MƯA ƯỚT VỊ THÀNH

Cách đây hơn 20 năm, tôi bắt đầu tham dự khá thường xuyên vào các sinh hoạt văn học ở hải ngoại, trong suốt một thời gian khá dài kể cả lúc còn làm việc toàn thời gian ở NASA trước khi về hưu. Hợp tác với Wayne Karlin để thực hiện tuyển tập văn chương chiến tranh The Other Side of Heaven, hợp tác với giáo sư Huỳnh Sanh Thông của đại học Yale cho tập san Việt Học The Vietnam Review, viết bài và hợp tác với một số tạp chí văn học Việt Nam ở hải ngoại, thuyết trình ở một số hội thảo về văn học, v.v… Sự tham dự tương đối năng động vào những sinh hoạt đó có vẻ như bất bình thường, vì văn học là một lãnh vực tôi không hề được đào tạo ở trình độ cao. Mà, ngay cả ở trung học, bạn bè đều biết tôi là một đứa học trò rất tầm thường về môn văn. Từ bé tới lớn, tôi chưa bao giờ có ý nghĩ trở thành một nhà văn hay một giáo sư văn chương.

Một hôm, trong một hội thảo hè dành cho các nhà văn trẻ tổ chức ở đại học St. Mary thuộc tiểu bang Maryland, một nhà văn trao đổi với tôi về trường hợp của cô. Cô mê văn chương, viết rất nhiều truyện ngắn, đang vật lộn với đời sống và phấn đấu với chính mình để xem có nên tiếp tục sống toàn phần cho văn chương và bán phần cho sinh kế, hay ngược lại. Cô muốn tôi lấy kinh nghiệm cá nhân để giúp cô ý kiến. Rất tiếc, hôm đó tôi chẳng giúp gì được vì chẳng có kinh nghiệm nào về chuyện này. Câu trả lời của tôi khá mông lung. Văn chương có giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống của tôi thật nhưng không phải để tôi trở thành nhà văn, mặc dầu đôi khi, do những gì đã viết ra, nhiều người trong văn giới gọi tôi là nhà văn. Tuy nhiên, nhân câu chuyện trên, tôi thấy cần viết một bài về đề tài này, về cái vị trí của văn chương trong đời sống của mình, để từ kinh nghiệm riêng chia sẻ được gì với người khác. Đặc biệt, tôi muốn chia sẻ với những bạn trẻ giống như tôi trước đây, không được đào luyện tốt về văn chương ở trường ốc và sống với những ngành nghề gần như trái ngược. Tôi xin viết một cách tản mạn, và tản mạn từ những chuyện rất riêng tư.

Tôi tin mỗi người trong chúng ta đều mang trong tim mình những dấu ấn, những tì vết gây ra từ một biến cố trong đời, một chấn động mạnh hay có thể chỉ là một hình ảnh đến rất nhanh, như một nụ cười, một giọt nước mắt, … Để rồi, sau đó, vào một lúc rất bất chợt, con tim nhói lên, cái cách vui buồn thương ghét trong cuộc đời bỗng thay đổi. Một bài thơ, một cuốn sách đã đọc vào một lúc nào đó cũng có thể làm nên chuyện như vậy.

Tôi xuất thân là một thầy giáo toán, được gọi nhập ngũ khi có lệnh tổng động viên lúc chiến tranh ở miền Nam trở nên tàn khốc. Sau hơn hai năm, được biệt phái trở về dạy học lại. Cách sống của tôi thay đổi hẳn. Đời sống trong quân ngũ có làm tôi thay đổi thật, nhưng ảnh hưởng lớn nhất thật ra là từ một bài thơ, của một nhà thơ sống cách đây hơn ngàn năm ở một nơi xa lắm.

Cách đây gần 50 năm, sau khi tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi đi trình diện đơn vị ở một hải đảo xa. Tôi nhớ, đó là một buổi sáng mưa nhẹ hột. Trên đường đi đến đơn vị, tôi và một người bạn cùng khóa mang ba-lô đi bộ lên một ngọn đồi, trên đó có một quán ăn nhỏ. Chúng tôi vào quán uống cà phê. Ngồi khá lâu vì mưa bắt đầu nặng hột. Đơn vị ở cách đó không xa nhưng qua mưa không nhìn thấy. Cả hai châm thuốc hút, rồi bỗng nhiên, tôi nhớ tới một bài thơ của Vương Duy. Tôi đọc lên. Bạn tôi chỉ mỉm cười, im lặng, phà khói thuốc, rồi lãng đãng nhìn những giọt mưa rơi từ mái tôn xuống bậc thềm. Năm đó, dù đã dạy học một thời gian trước khi động viên, tôi chỉ mới vừa qua tuổi 26. Bạn tôi, cũng cùng tuổi và cả hai đều đã có gia đình. Tôi nhớ rất rõ bản tiếng Hán, Vị Thành Khúc (), của Vương Duy:

Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần

Khách xa thanh thanh liễu sắc tân

Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu

西Tây xuất Dương Quan vô cố nhân

Và, cả bản dịch của Ngô Tất Tố:

Trời mai mưa ướt Vị Thành
Xanh xanh trước quán mấy nhành liễu non
Khuyên chàng hãy cạn chén son
Dương Quan đến đó không còn ai quen

Đây chắc không phải là bài thơ hay nhất của Vương Duy và càng không phải là bài thơ hay nhất của Đường Thi. Chắc cũng không có bao nhiêu bạn đọc cảm xúc gì nhiều khi đọc bài này. Nhưng, với tôi, khi đọc lên tôi xúc động. Tôi biết tôi đã đọc nó lần đầu tiên từ cuốn Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, lâu lắm rồi, khi còn ở trung học, trong căn nhà cũ gần bờ biển Nha Trang, nơi tôi đã sống suốt tuổi thơ. Bài thơ đó, thời gian đó, không gian đó, với những xúc cảm của lúc đó, tưởng quên đi, nhưng không. Cũng từ đó, tôi đọc nhiều sáng tác văn học hơn mỗi khi rảnh và nhớ lại nhiều bài thơ đã học và đã quên.

Ở hải đảo có một thời gian tôi làm sĩ quan tuần tra. Tôi nhớ, một buổi tối, mưa tầm tã, khi hết phiên trực, tôi ghé vào lều của một ông thượng sĩ già, xin cà phê uống. Ở đó, người sĩ quan trực kế tiếp, MDT, cũng đang ngồi uống cà phê. MDT trước khi động viên dạy Pháp văn ở Huế. Trong khi trò chuyện, bỗng nhiên T nói về những tiểu thuyết Pháp đang ăn khách như Bonjour Tristesse, Un Certain Sourire,… của Françoise Sagan, rồi quay trở lại nói về những tác phẩm học ở thời trung học, những tác phẩm của Alphonse Daudet hay Anatole France, rồi Nguyễn Du của ngày xưa, rồi Bùi Giáng của ngày nay, rồi quay sang nói về Sartre, về Camus, v.v… Chúng tôi nói say sưa, ông thượng sĩ già châm thêm cà phê, lặng lẽ nghe và thỉnh thoảng nở nụ cười độ lượng. Trước khi chia tay và bắt đầu phiên trực của mình, T nói với tôi: “Tụi mình… à la recherche de la jeunesse perdue!” Tôi cũng thấy mình già đi thật. Bây giờ, mỗi lần nghĩ lại, thấy… tếu tếu. Tuy nhiên, những câu chuyện theo kiểu câu chuyện trong lều của ông thượng sĩ già đó, đã giúp tôi rất nhiều để những ngày tháng nơi hải đảo bớt đi cái nhớ nhà, cái lo sợ, cái nhàm chán. Và, dù hễ mở miệng là thích nói về cái tuổi trẻ đã mất, nhưng chính vào thời gian đó, từ những câu chuyện văn chương đó, tôi thấy cái tuổi trẻ thật sự của mình bắt đầu bừng lên một sức sống mãnh liệt. Tôi nghĩ đến những ngày tháng tới, khi không còn chinh chiến, hay khi được trở về với đời sống thường dân, tôi sẽ sống khác, nhìn cuộc đời cách khác. Và, quả thật, khi về lại, tôi vẫn tiếp tục dạy toán, nhưng tôi có khác.

Trên sách vở, trong nghiên cứu, toán học và văn học có một lằn ranh rõ rệt, nhưng trong mỗi con người, lằn ranh đó có thể rất mờ nhạt. Khi tìm hiểu về cuộc đời các nhà toán học, tôi ấn tượng nhất về một thiên tài mà cuộc đời ngắn ngủi của ông có thể là đối tượng tuyệt vời cho một tác phẩm văn chương. Một thiên tài đã sống tận cùng cho sự đam mê về toán học, về những lý tưởng nhân bản, và về chất lãng mạn trong tình người và tình yêu. Tôi muốn nói về Evariste Galois. Ông sinh ngày 25 tháng 10 năm 1811 ở Bourg-la-Reine, Pháp. Năm 14 tuổi đã bắt đầu có những ý niệm mới và nghiêm chỉnh trong toán học. Đến năm 19 tuổi ông đã công bố những công trình quan trọng làm nền tảng cho “Lý Thuyết Galois” và “Lý Thuyết Nhóm” trong đại số trừu tượng (abstract algebra). Trong lúc chăm chú vào những phát kiến toán học, ông vẫn tham gia vào chính trị Pháp, tranh đấu cho nền cộng hòa Pháp, đi đầu trong cuộc biểu tình chống đối vua Louis Philippe. Bị bắt và bị xử sáu tháng tù. Trong tù, ông ngồi viết tiếp những công trình toán học. Ra khỏi tù tháng 4, 1832. Qua tháng sau, để bênh vực danh dự của người yêu, Stephanie-Felice du Motel, ông chấp nhận tham dự một cuộc đấu súng. Năm ngày trước cuộc đấu, ông viết thư cho một người bạn, tâm sự về mối tình này. Đêm trước khi đấu, biết rằng mình sẽ chết, ông thức suốt đêm để hoàn tất những công trình toán học còn dở dang. Sáng sớm hôm sau, ông bị bắn ở bụng, mọi người bỏ đi, để ông nằm một mình ở đấu trường. Đến 10 giờ, một nông dân nhìn thấy đưa đến bệnh viện gần đó. Chỉ có người em trai, Alfred, được thông báo. Câu cuối cùng ông nói với em: “Đừng khóc, Alfred! Anh cần sự can đảm để chết ở tuổi hai mươi.”

Một trăm bốn mươi năm sau, ở Nha Trang, tôi bắt đầu dạy sinh viên Lý Thuyết Nhóm của Galois. Chương trình trung học Pháp đưa Lý Thuyết Nhóm vào năm cuối của ban toán trước đó vài năm. Chương trình trung học Việt thì chưa.

Tôi không phải là một thiên tài như Galois, dĩ nhiên, nhưng toán học ảnh hưởng vào đời sống tôi rất nhiều, Những hiểu biết cơ bản về toán học cũng đã giúp tôi không ít khi đi vào các chuyên môn khác như vật lý hạt nhân, như kỹ sư điện hay như kỹ thuật không gian mà sau này tôi phải sống với nó một thời gian khá dài. Tuy nhiên, điều tôi muốn chia sẻ ở đây với các bạn trẻ là tinh thần toán học, nhất là, thói quen tìm giải đáp cho những nghi vấn, đã giúp tôi đến với văn chương thi vị hơn. Xin kể một câu chuyện. Thời còn ở trung học, tôi được đọc bản tiếng Việt một tác phẩm của Leo Tolstoi, nhan đề Một Bản Đàn, do nhà văn Trương Bảo Sơn chuyển ngữ, có lẽ từ một bản tiếng Pháp. Tôi đọc say mê. Tác phẩm xây dựng trên thảm kịch của một cặp vợ chồng. Vì nghi ngờ vợ mình có tình ý với một ông thầy dạy nhạc, một nhà quý tộc giàu có nổi cơn ghen giết vợ. Một truyện dài rất hay. Rất thích nhưng tôi luôn tự hỏi tại sao nhà văn TBS lại đặt nhan đề là Một Bản Đàn. Vì, sau này, sau khi được đọc bản dịch tiếng Pháp La Sonate à Kreutzer, tôi ngờ rằng Tolstoi rất có cố ý khi lấy tên một bản sonate của Beethoven, “Bản Sonate cho Kreutzer”, làm nhan đề cho cuốn tiểu thuyết. Nó phải là bản sonate đó chớ không phải một bản đàn nào cũng được. Ý của Tolstoi, theo tôi, là chính bản nhạc đó, bản sonate đó của Beethoven, đã đóng góp vào thảm kịch. Nhưng, tôi không chắc lắm, vì không biết gì về bản sonate này.

Hơn hai mươi năm sau, khi sống ở Philadelphia, một hôm có dịp vào thư viện thành phố. Tình cờ, thấy bản tiếng Anh, The Kreutzer Sonata, tôi nhớ lại cái nghi vấn ngày nào. Tôi vào phòng thính âm, xin được nghe bản sonate này. Bản “Sonate cho Kreutzer” được Beethoven soạn cho dương cầm và vĩ cầm. Bản tôi được nghe do Arthur Rubinstein và Henryk Szeryng trình tấu. Rubinstein phụ trách dương cầm, Szeryng vĩ cầm. Tôi nghe đi nghe lại nhiều lần. Tiếng dương cầm hòa với tiếng vĩ cầm một cách tài tình, réo rắt, tha thiết, làm ruột gan người nghe thắt lại. Tôi hình dung ra buổi hòa nhạc trong ngôi nhà vị quý tộc. Tôi tưởng tượng ra cảnh ông quý tộc ngồi nhìn vợ mình với ông thầy dạy nhạc say sưa trình tấu, như không cần biết có ai xung quanh. Ông quý tộc giàu có nhưng trong người ông không có bao nhiêu chất âm nhạc, chất thi ca. Ông nhìn cảnh vợ ông (chơi dương cầm) với ông thầy (chơi vĩ cầm) để hết tâm hồn vào bản nhạc. Tiếng nhạc quyện lẫn vào nhau da diết mãnh liệt. Ông hình dung ra một cảnh khác. Ruột gan ông bấn lên nhưng ông ghìm lại. Sau buổi trình tấu, ông vẫn giữ cung cách của một quý tộc, cười nói khen ngợi vợ. Một thời gian ngắn sau đó, thảm kịch xảy ra.

Cách đây ba năm, tôi lên Amazon tìm mua CD bản The Kreutzer Sonata cũng do Rubinstein và Szerying trình tấu để nghe lại. Tôi tin rằng tôi hiểu được ý của Tolstoi khi chọn bản sonate này làm nhan đề cho cuốn tiểu thuyết. Tôi tin rằng cái nghi vấn của tôi đúng. Nhưng, thật ra, đúng hay sai không quan trọng. Quan trọng là chính cái nghi vấn đó đã cuối cùng mang đến tôi một niềm vui, một may mắn, được thưởng thức một bản sonate tuyệt vời. Riêng đối với nhà văn Trương Bảo Sơn, dù vẫn không đồng ý với ông về cách đặt tên cho bản dịch cuốn tiếu thuyết, tôi luôn kính trọng ông, và rất cám ơn ông đã đem đến cho lớp trẻ chúng tôi vào thời đó một món ăn tinh thần rất có giá trị của Leo Tolstoi.

