HUẾ ƠI: MỘT THOÁNG HOÀI NIỆM

Phan Chuẩn

______________

hue1

Khí lạnh của làn sương dày đặc buổi sớm mùa Thu len lỏi vào căn lều nhỏ cắm giữa rừng sâu vùng núi đồi Maryland (1) làm tôi chợt tỉnh giấc. Bật chiếc đèn pin lên, tôi liếc nhìn đồng hồ… À, chưa đến 5 giờ sáng, còn quá sớm. Ráng ngủ lại đôi chút vì, tối qua, thức khuya sinh hoạt lửa trại Hướng Đạo; nhưng, nghĩ đến dòng sông hấp dẫn ở thung lũng phía dưới ngọn đồi, tôi bèn ngồi dậy, kéo chiếc mền qua một bên, châm lửa nấu nước sôi, pha bình cà phê đắng, rồi một mình lững thửng lội bộ qua quãng đường dài, cong queo, để chuẩn bị đón chào bình minh.

Trời tờ mờ sáng. Anh nắng mờ nhạt ban mai cũng đủ cho tôi thấy rừng cây mùa Thu, cảnh vật bao la, đất trời, lá vàng chớm nhuộm đỏ, đẹp tuyệt vời… Một số lá nằm phơi trên lối mòn nhỏ, ướt đẩm sương mai. Vòng quanh con đường khúc khuỷu, gồ ghề chừng mươi phút, tôi tìm được tảng đá to, chỗ ngồi lý tưởng bên cạnh dòng sông thơ mộng để thưởng thức nét đẹp muôn màu của Tạo Hóa.

Trời se se lạnh, không gian tịch mịch… Tiếng chim đâu đó hót líu lo, dòng sông lững lờ, mang theo những chiếc lá vàng vừa rơi do gió nhè nhẹ rung. Khung cảnh thơ mộng này mang lại cho tâm hồn tôi sự thanh thản, bình yên nên tôi quên hết công việc bề bộn thường ngày. Cảnh vật hùng vĩ đưa tôi về với dĩ vãng thân thương, cách đây nửa thế kỷ, bên dòng sông quê hương, mang tên Dương Sơn, cách xa nửa vòng trái đất, đã gắn chặt với thời niên thiếu, hồn nhiên, thơ ngây…của mình.

Ngày ấy, tôi được sinh ra và lớn lên vào những năm đầu đời tại Tây Lộc, Huế. Căn nhà được xây theo lối kiến trúc của Pháp, có vài cây trứng cá trước sân. Hồi ấy, tôi thấm nổi lạnh giá, những cơn mưa dai dẵng, rả rích, lụt lội tại thành phố buồn nhiều hơn vui do chiến tranh và thiên tai, bão lụt. Còn ở tuổi hồn nhiên, thơ dại, tôi thường chạy nhảy, đùa nghịch với dòng nước lụt trong ngõ. Anh em chúng tôi thường được Ba chở trên xe gắn máy, đi quanh phố xá vào buổi chiều. Và, cũng tại Tây Lộc, các Soeurs Trường Mầm Non Vinh Sơn dạy cho tôi biết đánh vần ”ê a” chữ Quốc Ngữ.

