Khải Tri

 

Ăn quả không nhả hột sẽ mọc cây trong bụng. Đấy là răn đe tôi từng tin sái cổ. Như một đứa trẻ biết phục thiện, tôi òa khóc, thú nhận mình đã ăn vụng nuốt cả hột và mong một sự cứu chữa từ người lớn để cây không mọc trong bụng. Ngoài việc trách mắng, nhiều khi đét đít bằng roi mây, mẹ tôi đã chẳng làm gì. Nghĩa là hạt quả vẫn trong bụng tôi. Chẳng thể biết hạt có đươm mầm và phá ruột tôi để chồi ra ngoài như cây đậu của Jack không nữa. Tôi lo từng ngày dù mẹ đã nhắc rằng không sao. Đến bây giờ tôi vẫn mạnh khỏe trừ vài trận ốm vặt. Hạt quả đã đi đâu hay vẫn ẩn trong bụng tôi chờ ngày nảy thành cây. Bọn trẻ ở khu này phải ăn rất từ tốn để nhằn hạt. Hầu như đứa nào cũng từng nuốt phải hạt quả. Kể cả khi chúng có móc họng để nôn bằng sạch những gì đã đi vào bụng thì hạt vẫn kẹt trong ruột. Đến thuốc xổ cũng không đào thải được dù chỉ một hạt nhỏ như vẩy cá. Trẻ con rồi cũng lớn. Chẳng đứa nào quên rằng đã canh cánh lo âu về thứ hạt đã nuốt chửng.

Táo. Đấy là thứ quả có nhiều nhất ở thị trấn tôi. Táo ở khắp nơi, mọc khắp chốn và chúng tôi hái ăn như loại thực phẩm thiết yếu. Ăn táo từ lâu đã thành truyền thống của mọi gia đình. Để tránh lạt miệng bởi ăn mãi táo nên nhiều người đã chế biến nhiều món ăn từ táo. Táo giòn gọt vỏ chẻ miếng là món cổ điển. Cơm vị táo, bánh táo, xúp táo, sữa bột hương táo, nước ép táo, bánh bao nhân táo, cháo quẩy vị táo rồi thì hàng loạt những vật dụng cá nhân từ cái áo, cái quần, lược, bàn chải, dầu gội, sữa tắm được làm từ quả, vỏ và gỗ cây táo. Chúng tôi xây nhà bằng gỗ cây táo và đóng quan tài cũng bằng gỗ cây táo. Thị trấn được rào quanh bởi một dãy táo trồng san sát theo kiểu hàng rào vòng tròn. Cuối thị trấn có một cái nhà cổ xây từ lâu và đổ nát, hoang hóa đến mức không ai nghĩ đấy là cái nhà. Tảng đá ngoài cổng khắc chữ gì đấy. Ngoài một nét đứng còn thì chỉ thấy những đường xước sẹo chen lấn nhau, tạo thành sự loang tróc của thời gian. Hàng chữ viết trên đá được khắc quá nông, quá ẩu nên chỉ một trận bão thời gian ngắn ngủn nửa thập kỷ là rụng lả tả như cái răng sâu. Đại loại là đây là Nhà Vòng của thị trấn. Người xưa đã gọi thế nghĩa là từng tồn tại cái tên này. Trong nhà không có ai ở, cũng chẳng thờ ai, không có đồ đạc, dấu vết gì chứng tỏ từng có người ở. Bên trong chỉ có một cây táo già cỗi nhiều trăm năm vẫn sai quả. Những quả táo mọng chín với lớp vỏ dày, đỏ và giòn xốp được hái từ cây táo này. Số táo đấy được dùng để cúng gia tiên hoặc dành cho mùa lễ hội. Táo chúng tôi hái để ăn, để bán trong chợ là từ các cây táo khác mọc quanh thị trấn. Chỗ chúng tôi không hề có trang trại táo, các vườn táo tư gia thì nhỏ bé trong bán kính ba mươi mét vuông. Cây táo ở khắp nơi và mọc khắp mọi nơi. Bên trái đường, đằng sau ngõ, trước cửa nhà, trong công viên, sát ủy ban, trạm chờ xe bus, bến cuối xe bus, nhiều lúc là trước cổng trường học, trong lớp học, nhiều cây còn nảy mầm trong thư viện, trồi từ lòng đất phòng thí nghiệm. Những cây táo này phát triển rất nhanh. Hầu như không phải ai gieo hạt bừa bãi. Chỉ là một mầm cây nhú xuyên qua đất, ngấu nghiến mưa nắng và vươn cao từng đoạn như nước vòi vặn chậm. Những cây táo hoang dã, tự sinh sôi này chỉ cao đúng một mét mốt thì dừng lại. Nếu muốn cây lớn hơn thì phải vun nước. Độ cao dù chỉ như vậy nhưng vẫn có quả. Người thị trấn hái ăn, dĩ nhiên có nhè hạt. Thứ trái cây trời ban này là nguồn thực phẩm dồi dào của thị trấn nhưng cũng có nhiều phiền toái khi đi lại, hoặc do xây nhà. Từng có một cái cây mọc đâm xuyên bàn thờ khiến cả gia đình phải điêu đứng trong những giấc nơm nớp âm ỉ triền miên.

