn bạo nhất.

Huế của tôi là bức tranh tươi tắn nhiều màu sắc của ngôi nhà 18A Duy Tân. Đó là một ngôi biệt thự nhỏ nằm giữa một khu vườn cũng không rộng lắm, Ngoại tôi mua lại của một vị  giáo sư người Pháp dạy ở đại học Huế tên là Alcoca vào cuối năm 1963. Hè năm sau, mạ tôi đưa chị em tôi về thăm ngoại, cùng dịp, có cả gia đình dì Quỳnh Hoa , và gia đình ông chú của tôi (chú của mạ tôi) sống Sài Gòn ra chơi. Mùa hè cũng đúng vào mùng năm tháng năm, chúng tôi ăn Tết giữa năm đến mấy ngày. Bà ngoại, mạ tôi và mấy dì bận bịu luôn trong bếp, nấu nướng đủ món: chè kê, chè đậu xanh đánh, chè khoai tía, cháo lươn, lươn xào bún tàu, vịt luộc, bún bò, mít thấu…. . Có lẽ nghĩ rằng thết đãi “khách đường xa” như thế cũng chưa tươm tất, bà ngoại còn đi chợ Đông Ba (thay vì chợ An Cựu), khi về, bà ngoại ngồi trên xích lô, dưới chân là mấy thùng thiết. Chúng  tôi xúm quanh bà ngoại chờ đợi, như bà tiên, bà ngoại quơ tay một cái, nắp thùng mở ra, chao ơi, đủ thứ món ngon mà trẻ con nào cũng mê thích, nào là đậu phụng da cá, bánh bích quy đủ loại, kẹo đậu phụng, kẹo mè xững….. Chị em tôi được ăn thỏa thích chứ không phải như  ở nhà, sau bữa cơm mỗi đứa chỉ được phát một cái để tráng miệng. Cậu Hoàng vừa ăn vừa làm hề.  Cậu lấy khăn quấn trên đầu cho rũ rượi, cầm quạt vừa đi vừa hát “ Có công chúa trong hang cũng mới về…tang …tình…”. Đó là hình  ảnh của mụ điên thường xuất hiện vào giấc trưa . Mụ đi trước, một bầy con nít theo sau. Hễ mụ dứt  câu thì lũ trẻ hò theo “ tang …tình”. Chúng tôi đứng trong sân nhìn ra, vừa sợ, vừa tức cười. Mụ điên lâu lâu quay lại hầm hừ mấy đứa trẻ con, chứ không la hét hay đánh đập gì tụi nó. Đám rước của mụ điên hiền lành đó đi qua nhà rồi xa dần mà tôi vẫn cố lắng nghe tiếng vọng lại “ Có công chúa…”. Tôi thầm hỏi tại sao mụ cứ hát đi hát lại một câu chúc mừng công chúa trong hang của Thạch Sanh? Vài năm sau, tôi về thăm ngoại, chợt nhớ mụ điên, hỏi thì không ai trong nhà biết mụ đi đâu. Nghe kể, hình như  mụ vốn là một cung nữ, uất hận vì mòn mỏi tuổi xuân trong cung lạnh mà sinh ra mất trí. Sau Tết Mậu Thân, căn nhà có một chút xơ xác  bởi nhiều vết đạn lỗ chỗ trên tường, trên bộ tủ, bộ salon bằng gỗ cẩm lai. Mỗi hè qua, tôi lớn thêm thì ngôi nhà càng già đi, lớp tầm gửi bên hiên ngày càng rậm và rêu ngày càng xanh ở chân tường. Hàng cây tử vi tím dọc hàng rào và hàng sứ vàng trước sân  cũng lớn theo tôi, cành vươn dài hơn, và hoa mỗi năm mỗi mỗi thắm hơn. Cây sử quân tử , từ một vài thân  leo bên cổng, từ từ phủ kín vòm cổng và leo sang hàng rào, chằng chịt rậm rập, chỉ thấy lá và  hoa. Hoa sử quân tử  mọc thành chùm,  lúc mới nở thì màu trắng, khi mãn khai chuyển sang màu hồng đậm. Bước đến cổng là nghe được hương thơm của hoa, ban ngày thì thoang thoảng, ban đêm đậm hơn một chút nhưng không  nồng gắt, ngọt ngào vừa đủ để sảng khoái lúc còn thức và thư thái thiếp vào giấc ngủ ngon. Tôi yêu hoa sử quân tử vô hạn, một chút vì sắc nước, mà nhiều hơn là bởi ngan ngát hương trời. Sau này khi sống ở Sài Gòn, đi ngang một vài ngôi nhà ở đường Pasteur (lúc chưa trở thành những cao ốc cho thuê), tôi có gặp lại “cố hoa”, nhưng không tìm thấy “cố hương”. Tôi cố công tìm cây giống, cố công chăm bón,  nhưng thân thì èo uột gầy còm, mà hoa thì thưa thớt, cầm một chùm bông lên, để sát vào mũi cũng chỉ nghe phảng phất mơ hồ một thoáng hương không rõ rệt. Không biết vì cây sống trong chậu nên yểu mệnh, hay do tôi không biết cách trồng, hoặc là hoa chỉ thơm khi được tẩm hương đất trời của Huế?

