ĐỌC LẠI “XỨ TRẦM HƯƠNG” (1) CỦA QUÁCH TẤN

Nguyễn Man Nhiên

xutramhuongquachtan

Sinh ra và lớn lên ở Bình Định, nhưng người thi sĩ của MỘT TẤM LÒNG, của MÙA CỔ ĐIỂN lại có hơn nửa đời người gắn bó với Nha Trang – Khánh Hòa, vùng đất mà ông “kính yêu như bà Nghĩa mẫu”(2), vùng đất mà ông đã trải tấm tình “thiết tha, thành thực”(3) trong rất nhiều sáng tác của mình. Và không chỉ trong thơ. Cái tên XỨ TRẦM HƯƠNG thi vị hóa từ nguồn lợi lâm sản nổi tiếng bao đời nay của Khánh Hòa còn là nhan đề một tập văn xuôi đặc sắc của ông, xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn năm 1969, đến nay đã hơn 40 năm vẫn được đông đảo bạn đọc xa gần mến mộ.

Tuy nơi LỜI THƯA đầu sách, tác giả đã dè dặt minh xác rằng mình không có tham vọng viết một quyển địa phương chí, mà chỉ làm công việc “ghi chép lại những gì đã thấy, đã nghe, đã cảm trong mấy mươi năm sống cùng non nước Khánh Hòa”(4), nhưng suốt cả gần 500 trang giấy, ngòi bút tài hoa, lịch lãm của ông đã đóng trọn vai người hướng đạo nhiệt thành đưa ta đi thăm thú, tìm hiểu hầu khắp mọi mặt của địa phương, từ địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa đến phong tục, vật sản, các thắng cảnh cổ tích, các nhân vật hữu danh v.v… Như vậy, theo cách hiểu thông thường, vẫn có thể coi XỨ TRẦM HƯƠNG là một quyển địa phương chí về đất nước, con người Khánh Hòa, nhưng ở đây còn với cái nhìn và bút pháp thể hiện của một nhà thơ giàu xúc cảm và tâm huyết.

Giá trị của XỨ TRẦM HƯƠNG có lẽ không phải ở những tài liệu về dân số, về độ cao của núi non, chiều dài của sông suối, sản lượng khai thác các nguồn lợi kinh tế trong tỉnh… mặc dù tất cả những điều này đều được tác giả ghi chép công phu, cặn kẽ. Với ý đồ giữ gìn tư liệu truyền thống, ghi chép sự tích cha ông, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của quê hương, con người nghiên cứu của Quách Tấn dường như đã chọn cho mình một cách tiếp cận từ giác độ văn hóa dân gian. Ông tìm về những gì có thể chúng ta đã lãng quên, mất mát, những dấu tích, những vang bóng một thời. Mỗi trang sách như mở ra một đoạn đường, một mảnh đất, một khoảng trời quê hương tươi đẹp, nơi hiện thực và huyền thoại đan dệt vào nhau, tưởng chừng, nói như một nhà văn, “chỗ nào ta cũng thấy phảng phất hình ảnh của người xưa, văng vẳng tiếng nói của người xưa”.

Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để được cùng thi sĩ lên tận thượng nguồn nghiêng mình trước vẻ đẹp trầm hùng, dữ dội của những thác Hòm, thác Võng, thác Dằng Xay, thác Nhét… rồi trở về xuôi theo dòng sông Nha Trang chảy thanh thản giữa đồng bằng xanh mát mà cái tên sông nhắc nhớ ta “xưa kia hai bên bờ ngút ngàn lau lách mọc đầy”(5).

Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để được cùng thi sĩ dạo khắp dãy quần sơn hiểm trở của Khánh Hòa, từ trên chon von đỉnh đèo Đại Lãnh nghe câu hát của khách đa tình buổi trước: “Bước chân lên đèo Cả/Trông sang Vạn Giã/Ngó lại Tu Bông…”(6) đến vẻ thâm nghiêm, huyền bí của dãy Hòn Bà (tương truyền là nơi Hành cung của nữ thần Thiên Y A Na) quanh năm chìm ngập trong biển mây trắng xóa (7).

Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để được cùng thi sĩ “đến Trường Bơi ăn cá, lên rượng mà ca rình xem voi, xuống hồ Đá Xẻ thưởng thức chà khé” (8), để được tận hưởng cái thú uống nước dừa mà theo tác giả “cũng giống như uống trà uống rượu, phải biết cách uống mới thưởng thức trọn vẹn chân vị chân hương” (9), để biết mở lòng ra đón cái “gió Khánh Hòa mùa nào cũng có hương trầm ẩn hiện. Người thức khuya thường hay bắt gặp lúc trời trong” (10), và cũng để đừng trở thành kẻ bàng quang, bất kính trước những đình đền am miếu, những cổ tự danh lam, với thời gian đang ngày càng thâm u, hoang phế!

Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để biết rằng ngay giữa lòng thành phố Nha Trang tòa ngang dãy dọc hiện giờ, xưa kia đã từng có một rừng mai Phước Hải, “mùa xuân hoa nở ánh cả vùng” (11), và bên cạnh rừng mai, còn có rừng dương liễu mơ màng buông lục để từ đấy Nha Trang còn nổi danh là một miền “thùy dương cát trắng” (12).

Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để hiểu thêm về cuộc đất đại địa của Nha Trang, nơi sông biển bốn bề bao bọc, và đây đó “bốn hòn núi tượng hình bốn con thú tự họp lại để giữ gìn anh khí” (13) cho cuộc sống con người.

Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để giữ mãi trong tâm tưởng một đêm giao thừa ở Tháp Bà, vào cái thời khắc đất trời giao cảm ấy “núi non trông biếc thêm, sông biển trông trong thêm. Và những chòm cây muồng hòe ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, đầy đặc cả đom đóm”, tựa hồ “bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống đọng nơi cây cối” (14).

Giữa bao nhiêu biến thiên, thay đổi của cuộc đời, Quách Tấn giữ lại cho ta hình ảnh một Nha Trang “đồng hóa cùng lá cây và dính liền với làng quê đồng ruộng, những cao ốc biệt thự phố xá chỉ còn là những vết trắng, vệt xám, vệt đỏ thấp thoáng trong sắc xanh của cây của núi của trời” (15), một Nha Trang của “lá me, lá chành ruột lác đác bay. Chiều chiều chim én lượn từng bầy đớp chuồn chuồn trong sương mỏng” (16), Nha Trang của “những áo xiêm… lần lượt biến thành năm sắc mây bay chờn vờn trên ngàn cây cổ thụ” (17), Nha Trang của “mùi hương rừng bay theo gió, có đó rồi không” (18).
Một dải non sông gấm vóc từ đèo Cả đến Cam Ranh, tưởng chừng nơi đâu cũng gặp những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, những di tích lịch sử, những dấu vết của một nền văn hóa xa xăm, những câu ca, điệu hò, chuyện kể dân gian đượm màu huyền hoặc, những ngóc ngách của con người, làng xóm, tập tục, sinh hoạt… tất cả, dưới ngòi bút tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ đều hiện lên sinh động, tươi rói như một bức tranh khảm nhiều màu sắc.

Cổ nhân từng phân biệt hai hình thức văn chương: văn chương trước thuật và văn chương cảm hứng. Văn chương trước thuật vốn là sở trường của nhà học giả, còn văn chương cảm hứng là của văn gia, thi sĩ. Lại thấy người ta thường nói, hễ làm thơ hay thì viết văn không hay. Điều này chắc là không đúng, lại càng không đúng với trường hợp Quách Tấn. Từ NƯỚC NON BÌNH ĐỊNH đến XỨ TRẦM HƯƠNG, hai tác phẩm có tính chất biên khảo này của một người lúc sinh thời từng được coi là “cây cổ thụ hiếm hoi còn lại trong cánh rừng đại ngàn thơ Việt” (19) đã chứng tỏ ông chẳng những có tài về thơ mà còn có tài về văn nữa.

