Chuyện kể nhân ngày của Cha

 

Tôi ghi lại câu chuyện có thật, với bản video dưới đây như một phút suy niệm dành cho những người Cha đang – hay sẽ – đối diện với con cái của mình, mỗi ngày, từ nay và đến về sau.

 

Câu chuyện diễn ra ở toà án tại Mỹ. Một ông bố ra toà vì tội đậu xe sai chỗ và có thể bị phạt đến 90$.

Bất ngờ, khi phiên toà bắt đầu, cậu bé 5 tuổi – con trai của bị cáo – đột nhiên leo xuống ghế và tiến đến gần chỗ bố cậu đang đứng. Những ai đang có mặt tại phiên toà đều buồn cười. Vị quan toà cũng vậy. Điều đáng yêu là ông đã mời cậu bé lên chỗ của ông để phỏng vấn về tình trạng phạm tội của bố cậu.

Khi vị quan toà hỏi cậu bé, tên là Jacob, rằng nếu cậu chọn lựa mức phạt nào, số tiền 90$ và 30$, hoặc miễn phạt cho bố cậu thì Jacob đã đáp nhanh là nên phạt mức 30$. Mọi người trong phòng xử án đều bật cười.

Vị quan toà với gương mặt phúc hậu cũng bật cười. Và ông hỏi rằng cậu có đồng ý không nếu ông phạt bố cậu bé số tiền 30$ nhưng là dùng số tiền đó đưa cậu đi ăn sáng, Jacob gật đầu. Câu chuyện kết ở đó, có hậu như một cổ tích ở đời thường.

Nhưng điều tôi muốn kể với các bạn ở đây, đó là thái độ của cậu bé về bố của cậu. Khác với những điều mà nền văn học hay giáo dục cũ mòn hay thích thêu dệt về bố hay mẹ của mình như siêu nhân hay tô vẽ như huyền thoại, cậu bé Jacob khi được hỏi bố cậu giỏi nhất là gì, cậu đã trả lời nhanh, không chút do dự rằng “dạ là nấu ăn”.

Và ngay khi quan toà hỏi rằng lớn lên, cậu bé ước mình sẽ làm giỏi nhất điều gì, Jacob nói ngay – với sự tự hào thấy rõ về bố mình – rằng cậu cũng sẽ nấu ăn, nhất là pizza, vì bố cậu cũng vậy.

Cuộc sống thật lạ lùng và cảm động, bạn thấy không? Một người bố lương thiện dù chỉ là vô danh cũng có thể làm cho đứa con mình tự hào, trưởng thành và tự tin noi theo về cuộc đời lương thiện của mình mà không màng một ánh hào quang danh lợi xa xôi nào khác.

Tôi tạm gọi đó là cuộc sống tử tế, mà người cha đó đã đối diện với con mình mỗi ngày, rồi giản dị tạo nên một thế hệ tử tế nối tiếp. Bình thường mà cao đẹp đến cảm động.

Tôi viết những dòng này, và nhớ đến những công an viên đang hung ác bạo hành với người dân trong đất nước mình, Việt Nam. Những công an viên đã tàn bạo đạp gãy xương đùi ông Kình ở Đồng Tâm, những công an viên đã giết chết anh Nguyễn Hữu Tấn ở Vĩnh Long hay anh Ngô Chí Tâm ở Thủ Đức… trong những trại tạm giam ngột ngạt sự thật. Dù truyền thông nhà nước có bao biện hay che đậy thế nào, ai ai cũng hiểu điều gì đã xảy ra. Và quan trọng nhất là chính những thủ phạm đó đều biết rõ họ đã làm gì.

Chắc không ít người trong số công an viên đã là những người cha. Và chắc chắn từng người ấy rồi sẽ có một gia đình và những đứa con mà họ sẽ đối diện mỗi ngày.

Những đứa trẻ ấy sẽ noi theo cha mình điều gì? Dù có giáo dục tốt nhất, có cắt đứt quá khứ… nghiệp chướng vẫn bao vây họ, chồng chất bởi những oán hờn. Mà sự thật thì không bao giờ có thể che giấu mãi mãi.

Chắc không kẻ nào, dù hung ác, lại muốn con mình noi gương, trở thành sát nhân. Nơi những ngôi nhà tưởng chừng vững chắc với quyền thế hay địa vị, không hẳn các người cha ấy sẽ vui mừng khi con cái đối diện với mình, ngày nào đó tuyên bố rằng chúng thích giết người như cha mình. Những ngôi nhà lộng lẫy, được thời chưa chắc rồi đã hạnh phúc khi mầm ác được nuôi dưỡng im lặng, từ chính người Cha của mình.

Trong phần trò chuyện với Jacob, vị quan toà có nhắc về vua Solomon (vua của Israel cổ đại, mất năm 931 trước CN). Đó là một con người khôn ngoan khi luôn chọn một giải pháp trung dung hơn là tự đưa mình về cực của các vấn đề.

Con người, dù là quan toà, thường dân hay công an viên – nếu khôn ngoan – thì luôn phải có những chọn lựa trung dung để không biến mình thành kẻ cùng cực trong hành động hoặc trở thành công cụ điên cuồng vô tri trong tay kẻ khác. Vua Solomon khôn ngoan có để lại lời dạy như vậy cho hậu thế.

Tôi ngừng câu chuyện kể ở đây, hẹn các bạn trong một dịp khác. Xin chúc một ngày của Cha bình an và tốt lành đến mọi nơi. Chúc một ngày lành của Cha đến những gia đình biết chọn lựa và nhận ra tương lai cần phải có cho mình và con cái của mình, là gì !

Nguyễn Tuấn Khanh

Advertisement

Tôi vẫn tự hỏi ‘Tổ quốc là gì?’

tuankhanh

Tổ quốc là gì, mà trước khi chết, Frederic Chopin, nhà soạn nhạc lừng danh của Ba Lan (1810 – 1849) cứ khắc khoải dặn dò trong lúc đau yếu, rằng hãy mang trái tim của ông về chôn cất ở quê nhà?
Tôi vẫn tự hỏi ‘Tổ quốc là gì?’