Leo Tolstoi và Fyodor Dostoyevsky là những tên tuổi lớn của văn học cổ điển Nga, và của cả nhân loại. Ngoài hai nhà văn này, sự hiểu biết của tôi về văn học Nga vào thời còn đi học rất giới hạn. Về sau, do tình cờ, tôi đọc Anton Chekhov qua các bản dịch tiếng Anh và thích tác giả này, đặc biệt các kịch phẩm của ông như Three Sisters (Ba Chị Em), The Cherry Orchard (Vườn Anh Đào)… Do thích vở Three Sisters nên khi biết vở này được trình diễn tại một kịch viện nhỏ, The Studio Theatre, tôi đến xem. Nhân vật chính trong kịch là một gia đình có ba chị em và một em trai. Thời trẻ họ sống ở Moscow khi ông cha chỉ huy một lữ đoàn ở đó, cho đến khi ông về hưu cách đó mười một năm. Sau đó họ mất cả cha lẫn mẹ. Giấc mơ của ba chị em là một ngày nào đó họ sẽ về lại Moscow. Nhiều tình tiết và bi kịch được dựng lên từ đó. Lời lẽ trong vở kịch trình diễn ở The Studio Theatre hơi khác trong bản dịch tiếng Anh trong sách một chút. Tối hôm đó, sau khi dự vở kịch xong, về lại nhà, nghĩ lại vở kịch, tôi nhớ nhất câu nói và cách nói của người đóng vai Irina (cô em út) nói với Olga (cô chị cả): “Chị Olga, em sẽ lấy Nam Tước, em sẽ về Moscow. Tụi mình sẽ về Moscow.” Và rồi, tôi nghĩ đến một buổi tối ở giảng đường của trường Đại Học Duyên Hải trên đường Yersin, Nha Trang. Tối hôm đó, bạn tôi, giáo sư Bửu Ý, thuyết trình một đề tài đặc biệt: “Văn Chương Trên Giấy, Văn Chương Trên Sàn Gỗ.” Trong phần thuyết trình, một sinh viên Việt Hán, Dương Đề, được Bửu Ý chọn lên trình bày vài diễn xuất ngắn. Những câu nói trong phần diễn xuất của Dương Đề luôn chấm dứt bằng câu “Ngày mai tôi sẽ về Sài Gòn.” Bao nhiêu năm đã trôi qua, tôi vẫn còn nhớ khá rõ dáng điệu của Dương Đề khi vừa đi vừa nói câu đó trên sân khấu. Bửu Ý là một hoc giả nổi tiếng, dạy văn chương Pháp ở Đại Học Huế, và cũng là một kịch tác gia. Kịch phẩm Sương Hồng và Tuyệt Địa của Bửu Ý đã được xuất bản và trình diễn ở Sài Gòn trước 1975. Bửu Ý được mời phụ trách tín chỉ nhiệm ý về kịch nghệ cho sinh viên Duyên Hải và cùng với thầy Bửu Phi giúp sinh viên thực hiện một vở kịch cho đại học. Sau 1975, Bửu Ý có thời gian làm chủ nhiệm ban Văn Chương Pháp ở Đại Học Huế, nhiều lần được mời sang giảng dạy ở Pháp. Anh cũng được tưởng thưởng một huy chương cao quý của Pháp do chính đại sứ Pháp tại Việt Nam đích thân trao tặng. Tuy nhiên, không thấy Bửu Ý còn dính dấp gì đến kịch nghệ. Vở kịch năm xưa chắc chắn không thế nào được tái bản. “Văn chương trên sàn gỗ” cùng với trường Đại Học Duyên Hải đã hoàn toàn đi vào quá khứ.

Nhiều thứ đã đi vào quá khứ nhưng vẫn để lại những dấu vết sâu đậm trong tim mình. Tôi muốn nói về một câu chuyện thật, được kể lại để làm nền cho tác phẩm The Bridge on the Drina (Chiếc Cầu trên sông Drina) của nhà văn Nam Tư (Yugoslavia) Ivo Andrić, giải thưởng văn chương Nobel 1961. Tác phẩm lấy bối cảnh của thành phố Visegrad của Bosnia từ thế kỷ 16 trở về sau. Đây là nơi thường xuyên chứng kiến những tranh chấp tàn bạo giữa hai đế chế Thổ và Áo-Hung, và cũng là tranh chấp giữa Hồi Giáo với Thiên Chúa Giáo (gồm Công Giáo và Chính Thống Giáo) liên tục suốt 400 năm. Để ngăn chận sự phát triển của Thiên Chúa Giáo, người Thổ tổ chức bắt cóc những đứa con nít thuộc gia đình Thiên Chúa Giáo, thường là những gia đình nghèo, đưa sang vùng cai trị của Thổ, bên kia sông Drina. Những đứa bé này được cải sang đạo Hồi và lớn lên như người Thổ. Rất nhiều bà mẹ đưa con đi chợ với mình, quay nhìn lại không thấy con đâu, rượt theo kẻ cướp cho đến bờ sông Drina, dừng lại, ngơ ngác nhìn theo chiếc phà chở con qua sông. Lúc đó, phà là phương tiện duy nhất để qua sông. Bên kia là vùng cai trị của đế quốc Thổ.

Thời gian đầu ở Mỹ, cả gia đình tôi còn lại Việt Nam. Hình ảnh những bà mẹ đứng ngơ ngác bên này sông Drina luôn ám ảnh. Có nhiều đêm, tôi nằm mơ thấy dẫn các con đi chơi, đang ngồi ăn uống vui vẻ, chợt nhìn lại không thấy con mình đâu. Tôi thức dậy, tim còn nhói. Mãi sau này, bao nhiêu năm sau khi đã đoàn tụ đầy đủ với gia đình, những giấc chiêm bao như vậy thỉnh thoảng vẫn hiện ra. Tôi đồng cảm với cái nhói tim của ông Tể Tướng Thổ, Mehmed-paša Sokolović. Một trong những đứa bé bị bắt qua sông Drina như đã nói trên đây được một gia đình quyền quí Thổ nhận làm con nuôi, đổi đạo, đổi tên. Lớn lên, nhờ tài năng, thăng lần lên đến bậc thang cuối cùng của danh vọng, giúp đế quốc Thổ bành trướng tận Trung Âu, giữ chức Tể Tướng (First Grand Vizier) cho Thổ. Với ông Tể Tướng Thổ, chuyện đứa bé bị bắt đưa qua sông ngày nào tưởng đã hoàn toàn đi vào quá khứ. Nhưng không, có người nói là ông thường bị những cơn nhói tim. Vào một lúc như vậy, có lẽ, ông làm một quyết định lớn là cho xây một chiếc cầu qua sông Drina. Xây từ năm 1566 nhưng mãi đến 5 năm sau mới hoàn tất. Và, từ đó, cây cầu cũng như con sông tiếp tục chứng kiến bao đổi thay, bao bi hài kịch của cuộc đời, và cả bao tàn phá lẫn xây dựng.

Ở trên, tôi có nói về buổi thuyết trình của Bửu Ý trong một giảng đường của Đại Học Duyên Hải. Cũng chính trong giảng đường đó, một người bạn khác, nhà thơ Huy Tưởng, đã trình bày một đề tài về Thi Ca. Tôi xin kể lại đây câu chuyện mở đầu của Huy Tưởng. Có một ông thần, một buổi tối đẹp trời ông bay qua một con sông, nhìn xuống thấy một người con gái đang tắm dưới ánh trăng. Ông đoán đó là một hình ảnh đẹp và ông muốn biết nó thực sự đẹp như thế nào, ông muốn tận hưởng nó. Ông phải đến gần. Sợ gây tiếng động mạnh làm cô gái hoảng sợ, ông biến thành một con chuột, nhẹ nhàng đến gần cô gái. Tuy nhiên, là chuột thì cái ham thích chỉ là những rác rưới trên bờ sông, nó không màng gì đến cô gái, nó không thấy cô gái đẹp chỗ nào. Thất bại. Ông biến ra nhiều hóa thân khác. Có hóa thân là một vị hoàng đế trẻ đẹp, quyền uy. Nhưng, khi thấy cô gái, vị hoàng đế chỉ muốn ra lệnh đưa nạp cô vào cung. Thất bại. Và, nhiều thất bại tiếp theo. Cuối cùng, ông quyết định biến thành một thi sĩ. Người thi sĩ thấy được cái hồn nhiên, thanh thoát của cô gái, và cái đẹp tuyệt vời của sự quyện lẫn giữa thân xác mịn màng với trăng vàng long lanh trên mặt nước. Ông thành công.

Huy Tưởng! Bạn đang ngồi đâu đó, nếu có đọc những dòng chữ này xin đừng cười. Dĩ nhiên là tôi… cương. Bao nhiêu năm tháng đã qua rồi, làm sao tôi nhớ cho đúng hết những gì bạn nói. Nhưng, tôi tin là tôi không sai ý. Dầu sao, tôi cũng chỉ muốn mượn câu chuyện này để nói đôi lời với các bạn trẻ. Hãy đem văn chương vào đời sống. Dù có làm thơ hay viết văn hay không, hãy đến với cuộc đời bằng tâm hồn của một thi sĩ. Bạn sẽ thấy cuộc đời đẹp hơn. Bạn sẽ thấy con người đẹp hơn. Dĩ nhiên, bạn vẫn có thể làm thơ hay viết văn mà lại không đến với cuộc đời bằng tâm hồn một thi sĩ. Nhưng, đây là câu chuyện khác.

Khi nhắc đến thành phố Visegrad, nơi có cây cầu được xây qua sông Drina, tôi nhớ đến cái thành phố tôi đã sống suốt tuổi thơ. Như nhiều người, tôi thỉnh thoảng vẫn có một ước mơ biết là không thể có, là có lại cái tuổi trẻ của mình. Của những ngày mà ba má tôi còn, tất cả anh chị em tôi còn, và cái hồn nhiên của tôi còn. Chỉ là mơ ước, dĩ nhiên! May mắn là bên cạnh những cái không còn đó, có những cái vẫn còn. Những con sông chảy qua thành phố, và biển. Từ một con sông chảy ra biển, một sớm nào tôi đã theo đó mà ra khơi. Tôi đã hò hẹn với con sông, với biển, và với bao nhiêu người là tôi sẽ trở lại. Và, tôi đã gặp lại rất nhiều trong số đó. Tôi nhớ mấy câu thơ của một người bạn Nha Trang của tôi, nhà thơ Hải Phương:

Cám ơn biển

biển trùng khơi con sóng vỗ

trăm nhánh sông hò hẹn chuyến đò qua

……..

Trương Vũ

Maryland, cuối tháng 7 năm 2017

Advertisement

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

 

Đây là một trong những tập tiểu luận hay nhất mà tôi đã từng đọc. Nhiều bài đọc rồi vẫn muốn đọc lại, như: VỀ LẠI SORRENTO, MƯA ƯỚT VỊ THÀNH, NÓI VỚI CHÀNG SIÊU, MÙA ĐÔNG PRAGUE, NHỮNG CƠN MƯA NGÀY CŨ, ĐÊM ĐẠI DƯƠNG, VỊ TRÍ CỦA SÁNG TẠO TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC MIỀN NAM… Một cuốn sách  giá trị và tuyệt đẹp cả về hình thức lẫn nội dung. (Phạm Cao Hoàng).

 

 

Sách do họa sĩ Nguyễn Đồng và họa sĩ Nguyễn Thị Hợp trình bày, dày 202 trang, khổ 6″ x 9″, bìa cứng hai lớp. Tranh bìa của chính tác giả. 

Các bạn có thể mua sách ở AMAZON hoặc BARNES & NOBLE.

Muốn mua sách trực tiếp ở nhà xuất bản, xin liên lạc  han.le3359@gmail.com

Mùa Ðông Prague

truongvu

Tặng những nhà văn Việt Nam

DSC_6929

Vaclav Havel (trái, đang phát biểu) và Alexander Dubcek
Prague (1989) • Source: The Guardian.com

Lời Mở:
Đầu tháng 7-2016, trong một chuyến đi chơi Âu châu, tôi đến thăm thủ đô Prague của Cộng Hòa Tiệp (The Czech Republic). Khi đến công trường Wenceslas, tôi nhìn lên bao lơn của tòa cao ốc Melantrich. Nơi đó, một ngày mùa đông 1989, Alexander Dubček và Václav Havel đứng cạnh nhau, ngỏ lời với gần một triệu người dân Prague đang tụ họp ở công trường này, khởi động một cuộc cách mạng làm sụp đổ hoàn toàn chế độ Cộng sản và xây dựng một xã hội dân chủ thực sự cho Tiệp Khắc. Một cuộc cách mạng bắt nguồn từ những vận động của giới trí thức và văn nghệ sĩ, khởi đi từ đầu thập niên 1955, không ngừng thách thức với mọi đàn áp của giới cầm quyền. Những biến động ở công trường Wenceslas và trên toàn đất nước Tiệp Khắc đã gợi hứng cho tôi viết một tiếu luận ngắn, nhan đề “Mùa Đông Prague”, đăng trên tạp chí Văn Học ở California. Lúc đó, những vận động được biểu dương ở công trường Wenceslas chưa hoàn toàn thành công để trở thành cuộc “Cách Mạng Nhung” (The Velvet Revolution) của Tiệp Khắc. Lúc đó, kịch tác gia Václav Havel chưa trở thành Tổng thống đầu tiên của một nước Tiệp Khắc dân chủ sau thế chiến.
Gần hai mươi bảy năm đã trôi qua. Đã có biết bao đổi thay trên toàn cầu, bao đổi thay trên đất nước Tiệp Khắc. Có cả những đổi thay mà thoạt đầu người dân Tiệp Khắc không muốn có, như sự kiện đất nước bị tách làm đôi, thành hai nước độc lập, Cộng hòa Tiệp và Cộng hòa Slovakia. Ngày nay, cả hai đều là thành viên của Liên hiệp Âu châu (EU) và của khối Liên minh Quân sự Bắc Đại tây dương (NATO). Tuy tách làm đôi, liên hệ giữa họ luôn tốt đẹp. Ngày nay, Alexander Dubček và Václav Havel đều đã ra người thiên cổ.
Trong những ngày ở Tiệp, tôi cảm nhận được một sức sống mạnh và trẻ trung trên đất nước này. Người dân có mức sống cao, trình độ văn hóa cao, tôn trọng một cách tự nhiên những giá trị căn bản của con người như tự do và bình đẳng. Hầu hết những người dân bình thường tôi gặp đều nói tiếng Anh khá lưu loát, và dầu đất nước này vẫn có một sắc thái riêng của họ, tôi không có cảm giác lạc lõng như khi đến thăm Moscow hay Bắc Kinh. Và, ở Tiệp ngày nay, nếu không có chút hiểu biết về lịch sử, tôi sẽ không thể nào tin rằng dân tộc đó đã từng hơn bốn mươi năm sống cô lập sau bức màn sắt, chịu áp đặt một chủ nghĩa xã hội rất thiếu nhân bản, chịu sự kiểm soát chặt chẽ về chính trị và quân sự của Liên Xô, và chỉ mới tách rời khỏi những ảnh hưởng đó chưa tới 27 năm.
Trong mấy ngày ở Tiệp, tôi có đến thăm khu thương mãi Sapa của cộng đồng người Việt ở đây. Khu thương mãi khá lớn. Buôn bán nhộn nhịp. Nhà cửa, hàng quán, và cách buôn bán ở đây làm gợi nhớ đến một số khu buôn bán ở Việt Nam ngày nào. Đang ở một đất nước bên trời Tây, nói toàn tiếng Tiệp hay tiếng Anh, vào đây như vào một thế giới khác, thấy như trở về đất nước cũ. Rất xúc động. Đặc biệt, khi trò chuyện với một số đồng bào, được biết đa số sang Tiệp theo các chương trình xuất khẩu lao động, sống khá vất vả, thu nhập rất thấp so với thu nhập của người Tiệp trung bình. Tuy vậy, số người Việt tìm cách sang làm lao động vẫn tiếp tục. Điều đáng mừng, theo phóng sự của một số báo chí Tiệp, trẻ em Việt Nam đa số học giỏi và hội nhập vào xã hội Tiệp khá dễ dàng.
Nhìn lại một số đổi thay chính trị lớn, tôi nghiệm ra một điều: nơi nào có sự tham dự tích cực của giới trí thức và văn nghệ sĩ yêu nước, yêu sự sống, tôn trọng sự khác biệt, và can đảm đứng lên tranh đấu quyết liệt cho điều mình tin, cho những quyền căn bản của con người, thì ở nơi đó, sự đổi thay mang lại ít bạo lực nhất, những quyền căn bản được phục hồi và xã hội phát triển nhanh nhất. Hãy nhìn, như một phản đề, những gì đã xảy ra trong cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam vào thập niên 50, trong cuộc “cách mạng văn hóa” ở Trung Hoa vào thập niên 60, và sự thống nhất bằng quân sự và áp đặt chủ nghĩa ở Việt Nam vào 1975. Và, như chính đề, hãy nhìn những gì đã xảy ra trong những đổi thay lớn ở Đông Âu, và đặc biệt, ở Tiệp Khắc, vào 1989.
Bài viết này được đăng lại vì tác giả tin những điều trình bày trong bài viết chưa bị thời gian hai mươi sáu năm đào thải, ít ra, với trường hợp Việt Nam. Tác giả giữ nguyên lời đề tặng những nhà văn Việt Nam, như trong bản gốc.