Thỉnh thoảng, dăm ba lần trong năm, Cô ruột tôi đem rượu nấu ở nhà, từ làng Dương Sơn qua bán tại Huế. Trước khi trở lại làng, Cô ghé vào nhà Ba Má tôi, xin đem theo hai anh em tôi về thăm bà con, để chúng tôi có dịp vui chơi với đồng nội. Quãng đường từ Tây Lộc về làng thật dài, có lẽ hơn 10 cây số; thế mà, vì quá thương cháu của mình, Cô tôi không ngại đường xa, đặt anh em chúng tôi trong hai cái thúng, móc bằng gióng mây ở hai đầu đòn gánh, le te qua các con đường đất sét, đôi khi lầy lội do nước mưa, nước lụt. Lúc ấy, nghe tiếng đòn gánh và gióng kẽo kẹt y như điệu nhạc vui tai, chúng tôi đâu có nghĩ rằng Cô mình mệt lắm! Chúng tôi còn trố mắt, mải mê nhìn cảnh vật, dãy nhà tranh lưa thưa ẩn hiện trong lùm cây ăn trái, bên các bờ kênh nhỏ, dài, thẳng tắp và từng mảnh ruộng nước in bóng thiên thanh, mây trắng như bông và mùi thơm lựng của mạ non. Vài bãi tha ma nằm cạnh đường, hiu quạnh… Nhiều hàng hay bụi tre xanh, cao, uốn mình theo gió, tạo âm thanh lào xào êm tai. Ngắm cảnh miết, không mấy chốc đã tới con kênh đầu làng. Đi đến bờ đất rộng, qua cổng Nhà Thờ, rẻ trái, rồi tiếp tục đi thẳng là đến nhà Ông Bà Nội tôi gần cuối xóm, trước có tảng đá thật lớn. Sân là mảnh đất rộng, bên trái có giếng nước, bên phải là đống rơm thật to. Căn nhà Ông Bà Nội tôi thật uy nghi, phía trên nóc có hình con rồng và cây Thánh Giá ở giữa, mái ngói đỏ. Nhà có hai lớp cửa bằng gỗ và kính; bên trong, ở giữa là bàn thờ, hai bên là bức tranh ”người chết lành và chết dữ” mà tôi không dám nhìn các con quỷ đen đủi, có đuôi dài đang quyến dụ người lâm chung. Cột nhà dài, tròn, bằng gỗ láng cóng với kiến trúc chạm trổ rất mỹ thuật, chắc chắn, đẹp mắt! Bộ phản dày bằng gỗ nhãn, tủ cao, lẫm, kho chứa khoai lang, khoai mì, tôi vẫn còn nhớ hết. Cánh cửa bên phải nối liền nhà bếp nền đất, có kho thật lớn để chứa lúa, bàn ăn, chuồng heo và lò nấu rượu, nơi Cô đang lùa rơm, đẩy củi vào. Đằng sau là vườn chuối và cây ăn trái khác, có cái ao nước nhỏ. Những hình ảnh quý báu về sức cần lao không thể xóa nhòa trong trí nhớ của tôi.

Mỗi buổi sáng, Ông Nội vắt khăn vòng qua cổ, ngồi xắt thuốc lá, miệng ngậm điếu thuốc vừa cuốn xong, nói dịu dàng, âu yếm với đàn cháu. Bà Nội có hàm răng nhuộm đen, mặc quần đen, áo trắng thật sạch và thẳng tắp, tay cầm quạt, phe phẩy trên chiếc ghế trước khi ngồi. Trưa hè, tôi ra giàn bầu, bí, mướp phía sau, tìm bắt các con ve sầu kêu inh ỏi, hoặc chạy nhảy dưới bóng mát giàn bầu bí hay các tàn lá xanh tươi. Chiều đến, được các Chú đem vỏ con rùa, làm xe, cho kéo vòng vòng trước sân, hoặc ra dòng sông tắm trước sự canh chừng kỷ lưỡng của các Cô Chú. Đôi lúc, chúng tôi ham tắm quá lâu, hoặc muốn lội xa bờ, các Cô lo ngại chuyện bất trắc, bèn đưa đòn gánh, dụ ngọt để kéo các cháu vào bờ. Có khi cả Chú, lẫn cháu cùng chơi bắn bi trước sân. Hồi đó, tôi rất phục Chú Bôn thật khéo tay! Chú làm ná, súng gỗ với dây thun. Chú còn là tay thiện xạ, điêu luyện về nhiều trò chơi thủ công khác.

Những bữa cơm gia đình là dịp trò chuyện thật vui! Tôi được các Cô Chú gắp thức ăn liên tục, có khi các Chú đùa, bỏ mấy lát chuối kho vào chén của tôi, rồi nói: ”Thịt này ngon lắm, cháu ăn đi.”

Tối đến, chúng tôi được các Cô dắt đi đọc kinh ở Nhà Thờ, thăm bà con, có lúc được cho quà bánh; tôi thích nhất quà đồ chơi là mấy chiếc xe bằng nhựa. Ngày ấy, dạo trên các con đường xóm, có nhiều cây tre đan qua, chéo lại thành vòm màu xanh, ngồi trong sân dưới ánh trăng tròn hay khuyết, bên cạnh hay trong lòng Ông Bà, các Cô Chú, tôi vẫn hơi nổi da gà vì nghe đâu trong các lùm tre nào đó có tiếng ma giả vờ ru con!?

Sáng hôm sau, tôi lại được Cô Chú đưa lên chiếc ghe nhỏ, rồi chèo qua ngôi Làng bên kia sông để các Cô Chú giới thiệu với bà con Phước Yên, Quê của Bà Nội tôi, Họ Hoàng.