CHÚ THÍCH
(1) Quách Tấn, Xứ Trầm Hương, Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa tái bản lần thứ hai, 2002.
(2) Từ mục (2) đến mục (18) đều trích dẫn ở Xứ Trầm Hương, sách đã dẫn ở chú thích (1).
(19) Thế Vũ, Con rùa vàng của thơ Việt hiện đại, tạp chí Văn hóa & Đời sống, tháng 9/1992, trang 58.

29 thoughts on “ĐỌC LẠI “XỨ TRẦM HƯƠNG” (1) CỦA QUÁCH TẤN

  1. mong ai đó cho tôi đọc được trọn bộ xứ trầm hương của cụ!

    Thích

  2. Những độc giả như Bảo Vân thật đáng trân trọng đó. Để phân định rạch ròi đen trắng.Nhỡ khi thế hệ này chết đi , thế hệ sau sẽ bút chiến tưng bừng mà không ai phân xử thì tác giả sẽ trăn trở dưới mồ , chết cũng không yên . Chân thành cảm ơn Bảo Vân một lần nữa.

    Thích

  3. Hình đại diện của đinh tấn khương đinh tấn khương nói:

    Tôi đã đọc NƯỚC NON BÌNH ĐỊNH nhưng chưa đọc XỨ TRẦM HƯƠNG.
    Nha Trang là trạm dừng chân của tôi vào dịp về quê ăn Tết hay nghỉ hè, suốt trong những năm theo học tại Sài Gòn.
    Cám ơn NMN đã nhắc, tôi sẽ tìm đọc!

    Thích

  4. Chào Trần thị Bảo Vân, một người mình rất quý về tấm lòng của bạn với văn chương . Nhưng mình xin đính chính một điều , bạn đã lầm khi nghĩ NGUYỄN VIẾT TRUNG và NGUYỄN MAN NHIÊN là HAI người . ! NGUYỄN MAN NHIÊN là bút hiệu của NGUYỄN VIẾT TRUNG đó bạn ạ. Nên ở đây không có vấn đề gì khi NGUYỄN MAN NHIÊN công bố những tác phẩm của mình bằng các bút hiệu hay tên thật . Lỗi tại TÔN NỮ THU DUNG cứ nghĩ rằng mọi người đều biết NMN và NVT là MỘT và là bạn rất thân với TNTD ( thật sự, chớ ko phải thấy sang bắt quàng làm họ đâu,)
    Cảm ơn Bảo Vân đã lên tiếng để sáng tỏ điều ấy , và xin lỗi bạn hiền Nguyễn Viết Trung nhiều nhiều đó

    Thích

    • Và cụ Quách Tấn là người thân của bọn mình từ nhỏ đó bạn phay van.Tụi mình viết lách lăng nhăng là do cụ hướng dẫn đó. Có đứa thành công, có đứa thất bại nhưng vẫn cứ đeo đuổi cái nghiệp chướng này…Mong bạn vào trang tuong tri thường xuyên như mình thường vào trang bạn vậy.

      Thích

    • Hình đại diện của Trần thị Bảo Vân Trần thị Bảo Vân nói:

      Kính chào Chị Ton-Nu Thu-Dung,
      Dạ, Bảo Vân là một độc giả còn nhỏ tuổi, hiện đang sống ở trong nước.
      Bảo Vân biết được trang Tương Tri gần một tháng nay là từ 2 Blogs thân thương Trần thị Nguyệt Mai và Phay Van đó (mà BV được hai Chị cho phép gọi là Chị Ba, Chị Năm rất thân thương yêu quý…), nhưng BV chỉ len lén vào đọc chứ không dám hó hé “còm”, vì các bác ở đây, BV thấy ai cũng như là núi Thái Sơn cả!
      BV nói thật lòng đó!
      Sở dĩ, BV “run run” dám gõ cái comment “Mời các bác…thưởng lãm”, là vì cái phản xạ tự nhiên đầy…”ngỡ ngàng” khi gặp đọc, của một người đọc còn nhỏ tuổi thôi ạ, bởi BV nhớ là trước đây, BV đã từng đọc bài có nội dung na ná như thế, vì vậy BV tìm lại bài viết và dẫn links, để tác giả cũng như các bác kiến văn cao minh ở đây…có ý kiến, cho “sáng tỏ” hơn ạ!
      Và…
      Rất cám ơn Chị Thu Dung đã kịp thời đính chính “NGUYỄN MAN NHIÊN là bút hiệu của NGUYỄN VIẾT TRUNG”, ngõ hầu tránh cho những thế hệ độc giả còn nhỏ tuổi như Bảo Vân khỏi…”ngỡ ngàng”, khi gặp đọc như thế ạ!
      Vì lẽ, ở trong nước hiện nay, tần suất cái sự “ngỡ ngàng” này rất thường hay gặp phải…
      Chẳng hạn, có một entry được post ở Tương Tri, cũng đã từng có tình trạng “ngỡ ngàng” này, (nhưng) và lại được hân hạnh cùng tác giả bài viết “trao đổi” ở…