Tháng Giêng 1968, Alexander Dubček, lãnh tụ Ðảng Cộng Sản (CS) Tiệp Khắc chủ trương đổi mới chế độ trong một chính sách được gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa Với Bộ Mặt Nhân Bản”. Biến cố này được gọi là “Mùa Xuân Prague”. Bảy tháng sau, nửa triệu quân của khối Warsaw cùng với thiết giáp xa tiến vào thủ đô Tiệp Khắc. Alexander Dubček bị tước hết quyền hành, đuổi ra khỏi đảng, đưa đến Slovakia làm một viên chức kiểm lâm không ai biết tới.
Hai mươi mốt năm sau, vào mùa đông 1989, cùng với những cơn lốc đang thổi xoáy vào các chế độ CS ở Ðông Âu, người dân Tiệp Khắc vùng dậy. Vài ngàn người, rồi chục trăm ngàn người, rồi gần một triệu người, tụ tập tại công trường Wenceslas đòi hỏi chấm dứt một chế độ cai trị mà họ cho là rất thiếu nhân bản.
Từ mùa xuân 68 đến mùa đông 89, có những cái đi và đến ngược chiều nhau. Có những lãnh tụ lớn như Husák, Jakeš, đến với quyền hành vào mùa Xuân 68 và bây giờ bị buộc phải ra đi. Alexander Dubček, bị buộc phải ra đi sau biến cố Mùa Xuân 68, thì vào ngày 24 tháng 12 năm 1989, xuất hiện trên một bao lơn ở Công trường Wenceslas để đón nhận những tiếng chào mừng nồng nhiệt của dân chúng.
Những gì thực sự xảy ra ở Tiệp Khắc không phải chỉ đơn giản ở những cái đi và đến này. Alexander Dubček có tái xuất hiện, nhưng những khuôn mặt nổi bật ở Mùa Ðông Prague lại là những nhân vật của nhóm Diễn Ðàn Công Dân (Civic Forum) như nhà soạn kịch Václav Havel hay giáo sư Komárek của Hàn Lâm Viện Khoa Học. Những nhân vật này có vẻ như mới lao mình vào những cơn lốc của thời đại kể từ ngày 19 tháng 11 năm 1989, tức ngày thành lập nhóm Diễn Ðàn Công Dân. Thật ra, cuộc tranh đấu của họ đã khởi đầu từ 1955, vào năm mà “Bài Thơ Cho Người Trưởng Thành” được sáng tác ở Ba Lan. Kể từ ngày đó cho đến trước mùa Ðông 1989, cuộc tranh đấu của Tiệp Khắc hoàn toàn là cuộc tranh đấu của trí thức, không mang bóng dáng của những thành phần khác như thợ thuyền hay nông dân.
Những gì đã thực sự xảy ra ở Tiệp Khắc từ 1955 đến nay?

Nhà văn – lương tâm của đất nước
Quốc gia Tiệp Khắc chỉ mới chính thức thành lập như một nước độc lập vào ngày 28 tháng 10 năm 1918 sau sự bại trận của đế quốc Áo Hung vào Ðệ Nhất Thế Chiến. Danh xưng đầu tiên là Cộng Hòa Tiệp Khắc. Hai sắc dân chính là Czech (64%) và Slovak (30%). Trong Ðệ Nhị Thế Chiến, Tiệp Khắc bị Ðức chiếm đóng và một phần lãnh thổ bị sáp nhập vào Ðức. Một chính phủ lưu vong đã được thành lập ở Anh để tiếp tục điều khiển cuộc kháng chiến trong nước.
Sau khi Ðệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, một cuộc bầu cử được tổ chức vào 1946, dưới ảnh hưởng chính trị của Liên Xô, đã đem lại thắng lợi cho Ðảng Cộng Sản Tiệp Khắc với một đa số tương đối so với các đảng phái khác. Hai năm sau, vì chia rẽ và thiếu phối hợp, các đảng phái không CS đã thất bại trong nỗ lực ngăn chặn sự áp đặt xã hội chủ nghĩa theo kiểu của Liên Xô. Một bản Hiến Pháp mới được ban hành và danh xưng của quốc gia được đổi lại là Cộng Hòa Nhân Dân Tiệp Khắc.
Sang năm 1950, cuộc thanh trừng lớn trong nội bộ Ðảng CS bắt đầu. Bộ Trưởng Ngoại Giao Vladimír Clementis bị cách chức và sau đó bị xử tử cùng với 10 đảng viên cao cấp khác. Ðảng CS bắt đầu cai trị Tiệp Khắc theo đường lối cực đoan của Stalin. Cuộc thanh trừng lan rộng đến các thành phần khác của xã hội. Ðường lối này vẫn được duy trì sau cái chết của Stalin và cả sau khi chủ trương Xét Lại được áp dụng ở Liên Xô.
Những bất mãn lớn bắt đầu. Trước hết, một cuộc nổi dậy nhỏ của thợ thuyền xảy ra ở một thị trấn xa xôi, Plzeň, vào tháng Sáu 1953 để phản đối vụ đổi tiền mới. Cuộc nổi dậy đã bị cảnh sát đặc biệt dập tắt và không tạo được tiếng vang đáng kể.
Nhà văn Tiệp Khắc có một thế đứng khá đặc biệt trong lịch sử của nước họ vì đó là thành phần đóng góp nhiều nhứt và hiệu quả nhứt trong việc xây dựng nền độc lập của Tiệp Khắc. Nhưng, cho tới lúc đó, Hội Nhà Văn Tiệp Khắc, được thành lập vào 1949, chỉ là một công cụ để tuyên truyền cho chế độ. Số hội viên có giới hạn và đa số viết theo chỉ thị. Những người cầm bút có tư cách tránh né công việc như vậy bằng cách xin dịch thuật sách ngoại ngữ hoặc sáng tác những bài thơ vừa đủ mơ hồ để thoát lưới kiểm duyệt. Một số ít nhà văn hoặc chống đối hoặc không viết theo đường lối đã phải chịu những trừng phạt khác nhau tùy theo cấp độ. Thi sĩ Laco Novomeský bị án mười năm tù vì đã viết những bài thơ “thiếu ái quốc”.
Ngày 21 tháng Tám 1955, một tuần san văn học ở Warsaw, tờ Nowa Kultura, đăng tải một bài thơ dài và cay đắng của một nhà thơ CS Ba Lan, Adam Ważyk, mang tựa đề “Bài Thơ Cho Người Trưởng Thành”. Nhà thơ Ważyk, trong suốt cuộc đời của ông kể từ lúc bắt đầu khôn lớn, đã tận tụy phục vụ cho lý tưởng CS. Bỗng nhiên, ông sáng tác và gởi đăng bài thơ nói trên như một bản tuyên chiến gởi đến chế độ. Ngay sau đó, ông bị trục xuất khỏi hội Nhà Văn Ba Lan và đồng thời chủ bút tập san Nowa Kultura cũng bị cách chức. Tuy nhiên, bài thơ của Adam Ważyk ở Ba Lan đã đánh thức những người trưởng thành ở Tiệp Khắc, nhất là những người cầm bút. (1)
Ðại Hội kỳ 2 của Hội Nhà Văn Tiệp Khắc được tổ chức vào tháng Tư năm 1956. Tổng Thống lúc đó là Zápotocký đến đọc diễn văn khai mạc, trong đó ông nhấn mạnh là Ðảng không hề và sẽ không bao giờ chi phối vào các công trình văn học, và các nhà văn Tiệp Khắc hoàn toàn có tự do để sáng tác. Ngay lập tức, thi sĩ nổi tiếng của Tiệp Khắc là Jaroslav Seifert đã cùng với nhiều nhà văn khác như František Hrubín mạnh mẽ chỉ trích sự thiếu thành thật trong bài diễn văn và yêu cầu đảng trả tự do cho những người cầm bút đang còn ở trong tù. Những nhà văn đã kịch liệt công kích chính sách “viết theo yêu cầu” và cho đó là một thái độ nhục mạ người cầm bút. Sau đó, khẩu hiệu được trương lên ở Ðại Hội là “Nhà Văn – Lương Tâm Của Ðất Nước”. Mặc dầu Seifert và Hrubín được bầu vào chủ tịch đoàn, đảng đã phản công khá hữu hiệu và cuối cùng áp lực được đại hội đưa ra một tuyên ngôn công nhận Ðảng CS Tiệp Khắc như là “Người đề xướng và tổ chức cuộc cách mạng vĩ đại” và cám ơn Ðảng về “Những đề nghị khôn ngoan và đứng đắn”.
Vào tháng Năm 1956, các nhà văn thuộc Nhóm Phản Kháng đã cho phát hành một tạp chí lấy tên là Tháng Năm (Květen) nhằm cổ võ những công trình văn học có giá trị thực sự. Mô thức này đã lan tràn sang nhiều lãnh vực khác. Và, chính những hoạt động có tính quốc cấm này đã làm cho đời sống văn hóa của Tiệp Khắc trở lại sinh động.
Ðại Hội kỳ 3 tổ chức vào tháng Sáu 1957, sau khi các cuộc nổi dậy ở Poznań (Ba Lan) và Budapest (Hung Gia Lợi) đã hoàn toàn thất bại. Nhà thơ František Hrubín bị ép buộc đứng lên đọc lời tự phán về những “Phát biểu sai lầm” của ông trong kỳ đại hội trước. Về phần Seifert lúc đó đã 56 tuổi, ông vẫn không chịu đầu hàng, và không chịu tự ý rời khỏi Chủ Tịch đoàn dưới áp lực của Ðảng. Nhóm chủ trương tạp chí Tháng Năm tuyên bố hậu thuẫn Seifert. Cùng lúc đó, một số khuôn mặt mới đã nổi bật lên để cùng với Seifert và Eduard Goldstücker, vừa mới được trả tự do, làm một cuộc cách mạng cho trí thức Tiệp Khắc. Các khuôn mặt đó là nhà thơ Jan Prochazka, nhà soạn kịch Ivan Klima, nhà viết tiểu thuyết Ladislav Mnacko, và nhà soạn kịch Václav Havel. Lúc đó, Václav Havel mới 21 tuổi.
Hai năm sau, Ðảng áp lực Hội Nhà Văn trục xuất Seifert và bốn nhà văn thuộc Nhóm Phản Kháng. Sau đó, đảng đóng cửa tạp chí Tháng Năm. Những người phản kháng bắt đầu đi tìm một phương thức đấu tranh khác.
Sang năm 1960, danh xưng của Tiệp Khắc được đổi lại là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Tiệp Khắc.
Tháng Tư 1963, nhà văn Ladislav Mnacko hoàn thành tác phẩm “Những Bản Phúc Trình Bị Trì Hoãn” (Delayed Reports). Tác phẩm này làm náo động xã hội Tiệp Khắc vì đã đánh thẳng vào lương tâm của những trí thức, kết án thái độ thụ động của họ và coi thái độ thụ động này như là một hình thức toa rập với tội ác, một điều mà đa số trí thức muốn tảng lờ. Tác phẩm của Mnacko đã tạo nên cuộc biểu tình của sinh viên Prague vào ngày Lễ Lao Ðộng 1963.
Cuối tháng Năm, Hội Nhà Văn Tiệp Khắc cho phổ biến lời phát biểu của nhà thơ Laco Novomeský, lúc đó đã mãn hạn tù. Lời phát biểu có những câu sau đây:
“Thảm kịch của chúng ta không phát sinh hoặc không phải chỉ phát sinh từ sự kiện là có những kẻ đã tin nhiều hay tin ít vào một điều gian dối và chấp nhận điều gian dối đó. Vì những người này, hoặc vì sợ hãi, hoặc bằng hảo ý, cho rằng họ đang phục vụ cho một mục tiêu chính đáng nên cứ chấp nhận điều gian dối. Thảm kịch của chúng ta phát sinh từ sự kiện – và sự kiện này áp dụng cho những nhà văn hay nhà báo – là chúng ta đã cố gắng thuyết phục người đọc tin rằng sự gian dối đó là sự thật, chúng ta đã đánh lạc hướng và làm hoang mang cả một thế hệ đang đứng ở ngoài căn phòng này, lạc lõng, ngơ ngác, vì không biết phải dựa vào cái gì để tin. Chúng ta cần mang đến cho thế hệ đó sự tín nhiệm, lòng tin, và sự thật. Nhưng trước hết, hãy mang những điều đó đến cho chính chúng ta.”
Cùng trong năm đó, Václav Havel, đã 27 tuổi, hoàn thành vở kịch dài đầu tiên: “Viên Hội” (The Garden Party). Vở kịch xây dựng trên những cái phi lý và lố bịch của xã hội đương thời bằng những lời mỉa mai cay độc. Từ đó, nhiều sáng tác như vậy do những nhà văn đã nổi tiếng hoặc những nhà văn mới nổi đã ra đời. Phản ứng của chế độ vẫn là một phản ứng cổ điển nhưng hữu hiệu: đe dọa, tù đày và cô lập.
Tháng Giêng 1967, Ðại Hội kỳ IV của Hội Nhà Văn Tiệp Khắc ra Nghị Quyết yêu cầu tái lập truyền thống văn học của Tiệp Khắc, đồng thời yêu cầu được tiếp xúc và trao đổi văn hóa với các nước Tây phương. Lúc bấy giờ, lãnh tụ đảng là Antonín Novotný. Phản ứng của chế độ vẫn như cũ, vẫn là đe dọa, tù đày và cô lập.