Nếu ngôi nhà ở Cung An Định lưu giữ kỉ niệm tuổi thơ của tôi và mấy cậu dì, thì ngôi nhà này cùng vui buồn với thời tuổi trẻ của chúng tôi. Khi gia đình ngoại chuyển qua nhà mới, trừ mạ tôi và dì Quỳnh Hoa đã yên bề gia thất, mấy cậu mấy dì còn lại đã qua thời niên thiếu, trở thành những chàng trai tuấn tú và các thiếu nữ xuân thì. Lần lượt mấy người lớn từ biệt gia đình. Cậu Khiết tôi tốt nghiệp Y Khoa, làm việc một thời gian ở nhà thương Huế rồi biệt phái vô lính làm bác sĩ quân y, dì Tố Nga lên xe hoa với chú dượng là biện lí tòa sơ thẩm Huế, nhà dì cách nhà ngoại hai ba con đường nhỏ,  nhưng cũng xem như vắng mặt, dì Kim Kê mê Đà Lạt nên sau khi ra trường Sư Phạm Qui Nhơn thì xin về trên đó, gặp gỡ và kết hôn với chú dượng, vốn là một phụ giảng môn hóa học ở Viện Đại Học Đà Lạt. Nhân đây tôi kể lạc đề một chút. Sau năm 1975, người ta bổ chú tôi dạy tại trường cấp 2, vì họ tưởng cái bằng Cao học của chú là Cao đẳng. Chú tôi kiên trì làm đơn xin xét lại bằng cấp, trải qua mấy năm đằng đẳng thì họ mới biết là Cao học thì cao hơn Cao đẳng, nên mới chuyển chú về dạy tại trường trung học Bùi Thị Xuân. Nhà ngoại còn lại cậu Hoàng, cậu Khánh, dì Thanh Trà, cậu Huyên và dì Thanh Thanh, và tôi thì chỉ có mặt vào dịp hè.

(còn tiếp)

Đoàn thị Lệ Thanh nguyên là dân Thánh Tâm Nha Trang, từng là một cô giáo văn cấp 3 . Tốt nghiệp ĐHSP Huế ,  dạy tại Đà Lạt và Sài Gòn . Hiện bạn đang sống và làm việc tại Austin, Texas. Các bút hiệu khác : Tưởng Huế , Lệ Đá Xanh.

24 thoughts on “Huế của tôi (1)

  1. Hình đại diện của Hương Thủy Hương Thủy nói:

    Thanh ơi!Nhớ chị Hương Thủy người Huế dạy Bảo Lộc không?Sao em không nhắc chuyện Nhà văn nữ Trần Thị Ngh có thuê nhà em ờ trọ?Cuối cùng rồi em cũng đi…Nhớ có lần 2 chị em minh2 cùng ở Khách sạn NH không?Anh H ,Kh còn ở ĐD không?Nhiều chuyện để nhớ quá.Thư cho chị theo email ở dưới nha.Tình thân.