Lưu lạc ở Pháp và Anh suốt trong 20 năm, nhưng Chopin luôn ngóng về đất mẹ, kể từ cuộc nổi dậy của người Ba Lan trước ách xâm lược của đế quốc Nga (1831).
Khi nghe tin cuộc cách mạng thất bại, dẫn đến việc hàng ngàn người Ba Lan phải ra đi lánh nạn, Chopin đã khóc và viết bản Etude cung Đô thứ (Op. 10, No. 12), còn gọi là bản etude Cách mạng, để ghi lại như một dữ liệu âm nhạc cho lịch sử đau thương của tổ quốc mình.
Tổ quốc là gì? Tôi vẫn tự hỏi
Với một nghệ sĩ cello tài danh, được cả thế giới chào đón như Mstislav Rostropovich (1927 – 2007), nơi nào cũng có thể là nhà, nhưng năm 1978 khi bị chính quyền Liên Xô cũ tước quyền công dân Nga, không cho trở về quê hương vì thái độ bất đồng chính kiến, ông đã đau khổ nói rằng “Nước Nga mãi trong trái tim tôi. Vậy mà tôi đã không thể quay lại để nhìn thấy tổ quốc và bạn bè của mình”.
Nhưng sau đó, năm 1991, khi Liên Xô tan rã, Rostropovich vội vã tìm cách bay trở lại Nga, xin một khẩu súng để được chiến đấu cho quê hương mình không còn chịu ách độc tài nữa. Lúc đó ông 54 tuổi, và đang được nhiều quốc gia như Anh, Canada, Nhật, Mỹ… sẵn lòng mời ông làm công dân danh dự của nước mình.
Tổ quốc, trong mỗi con người, ắt hẳn đều có những lý lẽ riêng cho sự ràng buộc lạ kỳ đó. Có thể đó là những lý lẽ dài dòng, hoặc chỉ là những cảm giác mơ hồ nhưng khó thể chối bỏ. Tổ quốc có thể gợi nhớ bằng hạnh phúc hay đau thương nhưng ký ức đó thì sẽ mang theo đến tận cuối đời như một món nợ trong tâm thức về nơi chốn.
Năm 2008, trong một bài nói chuyện về lòng ái quốc tại bang Missouri, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã nói với những người rất trẻ về tổ quốc và một tình yêu cho nó “khi đối diện với mất mát và hy sinh, con người trong một đất nước không bỏ chạy, không né tránh mà lại càng gắn kết với nhau hơn để đứng dậy, đó là tình yêu cho tổ quốc”.
Nước Mỹ là một quốc gia phải nói nhiều về tình yêu tổ quốc và giáo dục kiên trì ý tưởng đó, bởi đó là quốc gia của những người nhập cư, bao gồm nhập cư từ chính các nước có tư tưởng thù địch với họ. “Hãy bắt đầu bằng những ký ức đẹp đẽ nhất mà bạn đã sống trên đất nước này, gìn giữ nó bằng cảm giác đơn sơ nhất, thậm chí có thể bỏ ngoài tai các lời tuyên bố hay tranh cãi của các chính trị gia”, ông Obama nói.
Tổ quốc – đất mẹ
Thật bí ẩn khi đem vào tâm trạng của con người nỗi buồn ngập đến lúc ra đi, khi thấy mình bất lực. Nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1888 – 1939) lúc say, đã giắt tấm bản đồ nước Việt rách ở lưng quần, lang thang ca hát nghêu ngao “Dù như sông cạn đá mòn. Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa” (Thề non nước).
Đất mẹ dưới ách thực dân, quan tham dẫy đầy, quân dữ lao nhao, người Việt không còn thương nhau, tổ quốc điêu linh, người trí thức nếu không viết xuống bằng thơ văn, thì biết phải làm sao?”
Tổ quốc là gì mà đời mình phải nhớ, đời sau phải giữ? Nguyễn Phi Khanh (1335 – 1428) khi kháng chiến chống quân Minh xâm lược nước Việt bị bắt, giải qua biên giới chịu tội đã quay lại dặn Nguyễn Trãi (1380 – 1442) rằng hãy quay về tìm cách diệt giặc cứu giang sơn. Trong Hận Nam Quan của nhà thơ Hoàng Cầm có hát lại lời xưa: Về ngay đi, ghi nhớ hận Nam Quan./ Bến Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt,/ Cha nguyện cầu con lấy lại giang san…
Với những người ghi danh trong lịch sử thì đã vậy, còn với từng con người Việt bình thường, tổ quốc là gì trong trái tim họ? Cô bạn có hơn 20 năm sống ở nước ngoài nói mỗi khi gần Tết Việt, nghe một khúc nhạc quê, nghe mùi hương trầm lại dậy lên nỗi nhớ nhà kinh khủng. Tổ quốc như một vết cắt trong tim, tưởng đã lành với nhiều người đi xa, nhưng không ngờ cứ nhói lên khi nghĩ đến.
Trong các cộng đồng người Việt xa quê, ngày Tết là ngày không thể quên. Nhiều khi Tết chỉ nằm trong trí tưởng tượng, Tết là ngày phiền toái vì phải trữ trong nhà những món ăn dài ngày không đúng theo luật vệ sinh của phương Tây, phải giải thích thật dài dòng cho lũ trẻ về một đất nước với nhiều huyền thoại mà ngày thường chúng không quen.
“Làm sao Việt Nam lại có những câu chuyện kỳ quái như một đôi vợ chồng lại đẻ ra trứng?” – “Nó là huyền thoại để ghi nhớ, để tìm hiểu về một quê hương có thật – mà dù lạ lùng đến thế nào chúng ta sẽ chấp nhận, phải giữ gìn, vì đó là nơi ông cha chúng ta sinh ra”, tôi nghe người cha trong gia đình giải thích cho đứa con sắp vào đại học, nói tiếng Việt đã ngọng nghịu.
Những câu chuyện về Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Ánh… là gia sản lớn nhất mà các bậc phụ huynh có thể tự hào nói với con cái mình – ở những vùng đất mà trẻ con hội nhập cuộc sống mới luôn nhanh và giỏi hơn, thậm chí dạy lại cho cha mẹ.
Quả là từng người Việt vẫn giữ gìn cho mình những điều không giải thích được về đất mẹ, dù khó lý giải được tận cùng các ý nghĩa. Cũng như mỗi người dù đi đâu, nơi nào, vẫn mang trong tim một gánh nặng yêu thương bí ẩn về quê hương, không dễ từ bỏ.
Lễ, Tết trong đời sống Việt xa quê, chỉ là dịp để gặp lại, để nhớ, để kết nối trong trí nhớ những ràng buộc mơ hồ về quê hương – mà đôi khi phải cố quên, nhưng thật dễ bùng lên thương nhớ. Một người bạn đã sống hơn 30 năm ở Mỹ kể rằng những năm 1970, số người Việt cứ báo bệnh, đồng loạt nghỉ vào ngày Tết âm lịch khiến nhiều công ty, hãng xưởng hoang mang, báo cho các cơ quan y tế về một bệnh dịch bí ẩn.
Sau này khi hiểu ra, nhiều nơi cũng châm chước vì đó là ngày không thể thiếu với cộng đồng Việt Nam. “Đôi khi, nghỉ cũng chẳng làm gì. Về nhà pha một ấm trà, ăn một cái bánh chưng và mất một ngày lương nhưng lại thấy vui, vì đó là phong tục xứ mình, phải giữ”, anh bạn Việt kiều kể lại.
Trong lịch sử hơn 2.000 năm không tổ quốc của người Do Thái. Tổ quốc – đất mẹ, là sự khắc khoải, là giấc mơ tìm về không ngừng nghỉ của nhiều thế hệ. Từ những năm 60 trước Công nguyên, bị đế quốc La Mã xâm lược và xoá tên khỏi bản đồ thế giới, người Do Thái đã lưu lạc khắp nơi, và dù thành đạt ở đâu, đã quần tụ nơi nào… họ vẫn khát khao dựng lại quê nhà.
Trong Bài học Israel của nhà văn hoá Nguyễn Hiến Lê, điều mà mỗi người Do Thái cầu nguyện trước bữa ăn hay chào nhau, đều là “năm sau về Jerusalem”. Con cháu của những kẻ mất quê hương đó luôn được nghe và dạy nói như vậy, để biết và nhớ rằng mình có một tổ quốc.
Thật tuyệt vọng và viển vông với những người Do Thái góp tiền mua lại đất đai ở Palestine, dọn về xây dựng từ khô cằn và hoang mạc. Từ thế kỷ 19 đến sau đệ nhị Thế chiến, đến năm 1948 người Do Thái mới có cơ hội reo mừng dựng cờ trên đất mẹ, dù chung quanh đầy những quốc gia với tình trạng thù địch. Hôm nay, câu chào “năm sau về Jerusalem” vẫn được nhắc lại như một ký ức kiêu hãnh độc tôn của một dân tộc không từ bỏ tổ quốc của mình, dù trải qua ngàn năm quay quắt mong đợi.
Năm sau đến Hoàng Sa
Tôi có một người bạn ở Hà Nội, mà cứ thỉnh thoảng lại thấy ông treo hàng chữ “Năm sau đến Hoàng Sa”. Đó là một người sống cả đời vẫn chưa bao giờ có dịp ra biển đến gần Trường Sa hay Hoàng Sa. Nhưng sự âm vang trong lời hẹn của ông lại là sự khắc khoải kỳ quái đến mức suy nghĩ luôn luẩn quẩn về hai chữ Tổ quốc.
“Năm sau đến Hoàng Sa”, khẩu hiệu ấy đủ sức làm những ai nhìn thấy phải bật nhớ đến biển, đến mộ gió, đến những cái chết oan khiên của ngư dân và thanh niên người Việt được trao trách nhiệm gìn giữ quê hương mình. Đúng là chúng ta đã mất mát quá nhiều, nên đã đến lúc chúng ta cần đứng lại, cùng nhau, trên quê hương này.
Năm nay, tôi lại thấy người bạn đó treo cao câu “Năm sau đến Hoàng Sa”. Thật thú vị, tôi cũng thấy thêm một vài người treo khẩu hiệu đó. Hoá ra những người khắc khoải về quê hương không cô độc, dù là số ít. “Đến Hoàng Sa” chỉ là một khái niệm. “Đến Hoàng Sa” là con đường rất dài – có thể dài hơn con đường đến Jerusalem, có thể dài hơn cả 2.000 năm của người Do Thái, nhưng đó là con đường của những người yêu tổ quốc mình.
Nhiều năm, tôi vẫn không thể nào giải thích được trọn vẹn về ý nghĩa “tổ quốc”. Nhưng trong trí tưởng tượng của mình, tôi nhìn thấy đó là một ngôi nhà chung của bà mẹ Việt đã sinh ra rất nhiều đứa con.
Như trong câu hát Mẹ năm 2000 của nhạc sĩ Phạm Duy, có đứa đã là bạo chúa, có đứa là kẻ hèn, có đứa tham lam muốn bán đứng chính ngôi nhà của mẹ mình… nhưng dẫu thế, những đứa con còn lại rồi sẽ chung tay dựng lại, làm lại từ đầu, dù là tro tàn. Ngôi nhà đó – đất mẹ – và anh chị em tôi, tôi gọi tên, là Tổ Quốc.