Mùa Xuân Prague
Ðầu tháng 11-1967, sinh viên Ðại Học ở Prague biểu tình đòi thay đổi đường lối cai trị của Ðảng. Ðồng thời, trong nội bộ của Trung Ương Ðảng, Alexander Dubček cầm đầu nhóm chủ trương cải cách, áp lực Novotný hủy bỏ phương thức cai trị cực đoan. Ðể chống lại những áp lực này, Novotný kêu gọi sự hậu thuẫn của Liên Xô. Tháng 12 năm đó, lãnh tụ Liên Xô Leonid Brezhnev đến thăm và quan sát tình hình ở Prague và ông từ chối hậu thuẫn Novotný. Tháng Giêng 1968, Dubček được bầu vào chức Bí Thư Thứ Nhứt của Ðảng CS Tiệp Khắc thay thế Novotný. Sau đó, nhiều thành phần thủ cựu cũng lần lượt bị thay thế. Ðến tháng Ba, Novotný mất luôn chức Tổng Thống và Tướng Ludvík Svoboda lên thay.
Alexander Dubček chỉ định rồi chỉ đạo một ủy ban gồm nhiều khuynh hướng khác nhau, từ cải cách đến bảo thủ, soạn thảo một Chương Trình Hành Ðộng (CTHĐ) nhằm tạo một mô thức xã hội chủ nghĩa mới, có tính “dân chủ” và “dân tộc”, thích hợp với hoàn cảnh của Tiệp Khắc. Tháng Tư 1968, thành phần lãnh đạo Ðảng chấp thuận Chương Trình Hành Ðộng. Alexander Dubček đã gọi mô thức này là “Xã Hội Chủ Nghĩa Với Bộ Mặt Nhân Bản”. Ngoài những điểm liên hệ đến cải cách chế độ bầu cử, xác nhận quyền tự do hội họp và phát biểu, CTHÐ cũng có những điểm quan trọng như tái xác nhận sự theo đuổi mục tiêu Cộng sản và sự liên minh với Liên Xô và khối Warsaw.
CTHÐ của Dubček đã tạo một sức sống mới cho xã hội Tiệp Khắc. Dân chúng đã phấn khởi gọi biến cố đó là Mùa Xuân Prague. Những tuần lễ tiếp theo, những bài báo đả kích Liên Xô đã thấy xuất hiện trên báo chí. Một số tổ chức có tính chính trị đã được thành lập và không phụ thuộc vào sự kiểm soát của Ðảng. Các phần tử bảo thủ yêu cầu đàn áp các sinh hoạt này nhưng Alexander Dubček không chịu nghe.
Cuối tháng Sáu năm đó, Ludvík Vaculík, tiểu thuyết gia và đồng thời cũng là đảng viên CS kỳ cựu, cho đăng tải một tuyên ngôn nhan đề “Hai Ngàn Chữ” với chữ ký của 70 nhà văn và nhà khoa học. Bản Tuyên Ngôn nói đến những trở ngại có thể gây ra cho Tiệp Khắc bởi những phần tử bảo thủ trong đảng và các thế lực ngoại quốc và hô hào dân chúng hãy đứng dậy tự mình thực hiện lấy chương trình cải cách. Liên Xô và các nước thuộc khối Warsaw liền tổ chức một phiên họp đặc biệt không mời Tiệp Khắc tham dự. Sau đó, họ gởi cho Ủy Ban Lãnh Đạo (UBLÐ) Ðảng CS Tiệp Khắc một văn thư lên án những phần tử phản động đã viết tuyên ngôn này đồng thời yêu cầu Tiệp Khắc tái lập chế độ kiểm duyệt, bãi bỏ các sinh hoạt chính trị không thuộc đảng CS và trục xuất ra khỏi đảng các phần tử hữu khuynh. Sau cùng, văn thư nhấn mạnh đến nhiệm vụ phải bảo vệ xã hội chủ nghĩa ở Tiệp Khắc, và coi đó là nhiệm vụ chung của tất cả các nước anh em, thuộc khối Warsaw. Dubček phản đối bức tối hậu thư và yêu cầu gặp riêng với Liên Xô.
Trong cuộc gặp gỡ này, Alexander Dubček đã khẳng định sự trung thành của Tiệp Khắc với chủ nghĩa Mác Lê và với liên minh Warsaw hay Comecon. Ông hứa trừng trị những kẻ muốn tái lập Ðảng Dân Chủ Xã Hội cũ, những phần tử “phản cách mạng”, đồng thời kiểm soát báo chí hữu hiệu hơn. Brezhnev ra lệnh rút các lực lượng quân đội Xô Viết khỏi Tiệp Khắc nhưng cho dừng lại dọc theo biên giới.
Trong khi đó, Dubček và các đảng viên cao cấp thuộc khuynh hướng cải cách lại dự trù một kế hoạch loại trừ tất cả những phần tử chống cải cách ra khỏi Trung Ương Ðảng trong kỳ Ðại Hội Ðảng sẽ tổ chức vào tháng Chín. Hầu hết những phần tử này có khuynh hướng thân Nga và họ đã cầu cứu Liên Xô. Ngày 20 tháng Tám 1968, nửa triệu quân thuộc các nước Liên Xô, Ðông Ðức, Ba Lan, Hung Gia Lợi và Bảo Gia Lợi tiến vào Tiệp Khắc. Lỗ Ma Ni ngay từ đầu đã phản đối quyết định của các nước Warsaw đối với Tiệp Khắc nên không tham dự chiến dịch này. Dubček và Ủy Ban Lãnh Ðạo Ðảng lên tiếng phản đối sự can thiệp quân sự của khối Warsaw nhưng đồng thời ra lệnh cấm quân đội và dân chúng dùng vũ lực cản trở các đoàn quân này. Tuy nhiên, khi các xe tăng tiến vào Prague, bạo động cũng đã xảy ra từ phía dân chúng và khoảng 100 người dân Tiệp Khắc đã bị giết (4). Cơ quan đầu tiên bị thiết giáp xa bao vây là trụ sở của Hội Nhà Văn Tiệp Khắc.
Alexander Dubček bị bắt vào đêm 20 tháng Tám và đưa sang Moscow gặp Brezhnev. Sau đó, ông vẫn được giữ chức vụ cũ nhưng không có thực quyền cho đến tháng Tư 1969 thì chính thức từ chức. Gustáv Husák lên thay. Cuối năm đó, Husák cử ông đi làm Ðại Sứ tại Thổ Nhĩ Kỳ. Trong lúc ông đang còn ở Ankara, Ủy Ban Lãnh Ðạo Ðảng bỏ phiếu trục xuất ông ra khỏi Ðảng. Những người còn cảm tình với ông ở trong đảng đã ngầm khuyên ông xin tị nạn chính trị ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng ông vẫn trở về Tiệp Khắc. Sau đó, ông được đưa đến thành phố Bratislava, thủ phủ của Slovakia, làm một viên chức kiểm lâm cho đến cuối năm 1988.
Ðối với các thành phần đã tham dự vào Chương Trình Hành Ðộng, hậu quả dành cho họ khá trầm trọng. Hơn một nửa thành viên của Trung Ương đảng bị thay thế. Hơn nửa triệu đảng viên bị trục xuất. Ða số các viên chức cao cấp trong những lãnh vực khác nhau bị đuổi việc. Xã hội Tiệp Khắc trở lại tình trạng cai trị khắt khe cũ.
Vào Mùa Thu 1970, một nhóm trí thức gồm cả các cựu đảng viên CS thành lập Phong Trào Xã Hội Của Công Dân Tiệp Khắc nhằm đấu tranh theo tinh thần của Mùa Xuân Prague. Ngay sau đó, 47 thành viên cao cấp của phong trào bị bắt và bị đưa ra tòa xét xử vào mùa Hè 1972. Từ đó, một số đông nghệ sĩ và chuyên viên đã trốn khỏi nước.

Hiến Chương 77
Vào ngày 6 tháng Giêng 1977, các nhật báo ở Tây Ðức đã cho đăng tải một Tuyên Ngôn lấy tên là Hiến Chương 77 (Charter 77). Bản Tuyên Ngôn làm tại Tiệp Khắc mang chữ ký của 242 người Tiệp Khắc thuộc nhiều thành phần khác nhau: Nhà văn, nghệ sĩ, giáo chức, và cựu đảng viên CS. Giáo sư Jan Patočka, nhà soạn kịch Václav Havel và giáo sư Jiří Hájek được nhắc tới trong Tuyên Ngôn như là những phát ngôn viên chính thức của Hiến Chương 77.
Hiến chương 77 nói lên những bất mãn của những người ký tên đối với những thực tế đang xảy ra ở Tiệp Khắc liên hệ đến Dân quyền và Nhân quyền. Họ lên án chính phủ Tiệp Khắc đã không tôn trọng những quyền công dân được ghi trong Hiến Pháp cũng như trong các thỏa ước quốc tế mà Tiệp Khắc đã ký như thỏa ước Helsinki vào 1975.
Hiến Chương 77 cũng nói rõ mục đích của Hiến Chương là: theo dõi những trường hợp cá nhân về vi phạm nhân quyền, đưa những đề nghị sửa sai, và đóng vai trò trung gian giữa chính phủ và những cá nhân bị áp bức.
Ðến cuối năm 1977, có khoảng 800 người ký tên vào Hiến Chương, trong số đó có một số ghi là công nhân. Hiến Chương đã được phổ biến trong lãnh thổ Tiệp Khắc theo kiểu chuyền tay.
Gustáv Husák đã phản ứng mạnh mẽ đối với bản Hiến Chương này. Những người ký tên đã hoặc bị bắt giam hoặc bị đuổi việc. Báo chí đã được nhà nước vận dụng để tấn công Bản Hiến Chương một cách hạ cấp. Dân chúng bị bắt buộc phải ký tên vào những bản lên án các thành phần phản động của Hiến Chương 77.
Trong khi đó, cảnh sát và công an đã hành động hoàn toàn đúng như những gì bản Hiến Chương đã nêu: bắt người vô cớ, lục soát bất hợp pháp, hạch hỏi và tra tấn trái phép. Giáo sư Jan Patočka, một người nổi tiếng và có uy tín, bị cảnh sát mời đến thẩm vấn và một tuần lễ sau thì ông ta chết. Václav Havel bị bắt bốn tháng thì được thả. Ðến cuối năm, ông vào tù trở lại và lần này, ông bị kết tội chống chính phủ.
Những cuộc đàn áp như vậy kéo dài trong suốt năm 1978 và số người ký tên vào Hiến Chương vẫn tăng lên. Vào tháng Tư năm đó, một nhóm trí thức khác thành lập một ủy ban để bảo vệ những người đã bị xét xử trái phép. Họ đòi chế độ Husák phải đưa những người bị bắt ra xử công khai. Chế độ đã phản ứng bằng cách đưa hết những trí thức này vào nhà giam. Từ đó, Phong Trào Hiến Chương 77 yếu đi hẳn. Tuy nhiên, những kẻ đã tham dự vào Hiến Chương 77 vẫn tiếp tục cuộc phản kháng của họ bằng cách này hay cách khác.