Các Chú ruột chỉ hơn cháu vài tuổi nên, lúc đó, cũng tinh nghịch lắm. Có lần, các Chú rủ tôi leo lên chiếc ghe của ai đó, chèo vòng quanh cái hồ nhỏ. Ai dè chủ ghe biết được, chạy ra, la hét, các Chú sợ, trốn hết, làm tôi cũng hoảng hốt, quýnh quáng, ba giò, bốn cẳng…chuồn theo ngay!

Đôi lúc, tôi được dắt vào Nhà Thờ Làng dự lễ, tuy không gian nhỏ hẹp, nhưng thật ấm cúng. Đúng ra, tuổi tôi lúc đó chỉ là đi theo Cô Chú để xem vì hiếu kỳ, nhiều lần ngủ gục. Tuy thế, vẫn nhớ hình ảnh Ông Nội mặc áo đen, đầu đội khăn đóng, đứng ở cửa vào Nhà Thờ, cầm dùi đánh trống báo hiệu giờ Lễ bắt đầu.

Rồi, cuối năm 1963, khi tôi mới được 6 tuổi, gia đình phải rời Huế, di chuyển vào Nha Trang. Hình ảnh chiếc xe đò Tiến Lực, mang nhãn hiệu ”con gà”, từ từ lăn bánh, đưa gia đình chúng tôi vào chuyến viễn hành mới, để lại hình ảnh Huế thơ mộng với những kỷ niệm dấu yêu, êm đềm của tuổi hoa niên.

Thế rồi, thời gian lặng lẽ trôi, khoảng năm 1978, vì hoàn cảnh. Ba tôi ra đi thật xa. Sau khi Mẹ và anh em chúng tôi đến Lâm Đồng lập nghiệp được 3 năm, tôi có dịp về lại Huế, làng Dương Sơn, thăm viếng người thân Nội-Ngoại dù chúng tôi đang lâm cảnh ngặt nghèo về mọi mặt.

Qua khoảng hai ngày đêm đi “quá giang” xe chở hàng hóa, tôi đến Huế và về Làng. Hơn 15 năm xa cách, nay có dịp tìm lại cố hương, tôi quên mất lối về. Sau nhiều lần hỏi thăm, cuối cùng, tôi cũng được chiếc xe đò chở về Làng và tìm ra nhà Nội. Ngoài quần áo lếch thếch đang mặc đi đường, cái bao cát đựng vài đồ linh tinh cá nhân, tôi hồi hộp bước vào… Lúc ấy, cả nhà Nội đang quây quần bên bàn ăn, ai nấy đều ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi. Và, khi nhận ra tôi, cả nhà òa la lên. Ông Nội âu yếm hỏi thăm gia đình Ba Mẹ và các em tôi, rồi cầm bàn tay tôi, chai cứng như cục đá và nứt nẻ, rịn máu vì lao động quá nhọc nhằn. Ông Nội xúc động, khóc ròng rã, khiến Bà Nội, Cô Chú và tôi cũng mủi lòng, khóc theo.

Trong vài ngày ngắn ngủi ở Làng, tôi xuống thăm lại dòng sông xưa, đến Đất Thánh (Nghĩa Địa), cùng Ông Nội ra ruộng để phụ cuốc đất và có thêm thời gian chuyện trò với Nội, rồi cùng các Cô đi thăm bà con Nội Ngoại. Tuy lúc đó, cuộc sống kinh tế khó khăn, bà con hai bên đều hy sinh giúp đỡ tôi một số tiền để phụ cho hoàn cảnh gia đình tôi tạm qua cảnh ngặt nghèo. Ông Nội còn đặt thợ rèn cho tôi hai cái rựa tốt, cái cuốc và con dao dài để xắt cây chuối. Ngoài ra, tấm lòng thương đứa cháu ở xa (vốn là hình ảnh Ba Mẹ tôi) và của bà con, khiến tôi vô cùng thấm thía nghĩa tình… Bữa nào cũng có người mời ăn trưa hay tối. Vì quá ít thời gian, tôi cám ơn và xin lỗi một số người thân có hảo ý.

