HUẾ NGÀY MỚI LỚN

Tôn Nữ Thu Dung

_____________

Hue Imperial City, Nicole Young

Hue Imperial City, Nicole Young

Huế của tôi buồn lắm, một thành phố buồn nhất hành tinh, những ngày mưa bão kéo dài cả tháng úng trời úng đất không nói làm gì sao vẫn buồn cả những ngày nắng hạ chói chang và phượng đỏ rực rỡ như màu môi thiếu phụ. Thành phố lúc nào như cũng đắm chìm trong hồi ức vàng son  và trong quá khứ nhạt nhòa rêu phủ.

…Nhưng bây giờ là mùa xuân, những hoa cúc Đại Đóa nở vàng rực trong vườn ông ngoại, Vân Anh nói:

– Vân Anh thích màu vàng dễ sợ.

Tôi cười:

– Đó là màu bội bạc.

Vân Anh mím môi để lộ hai hạt gạo lún sâu hai bên khóe miệng:

– Ai nói? Màu vàng thật sự là màu cô độc kiêu sa nên dễ bị hiểu lầm là bội bạc.

Bao giờ tôi cũng chịu thua Vân Anh để được nhìn nụ cười cô rạng rỡ:

– Vân Anh nói đúng, màu cô độc kiêu sa.

Vân Anh đốt xong mớ giấy tiền vàng bạc dưới chân trang thờ và rải gạo muối chung quanh… Những con chim sẽ từ đâu sà tới, ríu ra ríu rít tranh nhau nhặt gạo. Vân Anh luôn được bà ngoại phân công  việc cúng cô hồn trong những ngày rằm, mùng một… Ông ngoại không thích điều này vì cho rằng bà ngoại hối lộ cô hồn các bác bằng cô cháu cưng xinh đẹp để mưu cầu lợi ích cho đại gia đình. Ông ngoại giận giữ khi bà ngoại bày cho Vân Anh khấn vái cầu xin  cô hồn các bác cho cả nhà mạnh khỏe, bình an … Bà ngoại phải vuốt giận bằng cách khi Vân Anh đi ra vườn cúng vào những chiều chạng vạng thì bị bôi lên mặt mấy vết lọ nghẹ và có tôi đi theo hộ tống.

Không một khu vườn nào ở Huế mà không có một trang thờ leo lét ngọn đèn dầu hiu hắt. Huế trải qua bao nhiêu tang thương biến động trong những cuộc chiến, bao nhiêu người chết oan chết ức, bao nhiêu đền đài đổ nát tan hoang. Nhà ông ngoại đã nhiều lần tan nát vì bom đạn  nhưng lần nào ông ngoại cũng xây lại với nguyên bản cũ: Một ngôi nhà rường ba gian hai chái, khuất sau một bình phong cổ kính với chiếc hồ bán nguyệt thả sen thả súng cho cô cháu nội cưng Vân Anh rửa chân…  Cây Ngô Đồng cao rủ bóng  thỉnh thoảng rơi vài chiếc lá xuống hồ làm bầy cá quẫy lao xao.

Vân Anh đọc:

– “Ngô Đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu”

Tôi lắc đầu:

– “Ngô Đồng nhất lạc diệp

Thiên hạ cộng tri xuân”

Vân Anh cười:

– Tấn thông minh dễ sợ… Nhất lạc diệp… một chiếc lá reo vui đón mùa xuân đang tới.

Vân Anh luôn đem niềm vui cho người khác và cô gặt lại cho mình những mùa buồn đau.

Vân Anh rủ:

– Lên Điện Hòn Chén xin xăm đi Tấn. Trốn đi chớ bà nội bắt Vân Anh vô chia bài tứ sắc bây giờ.

Tôi chọc:

– Nhưng ở nhà có nhiều tiền lì xì hơn. Và chút nữa bác Tạo sẽ dẫn anh con trai bác sĩ mới ra trường tới giới thiệu cho Vân Anh đó.

Vân Anh đỏ hồng hai má:

– Vân Anh còn nhỏ mà

– Bác Tạo sẽ mang gạo tới để nuôi Vân Anh thêm vài năm nữa.

Vân Anh hét lên bỏ chạy vô nhà:

– Tấn còn nói Vân Anh nghỉ chơi với Tấn đó.