*

Nhà Vòng là một cấm địa được tự do ra vào.

Cây táo già nua đấy được người thị trấn gọi là Cây Trưởng Lão, Táo Cụ, Lão Mộc hoặc Chúa Táo, Cây Xưa…Và, Ông Cả là cái tên tôi và những đứa thuộc thế hệ tôi thường gọi.

*

Ông Cả nảy mầm từ trong nhà hay khi người ta thấy cây héo úa, khô khốc như khung xương khổng lồ đã xây nhà như cách trấn yểm để cây không thành tinh, nào ngờ cây vẫn đủ nhựa và đã tái sinh như Phượng Hoàng. Nhà Vòng quạnh quẽ không một dấu chân. Việc hiếm hoi người qua lại có lẽ do công việc quá bận rộn, hoặc người thị trấn đã quá quen thuộc với cây táo ngay từ lúc chào đời. Chỉ mùa lễ hội người thị trấn mới tụ tập quanh Nhà Vòng để tổ chức đại tiệc táo. Người ta đốt đèn, nhảy múa, mở thành nhiều vòng tròn để hát, nhảy và tỏ tình bằng cách tặng táo cho nhau. Khi đấy táo Ông Cả mới được bổ ăn. Giờ giấc đấy ai cũng xuống đường. Mọi phương tiện giao thông ngừng hoạt động, cầu dao đèn tự ngắt. Đấy là ưu tiên hàng đầu để toàn thể thị trấn nối với nhau, gần gũi, gắn bó như cây với đất. Những năm này, người ta đã quen với Nhà Vòng, không ai còn muốn vào quá sâu dù là một đứa oắt với trí tò mò bay bổng. Tôi lâu lâu lại vào, và lập tức trở ra vì vấp ngã bởi phần gạch đá lồi lõm, bởi rễ cây táo gù lên, nhấp nhô khắp nhà.

Nhà Vòng chỉ có một gian nhưng rất rộng. Diện tích nhà áng chừng bằng nửa sân bóng hoặc một hội trường trung ương. Tường bao quanh đã xuống cấp, nhìn bong lóc và rách nát như tờ giấy. Ông Cả nằm chôn gốc giữa nhà. Đã không ai còn nhắc về niên đại của cây và nguồn gốc cái nhà viết tên Vòng. Người biết chuyện thì đã quá già, không lú lẫn thì cũng gần đất xa trời. Tôi thì lại tin Nhà Vòng được xây từ lâu, có khi xa xưa đến mức cây táo còn chưa đồ sộ như ngọn tháp thế này. Những gì cổ xưa thường linh thiêng, những gì linh thiêng thì cổ xưa-Lý lẽ của người đời là thế và tất cả tin như đấy là chân lý.