Tuấn Khanh

Nhân dân mãi mãi là người đến sau

tuankhanh

Tháng 4/2016, cá chết trắng dọc bờ biển Hà Tĩnh cho đến tận Thừa Thiên Huế. Suốt 3 tuần lễ dân chúng hoang mang, người đi biển chết đứng chết ngồi. Báo chí tố cáo Formosa – Khu Công nghiệp Vũng Áng do người Đài Loan – Trung Quốc đầu tư làm chủ là nơi gây ra tai họa. Thế nhưng, nhiều ngày sau khi thảm kịch lan tràn, ngày 22/4, Bộ Tài nguyên và Môi trường mới có một cuộc họp với chính quyền tỉnh Hà Tĩnh, nhưng lại là họp kín, không cho báo chí tham dự. Đoàn công tác của Bộ này nói “luật không cho phép báo chí tham dự (?)”, nhưng đồng thời cũng nhắc là “đây là công tác kiểm tra định kỳ” nên không có gì để báo chí vào xem.
Có nhìn thấy những bầy cá nằm chết vật vã, tràn trên bờ biển bởi các loại thuốc cực độc, mới thấy kinh hoàng. Các loại chất đầu độc biển cả đó, đều nằm trong số 45 loại hóa chất độc hại do Formosa được phép nhập về. Người hay cá cũng đều có thể là nạn nhân trong một thời gian ngắn với các loại hóa chất này. Nhưng mỉa mai là kết quả điều tra tìm thấy, thì do các chuyên gia về độc học mà báo chí tự mời phân tích và công bố, còn đoàn công tác của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì ngoài chuyện ngăn không cho báo chí vào lấy tin tìm hiểu, chỉ đưa ra những kết luận mơ hồ.
Người ta không biết rồi cuộc họp đó giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và chính quyền Hà Tĩnh, khu tự trị Formosa đó sẽ công bố điều gì với báo chí. Ung dung với sức mạnh về tiền bạc và thế lực kiểu Chaebol, chủ đường ống chất thải độc có thể sẽ đưa ra những bản kết luận nhòe nhoẹt với trách nhiệm không thuộc về ai. Bất chấp nguồn tài nguyên biển hàng trăm cây số của Việt Nam bị hủy diệt, môi trường sống của hàng triệu con người bị đảo lộn, đe dọa.
Người dân Việt Nam thường là người biết sau, chỉ vỡ lẽ khi hiểm nguy kề sát bên mình. Không ai ngờ rằng đường ống xả chất độc từ Formosa, là chính là hệ thống được Bộ Tài nguyên và Môi trường ký giấy cho phép và xác định là luôn kiểm tra, nhận thấy mẫu nước thải “đủ chuẩn”. Đường ống đó chạy dài ra vịnh Sơn Dương, ống có đường kính 1,2m, chiều dài 1,3km, nằm cách mặt biển 12m. Nhân dân chỉ biết về đường ống chất thải đó – ngày đêm đổ vào nguồn nước, nguồn đánh bắt của họ – ngay sau khi cá tôm vật vã, ngoi ngóp chết ngập bờ. Mọi thứ diễn ra như chuyện đã rồi.
Nhân dân chỉ được biết sau, chỉ biết khi phải oan uổng gánh chịu hậu quả, một cách ngơ ngác. Kể từ năm 1989, khi Trung Quốc khởi dựng đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam) cho đến nay, hàng chục đập nước ngăn dòng Mekong khác đã trở thành một loại vũ khí sinh thái trấn áp toàn bộ vùng Đông Dương, Thái Lan, Miến Điện. Thế nhưng người dân Việt Nam cũng chỉ nhận được những tin tức hết sức lạc quan và hời hợt của Ủy Ban Mekong Việt Nam. Và rồi khi khô hạn đến, đất đai chết, ruộng đồng chết… người dân mới bàng hoàng nhận ra mình đang ở tình cảnh gì, bị bỏ rơi thế nào.
Bà Phạm Thị Loan, Ủy viên Ủy ban tài chính và ngân sách Quốc hội tiết lộ cho biết có đến 90% các dự án tổng thầu EPC ở Việt Nam là do Trung Quốc nắm giữ, kể các các ngành quan trọng như dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim. Có đến 30 doanh nghiệp Trung Quốc đang thực hiện các dự án hàng trọng điểm quốc gia. Rồi nhân dân chỉ là người biết sau cùng, khi đường ống Sông Đà vỡ đến lần thứ 17, do nhà thầu Xinxing, Trung Quốc đảm nhiệm. Dự kiến, hơn 200.000 dân cư sẽ là nạn nhân trực tiếp.
Nhân dân chỉ được biết sau cùng, khi nghe tin dữ rằng mỗi người đang mang trên lưng món nợ công lịch sử, với 30 triệu đồng/người. Có những gia đình người Việt suốt cuộc đời cắm mặt làm, không đủ ăn, nay giật mình nghe tin mình cũng phải gánh nợ công cho Nhà nước. Kể cả hai đứa bé chết chìm ở Krông Pắk, tỉnh Đắc Lắc, nghèo đến mức phải chôn chung một hòm cũng không thoát khỏi. Nhân dân mãi mãi là người đến sau trong con đường đến ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Họ được gọi tên để biết mình cùng chịu trách nhiệm vì Nhà nước khai thác bauxite cho Trung Quốc, ở Nhân Cơ lỗ đến 3000 tỷ đồng trong 6 năm mà vẫn cố làm. Người dân được thông báo muộn màng rằng hàng trăm ngàn tỉ đồng mà họ đóng cho quỹ bảo hiểm xã hội đã bị tự tiện mang đi cho vay, mất trắng cả ngàn tỉ nhưng không ai chịu trách nhiệm. Trong khi đó, một công nhân chưa đủ tiền đóng bảo hiểm xã hội, thì bị răn đe là sẽ mang đi xử lý hình sự.
Nhân dân mãi mãi là người đến sau. Và đến chỉ để nhận biết sự thiệt hại hay tai ương đang rót xuống đầu mình, xuống gia đình mình. Họ cũng chỉ biết sau cùng, rằng những nhân vật cấp cao như Tổng thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền thì vượt lên trên, thoát khỏi mọi thứ với nhà cao cửa rộng xênh xang.
Như những con cá chết oan ức trên bờ biển, chỉ biết sau cùng rằng đại dương không còn là nhà, mà chỉ còn đầy độc dược, những người dân Việt Nam cũng chỉ biết được phần đen đủi nhất được gieo về phía mình, dù chung quanh đầy lâu đài và dự án vĩ đại, như đang phát triển cho ai khác.
Nếu như có một thiên đường để đến, có lẽ người dân Việt nhỏ bé như móng tay chúng ta, mãi cũng chỉ là người đến sau. Và đường đi đến đó, chẳng thong dong gì, mà có thể thông qua những ống dẫn chất thải như của Formosa.

Tuấn Khanh

30/4, nói về một cuộc chiến thống nhất khác

tuankhanh

img_0756

Sau khi cá và biển chết, những con người Việt Nam đầu tiên chịu nạn bởi ánh hào quang phát triển XHCN đang bắt đầu quằn quại trên đất liền. Miền Trung giàu có biển khơi sẽ còn nhiều năm nữa nằm trong sự sợ hãi của khách du lịch toàn cầu, bởi sự chọn lựa dứt khoát giữa thép và cá tôm từ chính quyền.

41 năm sau ngày chấm dứt cuộc chiến tranh có tên gọi thống nhất Bắc Nam, vào 30/4 năm nay, nhân dân Việt Nam lại có dịp nhìn thấy một cuộc chiến “thống nhất” khác đang phủ bóng lên quê hương mình: Cuộc chiến âm thầm từ lâu mang bóng dáng của người bạn Trung Quốc.

Chưa bao giờ trên trên toàn Việt Nam, nỗi sợ hãi có tên gọi Trung Quốc đang hình thành rõ như vậy, bao gồm thực phẩm, hàng hoá, văn hoá mới, môi trường, chính trị… Khắp nơi, một cuộc chiến không tiếng súng đang diễn ra nhưng thất bại luôn thuộc về con người Việt Nam.

Mỗi lúc càng không thể chối cãi: nạn ung thư về thực phẩm tăng nhanh trong toàn dân, nền kinh tế lệ thuộc leo thang một cách ngu ngốc vào Bắc Kinh, biển và đất liền bị công khai cưỡng đoạt dần dần, người Trung Quốc di cư ồ ạt và thiếu minh bạch vào Việt Nam, biến nhiều điểm quan yếu của tổ quốc thành tô giới riêng của người Trung Quốc.

Thậm chí năm 2016, đã có những nơi chỉ buôn bán, sinh hoạt cho người Trung Quốc và dùng tiền nhân dân tệ, không tiếp người Việt. Giai đoạn mới cuộc chiến “thống nhất” đã đến.

Mới đây, từ thảm hoạ môi sinh kinh hoàng xảy ra ở Vũng Áng, nhiều người Việt vẫn nghĩ rằng Formosa Hà Tĩnh chỉ là công ty Đài Loan. Thế nhưng tiết lộ trên trang web mang tên Trần Đại Quang, tên của chủ tịch nước hiện tại ở Việt Nam, cho biết hệ thống đó hoàn toàn là Trung Quốc.

Tin cho biết, theo công văn số 1407114 của Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đề đạt với chính quyền Hà Tĩnh về số lượng nhà thầu làm việc cho hệ thống này, thì trong số 28 công ty thầu, đã có đến 25 công ty Trung Quốc (không phải Đài Loan), chỉ có 3 công ty Việt Nam. Số lượng công nhân Trung Quốc cũng lên đến 10.000 người.

Bài viết trên trang web Trần Đại Quang làm một phân tích ngắn về số tiền đầu tư và cổ phần mà các công ty mang mác Đài Loan đại diện ở Vũng Áng, đã chỉ ra một khoảng trống bí mật, cho thấy các công ty vỏ bọc này sau một thời gian ra mặt đã im lặng rút dần, nhường chỗ cho “ông chủ” mới, ẩn danh, chiếm gần 50% vốn. Nguyên văn của bài viết, khẳng định rằng “Formosa Hà Tĩnh không còn là doanh nghiệp nước ngoài 100% vốn Đài Loan như đã đăng ký”.

Với cái cách hết sức trịch thượng và được ưu ái kỳ lạ, hơn hẳn mọi quốc gia khác trên đất nước này, chúng ta hãy im lặng tự xét giờ đây Formosa Hà Tĩnh là ai.

Với cái cách bẻ cong được mọi thứ, đủ sức đẩy được thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường Võ Tuấn Nhân bước ra đọc một thông cáo lừa dối và bệnh hoạn vào ngày 27/4, để bao che tội ác cho Formosa, chúng ta hãy im lặng tự xét giờ đây Formosa Hà Tĩnh là ai.

Câu chuyện Formosa giống như là một phần, trong chương trình chiến tranh im lặng “giải phóng” Việt Nam, bắt đầu bằng cuộc tận diệt môi sinh và con người suốt hàng trăm cây số bờ biển.

Sự kiện này chỉ là một giọt nước làm tràn ly, nhắc mọi người dân nhớ rằng từ sau 30/4 của hơn 40 năm trước, về một cuộc “giải phóng” khác từ người bạn Trung Quốc. Và họ đang thống nhất dần dần đất nước Việt bằng chiếm đóng, nạo vét tài nguyên, kiểm soát các điểm trọng yếu quốc phòng, tàn phá thiên nhiên và sức sống của một dân tộc. Dĩ nhiên, còn phải với sự tiếp tay của những kẻ buôn quê hương, bán dân tộc.

Suốt hơn 40 năm nay, người dân Việt đã “kháng chiến” âm thầm trong ý thức, kể cả với tuyệt vọng. Họ chịu đựng sự đàn áp từ những kẻ có quyền vốn muốn bắt tay, quỳ luỵ với Trung Quốc. Cuộc kháng chiến đủ hình thái, bắt đầu từ việc đặt câu hỏi thắc mắc Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan giờ ở đâu, cho đến xuống đường phản đối chống Trung Quốc giết hại ngư dân Việt, chống đồng hoá và thậm chí tự mình “kháng chiến” mỗi ngày khi bước ra ngõ, đến chợ… đều hỏi nguồn gốc món hàng có phải từ Trung Quốc hay không.

