Tháng bảy tro bụi

tuankhanh

Tháng bảy âm lịch. Ngày gần cạn, ngôi chùa nhỏ gần nhà gửi thư lần chót nhắc các gia đình có hài cốt thân nhân nhớ làm trọn bổn phận làm con.

Thư của chùa nhắc nhở chung, bởi rất nhiều gia đình sau khi gửi hài cốt cha mẹ vào chùa, kể như là trọn bổn phận. Quanh năm có những hương phần bụi bám dầy, không còn thấy rõ mặt người. Thậm chí, có những phần nằm im không ai thăm viếng đến cả chục năm.

Sư ông kể đã có lần, chùa phải kêu gọi bá tánh giúp đỡ, đem hàng trăm hương phần như vậy, chở lên tàu, đưa ra sông làm lễ rãi đi. Những tro bụi còn lại của những người quá cố, quanh năm không còn ai thăm viếng, có cái chuột chạy làm ngã, đổ bể, không có ai dựng lại. Tro rãi trên sông, bay đi theo gió, đôi khi có thể còn tự do và đỡ buồn tủi hơn năm im ở góc nào đó để gánh vác cho vinh danh hiếu tử cho người còn sống.

Tất cả rồi chỉ là tro bụi, thậm chí là tro bụi trong trí nhớ của người đang sống. Phật dạy mọi thứ thật vô thường nhưng có chứng kiến, mới thấy vô thường không chỉ ở nhục thân, mà vô thường đeo dẳng trinh đời người, tạo ra muôn vàn vô nghĩa cho đến khi ta giật mình nhận ra.

Trong những câu chuyện võ hiệp kỳ tình phiêu lưu của nhà văn Kim Dung, thường những cái kết truyện của ông luôn làm người đọc nao nao, vì nhận ra sau những cuộc bể dâu, ngay cả người đạt được tất cả cũng muốn lìa bỏ vì thấy mọi thứ trên cõi nhân gian đều như tro bụi. Vinh quang, tước vị, quyền lợi, tài sản… tất cả như những cái bẫy để con người nhận diện ra mình đê tiện hay hèn hạ mức nào.

Trương Vô Kỵ chỉ mong rõ bỏ mọi thứ, để chỉ được kết thúc cuộc đời vô danh kẻ chân mày cho người đẹp Triệu Minh. Thiên hạ vô địch Dương Quá thì chỉ mong bước ra khỏi nhân gian, mong được sống và chết trong im lặng để không còn nghe tiếng lao xao trần thế. Trong một lần trả lời với báo chí, nhà văn Kim Dung nói rằng trong các mối tình mà ông dựng nên – Dương Quá và Tiểu Long Nữ là đôi danh hiệp mà ông thích thú vì thách thức mọi lề thói và đạo đức giả tạo của nhân gian, vì có sống cho vừa lòng ai, thì cuộc đời cũng như giấc mộng trôi về tro bụi.

Tháng bảy nhắc người ta về hiếu đạo, nhắc người ta rằng mọi thứ về cuộc đời rồi sẽ đến lúc như tro bụi, vô nghĩa. Dẫu vật nài, giành cho được về phần mình, thì rồi cũng về cõi hư vô.

Vua Quang Trung khi lên ngôi Hoàng Đế năm 1788, để thị uy đã quật mộ thân phụ của vua Gia Long rồi vất bỏ xuống sông. Đến năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh giành lại vương quyền, đã quật mộ và nghiền nát hài cốt của anh em Nguyễn Huệ để rửa hận. Lịch sử như một bài hát khôn cùng về cõi người và tro bụi.

Tháng bảy liêu xiêu, nghe người ta nói nhiều về được và mất. Có người buồn vì thấy mất tên trong một bản in, có người mất vì thêm những dấu sắc trong một áng văn của mình.