Ông Cả không phát triển về thân nữa nhưng cành thì vẫn xum xuê. Mái của Nhà Vòng đã bị những cành lớn đâm vỡ toác. Các nhánh con ban đầu thọc qua kẽ hở trên ngói để trèo lên. Khi các cành đủ khỏe thì gồng mình phá tung mái ngói. Những miếng ngói vỡ, rơi vãi khắp nơi như vẩy bò sát. Lá phủ rậm rạp khắp nhà và vươn rộng khắp thị trấn tạo thế bát úp. Vỏ Ông Cả cứng, gân guốc, xù xì và nhiều lỗ thủng do sâu đục. Phần sàn của Nhà Vòng tróc lở, gạch bật toác. Bộ rễ như con chuột chũi đào hang trong lòng đất, ngày qua ngày vẫn miệt mài hút dưỡng chất. Tôi đoán rằng các nhánh rễ đã tìm thấy một mỏ khoáng chất ngủ quên sâu trong lòng đất. Suối nguồn năng lượng hoặc long mạch, một kho tàng kim cang dẫn xuống thế giới ngầm… Chính nguồn dinh dưỡng lạ thường này đã tiếp sức, giúp Ông Cả vạm vỡ nhiều thập kỷ. Thị trấn được bao bọc bởi một hàng cây táo có niên đại từ bốn mươi năm đổ xuống. Một số cây mọc chắn đường lớn, hoặc cổng ngõ dẫn ra đường cao tốc thì đã bị chặt bỏ. Nhiều năm trước thị trấn có một đường xe lửa nhưng giờ đã bỏ trống do cây táo mọc kín đường ray. Con tàu và trạm bán vé tàu đã hoang phế. Rêu, cỏ hoang và cây dại phủ gần hết con tàu. Một mầm táo không biết từ đâu đục đẽo vỏ tàu từng ngày để phá xuyên nhìn trời. Trạm bán vé thì cây mọc chổng, kết thành những hàng dài. Những cây này đã chết khô nên nhìn từ xa trạm tàu như một nghĩa địa cọc gỗ.

Nóc của thị trấn là bầu trời xanh nhưng đã mờ xanh từ hơn nửa thập kỷ trước. Lí do không từ việc tàn phá môi trường bằng cách xây nhiều nhà máy, xí nghiệp, trồng nhiều ống khói. Lí do về đường dây điện thì càng không vì thị trấn này từ lâu đã sử dụng công nghệ không dây, chỉ một số khu do quá nghèo mới phải chằng dây. Mái trời xanh được phủ không bằng màu xanh dương, vàng, đỏ tía hay trắng ngọc. Màu xanh lá cây cũng là màu của bầu trời thị trấn. Phần màu này được tạo thành bởi những cành lá xum xuê phủ tầng của Ông Cả. Lá cây rậm rạp, không ngừng phát triển, dày nhiều lớp. Số cây táo mọc quanh thị trấn nếu cành lá đủ cao thì cũng móc vào tán cành Ông Cả. Bởi lá cây trùm rậm rạp như cái áo khoác lông thú nên thị trấn thường mau tối. Ngày cũng như đêm, toàn thị trấn phải bật hết đèn đường. Chúng tôi đã chặt đi nhiều cành lớn. Việc chặt không thể bừa bãi mà phải họp hội ý và xin phép Ông Cả. Chỉ những cành cây quá già, vươn quá dài hoặc nhiều lá quá mức cần thiết mới bị chặt. Nhiều khi, chúng tôi chẳng chặt bỏ cành mà chỉ tuốt hết lá cây để thấy chút bầu trời.

Tôi từng nhìn thấy tấm ảnh chụp bầu trời thị trấn khi róc hết lá trên cành. Trong ảnh, màu xanh dương êm ả như mặt biển, các gợn mây điểm lác đác tựa những cánh buồm. Một góc ảnh khác chụp được một cánh chim vắt ngang bầu trời. Có tấm trời mây được dệt trong màu vàng hoàng gia. Tấm khác, chụp lúc gần hoàng hôn, mặt trời vàng ấm như quả trứng lòng đào đựng trong bát phalê. Một tấm ghi lại một phần trời trắng muốt vì mây phủ. Đám mây dày, xòe rộng như váy cô dâu. Màu mây không sánh đặc như nhựa cây, chẳng nhạt lợ như sương muộn, không trong trẻo như sữa mẹ và còn thiếu chút chói lòa của sương mù sơn cước. Vẫn có đường quăn, nếp nhàu, gấp trên mây, chính những đường nét tình cờ này đã khiến tôi nghĩ đến một miếng bông gòn, chiếc máy bay được gấp bằng giấy nhàu nhưng vẫn đủ cứng cáp để liệng nhiều vòng cung. Tảng mây dày như núi băng trôi trên trời, nếu vung vẩy tấm ảnh, mây sẽ bồng bềnh thành ngọn sóng. Sự thướt tha này giống với một dải lụa mềm, càng giống hơn điệu múa vỗ cánh của những chú bồ câu.