Tôi đã nhìn thấy con bác Tạo, anh chàng bác sĩ cao ráo đẹp trai đi chiếc Sprint màu nước biển, tôi hình dung Vân Anh đứng cạnh anh ta, đôi mắt phượng ngơ ngác nhìn anh ta đầy ngưỡng mộ, nụ cười xinh xắn dành cho anh ta tươi tắn dễ thương, bàn tay bé nhỏ mềm mại nằm trong tay anh ta dịu dàng tin cậy… Tôi ghét Vân Anh rồi. Người luôn yêu cái màu vàng phản bội. Tôi ghét cái thành phố buồn thỉu buồn thiu này làm người ta đi để mà nhớ chớ không phải là ở để mà thương…

(còn tiếp)

Tôn Nữ Thu Dung

(trích ĐÊM HOA ĐĂNG THÁNG BẢY- TÔN NỮ THU DUNG)

20 thoughts on “HUẾ NGÀY MỚI LỚN

  1. Hình đại diện của đinh tấn khương đinh tấn khương nói:

    Tôi đã bị cuốn hút vào “Huế ngày mới lớn”, đoạn trích trong “Đêm Hoa Đăng Tháng Bảy” của TD rồi, cuốn hút bởi Huế & văn phong của tác giả.
    Mong được đọc tiếp

    Thích

  2. Từ ngày còn bé, mỗi lần nói đến Huế là mường tượng ra ngay: Huế thơ, Huế buồn, Huế sầu, Huế thảm… Giờ đọc đoạn văn của TD lại cứ muốn thở dài sườn sượt!

    Thích

    • Muốn đọc một bài rất vui về TÔI HỌC LÁI XE không Tạ Chí Thân ? Nhưng rồi Tạ Chí Thân sẽ thở dài nhiều hơn vì ngao ngán và lại phải treo cái bảng sau xe Dung: I’M A BAD DRIVER…

      Thích

  3. Hình đại diện của chu thụy nguyên chu thụy nguyên nói:

    Tôi không phải người Huế, chỉ vì từng có hơn một người yêu là Huế nên Huế với tôi khá sâu lắng, như luôn ẩn chứa một điều gì mà chẳng nhà khảo cổ nào, dẫu có lừng danh trên thế giới có thể khai quật được. Huế với tôi như một loại mật tông, bí ẩn quá, mà đẹp quá…

    Thích

  4. Hình đại diện của trandzalu trandzalu nói:

    Đọc HNML của O Tôn Nữ khiến anh nhớ quay quắt quê xưa…ai đó noái một mà anh cứ nhớ mãi:” Huế đi xa thì nhớ.Ở gần dễ …giận!” Dù gì
    thì tuổi mới lớn của mình-hạnh phúc hay khổ đau-Cũng đều đẹp và khó quên, đúng không Dung ?