Nhưng khó mà biết, ai là người được, ai là người mất. Có khi tên không còn được khắc bảng, nhưng được nhớ mãi trong lòng người. Có khi mất một chỗ ngồi tiểu lộ, lại thấy đại lộ thênh thang rộng mở trước mắt mình. Trong bài hát Những gì sẽ mang theo vào cõi chết của Phạm Duy, ông cũng để lại những chú giải về cuộc được mất với đời này: “không đem theo với tôi được giới hạn tiếng anh hùng, tôi không đem theo với tôi được tượng đồng bia đá trắng”.

Kẻ ác có làm tất cả để thoả mãn cho mình, tương lai cũng chỉ là tro bụi. Vạn lý trường thành xây nên bằng khôn xiết bao xương máu dân lành, giờ chỉ là chỗ bán vé vào mua vui cho lũ trẻ. Có những triều đại độc tài, giết chết ai đó chỉ bằng một vài con chữ, rồi ngày sau quyền lực đó chỉ còn là tro bụi, bêu danh cho đời sau phỉ nhổ.

Chuyện kể rằng Tào Tháo đi đánh giặc xa, lương thực không đủ, quân lính oán thán và suy sụp tinh thần. Muốn quân không loạn, Tào Tháo thuyết phục quan giữ kho lương rằng hãy nhận giùm tội tham nhũng, nhưng bù lại sẽ được phát thẻ để vợ con được ăn lộc suốt đời. Ngày quan giữ kho bị chém và tin rằng mình là một anh hùng cứu nước, thì cũng là lúc vợ con của ông được phát thẻ hưởng lộc. Thẻ mua tro bụi ấy, thẻ gì?

Tháng bảy dành cho những giờ phút nghĩ lại. Có thể Sư ông không sai khi tiễn những tro cốt vô danh vào thế giới. Có thể đó là sự giải thoát cuối cùng mà những hương phần đó, vốn đã phải chịu đựng bấy lâu nay cho vỏ bọc hiếu nghĩa của con cái, cho phần còn sót lại, cứ phải bấu víu cuộc đời thường. Tiếng đọc kinh đều đều như lời chúc bình an cho lộ trình mây trắng. Thật an nhiên.

Chúng ta có là tro bụi, hay đang mãi miết đuổi theo tro bụi không?

Tuấn Khanh ‘s Blog

Rồi như đá ngây ngô

tuankhanh

Báo chí Việt Nam đang rộ lên chuyện một bộ phim truyền hình của Ấn Độ kéo dài đến gần 2000 tập. Các ý kiến được dẫn lời về bộ phim, cái thì khen tài làm phim dài hơi, cái thì chê bai mọi chuyện cứ kéo lê thê một cách không cần thiết và buồn chán.

Khán giả hôm nay thật khó mà chìu chuộng được. Báo chí cũng khó mà chìu lòng được. Thật khác với trước kia, khi truyền hình vẫn lê thê và chán chường với các buổi chiếu Đơn giản tôi là Maria, Người giàu cũng khóc… dù không thích nhưng nhiều gia đình vẫn tụ họp nhau trước màn ảnh để xem – như một trong những món giải trí quan trọng nhất trong ngày. Và những ngày ấy, dù phim nhạt hơn nước ốc, cũng có không ít những bài viết ca ngợi nền điện ảnh Mỹ Latin, ca ngợi những tập phim tố cáo chế độ tư bản ung nhọt và thối nát… Đời sống chợ đêm hay Khi người ta yêu cũng chỉ là các cuộc trò chuyện lãng đãng, rồi kéo dài như vô tận, cũng có thời từng được nhiều báo khen ngợi.

Một bộ phim nhiều tập, tự nó đâu có lỗi lầm gì, phải không?. Nhân loại đã chứng kiến không ít các bộ phim dài tập đến giật mình, diễn viên già nua theo năm tháng vẫn phải bám theo diễn xuất. Mô-típ kịch bản thế nào rồi cũng đoán được. Phim giải trí vẫn được làm thêm tập theo nguyên tắc “còn người xem còn chiếu”. The Friends với David Schwimmer, Jennifer Aniston… được kéo đến 10 năm, các diễn viên phải năn nỉ xin thôi vì không còn sức để diễn những vai độc thân hài hước và trẻ trung nữa. Vậy mà khi phim ngừng, không ít khán giả đã khóc than, tiếc nuối.