Đấy là ảnh chụp các góc nhỏ. Nếu nhìn vào tấm hình chụp trọn vẹn cả bầu trời, sẽ bắt gặp các cành táo. Những cành dài, ngắn trụi trọc lá và quả chụp lên khung trời, đan xen ngang dọc như lớp hàng rào gỗ khổng lồ. Một ai đấy đã cả gan chặt hết cành, để mở toang cánh cổng nhìn lên trời. Nóc nhà thị trấn trắng trơn nên mưa, nắng sẽ đổ ập xuống như sóng thần. Không thể chạy nắng mãi bằng cách rúc trong nhà hay đội mũ, xòe ô giữa trời khô. Như một trừng phạt, Ông Cả đã không ra quả, những cây táo khác quanh thị trấn cũng ngừng đâm trổ. Thị trấn chịu một nạn đói dai dẳng. Nguồn sống nơi đây duy trì nhờ táo, thành ra kinh tế bị ngưng trệ. Cũng vì quá quen với món táo nên hễ ăn một thực phẩm khác táo là ai nấy đều nôn thốc tháo. Đã có một nghi lễ nhận tội ở Nhà Vòng. Một tháng sau, thị trấn táo hưng thịnh trở lại. Đã không còn ai dám bẻ hết cành táo. Khung cửa sổ của thị trấn tiếp tục được phủ màu xanh thực vật. Lá cây mọc dày đặc, chen chúc chỉ để hé ra vài khe thủng. Cành cây vươn dài, nhiều khi còn xuyên vào nhà dân. Sống dưới mái cây táo, chúng tôi như được bảo vệ khỏi mưa, nắng. Nhiều khi, táo còn tự rơi trên đường và cứu đói những người vô gia cư, ăn mày hoặc khách tha hương.

*

Ăn táo nuốt cả hạt sẽ mọc cây trong bụng. Vậy nếu nhai nát hạt rồi nuốt thì hạt táo có sinh mầm? Ngày hôm qua một người trong thị trấn đột ngột mất tích. Nơi cuối cùng người đó ghé vào là ghế đá vỉa hè. Rạng hôm nay một cây táo mọc trên ghế đá vỉa hè. Cây đâm chồi, có lá non và cao bằng một người lớn. Vì cây táo mọc đằng sau ghế đá nên đã tạo thành một chỗ râm mát để ngồi nghỉ.

Thị trấn này thường xuyên có người mất tích. Mỗi một người đi mất, một cây táo lại mọc lên.

Quả Ông Cả luôn to, vỏ dày và nhiều nước. Quả táo nhỏ nhất chỉ bằng bàn tay, quả to hơn thì như cái sọ khô. Một cành táo lớn mọc xổ dài trên bậu cửa nhà tôi. Quả sai chín thơm phức cổng nhà. Có lúc tôi hái ăn khi táo vẫn xanh, khi lại chờ đợi táo chín thật sự thì mới bắc thang hái. Không thiếu dịp táo rơi lộp độp cổng nhà. Tôi từng được ăn một quả táo to như trái đào tiên trong phim Tây Du Ký. Màu táo đỏ tươi, thắm như môi nàng Bạch Tuyết. Vỏ cắn giòn như bánh xốp. Ruột táo thì khỏi chê, cắn một miếng tôi thấy vòm miệng mát lịm. Nước táo ứa tràn kẽ răng. Tôi nuốt ực nước cốt táo như uống sinh tố hoa quả. Giống táo để lâu sẽ thâm sì, mất chất nên tôi phải ăn nhanh. Mùi thơm mát của táo chín cây đã lùa tôi vào vườn Thượng Uyển. Như kẻ mộng du, tôi ngơ ngẩn trong hương táo chín. Tôi ăn, nhai rau ráu hoặc nhai nhỏ đến mức nát vụn. Ăn táo xong, sẽ thở ra mùi thơm. Ngay đến tiếng ợ hơi cũng như ăn thêm một lần táo. Những cây táo mọc ngoài thị trấn hay trồi lên bất cứ đâu cũng ra trái giòn, trái ngọt nhưng vị chẳng được đậm đà như mật ong. Sau khi ăn trái từ Ông Cả, nụ hôn của các lứa đôi cũng ngọt và thơm mát lạ kì. Nhiều cặp nam nữ đã hành lạc khi ăn xong một trái táo. Da thịt đàn bà khi ăn táo mát lịm, ngòn ngọt và mê hoặc đến mức dẫn dụ hồ điệp đuổi nhau trên da thịt. Còn đàn ông thì bớt nôn nóng hơn nhưng vẫn mạnh bạo, bền sức và thừa điên cuồng để khuấy tung cả Đông Hải. Máu xử nữ vấy màu táo chín.