Mùa Ðông Prague
Tháng Tám 1989, Tadeusz Mazowiecki của Công Ðoàn Ðoàn Kết thành lập chính phủ “không Cộng Sản” đầu tiên ở Ba Lan. Tháng Mười 1989, Ðảng Cộng Sản Hung Gia Lợi tuyên bố giải tán. Qua đầu tháng 11, Bức Tường Bá Linh bị phá vỡ.
Giữa một không khí đầy biến động như vậy ở Ðông Âu, Tổng Bí Thư Ðảng CS Tiệp Khắc, Miloš Jakeš, tuyên bố trong một đại hội thanh niên là Ðảng sẽ không tha thứ bất cứ một cuộc xuống đường nào nhằm phản đối sự cầm quyền của Ðảng và cũng sẽ không nới lỏng sự kiểm soát chính trị. Năm ngày sau, 15 ngàn sinh viên và thanh niên biểu tình chống chính phủ trên các đường phố ở Prague gần công trường Wenceslas. Cảnh sát đã thẳng tay đàn áp cuộc biểu tình và gây thương tích cho hơn 100 người.
Ngày 19/11/1989, Václav Havel và những đồng chí của ông thuộc nhóm Hiến Chương 77 cùng với một số sinh viên, nghệ sĩ và công nhân họp nhau tại tầng dưới của một hí viện lâu đời nhất Âu Châu, hí viện Lanterna Magica. Họ thành lập Diễn Ðàn Công Dân, đóng vai trò của một tổ chức chính trị đối lập. Ðầu tiên, họ lên tiếng yêu cầu trừng phạt những kẻ đã ra lệnh đàn áp biểu tình và đòi hỏi tất cả những lãnh tụ Cộng Sản có trách nhiệm đàn áp phong trào Mùa Xuân Prague phải từ chức. Miloš Jakeš đã bác bỏ những yêu sách này. Sau đó Václav Havel cầm đầu Ủy Ban gồm 18 người, tổ chức cuộc biểu tình ở công trường Wenceslas vào ngày 20 để hậu thuẫn cho những đòi hỏi của họ.
Hầu hết những nhạc sĩ, ca sĩ hát dân ca, nhà văn, lực sĩ và cả những tu sĩ, đã tiếp tay với ông vận động biểu tình để biến Diễn Ðàn Công Dân thực sự trở thành phong trào quần chúng bên cạnh tư cách của một tổ chức chính trị. Hơn 200 ngàn người đã tụ họp lại Công trường Wenceslas. Những cuộc biểu tình tương tự đã xảy ra trên những thành phố khác. Diễn Ðàn Công Dân đã đưa ra yêu sách đòi bầu cử tự do và đòi Husák, Jakeš và những lãnh tụ cực đoan phải từ chức. Ðến lúc này, Ủy Ban Lãnh Ðạo Ðảng không còn coi thường Diễn Ðàn Công Dân chỉ như là sản phẩm của một số nhà văn và trí thức. Ngày 24 tháng 11, Jakeš và chín thành viên khác của Ủy Ban Lãnh Ðạo từ chức. Karel Urbánek, một lãnh tụ ít tiếng tăm lên thay chức Tổng Bí Thư đảng. Ngày hôm đó, Alexander Dubček xuất hiện tại Công trường Wenceslas, ông đã được mọi người hoan hô nhiệt liệt. Những người thuộc thế hệ ông đã khóc khi nghe lại tiếng nói của ông. Alexander Dubček đã im hơi lặng tiếng trong suốt 20 năm. Ông không ký tên vào Hiến Chương 77. Ông chỉ làm được hai cử chỉ nhỏ tạm tương xứng với vị thế của ông, đến thăm Václav Havel vào giữa năm 1989 khi nhà soạn kịch được thả ra khỏi tù và gởi lời mừng sinh nhựt Ðức Hồng Y František Tomášek, một người không được cảm tình của chế độ. Do đó, ông đã được chào mừng như một cựu lãnh tụ hơn là một lãnh tụ. Ông vẫn nhắc lại chủ trương “Xã Hội Chủ Nghĩa Với Bộ Mặt Nhân Bản”. Nhưng, ở Mùa Ðông Prague 89, câu nói này không còn tạo được một âm hưởng nào như 21 năm trước. Nhiều người có nghĩ đến một vai trò chuyển tiếp mà ông có thể đóng được, và chỉ có thế. Ông cũng không tỏ ra có một tham vọng nào. Ông ủng hộ Diễn Ðàn Công Dân cùng với tất cả những đòi hỏi của họ.
Vì chế độ vẫn không chịu thỏa mãn tất cả những yêu sách của Diễn Ðàn Công Dân, Václav Havel kêu gọi một cuộc Tổng Ðình Công trong 2 giờ để cảnh cáo chế độ. Václav Havel đã thuyết phục được thợ thuyền nhập cuộc. Ngày 27 tháng 11-1989, hơn một triệu người Tiệp Khắc đã tham dự cuộc Tổng Ðình Công ở Prague. Có cả một phái đoàn của những người mù xuất hiện tại Công trường Wenceslas. Václav Havel thách đố chế độ hãy nhìn thẳng vào Công trường để thấy đó như một cuộc trưng cầu dân ý bác bỏ tư cách lãnh đạo chính trị của đảng Cộng Sản Tiệp Khắc. Những yêu sách cũ như bầu cử tự do được nhắc lại, và thêm vào những yêu sách mới như thay đổi nội các và giao những bộ quan trọng như Quốc Phòng cho những người không Cộng sản v.v… Dĩ nhiên, những đòi hỏi như vậy đã không được dễ dàng chấp nhận. Ký giả Jiří Dienstbier phát ngôn viên của Diễn Ðàn Công Dân, một người đã ra vô nhà giam rất nhiều lần, tuyên bố với báo chí: “Ở Tiệp Khác, trong suốt 20 năm qua, mọi người đều biết rằng chế độ này không thể nào giải quyết được những khó khăn của đất nước. Nhưng mọi người vẫn sợ. Bạo lực và áp bức là những phương tiện chính để cai trị. Quyền hành đã được xây dựng từ đó và chỉ muốn được xây dựng từ đó. Vì vậy, những kẻ cầm quyền rất sợ nhượng bộ vì họ e ngại nếu nhượng bộ, quyền hành của họ sẽ tiêu tan”.
Tuy nhiên, sau cùng, những kẻ cầm quyền có nhượng bộ.
Ngày 30 tháng 11, Quốc Hội Tiệp Khắc biểu quyết bãi bỏ tư cách lãnh đạo chính trị của Ðảng CS Tiệp Khắc như đã ghi trong Hiến Pháp. Ủy Ban Lãnh Ðạo Ðảng tuyên bố sẽ tổ chức bầu cử tự do. Ngày 4 tháng 12, khối Warsaw chính thức công nhận: “Cuộc xâm lăng Tiệp Khắc năm 1968 1à một quyết định sai lầm”. Trong vòng một tuần lễ, Nội Các Tiệp Khắc thay đổi ba lần và cả ba lần, họ đều chưa đáp ứng được đúng những đòi hỏi trước đó của Diễn Ðàn Công Dân. Dĩ nhiên, những kẻ cầm quyền còn muốn kéo dài quyền lực của họ.
Biến cố Mùa Ðông Prague có thể vẫn chưa đến hồi kết cuộc. Tuy nhiên vấn đề đáng nói ở đây là sự thức tỉnh này của dân tộc Tiệp Khắc. Ðể nói về sự thức tỉnh này, không có gì hơn là ghi lại một câu viết trên bức tường một hầm xe điện ngầm ở Prague: “Chúng ta đã tập bay như chim và tập lặn như cá. Có phải đây là lúc chúng ta bắt đầu sống như những con người?”
*
Cuộc tranh đấu chống chủ nghĩa Cộng sản ở Tiệp Khắc mang một sắc thái đặc biệt ở Ðông Âu: một cuộc tranh đấu kiên trì và thuần trí thức. Mục đích chính được nhìn qua các Tuyên Ngôn hay sách vở của họ, không nói rõ là họ chống chủ nghĩa CS mà chỉ nói là chống bất cứ một chế độ, một thế lực hay một chủ trương nào nhằm áp đảo hay tước đoạt những quyền căn bản của con người. “Chống Cộng” do đó chỉ được hiểu như một hệ quả đương nhiên từ mục tiêu chính.
Cái lợi của cách tranh đấu này là dù có hiểu được thâm ý của họ, những kẻ cầm quyền cũng khó tìm thấy một cái cớ thật chính đáng tiêu diệt họ cách tàn bạo. Thêm vào đó, với sự can đảm, với ý chí sắt đá, với tài năng, và với ý thức cao độ về trách nhiệm của một người trí thức đối với dân tộc, họ đã tạo được một sức mạnh đủ cho cuộc tranh đấu tồn tại trong suốt hơn 30 năm cho đến khi cơ hội đến, họ chộp lấy được ngay, và chỉ trong 10 ngày họ đã đạt được những gì mà Ba Lan mất đến 10 năm.
Nhược điểm của cách tranh đấu này là làm cho họ xa rời quần chúng. Những tác phẩm văn học hay nghệ thuật của họ mặc dầu vẫn làm cho quần chúng say mê thưởng thức, nhưng quần chúng phục họ hơn là thấy họ với quần chúng là một. Về điểm này, trí thức Tiệp Khắc đến mãi mùa Ðông 89 mới đạt được cái mức mà trí thức Ba Lan đã đạt từ 1976, khi tổ chức Bảo Vệ Công Nhân (KOR) ra đời để tạo một liên minh với Thợ Thuyền. Chính vì vậy mà trong suốt hơn 30 năm, người trí thức Tiệp Khắc khá lẻ loi trong cuộc tranh đấu của họ.
Nếu không có sự thành công của cuộc cách mạng Ba Lan cùng với những biến động mới nhất phát sinh từ những chủ trương Perestroika và Glasnost ở Liên Xô, không chắc những trí thức Tiệp Khắc đã làm nên được lịch sử. Trong trường hợp này, những kẻ cầm quyền sẽ tiếp tục cô lập họ như những kẻ cầm quyền ở Ba Lan đã làm đối với trí thức Ba Lan trước 1976. Trường hợp của Tiệp Khắc còn thuận lợi hơn cho kẻ cầm quyền vì Tiệp Khắc có nhiều tài nguyên, dân số ít và hưởng được một truyền thống tốt về phát triển kỹ nghệ từ trước thế chiến nên thợ thuyền hưởng một mức sống vật chất tương đối đầy đủ. Do đó, sẽ rất khó cho người trí thức thuyết phục thợ thuyền làm những điều có thể nguy hại đến đời sống bình thường của họ.
Dù sao, mỗi nước có một hoàn cảnh riêng, người trí thức Tiệp Khắc có thể đã tiến hành cuộc tranh đấu của họ bằng cách tốt nhất mà họ có thể làm được. Riêng đối với những nhà văn Tiệp Khắc, những người đã ý thức trách nhiệm của mình là phải nói lên tiếng nói lương tâm của đất nước, họ đã làm được những điều mà những đồng nghiệp của họ ở những nơi khác, dù trong hoàn cảnh thuận lợi hơn, đã không làm được. Ðây cũng là lý do cắt nghĩa tại sao nhà văn Tiệp Khắc luôn luôn có một chỗ đứng cao trong lịch sử của nước họ.
Một điều cuối cùng cần được nói đến với lòng khâm phục là trình độ dân trí của Tiệp Khắc. Gần một triệu người xuống đường lật đổ một chế độ mà họ đã chán ngấy, vậy mà vẫn giữ được kỷ luật và tự chế đến độ gần như không có một điều đáng tiếc xảy ra. Thêm vào đó là một ý thức chính trị vượt bực. Hoan hô Dubček nhưng cũng hiểu ra rằng Dubček đã không theo kịp thời cuộc. Nếu sau này, tổ chức Diễn Ðàn Công Dân đạt được những mục tiêu tranh đấu của họ, chắc chắn phần lớn phải là nhờ ở tinh thần kỷ luật và ý thức chính trị cao của người dân Tiệp Khắc.

Trương Vũ
Maryland, tháng 12 năm 1989

Chú thích:
1. Nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có Tad Szulo, đề nghị xem ngày đăng tải “Bài Thơ Cho Người Trưởng Thành” như là ngày đầu của cuộc tranh đấu trí thức cho cả Ðông Âu, không riêng gì cho Ba Lan hay Tiệp Khắc. (Xem tác phẩm đã nêu ở chú thích 2).
2. Szulo, Tad. “Czechoslovakia Since World War II”. New York: The Viking Press, 1971.
3. Nyrop, Richard. “Czechoslovakia: A Country Study”. Washington, D.C.: The American University/Area Handbook Series, 1982.
4. Doerner, William. “Our Time Has Come”. Time, Dec. 4, 1989.
5. Harden, Blaine. “Czechoslovakia In the End of Communist Monopoly”. The Washington Post. Nov. 29, 1989.
6. Kamm, Henry. “Spirit of 1968 is still alive, still distinct”. The New York Times, Nov. 30, 1989

TIẾNG SÓNG

truongvu

Nocturne
Tranh Võ Đình: Nocturne, chất liệu acrylic trên ván ép,
thực hiện vào thập niên 1980, Sưu tập của gia đình họa sĩ Trương Vũ.

Chiều Thứ Sáu 29 tháng 5, Hoàng Ngọc Hoà đón tôi với chị Hoàng Bắc từ phi trường West Palm Beach, Florida về nhà anh Võ Đình. Một căn nhà nhỏ xinh xắn xung quanh là vườn cây um tùm khá rộng. Khi theo chị Lai Hồng vào phòng, thấy anh nằm yên, thở mạnh, mắt nhắm. Gọi, không trả lời. Mắt không mở. Một chút cử động nơi môi. Khi nắm tay, anh bóp nhẹ. Chúng tôi nói vài lời với anh, coi như anh vẫn nghe, vẫn biết. Và, im lặng.

Anh được đưa về nhà hôm trước, Thứ Năm ngày 28, sau thời gian nằm trong Trung tâm Phục hồi và Dưỡng lão ManorCare, từ tháng 10 năm ngoái. Mỗi ngày, chị Lai Hồng vào từ chiều, ngủ lại đêm trong đó. Chị chuyện trò, chăm sóc, kể chuyện, đọc emails, đọc sách cho anh nghe, giúp bón anh ăn. Ban ngày, chị về nhà mấy tiếng đồng hồ rồi trở lại.

Tuần trước đây, anh viết xuống vài chữ ngỏ ý muốn về nhà. Anh muốn hưởng những ngày cuối cùng trong nhà mình. Anh muốn nghe Kinh Cầu an, và Bát Nhã Tâm Kinh. Về thăm anh, ngoài chúng tôi, có cháu Quang Minh (con trai chị Lai Hồng), anh Đinh Cường và Eddie Ramsburg. Hai người con gái của anh là Phượng Nam và Linh Giang, ngày mai Thứ Bảy đến. Một vài bạn bè thân, như anh chị Trần Đình Hoành/Túy Phượng, trên đường lái xe từ Virginia. Những người bà con, như anh Phan Nhật Nam, đến vào tuần tới.

Eddie học vẽ với anh Võ Đình từ những ngày anh còn ở trên vùng núi Maryland, và hơn mười năm trước đã lái U-Haul chở đồ đạc của anh chị từ Maryland về Florida. Hiện thời Eddie dạy vẽ ở Frederick, Maryland, và cũng là một họa sĩ có nhiều triển lãm cá nhân, với nhiều đam mê. Khi trở ra ngồi ở phòng khách, nói chuyện và xem những hình chụp tranh của Eddie, tôi thấy có chút bóng dáng Võ Đình trong đó. Dễ hiểu, vì Eddie được xem là một đệ tử ruột của anh và rất kính trọng anh.

Tôi không nhớ chính xác lần đầu tiên tôi gặp anh Võ Đình là vào lúc nào, ở nơi nào. Nhưng tôi nhớ lúc đó anh đang nói về những bức tranh anh vẽ trong thời gian anh ở với cháu Phượng Nam khi cháu chỉ mới hai, ba tuổi. Buổi tối đó, anh ngâm Ngậm Ngùi của Huy Cận. Giọng anh mạnh, ấm. Rất đặc biệt. Không giống một giọng ngâm nào tôi đã từng nghe. Tôi cũng không nhớ là từ lúc nào anh trở thành một bạn vong niên của tôi, chắc cũng gần 30 năm. Rồi, năm sáu năm sau, anh trở thành một người thân trong gia đình. Mỗi lần anh đến, má tôi kho cho anh món cá rất đặc biệt của bà. Trong nhà tôi, anh đã ngâm rất nhiều thơ. Tôi thích nhất khi anh ngâm Tống Biệt Hành của Thâm Tâm.

Bao nhiêu biến đổi trong đời anh, đời tôi, kể từ những ngày mới quen nhau. Bao nhiêu chuyện, truyện anh đã viết. Bao nhiêu tranh anh đã vẽ. Bao nhiêu sách anh đã dịch, đã minh họa, đã xuất bản. Bao cuộc tình đến, rồi đi. Bao sóng, gió. Bao thăng, trầm! Bao lặng lẽ… Có những lúc, anh ngồi thuyết trình, nói mê man, sang sảng, vài trăm người chăm chú lắng nghe. Rồi có lúc, nhìn quanh, ngoài những bạn trẻ của anh vốn hài hòa với cuộc đời, như Đinh Cường, như Văn Hưng, như Đặng Đình Khiết, như Ngô Vương Toại, như Giang Hữu Tuyên, như Hoàng Ngọc Hoà, hay tôi, không biết có mấy ai gật đầu với anh.

Anh là một người khó tánh (có người gọi đùa là “khó tiền sử”), hầu như ai cũng biết. Nhưng anh cũng là một người rất dễ tính. Điều đó hầu như ai cũng biết. Chỉ khác là cái anh khó với cái anh dễ, thường không giống với cái nên dễ, nên khó trong thường tình. Với tôi, những cái khó tánh của anh đã gây nên không biết bao tranh cãi giữa anh với tôi, nhưng cũng chính từ đó mà tôi gần anh hơn, thương và kính trọng hơn. Ít nhiều, chính cái khó tánh đó đã tạo cho anh một thế giới riêng mà từ đó anh mang đến những cống hiến lớn cho văn học, nghệ thuật và cho cuộc đời.

Anh là một tác giả thành tựu, trong cả hai lãnh vực văn học và hội họa. Công trình của anh và giá trị văn học hay nghệ thuật trong tác phẩm của anh được ghi nhận và phân tích nhiều trong giới phê bình.

Võ Đình sinh năm 1933, tại Huế, rời quê hương rất sớm, vào lúc 17 tuổi, và sống luôn ở Pháp, rồi ở Mỹ. Anh chỉ về thăm Việt Nam vài lần, mỗi lần trong thời hạn rất ngắn. Rất giống hoàn cảnh của lớp trẻ Việt Nam thuộc thế hệ một rưỡi hay thứ hai của cộng đồng Việt hiện nay.

Văn của Võ Đình không dễ đọc, tranh của Võ Đình không dễ xem. Bởi luôn hàm chứa những phức tạp của đời sống, những độ sâu trong suy tưởng, và những rung động của con người. Đọc văn anh, xem tranh anh, hay ngồi nói chuyện với anh, chúng ta rất dễ thấy nơi con người thoạt nhìn có vẻ bình dị, ảnh hưởng sâu đậm của ba nền văn hoá Việt, Pháp, Mỹ, và biểu lộ những ảnh hưởng đó một cách tự nhiên, không mặc cảm, khi khen như khi chê. Anh thích nhìn con người hay xã hội trên khía cạnh văn hóa, và nhìn sự vật, cây cỏ ở cái đẹp mà tạo hóa mang lại, dù đó chỉ là một con nhái bén hay những thứ “rau cỏ hèn mọn”.

Anh đề cao tính sáng tạo, rất dị ứng với những cách nhìn hời hợt, những cách nhìn theo thói quen, những cách lập đi lập lại mà anh cho là phát sinh từ sự lười biếng trong suy nghĩ. Anh luôn đề cao sự đam mê, hay cách sống hết lòng, cho một niềm tin, hay vì một mục tiêu nào đó, cho dù mục tiêu đó chỉ là để…chơi. Tỉ như, khi anh viết về thú chơi xe lửa của một hưu trí viên 65 tuổi. Chơi, nhưng chơi…thiệt.

Anh trân trọng công trình của người khác, nếu đó là một công trình có chất lượng hay được thực hiện hết lòng. Anh có thể nói say sưa, qua ngòi viết, hay qua những câu chuyện trao đổi với bạn bè, về tranh của Cézanne, của Gauguin, Van Gogh, hay của Đỗ Quang Em; hay bài phê bình của Nguyễn Hưng Quốc, truyện ngắn của Võ Phiến, của Trần Vũ… Nói với tất cả sự trân trọng, như đã may mắn nhận được những món quà thật quí giá. Vào những lúc như vậy, qua những nhắc nhở có vẻ như vô tình đó, người đọc hay người đối thoại có thể chợt nhận ra sự may mắn của mình vì đã có biết bao nhiêu món quà quí giá mà đời sống đã mang lại, mà chính những người mang lại chưa chắc đã được chút gì may mắn cho họ, ngoài tài năng và lòng đam mê. Van Gogh chẳng hạn, ông cống hiến cho chúng ta bao nhiêu tác phẩm tuyệt vời, nhưng cho đến chết ông sống khổ cực, chỉ bán được một bức tranh, và cuộc đời ông là một bi kịch lớn.