      Xin cám ơn em “Hậu Sanh Khả Úy!”

      Vài dòng chia sẻ lý do “còm”, rất kính mong các bác…không đánh đòn, vì BV dám cả gan…”phạm thượng” ạ!

      Kính trân trọng,

      Thích

  5. Hình đại diện của Trần thị Bảo Vân Trần thị Bảo Vân nói:

    Cùng…

    – TẤM LÒNG ÐÃ TRẢI CÙNG NON NƯỚC

    Tuy nơi LỜI THƯA đầu sách, tác giả đã dè dặt minh xác rằng mình không có tham vọng viết một quyển địa phương chí, mà chỉ làm công việc “ghi chép” lại những gì đã thấy, đã nghe, đã cảm trong mấy mươi năm sống cùng non nước Khánh Hòa, nhưng suốt cả gần 500 trang giấy, ngòi bút tài hoa, lịch lãm của ông đã đóng trọn vai trò người hướng đạo nhiệt thành đưa đi thăm thú, tìm hiểu hầu khắp mọi mặt của địa phương, từ địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa đến phong tục, vật sản, các thắng cảnh cổ tích, các nhân vật hữu danh… Như vậy, vẫn có thể coi XỨ TRẦM HƯƠNG là một quyển địa phương chí về đất nước, con người Khánh Hòa, nhưng ở đây còn với cái nhìn và bút pháp thể hiện của một nhà thơ giàu xúc cảm và tâm huyết.
    Giá trị của Xứ Trầm Hương có lẽ không phải là ở những tài liệu về dân số, về độ cao của núi non, chiều dài của sông suối, sản lượng khai thác các nguồn lợi kinh tế trong tỉnh… mặc dù tất cả những điều này đều được tác giả ghi chép công phu, cặn kẽ.
    Với Xứ Trầm Hương, con người nghiên cứu của Quách Tấn dường như đã chọn cho mình một cách tiếp cận từ góc độ văn hóa dân gian. Ông tìm về những gì có thể chúng ta đã lãng quên, mất mát, những dấu tích, những vang bóng một thời. Mỗi trang sách như mở ra một đoạn đường, một mảnh đất, một khoảng trời quê hương tốt đẹp. Cả một dải non sông gấm vóc từ đèo Cả đến Cam Ranh, tưởng chừng nới đâu cũng gặp những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, những di tích lịch sử, những câu ca, điệu hò, chuyện kể dân gian đượm màu huyền hoặc, những ngóc ngách của con người, làng xóm, tập tục, sinh hoạt… nói như một nhà văn, chỗ nào ta cũng thấy phảng phất hình ảnh người xưa, văng vẳng tiếng nói của người xưa.
    Hãy đọc Xứ Trầm Hương để biết rằng ngay giữa lòng thành phố Nha Trang tòa ngang dãy dọc hiện giờ, xưa kia đã từng có một rừng mai Phước Hải “mùa xuân hoa nở ánh cả vùng”, và bên cạnh rừng mai, còn có cả rừng dương liễu mơ màng buông lục, để từ đấy Nha Trang còn nổi danh là một miền “thùy dương cát trắng”.
    Hãy đọc Xứ Trầm Hương để hiểu thêm về đại địa của Nha Trang nơi sông biển bốn bề bao bọc, và đây đó “bốn ngọn núi tượng hình bốn con thú tụ họp lại để giữ gìn anh khí” cho cuộc sống con người.
    Hãy đọc Xứ Trầm Hương để giữ mãi trong tâm tưởng một đêm giao thừa ở Tháp Bà, vào cái thời khắc đất trời giao cảm ấy “núi non trông biếc thêm, sông biển trông trong thêm. Và những chòm cây muồng hòe ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, dầy dặc cả đom đóm ‘tựa hồ’ bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống đọng nơi cây cối”.
    Giữa bao nhiêu biến thiên, thay đổi của cuộc đời, Quách Tấn giữ lại cho ta hình ảnh một Nha Trang “đồng hóa cùng lá cây và dính liền với làng quê đồng ruộng. Những cao ốc, biệt thự, phố xá chỉ còn là những vệt trắng, vệt xám, vệt đỏ, tháp thoáng trong sắc xanh của cây của núi của trời”, một Nha Trang của “lá me, lá chùm ruột lác đác bay. Chiều chiều chim én lượn từng bầy đớp chuồn chuồn trong sương mỏng”, Nha Trang của “những áo xiêm lần lượt biến thành năm sắc mây bày chờn vờn trên ngàn cây cổ thụ”. Nha Trang của “mùi hương rừng bay theo gió, có đó rồi liền không”.
    Sinh ra và lớn lên ở Bình Ðịnh, nhưng người thi sĩ của Mùa Cổ Ðiển của Mộng Ngân Sơn lại có hơn nửa đời người gắn bó với Nha Trang, Khánh Hòa, vùng đất mà ông “kính yêu như bà Nghĩa mẫu”, vùng đất mà ông đã trải tấm hình “thiết tha, thành thực” trong rất nhiều sáng tác của mình. Và không chỉ trong thơ. Với Xứ Trầm Hương, Quách Tấn đã tiếp tục một mảng đề tài truyền thống mà người xưa đã làm với Dư Ðịa Chí: Ô Châu Cận Lục, Phủ Biên Tạp Lục… Tấm lòng của ông với những giá trị nhân văn cao cả của quê hương đẹp biết bao:
    “Tấm lòng đã trải cùng non nước
    Thương được nhờ ơn cũng chẳng nhờ”
    NGUYỄN VIẾT TRUNG
    (Khánh Hòa xuân Quý Dậu 93)