    Thích

  5. Hình đại diện của Chuan C Phan Chuan C Phan nói:

    Chuân cũng như TD, xa Huế vào Nha Trang, vẫn mãi nhớ Huế
    Xin gởi anh chị bài Chuan viết về Huế:
    Huế ơi, một thoáng hoài niệm…
    Khí lạnh của làn sương dày đặc buổi sớm mùa Thu len lỏi vào căn lều nhỏ cắm giữa rừng sâu vùng núi đồi Maryland làm tôi chợt tỉnh giấc. Bật chiếc đèn pin lên, tôi liếc nhìn đồng hồ… À, chưa đến 5 giờ sáng, còn quá sớm. Ráng ngủ lại đôi chút vì, tối qua, thức khuya sinh hoạt lửa trại Hướng Đạo; nhưng, nghĩ đến dòng sông hấp dẫn ở thung lũng phía dưới ngọn đồi, tôi bèn ngồi dậy, kéo chiếc mền qua một bên, châm lửa nấu nước sôi, pha bình cà phê đắng, rồi một mình lững thửng lội bộ qua quãng đường dài, cong queo, để chuẩn bị đón chào bình minh.
    Trời tờ mờ sáng. Anh nắng mờ nhạt ban mai cũng đủ cho tôi thấy rừng cây mùa Thu, cảnh vật bao la, đất trời, lá vàng chớm nhuộm đỏ, đẹp tuyệt vời… Một số lá nằm phơi trên lối mòn nhỏ, ướt đẩm sương mai. Vòng quanh con đường khúc khuỷu, gồ ghề chừng mươi phút, tôi tìm được tảng đá to, chỗ ngồi lý tưởng bên cạnh dòng sông thơ mộng để thưởng thức nét đẹp muôn màu của Tạo Hóa.
    Trời se se lạnh, không gian tịch mịch… Tiếng chim đâu đó hót líu lo, dòng sông lững lờ, mang theo những chiếc lá vàng vừa rơi do gió nhè nhẹ rung. Khung cảnh thơ mộng này mang lại cho tâm hồn tôi sự thanh thản, bình yên nên tôi quên hết công việc bề bộn thường ngày. Cảnh vật hùng vĩ đưa tôi về với dĩ vãng thân thương, cách đây nửa thế kỷ, bên dòng sông quê hương, mang tên Dương Sơn, cách xa nửa vòng trái đất, đã gắn chặt với thời niên thiếu, hồn nhiên, thơ ngây…của mình.
    Ngày ấy, tôi được sinh ra và lớn lên vào những năm đầu đời tại Tây Lộc, Huế. Căn nhà được xây theo lối kiến trúc của Pháp, có vài cây trứng cá trước sân. Hồi ấy, tôi thấm nổi lạnh giá, những cơn mưa dai dẵng, rả rích, lụt lội tại thành phố buồn nhiều hơn vui do chiến tranh và thiên tai, bão lụt. Còn ở tuổi hồn nhiên, thơ dại, tôi thường chạy nhảy, đùa nghịch với dòng nước lụt trong ngõ. Anh em chúng tôi thường được Ba chở trên xe gắn máy, đi quanh phố xá vào buổi chiều. Và, cũng tại Tây Lộc, các Soeurs Trường Mầm Non Vinh Sơn dạy cho tôi biết đánh vần ”ê a” chữ Quốc Ngữ.
    Thỉnh thoảng, dăm ba lần trong năm, Cô ruột tôi đem rượu nấu ở nhà, từ làng Dương Sơn qua bán tại Huế. Trước khi trở lại làng, Cô ghé vào nhà Ba Má tôi, xin đem theo hai anh em tôi về thăm bà con, để chúng tôi có dịp vui chơi với đồng nội. Quãng đường từ Tây Lộc về làng thật dài, có lẽ hơn 10 cây số; thế mà, vì quá thương cháu của mình, Cô tôi không ngại đường xa, đặt anh em chúng tôi trong hai cái thúng, móc bằng gióng mây ở hai đầu đòn gánh, le te qua các con đường đất sét, đôi khi lầy lội do nước mưa, nước lụt. Lúc ấy, nghe tiếng đòn gánh và gióng kẽo kẹt y như điệu nhạc vui tai, chúng tôi đâu có nghĩ rằng Cô mình mệt lắm! Chúng tôi còn trố mắt, mải mê nhìn cảnh vật, dãy nhà tranh lưa thưa ẩn hiện trong lùm cây ăn trái, bên các bờ kênh nhỏ, dài, thẳng tắp và từng mảnh ruộng nước in bóng thiên thanh, mây trắng như bông và mùi thơm