Đánh chén một quả táo, sẽ đủ dinh dưỡng cho cả ngày. Nguồn sinh lực này tiêu trừ tính vô tri để biết che mình khi trần truồng. Nước cốt táo vẩy ra mực đỏ vẽ lên những mặt trời. Ăn một lát táo là tâm hồn say đắm, để thoát tục chốc lát hoặc để đợi chờ một nụ hôn đánh thức.

Cách đây rất lâu có một vụ án chấn động thị trấn. Một người mẹ đã ăn thịt đứa con bốn tháng tuổi. Lúc bị bắt, người mẹ đã hóa điên và tự cắn lưỡi trong lúc bị hỏi cung. Xác người đàn bà cùng mẩu lưỡi bị cắn đứt từ cuống vẫn được lưu trữ trong bệnh viện. Xác đứa bé nham nhở. Da nó bị lóc bằng dao gọt hoa quả, phần thịt bị ăn nhẵn, chỉ chừa lại xương. Lời đồn, mộ đứa bé sau này đã mọc lên một cây táo. Hẳn là đứa bé đã ăn táo không nhè hột, nhưng một đứa bé ba tháng tuổi thì nào đã đủ răng để nhai táo.

Cuối thị trấn có một anh chàng chết vì đói. Gia cảnh anh chàng không quá khốn khó, chỉ là anh ta đột ngột muốn bỏ món táo. Cả thị trấn này sinh nở từ táo. Việc bỏ táo chẳng khác nào kiêng đi lại bằng cách chặt chân. Không muốn ăn quả táo, thì còn có nước táo, bánh táo, cơm táo, mì táo, bún trộn táo, thịt nhồi táo, bánh mì vị táo và biết bao thứ ngon lành làm từ táo. Loài người không sinh ra từ táo và thành chúa tể các loài từ một quả táo.

*

“Thị trấn này, cái gì đang đứng? Dù đã bao nhiêu năm trôi qua, vẫn chỉ táo là táo. Nhà cửa, những công trình rồi dân số, thứ cần thiết để gầy lên một tinh hoa không đến từ táo. Đáng lẽ cây táo chỉ là món vật chất có sức sống, món quà từ mẹ thiên nhiên chứ không phải ông Hoàng. Vật chất chỉ nên phụng sự con người như nhổ rễ cây thuốc, nghiền chữa bệnh. Hãy cảm ơn bát thuốc, cảm ơn cây thuốc, không nhất thiết phải cúng bái dù là cây thuốc hay bát thuốc. Quanh thị trấn chỉ là táo và chỉ thấy táo. Cây táo bố, rồi cây táo nhỏ, cũng được coi như bố. Chúng đã giúp thị trấn no nê nhưng quá nhiều cây, quá nhiều táo thì còn gì gọi là đời sống. Chẳng có một trái quả nào khác táo. Nhà cửa cũng là gỗ táo. Nước uống cũng từ táo mà ra. Đến thứ chúng ta thải ra cũng là bã táo. Ta đã nghĩ, thị trấn này chỉ như một thứ dây leo tầm gửi lên cây táo, còn chúng ta là những con trùng cộng sinh.”