    http://www.quangduc.com/Thanhtich/34xutramhuong6.html#IV. PHÊ BÌNH CUỐN XỨ TRẦM HƯƠNG.

    Thích

    • “Em Hoàng thị Dâu tức thị là anh Huỳnh Hữu Võ( ký bút danh này để dự thi đó , vậy mới đoạt giải chớ .Ký HHV nhiều khi bị đuổi ra sân trước khi đá.)”
      Lại một tai nạn nghề nghiệp… chướng, giống như Em Hoàng thi Dâu và Anh Huỳnh hữu Võ nêu trên!!!
      Nguyễn man Nhiên ơi là Nguyễn viết Trung! Nguyễn viết Trung ơi là Nguyễn man Nhiên!Lỗi tại Thu Dung mà ra!

      Thích

      • Hình đại diện của Ni Na Ni Na nói:

        Cũng giống như có người “phát hiện” nhà thơ Tạ Văn Sỹ ” chôm ” thơ của Nam Hoa vậy đó mà…Lỗi tại các nhà thơ muốn kiếm 2 lần nhuận bút nên không chịu thông báo tôi là…tôi là…và tôi là…tội nghiệp các nhà thơ…

        Thích

  6. Hình đại diện của Trần thị Bảo Vân Trần thị Bảo Vân nói:

    Mời các bác đọc…thưỡng lãm:

    BỨC THƯ GỞI BÁO ÐẠI ÐOÀN KẾT
    Nha Trang, ngày 15 tháng 11 năm 1982

    Kính gởi: Tòa soạn Ðại Ðoàn kết, 66 Bà Triệu, Hà Nội.