Cuộc kháng chiến để sống sót tự phát đó, nhiều lúc trở thành nghịch cảnh vì bị các quan chức, chính quyền bác bỏ, thậm chí khuyến cáo người dân hãy đầu hàng. Nhân dân bị kêu gọi hãy chấp nhận cuộc “giải phóng” mới bằng ngôn ngữ khốn nạn như thức phẩm độc nhưng ăn được, hàng lậu thối nát Trung Quốc được làm ngơ ầm ầm nhập qua biên giới, các dự án nhận đút lót luôn mời và ưu tiên cho các nhà thầu Trung Quốc xây dựng những sản phẩm tồi tệ chết người trên toàn quốc gia…

Trung Quốc, bằng cách nào đó, đã biến dân tộc Việt Nam thành một quốc gia công dân hạng hai. Bất kỳ ai khi nói về sự sai trái và tàn bạo của họ, chỉ được nói vu vơ là “người lạ”, như một sự kỵ huý. Một sự trấn áp về tinh thần hiện rõ trong truyền thông nhà nước, mỗi khi muốn đề cập nhắc đến đại quốc. Sự trấn áp hiện rõ từ bảng thông cáo vừa qua của Bộ Tài nguyên & Môi trường về việc Formosa “vô can” với thảm hoạ chất thải hoá học độc hại.

Những ngày cuối tháng 4/2016, những con cá chết nằm dọc bờ biển Việt Nam như những xác người, nhắc cho hàng triệu người nhớ về một cuộc chiến từ năm 1975 đã dừng tiếng súng, nhưng rồi mở ra một cuộc chiến khác khốc liệt hơn. Cuộc chiến không có tiếng súng, chỉ có tiếng vỗ tay, hoa, hữu nghị và những mất mát lớn lao không được nhắc tên. Một cuộc chiến mà toàn dân tộc Việt, đất nước Việt đang là kẻ chiến bại.

Những con cá biển miền Trung đáng thương không có quốc hội để kêu than. Chúng chết lặng lẽ ngay trên bến bờ của hy vọng. Chúng chết ngay tại chỗ đã ngàn đời dung thân. Có khác gì những người dân nghèo ven biển, đen đủi và im lặng cầm trên tay con cá chết nhìn chúng ta như những bóng ma chết oan. Hàng triệu triệu giòi bọ đang lúc nhúc rứt rỉa các thân cá chết lúc này. Những kẻ làm ngơ thảm cảnh hay chỉ muốn cố bám víu quyền lợi Bắc Kinh, cũng đang rứt rỉa sinh lực cuối cùng của quê hương này.

Một cuộc thống nhất khác, ngay từ sau 30/4 của nhiều thập niên trước. Trên tấm bản đồ đầy những điểm đánh dấu sự có mặt của người Trung Quốc, nhân danh thịnh vượng, bạn hãy làm một đường nối tất cả, để nhận ra đó là hình thù một tấm lưới lớn. Chúng ta rồi như cá, không còn đường đến với biển khơi tự do, và chỉ còn được sống – ăn loại thức ăn nào mà họ đã chọn. Như những con cá trong lưới, nhưng chúng ta được chết trong “thống nhất” mà không được giãy giụa hay cất tiếng.

TUẤN KHANH

Xuân đến, xuân đi

tuankhanh

Sáng 30, đường phố Sài Gòn vắng đi, nhưng không vắng hẳn. Điều dễ thấy của xuân năm nay là những người buôn bán nghèo khó vẫn tiếp tục cầm cự bày hàng. Vỉa hè nhiều nơi vẫn còn chen nhau kiếm thêm chút, dành dụm cho một năm mới dự báo không nhiều niềm vui.

Cứ từng năm qua, mùa xuân như cứ nhạt dần. Đường phố không còn không khí của những ngày Tết mà ai ai cũng muốn đóng cửa nghỉ ngơi, ai ai cũng muốn dừng tay lại để hít thở với chút cảm giác khó tả của trái tim mình khi bước qua thêm một lằn ranh nữa ở cõi sinh tồn thế gian. Quán café trước ngõ vẫn đông khách như một ngày rất thường. Quán bánh ướt vỉa hè trong ngỏ hẻm cũng không nghĩ sáng 30 Tết. Quán không có có bàn, những người đến ăn phải ngồi ghế đẩu, cầm đĩa ăn cho đến hết. Những người ăn vội vàng cho qua một bữa sáng, cho qua một ngày 30 mà trước đây Sài Gòn đón chờ như một điều thiêng liêng và hân hoan. Ông cụ ngồi ăn bánh quay sang bắt chuyện. “Tết đến làm gì, chán quá”. Một cụ khác cười, góp thêm “Tui thấy 5 năm Tết một lần cũng được”.

Nghĩ mà buồn cười. Tết 5 năm một lần, cứ như là nhiệm kỳ của một ông quan thiên nhiên. Xuân đến như không mang đủ ngọt ngào của cuộc đời, đến mức dân chúng chán chê muốn xua đi, chỉ mong gặp và hy vọng vào một mùa xuân của nhiệm kỳ mới. Cuộc đời cũng vậy, bạn đã có bao giờ ngao ngán và chờ một điều mới mẻ nào đó từ con người, quan quyền trên đất nước này chưa?

Tết ở Sài Gòn, đặc biệt ở quận 5, lâu rồi không còn nghe tiếng “tùng cheng”. Chắc cũng phải hơn 5 năm, những chiếc xe ba gác bán đầu lân, đầu ông địa cho trẻ con không còn dạo khắp phố phường với tiếng “tùng cheng” quen thuộc như tín hiệu rộn ràng của một mùa xuân. Ngay trong thủ phủ của người Hoa Chợ Lớn, một vài cửa hàng có treo đầu lân, đầu ông địa cũng xao xác buồn. Ngày xưa trẻ con ai cũng muốn phải có cho được một món để chơi mùa Tết, nay thì cầm món ấy đi giữa phố, chẳng khác nào kẻ lập dị. Mới năm trước, lúc trước giờ giao thừa vẫn hay có các nhóm nhỏ Lân Sư Rồng đi dạo phố phường, vào nhà xin lì xì. Nay thì cũng vắng bặt. Tiền dành dụm chưa đầy, dân chúng ai còn dám mạnh dạn mở hầu bao. Ấy vậy mà báo Nhà nước vẫn có tờ đăng tin Việt Nam là quốc gia có name có mark về hạnh phúc và dễ kiếm tiền.

Trên chuyến xe taxi đi vào trung tâm Sài Gòn di chuyển chậm vì đông người trong những ngày cận Tết, người tài xế giết thời giờ bằng cách kể chuyện đó đây, trong đó ấn tượng nhất là chuyện bạn của anh làm công nhân mà năm nay không đủ tiền về quê. “Rất nhiều người gặp khó khăn như vậy nên ở lại buôn bán thời vụ, làm thêm để kiếm chút tiền sau Tết về”, anh tài xế kể. Trong bài hát Xuân này con không về của Trịnh Lâm Ngân, ca sĩ Duy Khánh có hát rằng “Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm, mái tranh nghèo không người sửa sang…”, giờ thì về quê đâu chỉ có dùng sức mà lo được cho mái tranh của mẹ. Tháng 12/2014, các bản tin của báo Nhà nước còn đưa tin rằng nhiều tỉnh nghèo quay quắt chờ 8.000 tấn gạo cứu đói mùa Tết này. Không có tiền thì vô phương. Pháo bông giao thừa cũng chẳng để làm chi, rồi chỉ biết ngó lầu đài của các quan chức như ông tổng thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền mà thở dài. Trong những nhịp đồng hồ cuối cùng của năm âm lịch, báo đưa tin những người bán hoa, cây kiểng ở trung tâm Sài Gòn, ở bến Bình Đông rơi nước mắt vì ế ẩm, không bán được hàng. Đọc mà lòng tự dưng buồn khôn tả.

Tết năm nay không thấy bà tổ trưởng nhắc treo cờ, anh công an khu vực đi kiểm tra. Có lẽ mệt mỏi vì nhiều năm nhắc hoài mà dân chúng vẫn lơ là, nên chính quyền địa phương ở nhiều nơi theo lệnh mà xuất tiền trồng cờ dọc theo cầu, dọc theo lề đường. Khắp nơi rực rỡ một màu đỏ như ngày đánh thắng một mùa xuân. Cờ được chất đống trên các xe tải nhỏ và được các bạn trẻ dân phòng vội vã ghé vào, cắm dựng, vuốt… rồi chạy đi chỗ khác làm cho kịp chỉ tiêu. Cờ ngay ngắn và rõ ràng như phân lô đất trong thành phố.

Ào một cái đã đến giờ cúng giao thừa. Mùa xuân vội đến và vội đi vậy sao? Mùa xuân nhạt nhòa và không còn rõ ràng trong sự chờ đón của con người. Những bài nhạc xuân viết mới ồn ào, như cố xô người nghe vào một không gian chộn rộn lố bịch đầy cố gắng. Khắp nơi ầm ầm như một chiến dịch đuổi bắt xuân. Mọi thứ đó, như chỉ để nhắc nhau về một điều gì đó gọi là mùa xuân nhưng dường như đã vàng phai biết mấy, hoặc đã không còn tìm thấy nữa.

TUẤN KHANH’s Blog

Tổ quốc là gì? Tôi vẫn tự hỏi

tuankhanh

Tổ quốc là gì, mà trước khi chết, Frederic Chopin, nhà soạn nhạc lừng danh của Ba Lan (1810 – 1849) cứ khắc khoải dặn dò trong lúc đau yếu, rằng hãy mang trái tim của ông về chôn cất ở quê nhà? Lưu lạc ở Pháp và Anh suốt trong 20 năm, nhưng Chopin luôn ngóng về đất mẹ, kể từ cuộc nổi dậy của người Ba Lan trước ách xâm lược của đế quốc Nga (1831).

Khi nghe tin cuộc cách mạng thất bại, dẫn đến việc hàng ngàn người Ba Lan phải ra đi lánh nạn, Chopin đã khóc và viết bản Etude cung Đô thứ (Op. 10, No. 12), còn gọi là bản etude Cách mạng, để ghi lại như một dữ liệu âm nhạc cho lịch sử đau thương của tổ quốc mình.