Hắn là ai mà nói với tôi như vậy. Một kẻ lạ mặt trong vô vàn những kẻ lạ mặt trên cõi đời này. Lúc tôi đi dạo, nhìn ngắm cây táo thì thấy hắn. Cũng thật lạ lùng khi hắn nói một mình nhưng nhìn về tôi. Hắn đeo dây chuyền với cái mặt giấu trong ngực áo. Tiếng hắn to tướng như muốn ai cũng nghe được. Bên cạnh hắn có một chú bồ câu trắng. Hắn có mang theo bánh và còn bẻ nhỏ để chia cho chú bồ câu. Hắn cũng bẻ cái bánh nhỏ hơn để mời tôi. Tôi nói rằng táo đã là nguồn sống của thị trấn này. Một đặc trưng hiếm có, độc nhất vô nhị của nơi đây là những cây táo.

“Nguồn sống của thị trấn này là cây táo hay nguồn sống của cây táo là thị trấn này. Chàng biết không, cây táo trong Nhà Vòng từ lâu đã không ra nhựa. Một cây lâu năm nếu đã phát triển đủ sẽ không cao lớn thêm. Số lá, cành um tùm đè ngửa lên bầu trời được nuôi bởi những cây táo nhỏ hơn. Ta sẽ không nói đến số táo trồng thành vườn. Thị trấn này luôn có người mất tích. Nếu chàng chịu đếm, để tổng quát sẽ thấy mỗi một cây táo ứng với một người mất tích. Đừng nghe ta nói, nhưng hãy tin là ta đang nói thật. Cha ta cũng từng biến mất khi đang sắp nến theo vòng tròn. Cây nến màu hồng đã đốt hụt. Thế rồi, một cây táo mọc lên và phá tung vòng nến. Ta đã chặt cây, nhổ bật rễ và chàng biết ta thấy gì không. Một cái rễ ăn sâu như đã thâm nhập lòng đất hàng chục năm. Rễ cây táo nơi thắp nến nối với rễ cây táo….”

Hắn vẫn còn liến thoắng phía sau.

Nhà Vòng ở xa tít tắp. Ông Cả đồ sộ hơn tất cả. Những cành táo vạm vỡ, chia những nhánh cũng to khỏe không kém. Màu xanh của lá cây táo phủ hết trời, nhiều chiếc rụng lả tả xuống đầu, chạm vào vai và dồn tụ thành chướng ngại. Một chàng lái xe bị lá cây chọc vào mắt, đâm xe vào góc đường. Một xe máy lao quá nhanh, không kịp giảm tốc độ đã đâm sầm vào cây táo chồi mọc giữa lòng đường. Cú va chạm tạo ra lửa, bén vào bình xăng khiến một cột lửa phụt lên sau tiếng nổ. Người, xe và cây rệu rã trong đám cháy. Lúc đạp phải một quả táo, tôi suýt ngã. Góc kia, bà mẹ đang đút cháo táo cho đứa con nhỏ. Con bé vùng vằng, kêu “ứ ừ”. Bà mẹ bóp miệng con rồi nhét thìa. Tôi thấy một bà cụ hóa vàng mã trước một cây táo mọc ven hè. Cách đấy ba số nhà, có người quen của tôi. Sáu năm trước một đôi vợ chồng sống ở đấy. Sáu năm sau, cô gái chung sống với một cây táo trong nhà. Anh chồng đã đi đâu mất. Người bảo anh ấy đi công tác xa, người bảo anh chàng du học, cũng không thiếu kẻ kháo vợ giết chồng phi tang giấu xác. Mọi cuộc điều tra vô ích. Anh chồng mất tích sau khi một cây táo đột ngột mọc trong nhà. Tôi ghé nhìn ô cửa, thấy cô vợ ăn tối cùng cây táo. Giữa thân táo có khoét lỗ, để cô vợ có thể bón thức ăn dù bằng muỗng, đũa hay mớm bằng miệng. Tôi đã chào người vợ, chị ta cười với tôi và lấy tặng tôi một ít mứt táo sấy khô.