    Thích

  2. Hình đại diện của Nguyen Duyen Nguyen Duyen nói:

    Hai chị em Thanh duyên , Thanh Hằng cùng đọc một lần , Huế của Má, của tuổi thơ không có cha mẹ ( ông Ngoại đi tập kết , Bà ngoại chết sớm ) Má bơ vơ lấy chồng rồi đi , đi mãi . Cuộc sống cứ trôi đi chưa bao giờ Má than thở nhớ Huế , rồi chết đi hồn nhiên chưa bao giờ về Huế . Bi chừ chị em Duyên nhớ Huế và thương Má vô cùng … Má ơi ( mất trí rồi làm sao nhớ Huế ! ) Má có biết tụi con đang khóc .. bên này đây , con chỉ ra vườn nhìn quanh nhìn quất , biết đâu là Huế của Má đây , cây nhang gần tàn , con phải ngủ ngày mai còn đi làm đó Má thương yêu tôi nghiệp của con .

    Thích

  3. Nói chuyện Huế rồi , bây giờ nói chuyện Lệ Thanh nè .Lệ Thanh dân ban C, tóc dài , da trắng , mắt đen , môi hồng…là một trong những EM MANG MÙA THU VÀO LỚP HỌC/PHẤN TRẮNG NGỠ NGÀNG TRÊN TAY ANH…Soeur Hiệu Trưởng vốn có cặp mắt soi thấu chín cõi địa ngục thiên đàng , thấy nguy cơ tiềm ẩn nên bắt học trò xưng con với các thầy , mỗi lần nghe học trò xưng con , mấy thầy mới ra trường ( 22, 23 tuổi) đỏ mặt…Nguyên tắc của Soeur HT ưu tiên tuyển chọn các thầy giỏi và trên 40 tuổi , vợ con đùm đề . Cùng cực lắm mới tuyển thầy trẻ , chưa vợ và Soeur hay vào lớp ngồi chơi khơi khơi vậy khi thầy lên lớp.. Nhờ vậy mà Lệ Thanh thi vô ĐHSP Huế đậu thủ khoa .Dung nói đúng không . Lệ Thanh ???

    Thích

    • Hình đại diện của Thanh Doan Thanh Doan nói:

      Dung ơi, quá khen làm mình thiệt méc cỡ, tưởng đâu hoa hậu nào. Nhưng không biết chuyện tóc dài, mắt đen có liên quan chi tới việc đậu thủ khoa hở Dung?

      Thích

      • Nếu không được Soeur HT kềm kẹp , liệu tụi mình có học giỏi như ri với những mắt đen , tóc dài… rứa, có nước mà …ngày mai trong đám xuân xanh ấy …có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi sớm mất thôi!!!

        Thích

  4. Hình đại diện của hungPt hungPt nói:

    Tôi có máu Huế trong người, nên thích dõi theo Huế! Có những lúc, như lúc ni, tôi ngó sững chữ H..U..Ế, chữ chi lạ, chẳng đời mô nhắc tới! Nhưng khi gặp lại thấy ..như buồn.. như xa.. vô cớ! Có ai chia cho tôi một chút..như gần???

    Thích

  5. Rất xúc động về bài viết của chị ,mặc dù chưa hết.Vì có nhắc đến Huế và nhất là Đà Lạt ,nơi tôi đã từng học,từng dạy học và từng yêu một cô bạn học người Huế…cách đây hơn 40 năm.

    Thích

    • Hình đại diện của Lưu Thy Lưu Thy nói:

      Có nhắc tới Qui Nhơn nữa anh Nghĩa ơi.
      “…dì Kim Kê mê Đà Lạt nên sau khi ra trường Sư Phạm Qui Nhơn…”
      Ngày mai tiếp chắc có Phan Rang với Phan Thiết.
      hungPt nhớ đón xem.

      Thích

      • Sư phạm Qui Nhơn ,nơi đào tạo biết bao người nổi
        tiếng như nsTCS, TTL…nhà văn Y Uyên.. nhà thơ CTNM , PCH… và nhiều người nữa…đó LT

        Thích

        • Hình đại diện của Thanh Doan Thanh Doan nói:

          Dạ, ngày trước, ai cũng tự hào khi xuất thân từ Sư Phạm Quy Nhơn. Không biết anh Nghĩa có học ở đây không?