Khi viết về Võ Đình, có một yếu tố nổi bật không thể không nói đến. Đó là yếu tố Việt Nam trong con người anh, biểu lộ rõ nét trong tác phẩm hay trong đời sống hàng ngày. Anh viết tiếng Anh rất giỏi, dĩ nhiên, vì anh lớn lên và sống gần như cả đời ở Mỹ. Và tiếng Pháp cũng giỏi vì anh đã học ở Pháp. Nhưng tiếng Việt của anh, khi anh viết hay khi anh nói, nếu không biết không ai dám nghĩ rằng kể từ năm 17 tuổi cho đến quá tuổi tri thiên mệnh, cho đến những ngày cuối cùng, anh chỉ sống ở Việt Nam tổng cộng có vài tháng. Không phải chỉ hay thôi, nó đạt đến phần vi tế nhất của ngôn ngữ mà những nhà văn tài hoa và khó tánh nổi tiếng về cách dùng tiếng Việt cũng phải khâm phục.

Anh mê và hiểu biết sâu sắc ca dao Việt Nam. Khi sống hay khi viết, anh thường nghĩ đến từng câu, nhập vào thật đúng lúc của nó. Chẵng hạn, sống ở Florida, nước Mỹ, nhưng khi nhìn thấy một con nhái nằm thù lu trong mấy cái lá, anh nhớ đến một câu ca dao thật rầu: Chiều chiều bắt nhái cắm câu/ Nhái kêu cái ẹo, thảm sầu nhái ơi.

Anh hiểu biết rất rõ lịch sử Việt Nam, nhưng không chỉ dừng lại ở hiểu biết, anh sống với những thăng trầm của lịch sử. Anh cảm nhận sâu sắc về cuộc Nam tiến, nhưng không chỉ dừng lại ở nét hùng tráng về công trình mở mang bờ cõi, mà anh cảm thông thật sự tâm trạng, đời sống những con người bình thường, cô đơn, vật lộn hàng ngày với thiên nhiên, khi được đẩy vào những vùng đất xa xôi ở miền Nam đang còn rất hoang dại. Vì thế, anh đã viết với tất cả sự ngưỡng mộ chân tình truyện ngắn Rừng Mắm của Bình Nguyên Lộc mà anh cho là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Về lịch sử Nam tiến, anh ngưỡng mộ những chiến thắng, nhưng bên cạnh đó, anh đưa ra những trách móc tế nhị, trách móc về cách đối xử không đẹp của vua chúa Việt với những người Chiêm thất trận, như đã giết vua người, lại còn rắp tâm chiếm vợ vua người, để đến nỗi vương phi Mị Ê của Chiêm Thành, quấn chiên, lăn xuống sông tự tử.

Trong đời sống hàng ngày và trong tác phẩm, Võ Đình thường để tự mình hụp lặn vào những tháng ngày đen tối nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại. Cách đây 36 năm, tức hai năm trước khi cuộc chiến chấm dứt, vào thời kỳ sôi động nhất, anh trở về thăm quê hương lần đầu. Trong một bài viết sau đó, anh cho biết, anh gặp một vũng nước mà anh có cảm giác như chính đó là vũng nước khi còn bé anh thường đến và đùa nghịch trên đó. Anh cũng cho biết, khi đi lại trên những con đường ở Huế mà anh từng đi lại vào những ngày thơ ấu, anh có những cảm giác rất mạnh, rất thật, như chính anh đã đụng vào những hồn ma đang đi, đang chạy xung quanh, hồn ma của những con người vô tội dìu dắt nhau chạy tán loạn vào những ngày kinh thành thất thủ gần một trăm năm trước.

Thời gian đó, ở Mỹ, anh sống trong một căn nhà cũ, trên một vùng núi ở Maryland, gọi tên là Stonevale, Thạch Lũng. Xung quanh nhà có một hàng rào dài làm bằng những miếng đá dẹp chồng chất lên nhau, do những người nô lệ làm nên từ hơn hai trăm năm trước. Tôi có đến thăm anh ở đó, vài năm sau chuyến thăm quê hương của anh. Một người thân của anh có kể lại, khi đón anh trở về, chị có linh cảm lạ lùng là dường như có một vài bóng ma đã theo anh từ Việt Nam trở về và đang cùng anh bước vào nhà.

Võ Đình thích sống gần thiên nhiên. Ngoài mê say vẽ, viết và đọc sách, anh thích làm lụng và nhìn ngắm cỏ cây, sống điều độ và ăn uống thanh đạm. Anh rất khỏe mạnh, hơn nhiều người cùng tuổi. Cách đây khoảng hơn hai năm, anh bỗng yếu đi hẵn. Đi không vững, rất dễ té, và mắt thường bị chói ánh sáng. Anh đi bác sĩ thuờng xuyên, và có khi vào Trung tâm Phục hồi, ban đầu ngắn hạn rồi ở dài hạn, nhưng bác sĩ không tìm ra đúng bệnh. Chỉ mới đây, giữa tháng hai, bác sĩ chuyên khoa não cho biết anh bị chứng PSP (Progressive Supranuclear Palsy), một loại suy thoái não chưa có thuốc chữa. Anh phải vào ở hẳn trong khu dài hạn. Ngày càng yếu đi.

Có nhiều người đàn bà đã đi qua đời anh, nhưng tôi nghĩ, cuộc nhân duyên sau cùng, với chị Lai Hồng, chính thức khởi đầu từ 16 năm trước đây và có thể đã bắt nguồn từ lâu lắm, là mối nhân duyên đem lại sự bình an nhất trong đời anh. Trong cuộc nhân duyên này, anh tìm được sự chia xẻ về nguồn cội, về chữ nghĩa, về nghệ thuật, về tương kính. Và, rất khó để không nhận thấy là anh đã nhận được một chăm sóc tận tình, một sự thông cảm và kiên nhẫn gần như vượt quá khả năng của con người. Nỗi lo sợ lớn nhất của người thân, bạn bè, và cả nhân viên Trung tâm ManorCare, là chị có thể quỵ xuống trước.

Trưa Thứ Bảy, 30 tháng 5, chúng tôi dự lễ Cầu an tại nhà anh do hai ni cô Chùa Lộc Uyển chủ trì cùng với anh chị Nguyễn Trà/Thanh Trúc của Hội Phật giáo Nam Florida và một số đạo hữu. Cả gia đình Hòa đều có mặt. Sau đó, Đinh Cường và anh Diệp Bảo Chương, bạn của Cường và anh chị Võ Đình, đến. Phượng Nam và Linh Giang từ Maryland cũng đến ngay sau đó. Phượng Nam và Linh Giang là con gái của anh Đình với hai người vợ Mỹ. Cũng đã hơn 15 năm tôi mới gặp lại Linh Giang và hơn 25 năm gặp lại Phượng Nam. Các cháu không nói được tiếng Việt, và với những ai không biết, khi gặp đều nghĩ đây là những người Mỹ hoàn toàn.

Phượng Nam nổi tiếng do một bức tranh anh vẽ năm cháu khoảng bốn tuổi, trong chiếc áo dài Việt Nam màu vàng, tay cầm một chong chóng nhỏ. Bức tranh được tổ chức UNICEF chọn làm postcard chính thức phát hành nhân Ngày Trẻ Em Thế Giới. Tôi rất mừng thấy Phượng Nam đến. Phượng Nam hay xung khắc với papa và chắc cũng lâu lắm rồi không gặp papa. Mọi người đều nói có lẽ tính khí của Phượng Nam quá giống anh.

Linh Giang hơi khác chị, rất dịu dàng. Khi mới lên đại học, cháu có học toán với tôi, được một buổi rồi thôi. Khi gặp lại, cháu không nhắc lại bài học toán mà nhắc lại những bài học đầu tiên về guitare mỗi lần lên chơi Thạch Lũng tôi có dạy cho cháu. Hiện thời cháu dạy guitare ở một trung tâm âm nhạc vùng Maryland. Tôi nói với cháu thật ra guitare là môn tôi dốt nhất, và có thể trong tương lai nếu sức khỏe cho phép tôi sẽ đến học guitare với cháu.

Đây không phải là lần đầu tiên hai cháu gặp Eddie. Phượng Nam và Linh Giang đều không theo hội họa như papa, nhưng khi xem hình chụp những bức tranh của Eddie, Phượng Nam rất thích và hứa khi về lại Maryland sẽ ghi tên theo học lớp họa của Eddie. Tôi thấy vui, vì biết đâu, qua đó, “hạt nhân hội họa” của Võ Đình sẽ được gieo lại cho con mình một cách gián tiểp. Sau buổi gặp gỡ đó, Eddie vội vã ra phi trường về Frederick và hứa tuần sau trở lại.

Hôm Thứ Bảy đó, anh đã yếu lắm. Khi nói chuyện và nắm tay anh, không thấy anh bóp nhẹ như hôm qua. Tuy nhiên, chị Lai Hồng cho biết, sáng Thứ Bảy đó, bỗng nhiên anh mở mắt lớn nhìn chị, thều thào được mấy tiếng “Hồng ơi! Hồng ơi! Hồng ơi! …” rồi nở nhẹ nụ cười thật hiền, tay nắm chặt tay chị đưa lên đưa xuống. Chị linh cảm… Buổi chiều, khi hai cháu Phượng Nam và Linh Giang đến, cúi xuống ôm anh, “Papa, this is Phượng Nam. Papa, this is Linh Giang!”, tôi thấy môi anh hơi mấp máy. Hai cháu cầm tay anh. Bất động. Nhưng mấy giọt nước mắt chảy dài trên phía trái…

Chiều hôm sau, chúa nhật 31 tháng 5, 2009, chúng tôi trở lại. Vài phút sau đó, anh chị Nguyễn Trà/ Thanh Trúc cũng đến, trong những chiếc áo lam truyền thống. Tôi cầm tay anh Đình, không thấy chút phản ứng. Sau đó, khi đang ngồi nói chuyện trong phòng khách, có người ra cho biết cô y tá báo động. Chúng tôi – Đinh Cường, Hoàng Bắc, anh Chương, Hoà, cháu Quang Minh và tôi – bước vào phòng. Chị Lai Hồng, anh chị Trà, Phượng Nam, Linh Giang và cô y tá Mỹ đã có mặt ở đó. Chúng tôi đứng quanh giường anh. Cháu Linh Giang ngồi dưới đất, ngoài cánh cửa gương lớn ngăn cách phòng anh với vườn sau. Cháu ngồi im, mắt nhắm, trong tư thế tọa thiền, tay chắp lại. Hơi thở anh yếu dần. Chị Lai Hồng đứng yên, im lặng một cách lạnh người. Anh chị Trà bắt đầu tụng kinh Thủy Sám. Rồi, đọc kinh Bát Nhã.

“…Xá Lợi Tử nghe đây: Thể mọi pháp đều không. Không sanh cũng không diệt. Không nhơ cũng không sạch. Không thêm cũng không bớt. Cho nên trong tánh không, không có sắc, thọ, tưởng. Cũng không có hành thức. Không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý (sáu căn). Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (sáu trần). Không có mười tám giới. Từ nhãn đến ý thức không hề có vô minh. Không có hết vô minh. Cho đến không lão tử. Cũng không hết lão tử. Không khổ, tập, diệt, đạo. Không trí cũng không đắc…”

Hơi thở anh yếu dần. Anh chị Trà, chuyển sang tụng kinh A Di Đà, nguyện cầu ngài Tiếp Dẫn Đại Sư đưa một linh hồn về nơi Tịnh Độ. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật,… Tiếng tụng nhỏ, đều đều, như âm vang từ một cõi xa xôi nào vọng lại.

Hơi thở anh yếu dần. Yếu dần. Rồi ngưng hẵn. Ngọn đèn trên bàn cô y tá, cạnh chị Lai Hồng, vụt chớp rồi tắt. Đúng 6 giờ 20 chiều. Chúng tôi vội bước đến gần anh. Cháu Phượng Nam đến ôm mặt anh, “Papa, this is Phượng Nam!” Cháu Linh Giang ngồi yên trong tư thế tọa thiền. Chị Lai Hồng đứng yên cuối giường, im lặng. Dù đã dặn trước không được tỏ xúc động, Hoàng Bắc vẫn khóc.

Chúng tôi lần lượt nói lời vĩnh biệt. Khoảng 10 giờ tối, tất cả ra về, chỉ còn lại chị Lai Hồng với các cháu…và anh.

Tôi nhớ lại rất rõ, nét mặt anh, điệu bộ anh, giọng sang sảng của anh, khi ngâm Tống Biệt Hành của Thâm Tâm. “Đưa người ta không đưa qua sông…”

TRƯƠNG VŨ
Maryland, tháng 6 năm 2009

Nắng vàng trong rừng khô

truongvu

Cách đây hơn ba mươi năm, khi còn ở Philadelphia, mỗi lần đi bộ từ nhà trọ đến trường đại học, tôi thường đi ngang một khu townhouse thuộc giới nghèo trên đường Chestnut. Nếu đi vào buổi sáng, khoảng mười giờ, có nắng tốt, thế nào tôi cũng nhìn thấy một người đàn bà ngồi trước thềm nhà. Da trắng, khoảng sáu mươi, tóc trắng như bạch kim, chải sát vào đầu. Lúc nào cũng vậy, người đàn bà ngồi im lặng, bất động, mắt nhìn xa, đăm chiêu, trông như một pho tượng của Rodin. Có vẻ như với bà những gì đang xảy ra trước mặt không có nghĩa gì cả. Tôi không biết bà đang nhìn gì, thấy gì. Chỉ có cảm giác là vào lúc đó trong đầu bà chắc bao nhiêu hình ảnh của quá khứ đang trở về, bao nhiêu tâm tư từng lắng sâu vào tâm khãm đang sống lại. Khó ai biết. Chỉ biết nơi con người đang ngồi bất động đó hiển lộ một sự sống khác, dường như chứa chất một thãm kịch nào. Những lúc như vậy, tôi đểu mơ có khả năng vẽ nên một chân dung đích thực, biểu hiện được những phức tạp của con người, những thứ phức tạp thường tạo nên một cái đẹp kinh hồn cho nghệ thuật. Giấc mơ đó không thực hiện được. Cũng có lúc, tôi muốn tìm hiểu hơn về bà, hoặc tìm cách nói chuyện với bà. Nhưng, tôi luôn ngần ngại, không biết làm cách nào và cũng không chịu khó suy nghĩ kỹ hơn phải làm cách nào.

Từ lúc rời Philadelphia đến nay, thỉnh thoảng tôi có trở về, có đi ngang con đường cũ, nhưng không bao giờ gặp lại con người đó. Hình ảnh người đàn bà ngồi như pho tượng trước thềm nhà vào mỗi sáng rất khó quên. Nó khiến tôi liên tưởng đến một vài hình ảnh khác, để viết ra những dòng sau đây.