Tổ quốc là gì? Tôi vẫn tự hỏi

Với một nghệ sĩ cello tài danh, được cả thế giới chào đón như Mstislav Rostropovich (1927 – 2007), nơi nào cũng có thể là nhà, nhưng năm 1978 khi bị chính quyền Liên Xô cũ tước quyền công dân Nga, không cho trở về quê hương vì thái độ bất đồng chính kiến, ông đã đau khổ nói rằng “Nước Nga mãi trong trái tim tôi. Vậy mà tôi đã không thể quay lại để nhìn thấy tổ quốc và bạn bè của mình”.

Nhưng sau đó, năm 1991, khi Liên Xô tan rã, Rostropovich vội vã tìm cách bay trở lại Nga, xin một khẩu súng để được chiến đấu cho quê hương mình không còn chịu ách độc tài nữa. Lúc đó ông 54 tuổi, và đang được nhiều quốc gia như Anh, Canada, Nhật, Mỹ… sẵn lòng mời ông làm công dân danh dự của nước mình.

Tổ quốc, trong mỗi con người, ắt hẳn đều có những lý lẽ riêng cho sự ràng buộc lạ kỳ đó. Có thể đó là những lý lẽ dài dòng, hoặc chỉ là những cảm giác mơ hồ nhưng khó thể chối bỏ. Tổ quốc có thể gợi nhớ bằng hạnh phúc hay đau thương nhưng ký ức đó thì sẽ mang theo đến tận cuối đời như một món nợ trong tâm thức về nơi chốn.

Năm 2008, trong một bài nói chuyện về lòng ái quốc tại bang Missouri, ông Barack Obama đã nói với những người rất trẻ về tổ quốc và một tình yêu cho nó “khi đối diện với mất mát và hy sinh, con người trong một đất nước không bỏ chạy, không né tránh mà lại càng gắn kết với nhau hơn để đứng dậy, đó là tình yêu cho tổ quốc”.

Nước Mỹ là một quốc gia phải nói nhiều về tình yêu tổ quốc và giáo dục kiên trì ý tưởng đó, bởi đó là quốc gia của những người nhập cư, bao gồm nhập cư từ chính các nước có tư tưởng thù địch với họ. “Hãy bắt đầu bằng những ký ức đẹp đẽ nhất mà bạn đã sống trên đất nước này, gìn giữ nó bằng cảm giác đơn sơ nhất, thậm chí có thể bỏ ngoài tai các lời tuyên bố hay tranh cãi của các chính trị gia”, ông Obama nói.

Tổ quốc – đất mẹ

Thật bí ẩn khi đem vào tâm trạng của con người nỗi buồn ngập đến lúc ra đi, khi thấy mình bất lực. Nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1888 – 1939) lúc say, đã giắt tấm bản đồ nước Việt rách ở lưng quần, lang thang ca hát nghêu ngao “Dù như sông cạn đá mòn. Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa” (Thề non nước).

Đất mẹ dưới ách thực dân, quan tham dẫy đầy, quân dữ lao nhao, người Việt không còn thương nhau, tổ quốc điêu linh, người trí thức nếu không viết xuống bằng thơ văn, thì biết phải làm sao?”

Tổ quốc là gì mà đời mình phải nhớ, đời sau phải giữ? Nguyễn Phi Khanh (1335 – 1428) khi kháng chiến chống quân Minh xâm lược nước Việt bị bắt, giải qua biên giới chịu tội đã quay lại dặn Nguyễn Trãi (1380 – 1442) rằng hãy quay về tìm cách diệt giặc cứu giang sơn. Trong Hận Nam Quan của nhà thơ Hoàng Cầm có hát lại lời xưa: Về ngay đi, ghi nhớ hận Nam Quan./ Bến Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt,/ Cha nguyện cầu con lấy lại giang san…

Với những người ghi danh trong lịch sử thì đã vậy, còn với từng con người Việt bình thường, tổ quốc là gì trong trái tim họ? Cô bạn có hơn 20 năm sống ở nước ngoài nói mỗi khi gần Tết Việt, nghe một khúc nhạc quê, nghe mùi hương trầm lại dậy lên nỗi nhớ nhà kinh khủng. Tổ quốc như một vết cắt trong tim, tưởng đã lành với nhiều người đi xa, nhưng không ngờ cứ nhói lên khi nghĩ đến.

Trong các cộng đồng người Việt xa quê, ngày Tết là ngày không thể quên. Nhiều khi Tết chỉ nằm trong trí tưởng tượng, Tết là ngày phiền toái vì phải trữ trong nhà những món ăn dài ngày không đúng theo luật vệ sinh của phương Tây, phải giải thích thật dài dòng cho lũ trẻ về một đất nước với nhiều huyền thoại mà ngày thường chúng không quen.

“Làm sao Việt Nam lại có những câu chuyện kỳ quái như một đôi vợ chồng lại đẻ ra trứng?” – “Nó là huyền thoại để ghi nhớ, để tìm hiểu về một quê hương có thật – mà dù lạ lùng đến thế nào chúng ta sẽ chấp nhận, phải giữ gìn, vì đó là nơi ông cha chúng ta sinh ra”, tôi nghe người cha trong gia đình giải thích cho đứa con sắp vào đại học, nói tiếng Việt đã ngọng nghịu.

Những câu chuyện về Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Ánh… là gia sản lớn nhất mà các bậc phụ huynh có thể tự hào nói với con cái mình – ở những vùng đất mà trẻ con hội nhập cuộc sống mới luôn nhanh và giỏi hơn, thậm chí dạy lại cho cha mẹ.

Quả là từng người Việt vẫn giữ gìn cho mình những điều không giải thích được về đất mẹ, dù khó lý giải được tận cùng các ý nghĩa. Cũng như mỗi người dù đi đâu, nơi nào, vẫn mang trong tim một gánh nặng yêu thương bí ẩn về quê hương, không dễ từ bỏ.

Lễ, Tết trong đời sống Việt xa quê, chỉ là dịp để gặp lại, để nhớ, để kết nối trong trí nhớ những ràng buộc mơ hồ về quê hương – mà đôi khi phải cố quên, nhưng thật dễ bùng lên thương nhớ. Một người bạn đã sống hơn 30 năm ở Mỹ kể rằng những năm 1970, số người Việt cứ báo bệnh, đồng loạt nghỉ vào ngày Tết âm lịch khiến nhiều công ty, hãng xưởng hoang mang, báo cho các cơ quan y tế về một bệnh dịch bí ẩn.

Sau này khi hiểu ra, nhiều nơi cũng châm chước vì đó là ngày không thể thiếu với cộng đồng Việt Nam. “Đôi khi, nghỉ cũng chẳng làm gì. Về nhà pha một ấm trà, ăn một cái bánh chưng và mất một ngày lương nhưng lại thấy vui, vì đó là phong tục xứ mình, phải giữ”, anh bạn Việt kiều kể lại.

Trong lịch sử hơn 2.000 năm không tổ quốc của người Do Thái. Tổ quốc – đất mẹ, là sự khắc khoải, là giấc mơ tìm về không ngừng nghỉ của nhiều thế hệ. Từ những năm 60 trước Công nguyên, bị đế quốc La Mã xâm lược và xoá tên khỏi bản đồ thế giới, người Do Thái đã lưu lạc khắp nơi, và dù thành đạt ở đâu, đã quần tụ nơi nào… họ vẫn khát khao dựng lại quê nhà.

Trong Bài học Israel của nhà văn hoá Nguyễn Hiến Lê, điều mà mỗi người Do Thái cầu nguyện trước bữa ăn hay chào nhau, đều là “năm sau về Jerusalem”. Con cháu của những kẻ mất quê hương đó luôn được nghe và dạy nói như vậy, để biết và nhớ rằng mình có một tổ quốc.

Thật tuyệt vọng và viển vông với những người Do Thái góp tiền mua lại đất đai ở Palestine, dọn về xây dựng từ khô cằn và hoang mạc. Từ thế kỷ 19 đến sau đệ nhị Thế chiến, đến năm 1948 người Do Thái mới có cơ hội reo mừng dựng cờ trên đất mẹ, dù chung quanh đầy những quốc gia với tình trạng thù địch. Hôm nay, câu chào “năm sau về Jerusalem” vẫn được nhắc lại như một ký ức kiêu hãnh độc tôn của một dân tộc không từ bỏ tổ quốc của mình, dù trải qua ngàn năm quay quắt mong đợi.

Năm sau đến Hoàng Sa

Tôi có một người bạn ở Hà Nội, mà cứ thỉnh thoảng lại thấy ông treo hàng chữ “Năm sau đến Hoàng Sa”. Đó là một người sống cả đời vẫn chưa bao giờ có dịp ra biển đến gần Trường Sa hay Hoàng Sa. Nhưng sự âm vang trong lời hẹn của ông lại là sự khắc khoải kỳ quái đến mức suy nghĩ luôn luẩn quẩn về hai chữ Tổ quốc.

“Năm sau đến Hoàng Sa”, khẩu hiệu ấy đủ sức làm những ai nhìn thấy phải bật nhớ đến biển, đến mộ gió, đến những cái chết oan khiên của ngư dân và thanh niên người Việt được trao trách nhiệm gìn giữ quê hương mình. Đúng là chúng ta đã mất mát quá nhiều, nên đã đến lúc chúng ta cần đứng lại, cùng nhau, trên quê hương này.

Năm nay, tôi lại thấy người bạn đó treo cao câu “Năm sau đến Hoàng Sa”. Thật thú vị, tôi cũng thấy thêm một vài người treo khẩu hiệu đó. Hoá ra những người khắc khoải về quê hương không cô độc, dù là số ít. “Đến Hoàng Sa” chỉ là một khái niệm. “Đến Hoàng Sa” là con đường rất dài – có thể dài hơn con đường đến Jerusalem, có thể dài hơn cả 2.000 năm của người Do Thái, nhưng đó là con đường của những người yêu tổ quốc mình.

Nhiều năm, tôi vẫn không thể nào giải thích được trọn vẹn về ý nghĩa “tổ quốc”. Nhưng trong trí tưởng tượng của mình, tôi nhìn thấy đó là một ngôi nhà chung của bà mẹ Việt đã sinh ra rất nhiều đứa con.