Có vài lý do suy đoán về chuyện báo chí đột ngột lên tiếng chê bai phim dài tập: gắng nói vì không còn gì để nói, hoặc vì khán giả ai nấy hôm nay không còn đủ kiên nhẫn như xưa nữa. Cuộc sống rầm rập những đổi thay bên ngoài bất tận như giá xăng, giá dầu, giá điện, giá thực phẩm… khiến người ta không còn an nhiên nữa để ngồi thưởng thức những câu chuyện dài không hồi kết.

Có lẽ mất kiên nhẫn trước cuộc sống đang sôi sùng sục, là một lý do quan trọng. Giới trẻ mất kiên nhẫn trước thể kỷ hiện đại, nên chọn cho mình một lối thưởng thức âm nhạc hiện đại dồn dập, thôi thúc. Các nhà điện ảnh cũng không còn kiên nhẫn trước các kịch bản dàn trãi, mà vào phim phải lập tức bắn, giết và nude. Các nhân vật nổi tiếng thì tranh nhau nói những điều rỗng tuếch và ngu ngốc để được báo chí đưa tin, chỉ vì sợ thua một bước chân của chúng bạn trên đường đua vô nghĩa.

Con người Việt Nam đang mất kiên nhẫn với điện ảnh, với thảm họa âm nhạc, với văn chương trộm cắp lẫn nhau… âu thì cũng là một niềm vui. Cũng đến lúc mà sự mất kiên nhẫn cho thấy mặt tích cực của nó: thôi thúc sự đổi thay và nhận diện đúng mọi thứ chung quanh mình. Con người không còn thụ động ngó nhìn và im lặng, như đá ngây ngô.

Nhưng mong rằng sự mất kiên nhẫn đó của người Việt sẽ lớn hơn, đi xa hơn trong một cuộc sống đang cần thật nhiều lửa trong trái tim mình, cần nhiều tiếng đập cửa để nghe tiếng vọng lại, để phá vỡ không gian phong bế vô hình, không chỉ là chuyện phim ảnh tầm ruồng.

Cũng đã đến lúc người Việt cần nhận ra rằng, chính cuộc sống thực tế hôm nay, không khác gì những cuốn phim dài tập không kết cục đến đáng giận. Người Việt cũng cần tắt bỏ những hình ảnh chớp lóa thôi miên trước mặt, dụi mắt và đòi chấm dứt trong một cái kết có hậu tức thì. Lúc này, người Việt rất cần mất kiên nhẫn để đứng dậy, rời khỏi gánh hát xã hội chính trị vô tận ngu xuẩn vẫn thấy.

Sự mất kiên nhẫn đó, đã được thể hiện bằng lời mỉa mai nhức nhối về chuyện xã hội Việt Nam có loại người như ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), luôn miệng cười tươi và kiên cường khuyên nhủ dân chúng ăn thực phẩm có chất độc nhập từ Trung Quốc. Sự mất kiên nhẫn đó là cách dân chúng liên tục chỉ ra nạn bạo hành, lạm dụng quyền lực và coi thường công dân trong giới cảnh sát giao thông, công an đang ngày càng dâng cao, thông qua các bài viết và video. Sự mất kiên nhẫn đó là câu hỏi được nhắc từng ngày về sự công chính cần thiết trong vụ án Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng… về những tượng đài vụn vỡ vì bị ăn bớt, về những đền đài, dinh thự xây âm thầm, về đại lộ, cầu cống ngàn tỉ sụp đổ vì nạn tham nhũng, do các quan chức coi thường nhân dân mình.

Đừng nói với tôi là bạn không thấy xã hội và thông tin ở Việt Nam đang ngày càng mất kiên nhẫn nhé?

Sự mất kiên nhẫn đó cũng đang được nhìn thấy ở vỉa hè, ở facebook, lan rộng ở các câu bình luận trong các trang báo điện tử… người ta đang nói với nhau về những bộ phim không có hồi kết, những bộ phim đời thật sự nhức nhối cần phải nói, hơn là những tập phim truyền hình duy giải trí.