lựng của mạ non. Vài bãi tha ma nằm cạnh đường, hiu quạnh… Nhiều hàng hay bụi tre xanh, cao, uốn mình theo gió, tạo âm thanh lào xào êm tai. Ngắm cảnh miết, không mấy chốc đã tới con kênh đầu làng. Đi đến bờ đất rộng, qua cổng Nhà Thờ, rẻ trái, rồi tiếp tục đi thẳng là đến nhà Ông Bà Nội tôi gần cuối xóm, trước có tảng đá thật lớn. Sân là mảnh đất rộng, bên trái có giếng nước, bên phải là đống rơm thật to. Căn nhà Ông Bà Nội tôi thật uy nghi, phía trên nóc có hình con rồng và cây Thánh Giá ở giữa, mái ngói đỏ. Nhà có hai lớp cửa bằng gỗ và kính; bên trong, ở giữa là bàn thờ, hai bên là bức tranh ”người chết lành và chết dữ” mà tôi không dám nhìn các con quỷ đen đủi, có đuôi dài đang quyến dụ người lâm chung. Cột nhà dài, tròn, bằng gỗ láng cóng với kiến trúc chạm trổ rất mỹ thuật, chắc chắn, đẹp mắt! Bộ phản dày bằng gỗ nhãn, tủ cao, lẫm, kho chứa khoai lang, khoai mì, tôi vẫn còn nhớ hết. Cánh cửa bên phải nối liền nhà bếp nền đất, có kho thật lớn để chứa lúa, bàn ăn, chuồng heo và lò nấu rượu, nơi Cô đang lùa rơm, đẩy củi vào. Đằng sau là vườn chuối và cây ăn trái khác, có cái ao nước nhỏ. Những hình ảnh quý báu về sức cần lao không thể xóa nhòa trong trí nhớ của tôi.
    Mỗi buổi sáng, Ông Nội vắt khăn vòng qua cổ, ngồi xắt thuốc lá, miệng ngậm điếu thuốc vừa cuốn xong, nói dịu dàng, âu yếm với đàn cháu. Bà Nội có hàm răng nhuộm đen, mặc quần đen, áo trắng thật sạch và thẳng tắp, tay cầm quạt, phe phẩy trên chiếc ghế trước khi ngồi. Trưa hè, tôi ra giàn bầu, bí, mướp phía sau, tìm bắt các con ve sầu kêu inh ỏi, hoặc chạy nhảy dưới bóng mát giàn bầu bí hay các tàn lá xanh tươi. Chiều đến, được các Chú đem vỏ con rùa, làm xe, cho kéo vòng vòng trước sân, hoặc ra dòng sông tắm trước sự canh chừng kỷ lưỡng của các Cô Chú. Đôi lúc, chúng tôi ham tắm quá lâu, hoặc muốn lội xa bờ, các Cô lo ngại chuyện bất trắc, bèn đưa đòn gánh, dụ ngọt để kéo các cháu vào bờ. Có khi cả Chú, lẫn cháu cùng chơi bắn bi trước sân. Hồi đó, tôi rất phục Chú Bôn thật khéo tay! Chú làm ná, súng gỗ với dây thun. Chú còn là tay thiện xạ, điêu luyện về nhiều trò chơi thủ công khác.
    Những bữa cơm gia đình là dịp trò chuyện thật vui! Tôi được các Cô Chú gắp thức ăn liên tục, có khi các Chú đùa, bỏ mấy lát chuối kho vào chén của tôi, rồi nói: ”Thịt này ngon lắm, cháu ăn đi.”
    Tối đến, chúng tôi được các Cô dắt đi đọc kinh ở Nhà Thờ, thăm bà con, có lúc được cho quà bánh; tôi thích nhất quà đồ chơi là mấy chiếc xe bằng nhựa. Ngày ấy, dạo trên các con đường xóm, có nhiều cây tre đan qua, chéo lại thành vòm màu xanh, ngồi trong sân dưới ánh trăng tròn hay khuyết, bên cạnh hay trong lòng Ông Bà, các Cô Chú, tôi vẫn hơi nổi da gà vì nghe đâu trong các lùm tre nào đó có tiếng ma giả vờ ru con!?
    Sáng hôm sau, tôi lại được Cô Chú đưa lên chiếc ghe nhỏ, rồi chèo qua ngôi Làng bên kia sông để các Cô Chú giới thiệu với bà con Phước Yên, Quê của Bà Nội tôi, Họ Hoàng.
    Các Chú ruột chỉ hơn cháu vài tuổi nên, lúc đó, cũng tinh nghịch lắm. Có lần, các Chú rủ tôi leo lên chiếc ghe của ai đó, chèo vòng quanh cái hồ nhỏ. Ai dè chủ ghe biết được, chạy ra, la hét, các Chú sợ, trốn hết, làm tôi cũng hoảng hốt, quýnh quáng, ba giò, bốn cẳng…chuồn theo ngay!