Như trong câu hát Mẹ năm 2000 của nhạc sĩ Phạm Duy, có đứa đã là bạo chúa, có đứa là kẻ hèn, có đứa tham lam muốn bán đứng chính ngôi nhà của mẹ mình… nhưng dẫu thế, những đứa con còn lại rồi sẽ chung tay dựng lại, làm lại từ đầu, dù là tro tàn. Ngôi nhà đó – đất mẹ – và anh chị em tôi, tôi gọi tên, là Tổ Quốc.

TUẤN KHANH

Tháng 12, đàn bà

tuankhanh

Tháng Mười Hai năm nay, xuất hiện nhiều câu chuyện về những người đàn bà trên thế gian này – có những người lừng danh, và cả những người vô danh – khiến mọi thứ lại càng đáng nhớ hơn.

Tháng Mười Hai, nhắc nhiều người yêu nhạc ngồi nghe lại bài Woman của John Lennon. Bài hát ngợi ca về đàn bà của ông như một định mệnh thôi thúc, ông viết ra, kịp hát ghi âm lầm cuối cùng trước khi ngày định mệnh 8/12 đến: một kẻ tâm thần đã bắn ông chết ngay trước cửa nhà.

Trong Woman, chàng ca sĩ mắt kính tròn hát rằng “Woman please let me explain. I never meant to cause you sorrow or pain. So let me tell you again and again and again” (Tạm dịch: ôi Nàng, xin cho tôi giãi bày. Tôi không bao giờ muốn đem đến cho nàng nỗi đau hay muộn phiền. Xin cho tôi nhắc lại muôn lần điều này…) Người đàn bà rất chung và rất riêng của bài hát đó, muốn giới thiệu rằng mỗi bước đi lên của nhân loại, luôn có lời ngợi ca và trân trọng.

Tháng 12, trên trang Twitter của tổng thống Mỹ Barack Obama cũng nhắc về một người đàn bà: Rosa Parks, mà ông trân trọng ghi là “đấng anh thư đã đứng lên tranh đấu cho công lý và bình đẳng”.

Rosa Parks (1913-2005) được lịch sử hiện đại của nước Mỹ gọi tên là “đệ nhất phu nhân của dân quyền” và là “người mẹ của phong trào tự do”. Ngày 1/12/1955, khi bà Rosa Parks lên chuyến xe bus ở bang Alabama, bà bị tài xế trên xe buộc phải đứng dậy để nhường ghế cho một người da trắng – theo luật lúc bấy giờ của bang này. Rosa Parks đã phản đối và biến chiếc xe bus đó thành nơi tố cáo sự kỳ thị chủng tộc, chấp nhận cho việc cảnh sát dừng xe áp giải bà đi. Nửa thế kỷ sau, tất cả những đứa trẻ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đều được học về Rosa Parks và tự hào về người đàn bà đã đứng lên cho nước Mỹ hôm nay. Thậm chí, ở các bang như California và Ohio, ngày 1 tháng 12 là ngày lễ ghi nhớ Rosa Parks Day.

Tháng Mười Hai còn một điều đáng ngưỡng mộ khác: là thời điểm mà lãnh tụ Aung San Suu Kyi, người đàn bà lừng danh của nền dân chủ Miến Điện tiếp nhận sự chuyển giao quyền lực từ chính quyền quân sự sang dân sự, đồng thời tuyên bố sẽ luôn cân nhắc, thận trọng trước mọi lời mời giúp đầu tư từ Trung Quốc.

Có những người đàn bà trên thế gian này có thể khiến trái tim của chúng ta phập phồng kiêu hãnh. Nó mở ra những chỉ dấu kỳ diệu về con người và sự văn minh.

Nhưng cũng có những người đàn bà, với câu chuyện của họ khiến trái tim chúng ta quặn thắt, đau hơn nữa khi nghĩ về tương lai, giống nòi và tổ quốc.

Chị Mai Thị Long – có thể nói đến đây vẫn không ai biết – vợ của ngư dân Trương Đình Bảy bị “kẻ lạ” bắn chết ngay trên biển Trường Sa của Việt Nam vẫn chưa được cơ quan nào giúp xác định rõ ai đã giết chồng mình. Lẽ ra, sau cái chết oan khiên và đầy ngụ ý trên biển đó, Bộ Ngoại Giao Việt Nam phải gửi thư đến các sứ quán có tàu trong cùng khu vực, yêu cầu cùng phối hợp điều tra xem thủ phạm là ai. Lẽ ra, chị Long cũng còn được thấy tổ quốc gọi tên chồng mình, sau khi đã hối thúc chồng mình ra khơi, bám biển, thể hiện chủ quyền thay cho Nhà nước. Ngày 2/12, đưa chồng về đất mẹ, đối với chị Long, biển bây giờ không những là nỗi đau mà còn nhắc nhở về dối trá.

Tháng Mười Hai, công an Đà Nẳng cười tươi và trao cho bà Nguyễn Thị Khả, 57 tuổi, số tiền gần 2 triệu đồng để bồi thường cho việc bà bị công an khu vực vung gậy đánh đến mang thương tích, vì tưởng bà là gái mại dâm. Rất nhiều người đã thảng thốt hỏi rằng ở thành phố đáng sống đó, ngày thường đã có bao nhiêu gái mại dâm bị đánh đập mà không thể nói với ai? Và cũng có rất nhiều người nói rằng chỉ cần một điều rất nhỏ, bao nhiêu những vàng mã về nhân quyền phụ nữ, về bình đẳng và quan hệ giữa công an địa phương và phụ nữ đã lộ ra. Mọi thứ trần trụi và tàn nhẫn như trên chuyến xe bus về tương lai của bà Rosa Parks, nhưng khác ở chỗ là thân phận người phụ nữ Việt Nam thậm chí vẫn còn chưa có được một khoảng trống cho mình.

Câu chuyện cóp nhặt cuối, tạm thời, của tháng Mười Hai, là chuyện cô gái Việt tự mình đi và đoạt giải hoa hậu ở Philippines, nhưng bị gọi là thi “chui” và bị đòi phạt 30 triệu đồng. Có cái gì đó vẫn còn chưa giải thích được cho một văn bản quy định đầy tính phản bội lại quyền con người trong hiến pháp, khi tự cho mình có quyền kiểm soát sự tự do và quyền của người khác mà không rõ lý do. Đây không phải là chuyện mới mẻ tại Việt Nam, vì từ năm 2013 đến nay, theo đoàn luật sư Việt Nam cho biết thì đã có tới 90.000 văn bản trái hiến pháp, trái luật mà vẫn áp đặt lên con người.

Con số phạt 30 triệu đó của Bộ TT&TT, chợt làm nhớ đến hình ảnh trên báo chí Trung Quốc khi rao bán công khai con gái Việt về làm vợ với giá 1500 USD. Đàn bà Việt hôm nay không thể tự vinh danh mình trên diễn trường quốc tế, nếu không có Cục, có Bộ xốc nách đưa vào. Nhưng bị bán đi, bị làm nhục ở sát biên giới của “nước lạ” thì không thấy ai ra văn bản hay lên tiếng. Cục và Bộ rầm rập vào cuộc với những người đàn bà sáng danh Việt Nam với thế giới nhưng lãng tránh, ngó lơ khi thấy đàn bà Việt bị làm nhục khắp thế giới, từ đường biên hữu nghị.

Đàn bà, nếu như bạn vẫn còn nghe Woman của John Lennon, xin hãy cảm nhận những điều thật tuyệt vời và khác biệt ở hai đầu thế giới.

Tuấn Khanh’s Blog

NHỚ VÀ QUÊN

tuankhanh

Có một câu chuyện tôi chưa từng kể với ai. Câu chuyện vẫn thỉnh thoảng gợi nhớ về những ngày đầu tiên tôi bị lôi xềnh xệch vào một xã hội chính trị, lôi vào một thế giới mà tôi luôn loạng choạng đứng ở lằn ranh mong manh, giữa những điều vĩ đại nhất hoặc ô trọc nhất.

1997, lần đầu tiên tôi bị an ninh đưa đi làm việc vì những lá thư mà tôi chuyển giùm cho mẹ của một người bạn. Nhiều năm sau tôi mới ý thức rõ hơn tầm quan trọng của người phụ nữ ấy, bà Trần Thị Thức, phu nhân của ông Đoàn Viết Hoạt. Đó là một trong những vụ án chính trị đầu tiên của Việt Nam những ngày đầu mở cửa, có cái tên là vụ án Diễn Đàn Tự Do. So với facebook hôm nay, cái bản tin chia sẻ tin tức xã hội chính trị ấy chỉ là hạng chấm phẩy. Nhưng vào năm tháng đó, nó là một trái bom.

Tôi biết lờ mờ những cái tên Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh Quốc… qua những bì thư mà tôi được nhờ đi gửi minh bạch qua bưu điện thay cho cô Thức và những người bạn của cô. Có khi đó là một phần của tờ Thông Luận, hoặc một tâm thư của ai đó trong Câu Lạc Bộ Kháng Chiến cũ. Tôi coi mọi thứ đó là chuyện thư tín bình thường, cũng như cô Thức đơn giản chỉ là mẹ của người bạn cùng tên, nhỏ tuổi hơn mà chúng tôi gặp nhau trong khoa Anh ngữ, Đại học Tổng Hợp lúc đó.

Không ít lâu sau, tôi đối diện với việc một đợt điều tra của an ninh Việt Nam về những bức thư đó. Sau nhiều ngày thẩm vấn, do cuối cùng nhận ra tôi chỉ là một thằng nhóc sinh viên không đảng phái, thích làm chuyện bao đồng, phía an ninh dịu giọng và chuyển tôi vào dạng giáo dục tư tưởng. Hồ sơ tiết lộ tôi là một sinh viên khoa báo chí, nên phía an ninh quyết định để tôi nói chuyện với một người lớn tuổi hơn, cùng trong nghề báo.

Cuộc gặp gỡ diễn ra ở số 258 Trần Hưng Đạo, quận 1, Sài Gòn. Người chủ trì là anh Hải, đại uý PA25, còn người đến để giáo dục tư tưởng cho tôi là nhà báo Đoàn Thạch Hãn, lúc đó là cây viết của báo Công An TP với số ấn bản ngất trời 500.000 số/kỳ.