Tôi vẫn nghĩ có thể vào lúc nào đó, xã hội Việt Nam sẽ còn mất kiên nhẫn hơn và quyết liệt hơn nữa khi đưa ra những câu hỏi, cần phải được trả lời cho chuyện tàu cá Trung Quốc ngày đêm liên tục đâm tàu Việt Nam – ngay trong biển Việt Nam, mà quốc hội thì ngủ gật, về sớm và lặng im. Cuốn phim kéo dài và vô lương về chuyện khai thác bauxite cho Trung Quốc càng làm càng lỗ, sau ba năm lỗ đến gần 38 triệu USD, vì sau cứ phải lầm lũi kéo dài? Ôi những cuốn phim đau thương đó trong đất nước này, đang chồng chất, đợi trình chiếu với kết cục đau thương.

Kiên nhẫn là điều cần thiết, nhưng luôn nằm trong vùng ước lệ, qua việc nhìn thấy thực tế hiển hiện. Mất kiên nhẫn là điều thường được coi là không tốt. Nhưng mất kiên nhẫn khi phải chứng kiến các bộ phim đời vô đạo và khó hiểu kéo dài lại là điều cần thiết.

Kiên nhẫn tột bật có thể là thánh nhân. Nhưng kiên nhẫn trước những điều ngụy lý bại thường quanh mình, có thể biến mình thành vô tri như đá cuội – biến mình thành như đá ngây ngô, phải không, người bạn đang đọc tôi?

Tuấn Khanh’s Blog

—————————————————————-

Tháng Năm, nghe Phượng hoàng gãy cánh…

tuankhanh

(Kỷ niệm 12 năm, ngày mất của nhạc sĩ Lê Hựu Hà)

Có một tượng đài Phượng hoàng gãy cánh tại Sài Gòn, đặc biệt trong lòng người yêu nhạc trẻ miền Nam. Tượng đài nằm im lặng trong trái tim mỗi người, nhưng luôn ngân vang với những câu hát trở thành lịch sử âm nhạc hiện đại của Việt Nam – vốn từng mở màn cho một giai đoạn cách tân âm nhạc độc nhất vô nhị.

Thật khó biết là nhạc sĩ Lê Hựu Hà qua đời vào lúc nào. Theo báo cáo pháp y, người ta chỉ tìm thấy ông vào ngày 11 tháng 5, 2003, nhưng dự đoán thời gian qua đời có thể từ 5 ngày trước. Lê Hựu Hà là một người cô đơn. Và những ngày cuối đời của ông lại càng cô đơn hơn khi đi về chỉ một mình, đóng cửa lặng lẽ đọc sách, nghe nhạc, mở ti vi cho có tiếng người chung quanh mình. Chính vì ti vi vẫn mở suốt nhiều ngày liền, nên chung quanh hàng xóm không ai ngờ rằng ông đã qua đời. Chỉ đến khi vài người bạn đến tìm, gọi chuông không được thì sau đó mọi người mới phát hiện rằng ông đã đi rất xa rồi.

Những ngày bạn bè đến thăm nhạc sĩ Lê Hựu Hà lần cuối, Lúc ấy, trời lất phất mưa, mây trĩu xám. Đám tang vừa phải và khiêm tốn, không khác gì tính cách của ông lúc sinh thời. Nhạc sĩ Minh Châu tay cắp giỏ, ánh mắt bàng hoàng “lẽ nào vậy sao?”. Minh Châu vốn là một người yêu say đắm dòng nhạc Phượng Hoàng với những bài hát mà nhạc sĩ Lê Hựu Hà khai sinh. Anh ghé qua thắp nén nhang với chiếc áo sơ-mi bó, quần ống hơi loe, không khác gì thập niên 60, thì thầm “chừng nào chúng ta lại có một Lê Hựu Hà hay Nguyễn Trung Cang?”.