    Đôi lúc, tôi được dắt vào Nhà Thờ Làng dự lễ, tuy không gian nhỏ hẹp, nhưng thật ấm cúng. Đúng ra, tuổi tôi lúc đó chỉ là đi theo Cô Chú để xem vì hiếu kỳ, nhiều lần ngủ gục. Tuy thế, vẫn nhớ hình ảnh Ông Nội mặc áo đen, đầu đội khăn đóng, đứng ở cửa vào Nhà Thờ, cầm dùi đánh trống báo hiệu giờ Lễ bắt đầu.
    Rồi, cuối năm 1963, khi tôi mới được 6 tuổi, gia đình phải rời Huế, di chuyển vào Nha Trang. Hình ảnh chiếc xe đò Tiến Lực, mang nhãn hiệu ”con gà”, từ từ lăn bánh, đưa gia đình chúng tôi vào chuyến viễn hành mới, để lại hình ảnh Huế thơ mộng với những kỷ niệm dấu yêu, êm đềm của tuổi hoa niên.
    Thế rồi, thời gian lặng lẽ trôi, khoảng năm 1978, vì hoàn cảnh. Ba tôi ra đi thật xa. Sau khi Mẹ và anh em chúng tôi đến Lâm Đồng lập nghiệp được 3 năm, tôi có dịp về lại Huế, làng Dương Sơn, thăm viếng người thân Nội-Ngoại dù chúng tôi đang lâm cảnh ngặt nghèo về mọi mặt.
    Qua khoảng hai ngày đêm đi “quá giang” xe chở hàng hóa, tôi đến Huế và về Làng. Hơn 15 năm xa cách, nay có dịp tìm lại cố hương, tôi quên mất lối về. Sau nhiều lần hỏi thăm, cuối cùng, tôi cũng được chiếc xe đò chở về Làng và tìm ra nhà Nội. Ngoài quần áo lếch thếch đang mặc đi đường, cái bao cát đựng vài đồ linh tinh cá nhân, tôi hồi hộp bước vào… Lúc ấy, cả nhà Nội đang quây quần bên bàn ăn, ai nấy đều ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi. Và, khi nhận ra tôi, cả nhà òa la lên. Ông Nội âu yếm hỏi thăm gia đình Ba Mẹ và các em tôi, rồi cầm bàn tay tôi, chai cứng như cục đá và nứt nẻ, rịn máu vì lao động quá nhọc nhằn. Ông Nội xúc động, khóc ròng rã, khiến Bà Nội, Cô Chú và tôi cũng mủi lòng, khóc theo.
    Trong vài ngày ngắn ngủi ở Làng, tôi xuống thăm lại dòng sông xưa, đến Đất Thánh (Nghĩa Địa), cùng Ông Nội ra ruộng để phụ cuốc đất và có thêm thời gian chuyện trò với Nội, rồi cùng các Cô đi thăm bà con Nội Ngoại. Tuy lúc đó, cuộc sống kinh tế khó khăn, bà con hai bên đều hy sinh giúp đỡ tôi một số tiền để phụ cho hoàn cảnh gia đình tôi tạm qua cảnh ngặt nghèo. Ông Nội còn đặt thợ rèn cho tôi hai cái rựa tốt, cái cuốc và con dao dài để xắt cây chuối. Ngoài ra, tấm lòng thương đứa cháu ở xa (vốn là hình ảnh Ba Mẹ tôi) và của bà con, khiến tôi vô cùng thấm thía nghĩa tình… Bữa nào cũng có người mời ăn trưa hay tối. Vì quá ít thời gian, tôi cám ơn và xin lỗi một số người thân có hảo ý.
    Tôi viếng thăm nhiều gia đình Cô, Chú, Cậu, Dì, và Ông Ngoại quá hiền lành, đức độ. Ông giàu tình cảm, thương con cháu, hỏi han tôi mọi điều, nhưng Ông không ứa nước mắt, mà ngược lại, vui cười, dẫn tôi ra vườn xem vài cây hoa Ông trồng, rồi bắt con gà làm thịt để, chiều đến, lấy chai rượu ngon trong cái sạp Ông nằm. Hai Ông cháu cùng ăn uống và nói chuyện tâm tình.
    Thế rồi, vài ngày ngắn ngủi qua đi, tôi từ giã Làng, xa dòng họ Nội, Ngoại. Từ cánh cửa trong nhà Nội bước ra, nhìn thấy Ông Mệ, Cô Chú nhòa nước mắt, tôi cũng bịn rịn, không muốn chia tay và mủi lòng khóc theo.