Tôi viếng thăm nhiều gia đình Cô, Chú, Cậu, Dì, và Ông Ngoại quá hiền lành, đức độ. Ông giàu tình cảm, thương con cháu, hỏi han tôi mọi điều, nhưng Ông không ứa nước mắt, mà ngược lại, vui cười, dẫn tôi ra vườn xem vài cây hoa Ông trồng, rồi bắt con gà làm thịt để, chiều đến, lấy chai rượu ngon trong cái sạp Ông nằm. Hai Ông cháu cùng ăn uống và nói chuyện tâm tình.

Thế rồi, vài ngày ngắn ngủi qua đi, tôi từ giã Làng, xa dòng họ Nội, Ngoại. Từ cánh cửa trong nhà Nội bước ra, nhìn thấy Ông Mệ, Cô Chú nhòa nước mắt, tôi cũng bịn rịn, không muốn chia tay và mủi lòng khóc theo.

Thế rồi, đầu năm 2003, tức khoảng 25 năm sau, tôi lại có dịp về thăm Làng và bà con Nội Ngoại. Lần này, có vợ và con trai, tôi quá xót xa, đau đớn khi hình ảnh sống động của Ông Bà Nội Ngoại xưa kia nơi đây không còn nữa! Tôi đành cuốc bộ ra Đất Thánh để thắp hương nguyện cầu và tưởng nhớ mà thôi! Đây cũng là nơi an nghĩ cuối cùng của em ruột tôi, qua đời tại Lâm Đồng, năm 1981, được dời về nằm chung bên Nội Ngoại cho đỡ quạnh quẽ.

Sau một thời gian dài về lại Huế và Làng có quá đổi thay! Huế vẫn cổ kính và buồn nhiều trong mưa rả rích, với cái sầu, lạnh tê tái mùa Đông. Lần này, Làng cũng khác trước kia, đường sá được sửa sang lại, đẹp sạch và rộng lớn, chẳng còn những hàng tre rủ bóng bên đường, không còn ”Làng quê ngày đó” đã đi vào trí nhớ của tôi. Ôi, tuy vui vì Làng đã lột xác, chuyển mình, trở nên xinh đẹp, nhưng tôi chạnh lòng vì đã mất nhiều dấu vết kỷ niệm tuổi ngọc năm nào!

Theo một người Chú qua lại Huế, thăm gia đình Cậu Mợ, cùng người anh bà con, ghé quán Café và ăn cơm ở Phủ Cam, được nghe giọng Huế Thành Nội ngọt ngào, mát lịm và nhìn cách tiếp đãi chu đáo ân cần của Cô chủ quán bên bờ hồ nhỏ, tôi thấy hạnh phúc biết bao khi được ngồi ở trong Cố Đô, cũng là thành phố ngày xưa của gia đình chúng tôi, và chợt nghĩ đến ý nghĩa của ba chữ ” Đất Thần Kinh”…Tôi vòng qua cầu Tràng Tiền, viếng lăng tẩm các Vua, nhìn các cô gái diễm kiều trong chiếc nón bài thơ và áo dài trắng thướt tha, thanh thoát dạo trên con đường phố cũ.

Lần này, tôi có cơ hội dự lễ tại Nhà Thờ Làng, thăm nhiều bà con, đi dạo bên dòng sông cũ, đã khác lạ, không còn thơ mộng, trữ tình như xưa!

Gia đình tôi cùng bà con có dịp ra viếng Linh Địa La Vang. Người Cô, là O Kiến, ôm cháu Minh Trí, con trai tôi, vào lòng, suốt quãng đường dài từ Làng đến Quãng Trị. Ấy là lần đầu, Bà Cô ruột gặp cháu và cũng là lần cuối. Thật buồn vì chẳng bao giờ gặp lại O là người đã đặt anh em tôi vào thúng mà gánh về Làng!

Tôi được dịp chiêm ngưỡng tượng Đức Mẹ và Linh Địa nổi tiếng, nơi Mẹ đã từng hiện ra, nơi trải qua bao nhiêu thăng trầm đổ nát! Nhưng Mẹ vẫn ngự đó, uy nghiêm, bồng Chúa ban ơn lành cho người có lòng thành, thiết tha xin… Gia đình chúng tôi khấn nguyện với Mẹ thật lâu, kính dâng Mẹ đứa con trai Phan Minh Trí, cầu xin Ngài chữa trị các chứng bệnh nan y về tâm sinh lý của cháu. (2) Chúng tôi cũng đi thăm quanh Linh Địa, ghé mua vài món lưu niệm về Thánh Mẫu.