Hôm đó, phía công an nói rất ít, nhường lời cho anh Hãn, một người dáng thô, khoẻ, nói giọng miền Trung Việt Nam.

Anh Hãn nói với tôi rất nhiều thứ về chính trị, tư tưởng, mà thật lòng, tôi bỏ ngoài tai hầu hết. Chỉ đến khi anh hỏi rằng “Em có biết trước đây anh là gì không?”. Câu chuyện trở thành phần giới thiệu về anh Hãn, là người sống trong chế độ miền Nam Việt Nam Cộng Hoà, từng là một cây viết của báo Điện Tín. Sau này tôi còn được biết thêm anh Hãn, với ngày 30-4-75 là cột mốc tác động nhiều thứ đến đời anh, kể cả tù tội, khiến hôm nay anh như thế này.

Anh Hải, công an quê ở Củ Chi có đôi mắt đẹp và giọng nói mềm mỏng xin ngắt lời anh Hãn, và kể rằng vào giờ phút anh Hãn tuyệt vọng nhất, cán bộ cách mạng tìm thấy anh ở đường rầy xe lửa như định chọn cái chết. Cán bộ thuyết phục và khuyên giải nên anh Hãn đã hồi tâm và hôm nay trở thành một công dân tốt, phục vụ cho chế độ, đất nước. “Em nên coi chuyện anh Hãn như một tấm gương để sống và phục vụ cho tổ quốc”, anh Hải nói.

Tôi nhìn sang anh Hãn, hai ánh mắt chạm nhau im lặng, vô hồn. Anh không nói gì, tôi cũng không nói gì. Tôi không biết câu chuyện đó của anh Đoàn Thạch Hãn có thật hay không, nhưng trong suy nghĩ của tôi lúc đó chỉ là không biết buổi làm việc hôm nay có kịp cho tôi lao đến Đại học Tổng hợp sau giờ lên lớp chiều, rồi qua Nhạc Viện cho giờ học kế hay không.

Nhiều năm sau đó, tôi không gặp lại nhà báo Đoàn Thạch Hãn, mà chỉ thấy qua các bài viết của anh trên báo Công an TP. Là một người có máu văn nghệ, tôi đọc rất nhiều các bài viết của anh về Khánh Ly, về Duyên Anh… Thậm chí cả những bài viết hoàn toàn đầy chính trị về những người không chấp nhận Cộng sản mà ra đi. Trong giai đoạn chỉ có một tờ báo với một giọng điệu nói mà không có nơi phản hồi, anh là một cây viết sáng giá, lấp lánh như một bảo đao. Văn của anh lạnh và khinh miệt khi nói về những người cùng thời với mình. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều, bỏ nhiều thời gian để đi tìm hiểu về sự sắc bén của anh Hãn, để cuối cùng tâm nguyện rằng, dù phải chết, tôi cũng không chọn nghề viết, như cách của anh.

Có lẽ đã phí thời giờ của anh Hãn vào một ngày của năm 1997, năm mà rất nhiều người Hồng Kông đã không xuất ngoại vì bị thuyết phục rằng Trung Cộng sẽ đối xử với vùng đất của mình tử tế, rất tiếc, tôi muốn mình khác.

Bất ngờ tôi nghe tin nhà báo Đoàn Thạch Hãn mất vào một ngày tháng 9/2014. Đời người vinh quang hay tủi nhục có lúc rồi cũng đến điểm cuối cùng là phu du, vô nghĩa. Tất cả những kỷ niệm của tôi bật ra. Trên các trang blog hay facebook, tôi đọc nhiều điều tranh cãi về anh, có lẽ vì anh là một nhà báo lớn hoặc anh có quá nhiều bạn bè lẫn kẻ thù. Trên đất nước này, cũng có hàng triệu người như nhà báo Đoàn Thạch Hãn nằm xuống và lại gây tranh cãi – bởi đất nước của chúng ta là một phác đồ của nghịch cảnh, phác đồ của mỗi cá nhân bị buộc phải chịu trách nhiệm thay cho các nền chính trị đã điều khiến dân tộc này, chưa thấy đủ yêu thương đã ngập hận thù.

Tất cả chúng ta đã hoặc đang là nạn nhân của chính trị. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có một phần trách nhiệm, không thể chối cãi trong những bước đi của đời mình. Tôi cũng vậy, và anh cũng vậy.

Trên facebook của nhà báo Huỳnh ngọc Chênh, tôi thấy anh ghi lại một mẩu trò chuyện với nhà báo Đoàn Thạch Hãn rất thú vị. Trong đó, câu nói đáng nhớ của anh Hãn rằng “mình rất tiếc đã tự bôi đen đời mình quá nhiều”, khi nhắc đến những gì đã làm, đã viết. Trong ký ức cỏn con ập về, tôi nhớ lại những bài báo của anh Đoàn Thạch Hãn viết về văn nghệ sĩ đã tị nạn, về những cộng đồng Việt ngoài Việt Nam với khả năng nhuần nhuyễn của ngợi ca và phỉ báng. Tôi cũng nhớ đến đất nước này, với nhiều con người tự thú điều bí mật vào những phút cuối đời. Tôi cũng nghĩ về một ngày rất cũ, rằng không biết anh có thật sự muốn tôi học bài học ngày hôm ấy, trước mặt viên sĩ quan PA25 hay không. Nhưng mẩu đối thoại từ facebook của anh Huỳnh Ngọc Chênh, là phần kết quý báu của bài học mà tôi nhận được từ nhà báo Đoàn Thạch Hãn, cho việc chọn một lẽ sống đúng trên đất nước này.

Người Việt hay nói đến câu “nghĩa tử là nghĩa tận” để bày tỏ sự hoà ái cho một người đã ra đi. Nhưng “tận” không hoàn toàn có nghĩa là hết hẳn. Nếu chúng ta im lặng và chối bỏ những gì đã có, và chôn vào quên lãng tất cả là giả dối và khốn nạn với lịch sử con người. Đúng là có những thứ cần phải quên, nhưng có những thứ cần phải nhớ. Thậm chí chính người đã mất cũng ước muốn chúng ta phải nhớ.

Nhớ, để đó là một bài học dành cho chúng ta về kiêu hãnh hay điếm nhục trong cuộc sống, nhưng hãy quên, vì độ lượng thứ tha trong trái tim của mỗi con người, để chia sẻ về những điều cay đắng thầm kín của người dành lại, trong gia tài khốn khó của quê hương này.

TUẤN KHANH’s BLOG

Tháng bảy tro bụi

tuankhanh

Tháng bảy âm lịch. Ngày gần cạn, ngôi chùa nhỏ gần nhà gửi thư lần chót nhắc các gia đình có hài cốt thân nhân nhớ làm trọn bổn phận làm con.

Thư của chùa nhắc nhở chung, bởi rất nhiều gia đình sau khi gửi hài cốt cha mẹ vào chùa, kể như là trọn bổn phận. Quanh năm có những hương phần bụi bám dầy, không còn thấy rõ mặt người. Thậm chí, có những phần nằm im không ai thăm viếng đến cả chục năm.

Sư ông kể đã có lần, chùa phải kêu gọi bá tánh giúp đỡ, đem hàng trăm hương phần như vậy, chở lên tàu, đưa ra sông làm lễ rãi đi. Những tro bụi còn lại của những người quá cố, quanh năm không còn ai thăm viếng, có cái chuột chạy làm ngã, đổ bể, không có ai dựng lại. Tro rãi trên sông, bay đi theo gió, đôi khi có thể còn tự do và đỡ buồn tủi hơn năm im ở góc nào đó để gánh vác cho vinh danh hiếu tử cho người còn sống.

Tất cả rồi chỉ là tro bụi, thậm chí là tro bụi trong trí nhớ của người đang sống. Phật dạy mọi thứ thật vô thường nhưng có chứng kiến, mới thấy vô thường không chỉ ở nhục thân, mà vô thường đeo dẳng trinh đời người, tạo ra muôn vàn vô nghĩa cho đến khi ta giật mình nhận ra.

Trong những câu chuyện võ hiệp kỳ tình phiêu lưu của nhà văn Kim Dung, thường những cái kết truyện của ông luôn làm người đọc nao nao, vì nhận ra sau những cuộc bể dâu, ngay cả người đạt được tất cả cũng muốn lìa bỏ vì thấy mọi thứ trên cõi nhân gian đều như tro bụi. Vinh quang, tước vị, quyền lợi, tài sản… tất cả như những cái bẫy để con người nhận diện ra mình đê tiện hay hèn hạ mức nào.

Trương Vô Kỵ chỉ mong rõ bỏ mọi thứ, để chỉ được kết thúc cuộc đời vô danh kẻ chân mày cho người đẹp Triệu Minh. Thiên hạ vô địch Dương Quá thì chỉ mong bước ra khỏi nhân gian, mong được sống và chết trong im lặng để không còn nghe tiếng lao xao trần thế. Trong một lần trả lời với báo chí, nhà văn Kim Dung nói rằng trong các mối tình mà ông dựng nên – Dương Quá và Tiểu Long Nữ là đôi danh hiệp mà ông thích thú vì thách thức mọi lề thói và đạo đức giả tạo của nhân gian, vì có sống cho vừa lòng ai, thì cuộc đời cũng như giấc mộng trôi về tro bụi.

Tháng bảy nhắc người ta về hiếu đạo, nhắc người ta rằng mọi thứ về cuộc đời rồi sẽ đến lúc như tro bụi, vô nghĩa. Dẫu vật nài, giành cho được về phần mình, thì rồi cũng về cõi hư vô.

Vua Quang Trung khi lên ngôi Hoàng Đế năm 1788, để thị uy đã quật mộ thân phụ của vua Gia Long rồi vất bỏ xuống sông. Đến năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh giành lại vương quyền, đã quật mộ và nghiền nát hài cốt của anh em Nguyễn Huệ để rửa hận. Lịch sử như một bài hát khôn cùng về cõi người và tro bụi.