Câu hỏi đó thật khó trả lời. Phượng Hoàng sinh ra từ lửa và hóa kiếp trong lửa, tuần hoàn vô lượng. Nhưng để nhận biết là điều bất khả. Thật khó hình dung nền nhạc trẻ Việt Nam thập niên 60-70 nếu không Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Elvis Phương… thì hôm nay sẽ là gì? Ban nhạc Phượng Hoàng của Lê Hựu Hà thành lập năm 1963, với chủ trương dứt khoát của Lê Hựu Hà là “người Việt phải chơi nhạc Việt”, nhằm tạo một khuynh hướng khác biệt với hàng loạt các nhóm nhạc trẻ lúc đó, phần lớn đang cover lại các bài hát ngoại quốc, và lấy tên tiếng nước ngoài như The Enterprise, CBC, The Dreammers, Les Vampires… nhạc trẻ thuần Việt được coi như khai sinh từ đó. Nếu lịch sử âm nhạc Anh Quốc có cột mốc vĩ đại từ cuộc nói chuyện vô tình trên tàu điện giữa Paul McCartney và John Lennon, thì ở Việt Nam cũng có chương lịch sử âm nhạc kỳ thú từ sự kết nối giữa Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang.

Là một ban nhạc rất trẻ, nhưng các sáng tác của Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang làm không ít người sửng sốt về tính triết lý sâu đậm trong ca từ. Nếu Nguyễn Trung Cang vung vẩy tung tóe màu sắc hiện sinh với Mặt Trời Đen, Sống Cho Qua Hôm Nay… thì Lê Hựu Hà dàn trãi từ khuynh hướng yêu tha nhân vô kiện của Kant cho đến tâm trạng hippy phản chiến, kêu gọi yêu thương. Trong các phẩm của Lê Hựu Hà, là niềm yêu tha nhân dù khổ đau vẫn phải gìn giữ như một định mệnh “Hãy cứ yêu thương người – dù người không yêu ta”. Từ cảm giác đó, Lê Hựu Hà bước theo lộ trình nhận thức thế giới không khác gì John Lennon từ việc viết về tình yêu cho đến hát về người nghèo khó, về một cuộc sống đầy súng đạn và hận thù. Hãy Nhìn Xuống Chân hay Lời Người Điên… là một dòng phát triển rất đặc biệt của nhạc sĩ Lê Hựu Hà bên cạnh những bài tình ca nhạc trẻ độc đáo của ông. Chỉ tiếc là sau 1975, chế độ kiểm duyệt của Nhà nước Cộng sản đã bóp chết không ít niểm cảm hứng và sự phát triển của nhiều văn nghệ sĩ, trong đó có nhạc sĩ Lê Hựu Hà.

Nhạc sĩ Phạm Duy, lúc sinh thời không phải là người dễ tính, cũng đã phải thốt lên rằng âm nhạc của Phượng Hoàng đầy chất tâm hoặc (psychedelic culture) và phản ánh một tâm thức của thế hệ trẻ không lối thoát trong một xã hội chiến tranh, bất an không hồi kết. Sau tháng 4/1975, khi bị buộc phải đi học tập cải tạo tư duy với các cán bộ cách mạng, nhạc sĩ Lê Hựu Hà cũng phải viết tự kiểm, nhận định rằng âm nhạc của ông là thứ suy đồi và tiểu tư sản thối nát. Nhưng Lịch sử âm nhạc Việt Nam đã may mắn biết mấy khi có được dòng nhạc “thối nát” đó làm nền tảng cho mọi phát triển hiện đại sau này. Lê Hựu Hà cũng như nhiều nhạc sĩ miền Nam tự do khác, cũng được khuyến cáo viết những tác phẩm cho nền “văn hóa mới” – một nền văn hóa mà không ít người vẫn tự hỏi nó sinh ra từ đâu, để làm gì?