Rời Mẹ, tôi nghe lòng dạt dào niềm vui vì, ngoài việc thăm lại Huế, lại Làng và bà con hai bên Nội Ngoại, gia đình chúng tôi còn có dịp qùy gối trước Mẹ. Chuyến đi Huế đầy ý nghĩa, trọn tình.

Thấm thoát đã 50 năm, tôi xa Huế, xa thành phố thân yêu, thành phố của bao kỷ niệm êm đềm, là quê hương của hai bên Nội Ngoại. Ông Mệ Nội Ngoại, hai Cô, Dì, Cậu và bà con đã vĩnh viễn ra đi! Tôi bùi ngùi tưởng nhớ, tiếc thương, thầm gọi tên từng người mỗi lần kỷ niệm lại về…

Lá Thu tiếp tục rơi bên con sông nhỏ; dòng nước lạnh lùng cuốn trôi lá vàng, mỏng manh, ngả màu, như cảnh phù vân của đời người! Tôi thấy mình được diễm phúc, cũng có dòng sông quê hương để nhớ, có Làng để hưởng được tình thương chan chứa của đôi bên Nội-Ngoại.

Tiếng còi từ đồi xa vọng lại, báo hiệu giờ sinh hoạt Hướng Đạo buổi sáng bắt đầu. Mặt trời đã lên cao, chiếu những tia nắng rực rỡ, gợn tung tăng như pha lê qua mặt nước lững lờ, hứa hẹn ngày đẹp trời. Tôi như người chợt tỉnh mộng, đành cắt đứt giây phút hồi tưởng, trở về với thực tại, bỏ lại sông nước đằng sau lưng, leo ngược dốc, lên ngọn đồi cao để chuẩn bị cho cuộc du ngoạn mới trong ngày ….

Phan Chuẩn,

Maryland, ngày 19, tháng 1, năm 2013

1. Maryland là tên gọi của 1 tiểu bang nhỏ, ở phía Đông của Hoa Kỳ, cũng là nơi (Tổng giáo phận Baltimore thuộc Maryland) được Đức Giáo Hoàng Pius Đệ Lục chính thức chọn là giáo phận đầu tiên tại Hiệp chủng quốc vào năm 1789. Có thể tạm dịch: Mary: Tên Đức Mẹ, Land: Đất, Maryland là Đất Mẹ Maria.
2. Tạ Ơn Thánh Mẫu nhân lành vì Mẹ đã nhủ lòng thương, nhậm lời chúng tôi van nài. Cháu Phan Minh Trí được ơn lành, quả là ”Phép Lạ” do chính Mẹ làm: Cháu hết các chứng bệnh, được khỏe mạnh, mau lớn, cao to, học giỏi, nhất là hăng hái tham gia nhiều sinh hoạt Công Ích, Từ Thiện.

6 thoughts on “HUẾ ƠI: MỘT THOÁNG HOÀI NIỆM

  1. Hình đại diện của TRI THỨC TRI THỨC nói:

    Một bài viết chứa đựng những lời lẽ thật chân tình, nhắc nhớ về Huế.
    Cám ơn tác giả Phạm Công Chuẩn

    Thích

  2. Hình đại diện của Chuan C Phan Chuan C Phan nói:

    Em xin cảm ơn bạn Thu Dung đã đưa bài viết Chuan lên trang tuongtri, thật là 1 diễm phúc cho Chuẩn, vì Chuẩn nhận thấy văn mình viết không hay, “chữ không tốt”, chỉ với tâm tình chân thật . Rất cảm ơn anh Tuấn Anh đã chia sẻ, cũng như rất mừng được nhận là em út trong làng văn thơ của quý bậc đàn anh, đàn chị,mà Chuẩn luôn ngưỡng mộ
    Thân thương
    Chuan

    Thích

  3. Hình đại diện của Tuấn Anh Tuấn Anh nói:

    Lại một hồi ức về Huế . Cảm ơn bạn Phan Công Chuẩn và chúc lành cho cháu Minh Trí.

    Thích

    • Hình đại diện của Chuan C Phan Chuan C Phan nói:

      Em cảm ơn anh Tuấn Anh nhiều
      Tuy TD chưa giới thiệu về anh ? Nhưng với cái tên, em đoán anh vừa “đẹp vừa thông minh ” đúng rồi anh nhỉ …
      Hân hạnh được biết anh qua tuongtri
      Em Chuan

      Thích

Comment