Tôi có một người bạn trẻ, LLT, tốt nghiệp về phân tâm học ở đại học Johns Hopkins, Baltimore. Thời gian làm nghiên cứu sinh, T tình nguyện vào làm trong một bệnh viện tâm thần ở Boston và tại một số tư gia do cơ quan tỵ nạn địa phương giới thiệu. Bệnh nhân của T thuộc nhiều thành phần người Việt khác nhau, tuổi từ 15 đến 70. Ở đây, có những người đàn bà bị điên loạn sau khi trải qua những nỗi đau kinh hoàng trên biển, mất chồng, mất con, bị hãm hiếp,… Ở đây, có những đứa trẻ mới trước đó sống êm ấm với gia đình bỗng chứng kiến những cảnh hãi hùng, rồi vụt cái, mất cha, mất mẹ, mất anh em, rồi ngơ ngơ ngác ngác trong một xã hội hoàn toàn xa lạ. Ở đây, có những người qua tuổi trung niên hoàn toàn mất định hướng, không đương đầu nổi với những đổi thay quá lớn, quá nhanh về hoàn cảnh, văn hóa, ngôn ngữ, xã hội. Ở đây, có những thanh niên mắc các loại bệnh về ảo giác, lúc nào cũng trông thấy những hình ảnh kỳ lạ, nghe những âm thanh ma quái luôn thúc giục mình làm những điều không phải, v.v. T làm việc với những bác sĩ, y tá, cán sự xã hội địa phương. Sau năm năm, vì nhu cầu hoàn thành luận án, T phải về lại trường rồi sau đó đi kiếm việc làm. Lúc T rời Boston, có khoảng 25 phần trăm trong số bệnh nhân này hồi phục để có thể tiếp tục đời sống một cách tương đối bình thường như nhiều đồng bào khác của họ. Những người còn lại, theo hiểu biết của T, đa số sẽ không chữa trị được. Đời sống của họ như thế nào qua từng tháng ngày trong khu bệnh viện tâm thần, cho đến những giờ cuối cùng, ít tai biết. Đến nay, vì làm việc ở xa, T không thể tình nguyện trở lại bệnh viện đó như trước, nhưng mỗi lần nói về những bệnh nhân cũ cũa mình T vẫn còn đầy xúc động như nói về những người thân bất hạnh.

Viết đến đây, tôi chợt nghĩ đến trường hợp một người đàn bà tôi có nghe đến. Đó là một phụ nữ trẻ đẹp khi cùng chồng và hai đứa con còn rất nhỏ vượt biển khoảng cuối thập niên 70. Trên đường vượt biển, thuyền họ gặp nạn, hai đứa con rớt xuống biển, người chồng vội nhảy xuống cứu và cả ba đều chết đuối. Thãm kịch xảy ra nhanh như chớp trước mắt chị. Chị và một số người khác được cứu sống. Chúng ta có thể mường tượng ra những gì xảy ra sau đó cho người đàn bà bất hạnh này. Sau một thời gian ở trại tỵ nạn, chị được đi định cư ở Mỹ, luôn giữ bên mình những kỷ vật của chồng và hai con, góp nhặt được sau tai nạn trên biển. Suốt gần mười năm kế tiếp, chị sống âm thầm với kỷ niệm lẫn với những ám ảnh kinh hoàng từ chuyến đi định mệnh đó. Không ai nghĩ rằng chị có thể trở lại đời sống bình thường. Cho đến khi có một người đàn ông khác đến. Tình thương, hiểu biết, kiên nhẫn, ân cần… đã mang lại chị một niềm an ủi. Họ thành vợ chồng. Trong nhà vẫn để bàn thờ của hai con và người chồng cũ, nhưng họ quyết định sống một đời mới. Không biết những năm tháng sau đó, những ám ảnh của quá khứ có thỉnh thoảng quay về, chen vào giữa họ, nhưng đây vẫn là một “happy ending”. Chị may mắn hơn rất nhiều người đàn bà khác cùng cảnh ngộ, cùng là nạn nhân của thảm kịch trên biển đông trong thập niên đầu sau khi chiến tranh chấm dứt. Có nhiều người còn trải qua những kinh nghiệm hãi hùng hơn.

Cuối năm rồi, tôi hân hạnh gặp một thanh niên đến từ Việt Nam, do các con tôi mời về dùng cơm tối với gia đình. Người thanh niên ở khoảng tuổi ba mươi, nói năng nhỏ nhẹ, ăn mặc và ứng xử như mọi thanh niên bình thường khác. Khi trò chuyện với tôi, lúc nào cũng xưng “con” nên lúc đầu tôi ngỡ là bạn của các con tôi. Sau vài câu thăm hỏi mới biết đó là một linh mục thụ phong chỉ được vài năm. Sau khi thụ phong, ông tình nguyện đến coi sóc một viện mồ côi nhỏ ở Sài Gòn, dành cho những trẻ em bị HIV. Trong số này có những em còn cha mẹ nhưng bị bỏ vào đó vì cha mẹ không đủ khả năng nuôi dưỡng. Tuổi thọ của các em thường không quá mười lăm. Một số bác sĩ gốc Việt ở Mỹ khi về Việt Nam làm thiện nguyện có đến thăm viện mồ côi này. Xúc động về hoàn cảnh của các em và cảm kích về những nỗ lực của ban điều hành và những người tình nguyện đến chăm sóc, cùng những khó khăn về nhiều phương diện, nhóm bác sĩ quyết định vận động giúp đỡ viện. Phần lớn sự trợ giúp đến từ các thân hữu Việt và Mỹ ở hải ngoại. Do đó, vị linh mục cùng với một em bị HIV với một y tá đi theo săn sóc được mời sang Mỹ gặp gỡ các thân hữu. Tôi có gặp bé gái đó. Xinh xắn, nói năng rất tự nhiên và lễ độ, dễ gây cãm tình của người đồi diện. Mới nhìn tưởng chừng đó là một em bé khoảng mười tuổi nhưng thật ra em đã mười sáu tuổi, mà sức trưởng thành chỉ đến đó. Em nói năng rất tự chế, chấp nhận số phận mình một cách tự tại. Những người đã đến thăm viện mồ côi cho tôi biết các em ở viện không được trường học bên ngoài nhận nên viện tổ chức lớp học riêng cho các em. Các em được học hành và vui đùa như mọi trẻ em bình thường khác, mặc dầu tất cả đều biết mình sẽ rời cõi nhân gian này bất cứ lúc nào. Dĩ nhiên, thực hiện được điều đó không dễ. Vị linh mục cần sự hỗ trợ của rất nhiều người.

Nói đến những bác sĩ thích làm thiện nguyện, tôi nghĩ đến một người bạn trẻ khác, bác sĩ LTL, một chuyên gia về ruột. Ông thường mang sách vở về tặng và mời một số giáo sư y khoa Mỹ và Việt về giãng ở đại học y khoa Huế. Trong một chuyến đi như vậy cách đây khoảng mười năm, mỗi ngày ông đều thấy một bà cụ đẩy xe bán bánh mì đến chợ Bến Ngự, sáng đi chiều về, ngang qua nhà ông. Ông để ý thấy một chân của bà cụ đi đứng không được bình thường. Một hôm ông đến chợ, đến nơi bà cụ bán bánh mì, ngồi xuống xin phép xem chân bà, thấy ghẻ lở ăn sâu vào thịt. Sau đó, cứ hai ba ngày ông mang thuốc đến, tự tay chăm sóc vết thương. Khi vết thương gần lành hẵn, có thể tự chữa lấy được, cũng là lúc ông từ giã bà cụ về lại Mỹ. Bà ôm ông khóc. Ngày nay, LTL là một bác sĩ rất thành công ở Maryland. Ông có phòng mạch riêng, nhận làm chủ nhiệm khoa ruột của một bệnh viện quan trọng một thời gian, và là giáo sư thỉnh giảng ở một đại học y khoa lớn, nhà cửa sang trọng, gia đình hạnh phúc. Mới đây, ông kể tôi nghe, vài tháng trước ông có về lại Việt Nam. Người đồng nghiệp ở y khoa Huế thường làm việc chung với ông trong những chuyến về thiện nguyện, trước đây khá nghèo, bây giờ lái một chiếc Mercedes mói toanh ra đón ông ở phi trường. Tôi thực sự mừng cho sự thành công của họ, mừng họ có nếp sống cao, vì họ xứng đáng được hưởng thành quả do tài năng và sức lao động của họ. Tuy nhiên, mỗi lần nghĩ đến LTL, hình ảnh đầu tiên hiện ra trong đầu tôi vẫn là hình ảnh một bác sĩ trẻ ngồi xuống chăm sóc ghẻ lở nơi bàn chân một bà cụ bán bánh mì ở chợ Bến Ngự.

Ở hải ngoại, chúng ta thường nói, thường ca ngợi những thành công cá nhân của người tỵ nạn hay con cháu những gia đình tỵ nạn. Nhưng, chắc chúng ta cũng biết bên cạnh đó có rất nhiều người không thành công. Đặc biệt, có nhiều người rất thiếu may mắn đang kéo lê cuộc đời của họ trong âm thầm. Với bề ngoài lặng lẽ, họ chứa chất bên trong một thế giới riêng, thường khó hiểu với người xung quanh. Những cái thế giới như thế chắc phải có một sức mạnh nào đó, một sự nặng nề nào đó để kéo họ thu mình vào, không tìm được lối ra, hay không muốn tìm một lối ra. Cũng có thể, thế giới đó rất đơn giản, chỉ dung chứa một số phận không may, không thể làm gì khác hơn là chấp nhận nó như một định mệnh nghiệt ngã. Như trường hợp các trẻ em mồ côi bị HIV, như trường hợp bà cụ bán bánh mì ở chợ Bến Ngự, v.v. Nếu may mắn, họ có thể gặp những người có một tâm lượng lớn hơn bình thường, một sự thông cảm lớn hơn bình thường, cũng bằng một cách lặng lẽ đến giúp đỡ, chia sẻ nổi đau của họ. Như người tu sĩ, người chồng, và những người trẻ tuổi tôi đã kể trên. Và, còn bao nhiêu người khác nữa chúng ta không thể nói hết ở đây.

Những việc làm đầy tình người của họ, dù nhỏ hay lớn, như những tia nắng vàng trong rừng cây khô, đã làm cuộc đời có ý nghĩa hơn. Và, nếu những cố gắng đầy chân tình đó biến đổi được một số phận không may hay mang lại một niềm vui, một tia hy vọng về tương lai cho một người bất hạnh, tôi cho đó là một thành công lớn. Một thứ thành công dễ khiến những người nghe đến trở nên thâm trầm hơn.

Trương Vũ

Maryland, tháng Năm 2010

67

LÁ MÙA THU

truongvu

67
Nhà hoang trong ngày thu:chất liệu hỗn hợp trên ván ép, 24″ x 36″,
thực hiện năm 2010

Lần đầu tiên tôi gặp Đinh Cường là vào một buổi xế trưa đầu hè 1974. Tôi và Lê Thành Nhơn ra phi trường Nha Trang đón Cường về nhà, chuẩn bị cho một cuộc triển lãm cá nhân do đại học Duyên Hải NhaTrang tổ chức. Chúng tôi trở thành bạn thân từ đó. Cùng với Lê Thành Nhơn, Trịnh Công Sơn, Bửu Ý, Huy Tưởng chúng tôi làm việc chung với nhau ở Duyên Hải trong một số chương trình nhân văn, chia sẻ những ước mơ đẹp về một tương lai cần có cho những thế hệ tiếp nối đào tạo từ ngôi trường này. Thời gian sinh hoạt chung với nhau khá ngắn nhưng đã để lại nhiều kỷ niệm khó quên.

Sau 1975, đại học Duyên Hải không còn nữa. Lê Thành Nhơn đi tỵ nạn ở Úc, sau đó tôi đi Mỹ. Hơn hai mươi năm sau tôi mới gặp lại Cường, chị Tuyết Nhung, và các cháu, sang định cư ở Virginia. Tôi có phụ với Phạm Nhuận và một số bạn khác tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên của Cường ở Mỹ. Từ đó, chúng tôi gặp gỡ nhau khá thường xuyên. Tôi ngờ rằng đời sống ở Mỹ có thể tốt cho các cháu nhưng không chắc nó hợp với Đinh Cường, vốn sống nặng về nội tâm, quen gần gũi những bạn bè thân tình từ thuở còn trẻ. Tuy vậy, tôi vẫn thấy được nơi Cường một thái độ nhẫn nại, thâm trầm trong cố gắng giữ cân bằng giửa đời sống một con người bằng xương, thịt phải đương đầu với những vấn đề rất thực tế của xã hội Mỹ với đời sống của một nghệ sĩ có một thế giới rất riêng tư. Một thế giới của nghệ thuật, của tình bạn, của những nơi chốn luôn gắn liền với cuộc đời mình, như Huế, như Sài Gòn, như Dran, như Bình Dương,… và của hồi tưởng, nói chung. Thỉnh thoảng, tôi vẫn cảm nhận được nơi Cường ít nhiều chao đảo trong nỗ lực cân bằng đó.

Đinh Cường là một tài danh lớn của hội họa Việt Nam, và là một bạn hiền, bạn tốt của hầu hết họa sĩ, văn thi sĩ được biết đến, thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Lớp già, không còn trên trần gian nữa, như Bùi Giáng, Nguyễn Tuân, Bùi Xuân Phái, Mai Thảo, Võ Phiến, Võ Đình, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, … Cùng trang lứa, như Trịnh Công Sơn, Bửu Ý, Bửu Chỉ, Hải Phương, Nguyễn Đức Sơn, Trịnh Cung, Nguyễn Trung, … Lớp trẻ hơn, như Trần Vũ, Nguyễn Thị Thanh Bình, Hoàng Ngọc Tuấn, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Trọng Khôi, Trần Hoài Thư, Nguyễn Ý Thuần,… Không giống như nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng, Đinh Cường rất trân trọng công trình của người khác, một cách đặc biệt. Hầu như tất cả được Cường vẽ chân dung hay phác họa chân dung, hay làm thơ đề tặng, không phải chỉ một lần, mà có người, rất nhiều lần. Có lẽ Đinh Cường là người họa sĩ nổi tiếng duy nhất của Việt Nam đã viết sách, rất công bình, với nhận định sâu sắc và từ tốn, về những họa sĩ thuộc lớp đàn anh đã có công lớn cho hội họa Việt Nam, bằng tác phẩm của họ hay bằng công trình đào tạo tài năng cho các thế hệ sau.

Có một điều tôi muốn thổ lộ ở đây, vì, có thể, nó cũng giống với tâm trạng nhiều bạn bè khác hay của nhiều người xem tranh, đọc thơ Đinh Cường. Dù luôn luôn là bạn tốt, trong suốt một thời gian khá dài, tôi với Cường sống trong hai thế giới khác nhau, phần trùng hợp không lớn. Thế giới của tôi khá bình dị, gần với thực tế, không có những lực đè nén để buộc tôi phải chìm đắm vào những lớp sâu của tâm hồn. Tôi thích thơ của Đinh Cường, tôi ngưỡng mộ tranh của Đinh Cường. Tôi cảm được có một giá trị cao nơi tác phẩm của bạn tôi. Bố cục, màu sắc, hình họa, và tính trừu tượng rất đặc thù. Tôi cũng cảm được rằng ở đây dường như có một chút phối hợp hài hòa giửa Modighiani với Picasso, và trên hết là của chính tài năng và tâm hồn của Đinh Cường, rất riêng. Tuy nhiên, dù ngưỡng mộ, tôi vẫn cảm thấy một chút xa cách. Chẳng hạn, tôi biết được, thấy được những thiếu nữ trong tranh Đinh Cường đẹp, rất đẹp, nhưng tôi không thấy gần với họ, không có cảm giác mình đụng được những con người như thế. Cho đến khi, tôi bắt đầu vẽ, bắt đầu xa rời dần cái thực tại bình thường của đời sống hằng ngày để đi vào cái thực tại của nội tâm. Lúc đó, những thiếu nữ của Đinh Cường cũng bắt đầu rời khỏi những con đường nhỏ của cố đô Huế năm xưa, hay rời khỏi những nấm mồ hoang sau nhà Bồ Tùng Linh, để đi vào thế giới riêng của tôi, như những con người rất thật. Cả cái nhà thờ con gà ở Đà Lạt, những phố xá, núi đồi trong mù sương ở Dran, hay anh da đen thổi kèn đồng ở Mỹ, v.v., đều như thế. Tất cả khiến cho cái thế giới nội tâm của tôi nhộn nhịp lên, làm cho đời sống giàu hơn.