    Trích yếu: về việc ông Nguyễn Hoàng Diệp lấy văn trong Xứ Trầm Hương làm của mình.

    Tờ Ðại Ðoàn Kết số 17 ra ngày 18/8/1982 (mà tình cờ tôi được đọc) có đăng nơi trang 8 bài Nha Trang – Thành phố du lịch của ông Nguyễn Hoàng Diệp.
    Bài của ông Nguyễn Hoàng Diệp là một bài, từ đầu chí cuối, chắp nối những đoạn văn lấy trong tập địa phương chí Xứ Trầm Hương của tôi soạn và xuất bản tại Nam Việt Nam năm 1969. Ông Diệp đã chắp nối những đoạn văn lấy trong Xứ Trầm Hương bằng đôi lời đưa đẩy, thành một bài văn ý tiếp mạch liền. Những bạn chưa đọc Xứ Trầm Hương rất dễ lầm bài của ông Diệp là một sáng tác, một bài sáng tác của một người đã sống ở Nha Trang lâu năm.
    Xứ Trầm Hương rất được phổ biến ở Nha Trang, vì là một quyển địa phương chí của tỉnh Khánh Hòa. Sợ nơi quý Tòa soạn không có tập văn ấy, tôi xin ghi rõ sau đây những đoạn ông Diệp đã lấy trong Xứ Trầm Hương.
    – Ðoạn đầu nói về sự giải thích sai lầm hai tiếng Nha Trang, ông Diệp đã chép y trang 158, 159 của Xứ Trầm Hương;
    – Ðoạn tiếp nói về nguồn gốc của hai tiếng Nha Trang, ông Diệp đã chép gần y trang 106 của Xứ Trầm Hương;
    – Ðoạn nói về bốn “con thú” trên cuộc đất Nha Trang, ông Diệp đã chép gần y trang 166 của Xứ Trầm Hương;
    – Ðoạn nói về các ngọn tháp Chàm, ông Diệp đã rút gọn trang 170, 175, 178, 180 của Xứ Trầm Hương;
    – Ðoạn nói về bãi biển Nha Trang, ông Diệp đã tỉa lời và ý nơi trang 163, 164, 165… của Xứ Trầm Hương;
    – Vân vân…
    Mượn văn người khác, văn cổ hay văn kim, là việc thường trong làng văn từ xưa đến nay. Những người cầm bút biết tự trọng, những nhà văn chân chính, khi trích một đoạn văn của ai, hay ở sách nào, đều ghi rõ xuất xứ, đều không quên tác giả những câu mình trích. Nếu tác giả những câu mình trích còn tại thế, thì theo phép lịch sự, phải xin phép trước. Nếu không biết địa chỉ của tác giả thì phải ghi rõ ở nơi “bị chú”. Ðó là phép xã giao mà giới lao động trí óc thường dùng để cho đời sống tinh thần thêm đẹp .
    Tôi không hiểu vì sao ông Nguyễn Hoàng Diệp lại làm một việc không được chính đáng như thế? Quyển Xứ Trầm Hương ra đời đã lâu, tất cả mọi người đều có thể dùng làm tài liệu, mọi người đều có thể trích đăng… Việc sử dụng đó làm tăng giá trị giá trị cho tập văn, chớ không làm thiệt hại cho tác giả. Song người sử dụng phải tỏ thái độ đứng đắn để nêu cao tác phong và đạo đức của giới cầm bút.
    Tôi viết bức thư nầy không có mục đích gì khác hơn là đề nghị quý Tòa soạn, nếu thấy lời nói của tôi là phải, thì yêu cầu ông Nguyễn Hoàng Diệp nên sửa sai, hầu trở nên một nhà văn tốt về mọi phương diện.

    Kính thư
    QUÁCH TẤN

    http://www.quangduc.com/Thanhtich/34xutramhuong6.html#IV. PHÊ BÌNH CUỐN XỨ TRẦM HƯƠNG.