Có một điều không may cho nhạc sĩ Lê Hựu Hà là sau 1975, có một trung tâm sản xuất băng nhạc chống Cộng lấy tên Phượng Hoàng, cho ra chương trình và gửi vào trong nước. Trong thời buổi còn chưa đủ sức phân biệt được trắng đen, công an đã coi nhạc sĩ Lê Hựu Hà như là một trong những thành phần sản xuất chương trình đó. Đã vậy, có lúc ông còn bị Sở VHTT Cộng sản những ngày đầu kiểm soát miền Nam nhầm lẫn tên ban nhạc của Lê Hựu Hà và hệ thống tình báo Phượng Hoàng của VNCH. Hai điều đó hoàn toàn không liên quan. Ủy ban tình báo Phượng Hoàng, vốn là tên gọi khác của Intelligence and Operations Coordinating Centre, do giám đốc CIA thời đó là William Colby dựng nên, hoạt động từ 1967 và chấm dứt vào 1973. Vốn đã bất đắc chí vì thời cuộc, việc bị truy vấn bởi công an mật vụ liên tục trong thời gian đó đã khiến nhạc sĩ Lê Hựu Hà trở nên trầm uất, và luôn lo sợ. Thậm chí, khi đi đường, nghe tiếng còi của cảnh sát giao thông cũng làm ông kinh hoảng, dừng xe, dù đó không phải là chuyện của ông. Đã vậy, sau năm 1968, bị gọi nhập ngũ, nhạc sĩ Lê Hựu Hà đến học tại trường Bộ Binh Thủ Đức, rồi làm việc ở Cục Quân Nhu, và dù không cầm súng bắn phát nào, nhưng do mang lý lịch là “ngụy quân” nên sự nghiệp của ông không bao giờ có thể nối tiếp trọn vẹn được nữa.

Những khó khăn từ vật chất cho đến đời sống tinh thần vẫn đeo đuổi đến tận ngày nhạc sĩ Lê Hựu Hà qua đời, dù tài năng của ông vẫn chinh phục mọi giới. Những tác phẩm mới sáng tác sau 1975 như Vào Hạ, Ngỡ Đâu Tình Đã Quên Mình, Vị Ngọt Đôi Môi… luôn gây nên những cơn sốt trong thính giả. Nhưng cũng ít ai biết rằng các bài hát như Hãy Yêu Như Chưa Yêu Lần Nào là bài hát viết cho phim Vết Chân Hoang (chuyển thể từ tiểu thuyết Tuổi Choai Choai của Trường Kỳ), được sửa lời và chút ít giai điệu. Bài Lời Trái Tim Muốn Nói cũng là một ca khúc viết lại một văn bản cũ, trong đó ông lặng lẽ để vào chút tâm tư của mình,qua những câu chữ như “những tháng năm không có ngày vui”.

Năm 1999, khi đang là thành viên trong ban nhạc Phiêu Bồng của nhạc sĩ, tôi cầm lấy những bài hát của ông và đi đến nhiều hãng băng đĩa, đề nghị làm album tác giả, nhưng mọi nơi đều lắc đầu, nói khéo. Chân thật nhất là một biên tập viên của Xí nghiệp băng đĩa nhạc Sài Gòn Audio, Hãng phim Bông Sen, đã nói thẳng thừng “Lê Hựu Hà là một người nhân thân có vấn đề”. Sau này, khi nhạc sĩ Lê Hựu Hà căn vặn hỏi mãi, tôi đành phải kể lại. Ông mỉm cười nhã nhặn và buồn. Sau đó, ngay khi tập bài cho các buổi diễn, tôi đề nghị chơi lại những bài hát nhẹ nhàng, không bị soi mói về quan điểm chính trị như Tôi Muốn, Yêu Em… ông chỉ lắc đầu, cười nhẹ. Khó biết được đằng sau cặp kính của người nhạc sĩ hết sức uyên bác đó là những suy nghĩ gì về cuộc sống khốn khó này. Về sau, nhạc sĩ Bảo Thu “luồn lách” bằng cách nào đó, cũng in ra được một băng cassette pha trộn các tác phẩm của Lê Hựu Hà cùng các bài hát dịch lời Việt của ông, nhưng cũng không dám quảng cáo hay tổ chức ra mắt công khai như các ca sĩ, nhạc sĩ bây giờ.