Người vẽ tranh, người làm thơ Đinh Cường chắc chắn có được một niềm hạnh phúc lớn khi bằng nỗi đam mê, tài năng, trí thông minh, và sức làm việc kiên trì để tạo nên những tác phẩm để đời, ưng ý. Niềm hạnh phúc đó không mấy ai khác có được. Tuy nhiên, khi tập tểnh bước vào cái thế giới của nghệ thuật, tôi cũng bắt đầu hiểu ra rằng mọi thứ không hẵn đơn giản như thế. Không hẵn chỉ có cái hạnh phúc đó. Nó còn có đau đớn, dằn vặt. Nó phải như thế nào để có chuyện Van Gogh tự cắt lỗ tai ông. Đam mê càng lớn, ước vọng càng cao, càng dễ thấy cái giới hạn của sức lực mình. Ráng tạo một tác phẩm như ý rất thường khi không khác như lao đầu vào một cuộc chiến của nội tâm. Dù xung quanh có bao người thân yêu, có bao bạn bè tốt, cuối cùng cũng chi có một mình mình thôi phải đương đầu với nó. Nỗi cô đơn rất khó tả.

Thường tình là như vậy, huống chi, khi biết mình mắc thêm một chứng bệnh trầm kha. Lúc đầu, bạn tôi vẫn giữ nguyên cái an nhiên, tự tại thường tình, và tin tưởng nhiều vào khả năng của y học. Vẫn vẽ nhiều, vẫn viết nhiều, vẫn gặp gỡ bạn bè thường xuyên, như không có gì xảy ra. Chấp nhận những đau đớn của chemo như điều không thể tránh. Cho đến khi, cơ thể yếu hẵn dần. Lúc đó, theo dõi những bài thơ trên blog Phạm Cao Hoàng, những bài thơ được viết ra như viết nhật ký, tôi có cảm tưởng nửa khuya nào bạn tôi cũng thức dậy. Ngó qua khung cửa sổ, nhìn bóng đêm, nhìn vầng trăng. Rồi, nhìn lên kệ sách. Rồi đi tìm những cuốn sách, những bài thơ của bạn bè. Rồi viết cho người này, người nọ, cho những người còn sống, cho những người đã chết. Thi thoảng còn từ ký ức phác họa vài chân dung của bạn bè. Tôi cảm phục sức làm việc phi thường, ý chi cống hiến thanh thoát, nhưng đồng thời, tôi cũng cảm nhận được nổi cô đơn cùng cực của bạn. Nói như Đinh Trường Chinh, “cô đơn đi vào bóng tối”.

Chỉ trong ba năm sau cùng, Đinh Cường đã đăng 875 bài thơ cùng với một số lượng tranh tương tự, theo ghi nhận trên blog của Phạm Cao Hoàng. Chúng ta không cần phải trở về thi ca đời Sơ Đường, đọc Lý Thương Ẩn để cảm thán với câu “xuân tàm đáo tử ti phương tận” mà Nguyễn Du dịch là “con tầm đến thác vẫn còn vương tơ”. Chỉ cần đọc hết một phần những bài thơ đó, xem hết một phần những bức tranh đó, cũng đủ kinh hoàng với sức nhả tơ của một con tầm như chúng ta biết.

Họa sĩ Đinh Cường đã cống hiến cho hội họa Việt Nam một tài sản lớn. Nhà thơ Đinh Cường đã làm thơ rât nhiều, như một cách thể hiện cái vi tế và phong phú của đời sống, rất đặc thù, Tôi nhớ, có một câu nói ở đâu đó, “nhân tài như lá mùa thu”.

Một chiếc lá mùa thu rất đẹp vừa rơi xuống!

Trương Vũ
Maryland, ngày 12 tháng 1 năm 2016

66
Đinh Cường – Trương Vũ tại Studio Trương Vũ
Virginia, 20.9.2015 (Ảnh PCH)

LỜI MỞ CHO HƯỚNG DƯƠNG GIẤU MẶT.

truongvu

12421549_948100161912024_280880438_n

Tôn Nữ Thu Dung là một trong những học trò trẻ nhất của tôi ở Việt Nam, đúng ra là học trò bé bỏng nhất, em vào đại học năm cuối cùng tôi dạy và làm việc ở đó(1975). Bốn mươi năm đã trôi qua, có nhiều lần gặp lại, tuổi tác tiếp tục tăng lên, tuy nhiên mỗi lần nghĩ đến Thu Dung, hình ảnh tôi nhớ đến luôn là hình ảnh một cô học trò bé bỏng năm nào. Bé bỏng, không phải chỉ vì cái dáng dấp nhỏ bé, xinh xắn, đầy nhiệt tình khi xông xáo vào những sinh hoạt của trường học. Chính cái cách biểu lộ sự đam mê rất hồn nhiên về văn học, nghệ thuật của Thu Dung tạo cho tôi ấn tượng đó. Sau này, đọc những bài vở của Thu Dung, theo dõi những công trình, những sinh hoạt của em về văn học và cả về xã hội, tôi thấy gợi lại nhiều hình ảnh đã nằm yên đâu đó trong ký ức về một khoảng đời rất đẹp tôi sống trên quê hương. Trong hầu hết những sáng tác đó, tôi luôn thấy hình bóng của tác giả, với những biểu lộ vui buồn rất thật và quen thuộc, dù viết về một hồi tưởng, về một câu chuyện thật, hay hoàn toàn hư cấu. Tạp chí mạng Tương Tri mà Thu Dung sáng lập và điều hành, đều đặn và sinh động, với bài vở chọn lựa trên tiêu chuấn chất lượng, biểu lộ rõ niềm đam mê và cá tính của em, một cá tính mạnh nhưng rất hài hòa và giàu tình cảm.
Cách đây khoảng một năm, khi về California dự một hội thảo văn học, tôi có nhiều dịp gặp lại Thu Dung và một số học trò cũ. Trong một buổi ăn tối với các em, khi nói về chuyện viết lách của Thu Dung, tôi có nói những lời này: “Thu Dung, em không thể cứ trẻ thơ mãi, em phải lớn lên”. Tôi nói thật với lòng mình. Tuy nhiên, về lại Maryland, một thời gian sau đó tôi chợt nghĩ lại điều mình nói, rồi nghĩ lại về chính mình. Thế hệ của tôi, tuổi trẻ già hơi sớm. Bước vào đại học là bắt đầu học đại về những ý thức mới, những trào lưu văn học nghệ thuật đương đại trên toàn cầu, những khủng hoảng tâm tư về chính trị, về xã hội, về tôn giáo,… Vã, dĩ nhiên, luôn tranh cãi và khắc khoải về chiến tranh, về cái biên cương của sống chết, rất hẹp, rất thật và rất gần với mình. Hình ảnh quen thuộc của thế hệ là hình ảnh những nhóc con mười bảy, mười tám, ngồi quán cà phê, hít một hơi thuốc lá, phà khói lên trần rồi trầm tư và thấy mình rất lớn. Hầu hết đánh mất cái hồn nhiên của mình. Cho dù, cũng có đọc Antoine de Saint-Exupéry viết Le Petit Prince cho đứa trẻ thơ trong một người lớn, hay xem những bức tranh của Marc Chagall vẽ những tình nhân hồn nhiên bay bổng lên không trung. Cho dù, cũng có ngưỡng mộ những công trình đó, ấn tượng để lại trong tâm tư thường vẫn ít sâu đậm.
Bây giờ, đọc lại những sáng tác của Thu Dung, tôi thấy hài hòa với mình và với tác giả hơn, thấy nó gần gũi với đời sống hơn, đặc biệt, khi chứng kiến nhiều cái điên loạn đang xảy ra trong thể kỷ này, những điên loạn phát sinh từ sự coi thường cái sống của người khác. Dầu sao, về chuyện văn chương, tôi đã từng viết ra trong một tiểu luận cách đây 20 năm: “… khi nghĩ đến văn học nghệ thuật, chúng ta buộc phải nghĩ đến những giá trị lớn, những mức đến xa và không nên tự hài lòng với một so sánh nào đó.” Tôi tin Tôn Nữ Thu Dung cũng nghĩ như vậy.
Cần nói thêm, trên hành trình văn học của mình, Thu Dung có một bạn đường rất tốt: “một trẻ thơ trong người lớn”.
Rất thánh thiện và hồn nhiên đến với cuộc đời.

Trương Vũ
(Maryland, tháng 12 năm 2015)

ĐÊM ĐẠI DƯƠNG

truongvu

Cách đây 39 năm, tôi rời Việt Nam trên một chiếc ghe đánh cá nhỏ, cùng với bốn bạn đồng hành khác. Chúng tôi thay phiên nhau lái ghe, từ Nha Trang vượt đại dương nhắm hướng Manila, Phi Luật Tân. Không một ai trong chúng tôi có kinh nghiệm hay hiểu biết về hải hành. Một đêm, không trăng, sóng lớn, tôi chợt nhớ đến một bài thơ của Victor Hugo, bài Oceano Nox (Đêm Dại Dương), mở đầu bằng những câu tạm dịch như thế này: “Có biết bao thủy thủ, có biết bao thuyền trưởng, vui vẻ hăm hở lao mình vào các chuyến viễn du, có biết bao nhiêu người trong số đó, do số phận nghiệt ngã, mất hút theo những chân trời mờ nhạt, tan biến vào lòng đại dương không đáy, trong những đêm không trăng…” Khi còn đi học, nét bi hùng của bài thơ gây cho tôi nhiều xúc động. Vào lúc này, chơi vơi trên biến cả, không là thủy thủ, không là thuyền trưởng, trong lo sợ, trong sự cảm nhận sâu sắc thân phận nhỏ nhoi mong manh của mình giữa đại dương bao la, tôi càng xúc động hơn. May mắn, chúng tôi đến được Manila an toàn. Ghe chúng tôi là một trong những chiếc đầu tiên đến được Manila sau biến cố 1975.

Những ngày kế tiếp, những năm tháng kế tiếp, hơn một triệu đồng bào lần lượt lao mình vào đại dương. Từ hai trăm đến bốn trăm ngàn trong trong số đó không bao giờ đến nơi, không bao giờ trở về. Nhớ lại bài Oceano Nox của Victor Hugo, tôi không còn chút xúc động nào nữa. Cái bi hùng trong Oceano Nox không nghĩa lý gì với những thảm kịch kinh hoàng đồng bào tôi đang trải qua trên đại dương. Đói khát, tuyệt vọng, cướp bóc, hãm hiếp, giết người, bắt cóc, chìm tàu, và trong vài trường hợp, phải ăn cả thịt người để tồn tại. Như đã kể trong một bài viết vài năm trước đây, tôi có một người bạn trẻ, gần hai mươi năm trước đây tình nguyện làm việc trong một bệnh viện tâm thần ở Boston và tại một số tư gia do cơ quan tỵ nạn địa phương bảo trợ. Bệnh nhân của anh thuộc nhiều thành phần người Việt khác nhau, tuổi từ 15 đến 70. Ở đây, có những người đàn bà mắc bệnh tâm thần sau khi trải qua những nỗi đau kinh hoàng trên biển, mất chồng, mất con, bị hãm hiếp,… Ở đây, có những đứa trẻ mới trước đó sống êm ấm với gia đình bỗng chứng kiến những cảnh hãi hùng, rồi vụt cái, mất cha, mất mẹ, mất anh em, rồi ngơ ngơ ngác ngác trong một xã hội hoàn toàn xa lạ. Ở đây, có những người qua tuổi trung niên hoàn toàn mất định hướng, không đương đầu nổi với những đổi thay quá lớn, quá nhanh về hoàn cảnh, văn hóa, ngôn ngữ, xã hội. Ở đây, có những thanh niên mắc các loại bệnh về ảo giác, lúc nào cũng trông thấy những hình ảnh kỳ lạ, nghe những âm thanh ma quái luôn thúc giục mình làm những điều không phải, v.v. Anh cho biết chỉ có khoảng 25 phần trăm trong số bệnh nhân này hồi phục, có thể tiếp tục đời sống tương đối bình thường như nhiều đồng bào khác của họ. Những người còn lại, đa số không chữa trị được. Đời sống của họ như thế nào qua từng tháng ngày trong khu bệnh viện tâm thần, cho đến những giờ cuối cùng của đời họ, ít ai biết. Ngoài ra, còn biết bao thảm kịch khác, mà mỗi người trong chúng ta, hoặc đã chứng kiến, hoặc nghe kế lại. Nhưng cái thảm kịch lớn nhất vẫn là cái thảm kịch của một dân tộc mà những người làm chính trị đã khiến người dân bình thường sợ họ hơn sợ nỗi chết. Đó cũng là thảm kịch của một đất nước mà quân đội luôn luôn vinh danh về sự hùng mạnh, về những chiến thắng trên trận mạc, nhưng hoặc bất lực, hoặc cố tình làm ngơ trước những cướp bóc, hãm hiếp, giết người man rợ của bọn cướp biển ngoại nhân chỉ có vũ khí thô sơ, dù rằng chiến tranh đã chấm dứt, dù rằng nạn nhân là những con người vô tội hầu hết không hề cầm súng, và họ cũng là những người được sinh ra từ trăm trứng của mẹ mình.

Bốn mươi năm đã trôi qua từ ngày chiến tranh chấm dứt trên quê hương. Gần ba mươi năm đã trôi qua từ lúc những chiếc ghe cuối cùng của thuyền nhân Việt Nam chìm sâu trong lòng đại dương. Hồi tưởng lại thảm kịch đó để thắp một nén nhang cho những người đã khuất, để nguyện cầu sự siêu thoát cho những oan hồn trên biển đông. Vã, cũng là lúc để mỗi người Việt Nam tự chiêm nghiệm về chính mình, về những gì đã làm, những gì đã không làm, những gì lẽ ra không nên làm. Quan trọng hơn hết, để thực sự dấn mình vào những nỗ lực của cá nhân và tập thể cần phải có cho thế hệ này, và cho những thế hệ kế tiếp. Để xã hội nhân bản hơn, tôn trọng những quyến căn bản của con người hơn, và để người dân có tự do, có cơ hội sống một đời có phẩm cách, như trong bao nhiêu quốc gia tiến bộ khác. Chỉ có như thế, cái thảm kịch như từng xảy ra trên biến đông sau 1975 sẽ không còn xảy ra cho dân tộc Việt Nam trong tương lai nữa.

Trương Vũ
Tiểu sử:
-Tên thật Trương Hồng Sơn, Tiến Sĩ Khoa Học.
-Tốt nghiệp Đại Học Sài Gòn, University of Pennsylvania, The George Washington University về Toán, Vật Lý Hạt Nhân, và Kỹ Sư Điện trong Kỹ Thuật Không Gian.
-Trưởng Phòng Sinh Viên Vụ và Dạy Toán tại Viện  Đại Học Cộng Đồng Duyên Hải Nha Trang trước 1975.
-Vượt biển và định cư tại Hoa Kỳ từ 1976.
-Chuyên gia nghiên cứu cho NASA từ 1980 cho đến khi nghỉ hưu, năm 2006.
– Nguyên Đồng Chủ Biên Tập San Việt Học The Vietnam Review, Đồng Chủ Biên Tuyển Tập Văn Chương Chiến Tranh The Other Side of Heaven (do Curbstone Press xuất bản, 1995), và Chủ Bút Tạp Chí Đối Thoại (1994-1995).
-Hiện cư ngụ tại Maryland, USA, chú tâm vào vẽ và viết.
Đây là bài nói chuyện rất cảm động của thầy ưu ái dành riêng cho buổi ra mắt 2 đặc san : 40 Năm Thuyền Nhân Viễn Xứ và Galang Một Thuở do  học trò của thầy là Tôn- Nữ Thu- Dung làm chủ bút vào ngày chủ nhật 3/5/2015.
Xin giới thiệu 2 đặc san này cùng các độc giả Tương Tri
Các bạn có thể đặt mua trên /Amazon.com/ toàn thế giới.

11096544_10206009178366276_2310723279733507686_o (1)