    Thích

  7. Hình đại diện của Âu Thị Phục An Âu Thị Phục An nói:

    An mê Nha Trang lắm dù chỉ đến mới có 1 lần, mê làn nước biển xanh mơ màng êm đềm …mà khi buồn mình có thể trầm mình trong đó cho đến khi tâm hồn tan loãng…

    Thích

  8. Những dẫn giải và kết luận sắc bén của NMN về nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo… Quách Tấn, không ai có thể chối cãi được. Thanks!

    Thích

  9. Hình đại diện của Tuấn Anh Tuấn Anh nói:

    Tôi không thất lạc quê nhà nhờ những bài viết như thế này trên trang Tương Tri. Cảm ơn bạn Nguyễn Man Nhiên .

    Thích

  10. Chào bạn NMN, lâu mới thấy bài bạn trên TT.

    Thích

  11. Đọc lại “XỨ TRẦM HƯƠNG” của Quách Tấn”-Một tác phẩm “dư địa chí” rất có giá trị viết về vùng đất duyên hải Khánh Hòa xưa , đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người Việt . Nhất là người dân KH , cứ bàng bạc, ẩn hiện những hình ảnh thân thương về xứ sở ,quê hương về con người Việt Nam trong từng câu ,từng chữ…

    Cảm ơn anh NMN ,qua bài viết của Anh đã gợi cho bạn đọc nhớ lại “một thời ký ức”về nơi chốn nhau cắt rốn của mình !

    Thích

    • NNT biết từ đường họ Quách nằm thôn nào – xã nào của quận Bình Khê không? Nếu trả lời không được, tui mét Trường Nghị đấy!

      Thích

      • Chào Anh TCT !
        Em chỉ biết quê gốc của Ông ở thôn Trường Định_Tây Sơn,BĐ_ thấm đẫm trong “Đêm thu nghe quạ kêu”, còn hiện nay “từ đường” Ông ở đâu em không được rõ lắm ! Hay là Anh Thân liên lạc với Anh Quách Giao chắc chính xác hơn…

        « Từ ô y hạng rủ rê sang
        Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
        Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
        Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
        Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
        Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng ?
        Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
        Tình hoang mang gợi tứ hoang mang “
        (Mùa cổ điển_Quách Tấn)

        Chúc Anh có nhiều sáng tác thật hay !

        Thích

      • Thuận Nghĩa (tui phía quại họ Quách mà cần gi phải hỏi)! Dzậy là NNT chết dzí ông Trường Nghịi rầu!
        Cảm ơn bài thơ hay gởi tặng.

        Thích

      • Hình đại diện của đồ dõm đồ dõm nói:

        Trường Định là bên họ ngoại của QT(họ Trần)

        Thích

      • Trần Bá Nghĩa!

        Thích

    • Hình đại diện của Trần Viết Dũng Trần Viết Dũng nói:

      @ nguyen ngoc tho, Tạ chí Thân, đồ dõm,

      Các ông đều đúng. Nhưng, nói cho rõ hơn thế này:
      Thủy Tổ Quách Tịnh Nương từ Phúc Kiến qua Việt Nam từ thế kỷ 17. Ban đầu ở làng Dõng Hòa (làng của mỗ đấy). Do đất chật người đông nên chuyển lên làng trên là Thuận Nghĩa.
      Đời thứ 5 họ Quách làm sui với họ Tạ (An Thái).
      Thân sinh Quách Tấn cưới bà họ Trần (Trường Định, Bình Hòa), Quách Tấn sinh năm 1910 tại Trường Định (vì con đầu lòng thường được sinh ra ở phía ngoại).

      Mỗ mạnh miệng vì cách đây 2 ngày cùng HTV – làm phim tư liệu về cụ Quách Tấn tại Thuận Nghĩa. nguyen ngoc tho đón xem TVD phát biểu trên HTV nhé.
      Thân ái

      Thích

  12. Cảm ơn bạn Nguyễn Man Nhiên rất nhiều về những đóng góp của bạn dành cho Tương Tri.

    Thích

Gửi phản hồi cho Ton-Nu Thu-Dung Hủy trả lời