Giờ đây khi tìm kiếm trên internet, thấy những tấm ảnh sau 1975 của ông, lòng tôi chợt chùng lại. Để mừng một ngày sinh nhật của nhạc sĩ Lê Hựu Hà, tôi “dỗ” ông cho chụp vài tấm ảnh, tự mình design bìa CD cho ông, gom những bài hát làm thành một đĩa master rồi đi tìm Tuấn – biệt danh là Tuấn Chó (do có logo thương hiệu bầy chó đốm), một trong những ông trùm sản xuất CD lậu thời đó ở Sài Gòn, nhờ chép ra phát hành giùm. Thật buồn cười và mỉa mai, khi người nhạc sĩ cầm lấy những bài hát của mình được lén lút phát hành bất hợp pháp ngay trong đất nước của mình, và cười như một hạnh phúc. Tôi vẫn còn nhớ.

Có lần, trong một buổi tập ở nhà, nhạc sĩ Lê Hựu Hà cao hứng đàn và hát cho tôi nghe vài bản nhạc chưa ra mắt công chúng của ông. Những bài hát mang đầy niềm cảm hứng mãnh liệt của một thời Phượng Hoàng trai trẻ nhưng đầy sự buồn chán muốn rời xa cõi nhân thế quá trớ trêu. Hát xong,ông quay qua nhìn tôi, cười trầm “Đừng hỏi, anh biết tỏng em muốn hỏi gì. Anh không muốn đưa những bài hát này ra nữa đâu. Không còn để làm gì”. Im lặng. Tôi vẫn tự hỏi là có bao nhiêu con người tài năng trên đất nước này đã chối từ đại lộ và nói với bạn bè, con cháu mình khi quay về ngõ nhỏ, rằng “không còn để làm gì”.

Cuộc sống của nhạc sĩ Lê Hựu Hà sau năm 1975 hết sức khó khăn, đã vậy ông còn mang nhiều mặc cảm khi người vợ của mình, ca sĩ Nhã Phương, phải đi hát, đi làm tất bật để trang trãi cho cả gia đình. Ông chọn quay lại sân khấu một phần vì yêu âm nhạc, một phần khác vì đó là cách kiếm sống duy nhất của ông. Lê Hựu Hà đã thử làm nhiều thứ như hùn mở quán cà phê, cho thuê băng video… nhưng rồi không có gì tồn tại lâu. Tài sản lớn nhất, và có lẽ vĩ đại nhất đất nước, là bộ sưu tập đĩa nhựa âm nhạc của ông. Tất cả những đĩa quý nhất của thế giới, những ấn bản hạn chế của Rolling Stones, Beatles… ông đều có đủ và luôn làm bạn bè kinh ngạc ngưỡng mộ. Thế nhưng một ngày mùa hè cách mạng, các nhân viên Sở Văn hóa Thông tin đã ập đến lục soát và tịch thu, theo “tố giác của quần chúng nhân dân”. Nhìn từng chiếc xe ba gác chồng chất các bản đĩa mà ông nâng niu, chở ra đi, là một trong những điều suy sụp lớn của đời ông. Nhạc sĩ Bảo Chấn kể rằng đời ông chưa bao giờ hoảng sợ bằng nhìn thấy hình ảnh nhạc sĩ Lê Hựu Hà ngồi gọi rượu đế ra uống một mình, trầm ngâm và khóc. Đó là lần uống rượu duy nhất trong đời của người nhạc sĩ chơi rock, Phật tử và không biết thuốc lá, rượu bia.

Trong một lần đi diễn ở Đông Âu và Nga, sau khi hệ thống Cộng sản ở đây sụp đổ. Lê Hựu Hà mang về những viên đá, lấy ra từ những mảnh vỡ của bức tường ô nhục Berlin, để tặng cho bạn bè. Đêm đó, ngồi hát ở một quán bar nhỏ Old Friends với Phước, tay cao bồi già yêu nhạc rock, nhà thơ hippy Đỗ Trung Quân, Lê Hựu Hà đưa cho mọi người, ông cười, thì thầm với tôi “đây là tự do”. Sau cặp mắt kính cận ấy, là ánh mắt thông minh, ẩn chứa biết bao nỗi niềm và dường như không còn niềm vui nữa, dù miệng vẫn cười.