          Thích

        • Mình học SPĐL ,chỉ mở được 5 khoá từ năm 70 đến năm 75. Hơn 700 giáo sinh của trường này , đến giờ chỉ biết được vài người còn làm văn nghệ văn gừng . Đó là TVN (Khoá 2) , Võ Hoàng Minh , Ngô Đình Miên (khoá 3) ,riêng NĐM vừa rồi bị kỉ luật vì bài thơ “Phía ngươc” nên đã về hưu sớm và Nguyễn Liên Châu(Bùi Hữu Miên , hình như khoá 3). Mình có cảm giác ,lúc trước ai học trường SP, cũng đều có tâm hồn lãng mạn ,yêu văn học , nghệ thuật hết mình đó TD.

          Thích

      • Hình đại diện của Thanh Doan Thanh Doan nói:

        Đúng rồi Lưu Thy, LT có nhắc đến Phan Rí Cửa gián tiếp, ông chú ở ĐL quê ở đó. Dì Tố Nga của LT có viết cuốn ” Hành lang nôi trú” kể nhiều kỉ niệm về Sư Phạm Quy Nhơn, nơi xuất thân của nhiều bậc anh tài.

        Thích

      • Lưu Thy thấy đồng hương Texas nên lò dò vô còm . Đúng là thiên vị !!!

        Thích

    • Hình đại diện của Thanh Doan Thanh Doan nói:

      Dạ, cám ơn anh, anh có lần nào gặp lại người xưa không?

      Thích

  6. Hình đại diện của Nguyên Vi Nguyên Vi nói:

    Tôi có dịp đến Huế mấy lần, thường là cưỡi ngựa xem hoa…mà như ăn cướp, chiều tối tới rồi chào hỏi rồi cụng ly sáng mai lại biến nên chỉ nhìn được tí vẻ ngoài của Huế, cảm ơn chị LT nhiều! Thế nào tôi cũng phải tự nấu và thưởng thức món chè hạt sen bọc nhãn theo phong cách Huế!

    Thích

  7. Hình đại diện của Nguyễn Hoàng Quý Nguyễn Hoàng Quý nói:

    Cám ơn bạn Lệ Thanh đã cho những người từng có kỷ niệm với Huế, từng yêu Huế có dịp quay về thăm dầu chỉ là qua…chữ nghĩa! NHQ thích cách dùng chữ “cố hoa” và “cố hương” của bạn ở ngữ cảnh này. Có một chút thi vị, một chút hài hước vui vui ở đây!
    PS: Nói lạc đề một chút: Gặp chị Kim Kê ở họp mặt Đồng Khánh tại SG 2011 vẫn đẹp và sang như xưa, chỉ lo là nghe nói anh Hoàng đang bệnh và ở xa, có người cho 2 số phone mà NHQ gọi thăm không được!

    Thích

    • Hình đại diện của Thanh Doan Thanh Doan nói:

      Cám ơn anh Quý, không biết anh quen biết sao với dì Kim Kê và cậu Hoàng? LT vừa đi Na Uy thăm cậu về, chỉ ở được 4 ngày. Bác sĩ “chê” rồi.

      Thích

  8. Thanh ơi , nghe bạn kể chuyện như được trở về vùng trời thuở nhỏ …sao mà bạn nhớ từng chi tiết thật hay . Nhưng khi về lại nơi chốn cũ mình bỗng thấy lạc lõng quá . Không còn những gì sót lại trong hoài niệm.Mình chỉ nhớ một điều sao Huế có nhiều người điên quá , mỗi lần về Huế mình cũng bị tra tấn với một bà điên trong xóm …bà mà nghe mình về là chạy tới kể chuyện từ thời ông cố , ông nội …và hò Huế thật hay.Không nghe hay giả bộ đi công việc là bà giận lắm vùng vằng …Ai cũng tức cười khi thấy mình nằm đong đưa trên võng cột giữa hai cây nhãn , bà điên lót cái nón ngồi dưới đất kể chuyện cho mình nghe…Ông xã mình chọc hoài : Cùng hệ !!!

    Thích

Gửi phản hồi cho TRẦN VĂN NGHĨA Hủy trả lời