    Thế rồi, đầu năm 2003, tức khoảng 25 năm sau, tôi lại có dịp về thăm Làng và bà con Nội Ngoại. Lần này, có vợ và con trai, tôi quá xót xa, đau đớn khi hình ảnh sống động của Ông Bà Nội Ngoại xưa kia nơi đây không còn nữa! Tôi đành cuốc bộ ra Đất Thánh để thắp hương nguyện cầu và tưởng nhớ mà thôi! Đây cũng là nơi an nghĩ cuối cùng của em ruột tôi, qua đời tại Lâm Đồng, năm 1981, được dời về nằm chung bên Nội Ngoại cho đỡ quạnh quẽ.
    Sau một thời gian dài về lại Huế và Làng có quá đổi thay! Huế vẫn cổ kính và buồn nhiều trong mưa rả rích, với cái sầu, lạnh tê tái mùa Đông. Lần này, Làng cũng khác trước kia, đường sá được sửa sang lại, đẹp sạch và rộng lớn, chẳng còn những hàng tre rủ bóng bên đường, không còn ”Làng quê ngày đó” đã đi vào trí nhớ của tôi. Ôi, tuy vui vì Làng đã lột xác, chuyển mình, trở nên xinh đẹp, nhưng tôi chạnh lòng vì đã mất nhiều dấu vết kỷ niệm tuổi ngọc năm nào!
    Theo một người Chú qua lại Huế, thăm gia đình Cậu Mợ, cùng người anh bà con, ghé quán Café và ăn cơm ở Phủ Cam, được nghe giọng Huế Thành Nội ngọt ngào, mát lịm và nhìn cách tiếp đãi chu đáo ân cần của Cô chủ quán bên bờ hồ nhỏ, tôi thấy hạnh phúc biết bao khi được ngồi ở trong Cố Đô, cũng là thành phố ngày xưa của gia đình chúng tôi, và chợt nghĩ đến ý nghĩa của ba chữ ” Đất Thần Kinh”…Tôi vòng qua cầu Tràng Tiền, viếng lăng tẩm các Vua, nhìn các cô gái diễm kiều trong chiếc nón bài thơ và áo dài trắng thướt tha, thanh thoát dạo trên con đường phố cũ.
    Lần này, tôi có cơ hội dự lễ tại Nhà Thờ Làng, thăm nhiều bà con, đi dạo bên dòng sông cũ, đã khác lạ, không còn thơ mộng, trữ tình như xưa!
    Gia đình tôi cùng bà con có dịp ra viếng Linh Địa La Vang. Người Cô, là O Kiến, ôm cháu Minh Trí, con trai tôi, vào lòng, suốt quãng đường dài từ Làng đến Quãng Trị. Ấy là lần đầu, Bà Cô ruột gặp cháu và cũng là lần cuối. Thật buồn vì chẳng bao giờ gặp lại O là người đã đặt anh em tôi vào thúng mà gánh về Làng!
    Tôi được dịp chiêm ngưỡng tượng Đức Mẹ và Linh Địa nổi tiếng, nơi Mẹ đã từng hiện ra, nơi trải qua bao nhiêu thăng trầm đổ nát! Nhưng Mẹ vẫn ngự đó, uy nghiêm, bồng Chúa ban ơn lành cho người có lòng thành, thiết tha xin… Gia đình chúng tôi khấn nguyện với Mẹ thật lâu, Chúng tôi cũng đi thăm quanh Linh Địa, ghé mua vài món lưu niệm về Thánh Mẫu.
    Rời Mẹ, tôi nghe lòng dạt dào niềm vui vì, ngoài việc thăm lại Huế, lại Làng và bà con hai bên Nội Ngoại, gia đình chúng tôi còn có dịp qùy gối trước Mẹ. Chuyến đi Huế đầy ý nghĩa, trọn tình.
    Thấm thoát đã 50 năm, tôi xa Huế, xa thành phố thân yêu, thành phố của bao kỷ niệm êm đềm, là quê hương của hai bên Nội Ngoại. Ông Mệ Nội Ngoại, hai Cô, Dì, Cậu và bà con đã vĩnh viễn ra đi! Tôi bùi ngùi tưởng nhớ, tiếc thương, thầm gọi tên từng người mỗi lần kỷ niệm lại về…
    Lá Thu tiếp tục rơi bên con sông nhỏ; dòng nước lạnh lùng cuốn trôi lá vàng, mỏng manh, ngả màu, như cảnh phù vân của đời người! Tôi thấy mình được diễm phúc, cũng có dòng sông quê hương để nhớ, có Làng để hưởng được tình thương chan chứa của đôi bên Nội-Ngoại.
    Tiếng còi từ đồi xa vọng lại, báo hiệu giờ sinh hoạt Hướng Đạo buổi sáng bắt đầu. Mặt trời đã lên cao, chiếu những tia nắng rực rỡ, gợn tung tăng như pha lê qua mặt nước lững lờ, hứa hẹn ngày đẹp trời. Tôi như người chợt tỉnh mộng, đành cắt đứt giây phút hồi tưởng, trở về với thực tại, bỏ lại sông nước đằng sau lưng, leo ngược dốc, lên ngọn đồi cao để chuẩn bị cho cuộc du ngoạn mới trong ngày ….
    Phan công Chuẩn, Maryland, ngày 19, tháng 1, năm 2013