Tháng bảy liêu xiêu, nghe người ta nói nhiều về được và mất. Có người buồn vì thấy mất tên trong một bản in, có người mất vì thêm những dấu sắc trong một áng văn của mình.

Nhưng khó mà biết, ai là người được, ai là người mất. Có khi tên không còn được khắc bảng, nhưng được nhớ mãi trong lòng người. Có khi mất một chỗ ngồi tiểu lộ, lại thấy đại lộ thênh thang rộng mở trước mắt mình. Trong bài hát Những gì sẽ mang theo vào cõi chết của Phạm Duy, ông cũng để lại những chú giải về cuộc được mất với đời này: “không đem theo với tôi được giới hạn tiếng anh hùng, tôi không đem theo với tôi được tượng đồng bia đá trắng”.

Kẻ ác có làm tất cả để thoả mãn cho mình, tương lai cũng chỉ là tro bụi. Vạn lý trường thành xây nên bằng khôn xiết bao xương máu dân lành, giờ chỉ là chỗ bán vé vào mua vui cho lũ trẻ. Có những triều đại độc tài, giết chết ai đó chỉ bằng một vài con chữ, rồi ngày sau quyền lực đó chỉ còn là tro bụi, bêu danh cho đời sau phỉ nhổ.

Chuyện kể rằng Tào Tháo đi đánh giặc xa, lương thực không đủ, quân lính oán thán và suy sụp tinh thần. Muốn quân không loạn, Tào Tháo thuyết phục quan giữ kho lương rằng hãy nhận giùm tội tham nhũng, nhưng bù lại sẽ được phát thẻ để vợ con được ăn lộc suốt đời. Ngày quan giữ kho bị chém và tin rằng mình là một anh hùng cứu nước, thì cũng là lúc vợ con của ông được phát thẻ hưởng lộc. Thẻ mua tro bụi ấy, thẻ gì?

Tháng bảy dành cho những giờ phút nghĩ lại. Có thể Sư ông không sai khi tiễn những tro cốt vô danh vào thế giới. Có thể đó là sự giải thoát cuối cùng mà những hương phần đó, vốn đã phải chịu đựng bấy lâu nay cho vỏ bọc hiếu nghĩa của con cái, cho phần còn sót lại, cứ phải bấu víu cuộc đời thường. Tiếng đọc kinh đều đều như lời chúc bình an cho lộ trình mây trắng. Thật an nhiên.

Chúng ta có là tro bụi, hay đang mãi miết đuổi theo tro bụi không?

Tuấn Khanh ‘s Blog

Rồi như đá ngây ngô

tuankhanh

Báo chí Việt Nam đang rộ lên chuyện một bộ phim truyền hình của Ấn Độ kéo dài đến gần 2000 tập. Các ý kiến được dẫn lời về bộ phim, cái thì khen tài làm phim dài hơi, cái thì chê bai mọi chuyện cứ kéo lê thê một cách không cần thiết và buồn chán.

Khán giả hôm nay thật khó mà chìu chuộng được. Báo chí cũng khó mà chìu lòng được. Thật khác với trước kia, khi truyền hình vẫn lê thê và chán chường với các buổi chiếu Đơn giản tôi là Maria, Người giàu cũng khóc… dù không thích nhưng nhiều gia đình vẫn tụ họp nhau trước màn ảnh để xem – như một trong những món giải trí quan trọng nhất trong ngày. Và những ngày ấy, dù phim nhạt hơn nước ốc, cũng có không ít những bài viết ca ngợi nền điện ảnh Mỹ Latin, ca ngợi những tập phim tố cáo chế độ tư bản ung nhọt và thối nát… Đời sống chợ đêm hay Khi người ta yêu cũng chỉ là các cuộc trò chuyện lãng đãng, rồi kéo dài như vô tận, cũng có thời từng được nhiều báo khen ngợi.

Một bộ phim nhiều tập, tự nó đâu có lỗi lầm gì, phải không?. Nhân loại đã chứng kiến không ít các bộ phim dài tập đến giật mình, diễn viên già nua theo năm tháng vẫn phải bám theo diễn xuất. Mô-típ kịch bản thế nào rồi cũng đoán được. Phim giải trí vẫn được làm thêm tập theo nguyên tắc “còn người xem còn chiếu”. The Friends với David Schwimmer, Jennifer Aniston… được kéo đến 10 năm, các diễn viên phải năn nỉ xin thôi vì không còn sức để diễn những vai độc thân hài hước và trẻ trung nữa. Vậy mà khi phim ngừng, không ít khán giả đã khóc than, tiếc nuối.

Có vài lý do suy đoán về chuyện báo chí đột ngột lên tiếng chê bai phim dài tập: gắng nói vì không còn gì để nói, hoặc vì khán giả ai nấy hôm nay không còn đủ kiên nhẫn như xưa nữa. Cuộc sống rầm rập những đổi thay bên ngoài bất tận như giá xăng, giá dầu, giá điện, giá thực phẩm… khiến người ta không còn an nhiên nữa để ngồi thưởng thức những câu chuyện dài không hồi kết.

Có lẽ mất kiên nhẫn trước cuộc sống đang sôi sùng sục, là một lý do quan trọng. Giới trẻ mất kiên nhẫn trước thể kỷ hiện đại, nên chọn cho mình một lối thưởng thức âm nhạc hiện đại dồn dập, thôi thúc. Các nhà điện ảnh cũng không còn kiên nhẫn trước các kịch bản dàn trãi, mà vào phim phải lập tức bắn, giết và nude. Các nhân vật nổi tiếng thì tranh nhau nói những điều rỗng tuếch và ngu ngốc để được báo chí đưa tin, chỉ vì sợ thua một bước chân của chúng bạn trên đường đua vô nghĩa.

Con người Việt Nam đang mất kiên nhẫn với điện ảnh, với thảm họa âm nhạc, với văn chương trộm cắp lẫn nhau… âu thì cũng là một niềm vui. Cũng đến lúc mà sự mất kiên nhẫn cho thấy mặt tích cực của nó: thôi thúc sự đổi thay và nhận diện đúng mọi thứ chung quanh mình. Con người không còn thụ động ngó nhìn và im lặng, như đá ngây ngô.

Nhưng mong rằng sự mất kiên nhẫn đó của người Việt sẽ lớn hơn, đi xa hơn trong một cuộc sống đang cần thật nhiều lửa trong trái tim mình, cần nhiều tiếng đập cửa để nghe tiếng vọng lại, để phá vỡ không gian phong bế vô hình, không chỉ là chuyện phim ảnh tầm ruồng.

Cũng đã đến lúc người Việt cần nhận ra rằng, chính cuộc sống thực tế hôm nay, không khác gì những cuốn phim dài tập không kết cục đến đáng giận. Người Việt cũng cần tắt bỏ những hình ảnh chớp lóa thôi miên trước mặt, dụi mắt và đòi chấm dứt trong một cái kết có hậu tức thì. Lúc này, người Việt rất cần mất kiên nhẫn để đứng dậy, rời khỏi gánh hát xã hội chính trị vô tận ngu xuẩn vẫn thấy.

Sự mất kiên nhẫn đó, đã được thể hiện bằng lời mỉa mai nhức nhối về chuyện xã hội Việt Nam có loại người như ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), luôn miệng cười tươi và kiên cường khuyên nhủ dân chúng ăn thực phẩm có chất độc nhập từ Trung Quốc. Sự mất kiên nhẫn đó là cách dân chúng liên tục chỉ ra nạn bạo hành, lạm dụng quyền lực và coi thường công dân trong giới cảnh sát giao thông, công an đang ngày càng dâng cao, thông qua các bài viết và video. Sự mất kiên nhẫn đó là câu hỏi được nhắc từng ngày về sự công chính cần thiết trong vụ án Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng… về những tượng đài vụn vỡ vì bị ăn bớt, về những đền đài, dinh thự xây âm thầm, về đại lộ, cầu cống ngàn tỉ sụp đổ vì nạn tham nhũng, do các quan chức coi thường nhân dân mình.

Đừng nói với tôi là bạn không thấy xã hội và thông tin ở Việt Nam đang ngày càng mất kiên nhẫn nhé?

Sự mất kiên nhẫn đó cũng đang được nhìn thấy ở vỉa hè, ở facebook, lan rộng ở các câu bình luận trong các trang báo điện tử… người ta đang nói với nhau về những bộ phim không có hồi kết, những bộ phim đời thật sự nhức nhối cần phải nói, hơn là những tập phim truyền hình duy giải trí.

Tôi vẫn nghĩ có thể vào lúc nào đó, xã hội Việt Nam sẽ còn mất kiên nhẫn hơn và quyết liệt hơn nữa khi đưa ra những câu hỏi, cần phải được trả lời cho chuyện tàu cá Trung Quốc ngày đêm liên tục đâm tàu Việt Nam – ngay trong biển Việt Nam, mà quốc hội thì ngủ gật, về sớm và lặng im. Cuốn phim kéo dài và vô lương về chuyện khai thác bauxite cho Trung Quốc càng làm càng lỗ, sau ba năm lỗ đến gần 38 triệu USD, vì sau cứ phải lầm lũi kéo dài? Ôi những cuốn phim đau thương đó trong đất nước này, đang chồng chất, đợi trình chiếu với kết cục đau thương.

Kiên nhẫn là điều cần thiết, nhưng luôn nằm trong vùng ước lệ, qua việc nhìn thấy thực tế hiển hiện. Mất kiên nhẫn là điều thường được coi là không tốt. Nhưng mất kiên nhẫn khi phải chứng kiến các bộ phim đời vô đạo và khó hiểu kéo dài lại là điều cần thiết.

Kiên nhẫn tột bật có thể là thánh nhân. Nhưng kiên nhẫn trước những điều ngụy lý bại thường quanh mình, có thể biến mình thành vô tri như đá cuội – biến mình thành như đá ngây ngô, phải không, người bạn đang đọc tôi?

Tuấn Khanh’s Blog

—————————————————————-