Lê Hựu Hà đến Nga, ứa nước mắt khi nhìn thấy tự do trở lại trên đất nước tuyết trắng, nghĩ đến phận mình. Ông ra phố Arbat ở Moscow, nơi lừng danh của giới nghệ sĩ. Khi đang đi dạo thì Lê Hựu Hà nhìn thấy một người ngồi bệt dưới đất, đánh đàn và hát tiếng Anh ở phố, dưới chân có hộp đàn mở ra cho khách qua lại bỏ tiền vào. Nhìn thấy cây đàn đẹp và quý, ông dè dặt hỏi xem đàn có bán không. Người nghệ sĩ Nga lạnh lùng nhìn và nói “Anh không mua nổi đâu, vì trên đàn đã có dấu tay của tôi”. Sau này ông được giới thiệu cho biết đó là một nghệ sĩ rất nổi tiếng ở Nga về tài năng cũng như độ kiêu hãnh. Ghé vào một cửa hàng gần đó, nhạc sĩ Lê Hựu Hà đổi một ít tiền lẻ và đến ngồi kế bên. Những bài hát tiếng Anh thời thập niên 60 – 70 mà người nghệ sĩ Nga ấy hát, đã là thứ thuộc nằm lòng của Lê Hựu Hà nên ông vừa nghe, vừa hát bè theo. Cứ mỗi bài hát kết thúc, ông lại bỏ vào hộp đàn một chút tiền lẻ. Người nghệ sĩ Nga từ thái độ lạ lùng, tò mò, dần dần chuyển sang cảm mến. Cho đến khi hết tiền bỏ vào, Lê Hựu Hà đứng lên chào và đi. Người nghệ sĩ Nga bất chợt gọi lại “Anh là ai?”. Lê Hựu Hà cười “Tôi là một người thích nhạc”. “Nếu anh quá thích cây đàn, tôi có thể bán cho anh, vì anh rất thú vị”, người nghệ sĩ Nga nói. “Cám ơn, tôi đã có thứ tôi muốn rồi”, Lê Hựu Hà nói, “hát với anh, tôi đã có lại tất cả những kỷ niệm đẹp nhất mà tôi đã mất”.

Trong đánh giá của giới phê bình âm nhạc, vẫn hay có hiện tượng bất toàn về overrated và underrated. Tức có những nhạc sĩ mà công lao hay khả năng chỉ vừa phải thôi, nhưng vì lý do gì đó luôn được tung hô. Ngược lại, có những người vô cùng quan trọng với lịch sử âm nhạc nhưng lại bị coi nhẹ hay lãng quên. Nhạc Nguyễn Trung Cang hay sĩ Lê Hựu Hà là một trong những trường hợp underrated của Việt Nam, khi giá trị tiền phong của họ xuất hiện ở mọi nẻo của âm nhạc hiện đại, nhưng lại bị phủ lấp bởi truyền thông, quan điểm chính trị hay sự cố tình chôn lấp quá khứ văn hóa vàng son của một miền Nam VNCH.

Tháng Năm, nghe vua nhạc Blues B.B.King qua đời. Tháng Năm nhớ Chuck Brown, tay guitar có biệt danh là “Godfather of Go-Go”. Tháng Năm rồi cũng góp vào ký ức nhân loại một tượng đài Phượng hoàng Việt Nam gãy cánh, với đường bay chưa trọn. Tượng đài của Lê Hựu Hà, một người tài hoa, khiêm tốn và nhã nhặn, chưa bao giờ dám mong ai dựng tượng mình, nhưng lại đứng trên quê hương mình, trong trái tim của những người yêu âm nhạc, của một nền văn hóa vàng son của miền Nam mãi lấp lánh trong ký ức con người…

Tuấn Khanh ‘s Blog

(Kỷ niệm 12 năm, ngày mất của nhạc sĩ Lê Hựu Hà)