    Thích

    • Hình đại diện của chu thụy nguyên chu thụy nguyên nói:

      Anh Phan Công Chuẩn, xin phép hỏi anh tượng Đức Mẹ và Linh Địa La Vang ngày nay còn không anh. Người Châu Âu tự hào và kính ngưỡng với Đức Mẹ Lộ Đức ( Lourdes ). Chúng ta cũng rất đáng kính ngưỡng vì Mẹ từng hiện ra trên mảnh đất khó nghèo, La Vang.

      Thích

      • Anh Chu Thụy Nguyên , cho Dung địa chỉ anh.

        Thích

      • Hình đại diện của Chuan C Phan Chuan C Phan nói:

        Xin chào anh Chu Thụy Nguyên.
        Em xin cảm ơn anh đã “chịu khó” đọc bài em viết . Thưa anh, Tượng Đức Mẹ La Vang và Linh địa này còn tồn tại cho đến hôm nay qua bao thăng trầm . Xin mời anh vào website giáo phận Huế tại: tonggiaophanhue.net sẽ có thông tin về Mẹ Lavang trong trang này
        Em Chuẩn

        Thích

  6. Rất chia sẻ với TD.Cứ viết dù có buồn đi nữa.Dẫu sao nó chính là hoài niệm để trải lòng với bạn bè.

    Thích

  7. Suốt đời tôi vẫn mơ viết một truyện dài về quê nội…nhưng sao cầm bút tôi lại chỉ có thể viết về Huế với một tâm thức đau buồn. Khác với khi viết về Nha Trang, toàn là hồi ức trong trẻo thơ ngây ! Nhưng xin các bạn hãy chia sẻ cùng tôi từng đoạn trong ĐÊM HOA ĐĂNG THÁNG BẢY.Một truyện dài tôi đã viết cho HUẾ NGÀY MỚI LỚN.

    Thích

    • Hình đại diện của CHÍ MÉN CHÍ MÉN nói:

      Tôi đã đọc rất nhiều của bạn. Tôi đã thân với bạn bao lâu rồi. Nhưng tôi vẫn không hiểu gì về bạn.Đôi khi tôi tự hỏi bạn đã sống bao nhiêu kiếp để mang nặng quá nhiều hồi ức ??? kể cả những tâm thức đau buồn và hồi ức thơ ngây ???

      Thích

      • Hình đại diện của Tuấn Anh Tuấn Anh nói:

        Cuối tuần vui vẻ nghen Tôn Nữ .

        Thích

      • Hình đại diện của Quỳnh Quỳnh nói:

        Viết về Huế với một tâm thức đau buồn bởi Thu Dung chỉ về Huế vào những lần biến cố . Ông nội chết , sau Mậu Thân về chứng kiến Huế đổ nát ,sau những cơn bão tan hoang cùng ba về xây nhà cho ông nội, chú Kỹ chết, về dời mộ V.V… Thu Dung chưa bao giờ thảnh thơi tâm hồn khi về quê nội để rong chơi dưới đường phượng bay…Quỳnh hiểu những điều đó khi đọc Thu Dung:
        Đường phượng bay mõi mệt
        Theo gió về cuối ngày
        Tiếng ve sầu thảng thốt
        Tiễn một thời thơ ngây…
        Mõi mệt và thảng thốt đã khiến Thu Dung có tâm thức đau buồn khi viết về Huế đó…Viết đi , để giải tỏa mọi điều , bạn thân !

        Thích

      • Quỳnh hiểu Dung nhiều lắm , cảm ơn bạn hiền…

        Thích

      • Một đời là quá dài và mỏi mệt rồi CHÍ MÉN ơi.

        Thích

      • Rãnh , viết cho Tương Tri vài bài ngăn ngắn cũng được nghen Tuấn. Cuối tuần vui vẻ.

        Thích

      • Hình đại diện của Tuấn Anh Tuấn Anh nói:

        Sợ Tuấn viết hay quá người ta không thèm post.

        Thích

Gửi phản hồi cho đinh tấn khương Hủy trả lời