*

Ăn táo không nhè hột sẽ mọc cây. Tối hôm đấy tôi đã lỡ nuốt cả hột táo. Tôi nuốt những hai lần hột. Một hột của cây táo nhỏ, một hột của Ông Cả. Đáng lẽ tôi không bất cẩn như thế. Lúc ăn táo tôi không quá đói đến mức ngấu nghiến nuốt quên cả nhai. Sơ xuất đầu tiên của tôi là đã không bổ táo để khoét hạt. Sơ xuất tiếp theo, là từ những câu nói của kẻ lạ hôm nay. Tôi nhớ lại, rồi nhẩm từng cây táo mọc hoang, bắt đầu từ dãy nhà mình. Trí nhớ mở ra làm tôi quên đi việc gọt vỏ trái Ông Cả. Một cây, hai cây, ba, bốn cây…Nếu đếm lùi về mạn nghĩa trang thì sẽ được thêm vô số cây táo. Để khu nghĩa trang được che mát người ta đã trồng thêm cây. Ồ, vốn chẳng cần thiết vì bao năm qua bầu trời thị trấn đã rợp phủ bởi lá cây. Một, hai tia nắng xói qua kẽ lá chẳng ăn nhằm gì. Một hàng cây táo rào quanh nghĩa trang. Bên trong, lại có biết bao cây táo mọc tua tủa như bàn chông. Số cây này đã phá nát mộ phần. Nhiều ngôi mộ bị bật hết lên, xương xẩu văng tứ tung như bản giao hưởng đang cao trào chợt mỗi người chơi một kiểu. Tôi từng thấy một cái sọ người bị cành cây móc qua hai hốc mắt và đưa lên cao. Ngày ra quả, cái sọ nhìn như quả táo trắng lẫn trong nhiều quả táo đỏ, nửa đỏ hoặc xanh. Thiếu gì những cây mọc từ mả người chết sau khi đã hấp thụ mọi dinh dưỡng, từ thịt rữa, xương trắng, dịch hủy cho đến đám giun, giòi béo ngậy như loài tằm tơ nhiều màu. Người sống được quyền lựa chọn làm việc có ích, còn người chết sẽ hữu ích nếu nuôi ra một cây táo. Những trái táo dù không to, không quá mọng nước và chất chỉ bằng một phần tư so với Ông Cả, vẫn có thể cứu khát, cứu đói khẩn cấp. Dòng nghĩ miên man hết cây táo này đến cây táo kia. Số cây nhiều lên ứng với số người rời bỏ thị trấn. Cây có ở khắp nẻo thị trấn, tạo thành một mê lộ cây táo. Miệng tôi cắn ngập, nhai cả vỏ, nuốt cả nước. Thế rồi, tôi dừng ăn sau một tiếng khe khẽ.

Ay…Ay…Tôi đang cố nhại lại tiếng mình nghe được. Xung quanh chẳng có ai vì tôi đang đứng trên ban công. Cái tiếng nhỏ, đứt quãng kia vẫn vọng ngắn đoạn. Nhà hàng xóm đã tắt hết đèn, ai chưa ngủ thì cửa sổ để hé. Tôi không tìm ra một ô cửa sổ nào khả nghi. Ay…Ay…Da…Tiếng bên tai trái. Khi nhẩm đọc thì tiếng vang bên tai phải. Đèn đường vẫn sáng nên không khó để tìm ra một cái bóng quằn quại, chờ mong cái xòe tay hảo tâm. Tôi nhìn mãi, vẫn chỉ thấy những cây táo to, nhỏ, cành lá xòe to hoặc chỉ vươn dài, khô mộc như xương bốc mả. Ngước lên chỉ thấy bầu trời lá cây sẫm đen vì đêm. Ai thế! – Tôi hô to và không nghe thấy tiếng hồi đáp. Tiếng xuýt đau vẫn chập chờn mang tai như với gọi tôi. Mắt tôi đảo nhiều vòng dài và đột ngột chăm chú vào bàn tay mình. Quả táo trong tay tôi nhìn nham nhở như bị chuột gặm. Nước táo rỉ đỏ. Ruột táo cũng sục ngầu màu Nguyệt Thực. Tiếng thều thào tưởng gần nhưng lẩn khuất xa xôi. Cái âm thanh ảo não, nhưng nhức và khẩn thiết gần với tiếng sóng vỗ trong vỏ ốc nhưng có đập nát con ốc cũng chẳng tìm ra giọt sóng nào. Trong cái run rẩy choáng váng, tôi “Ợ” một tiếng. Từ sáng đến trưa tôi chỉ ăn táo, từ trưa đến chiều muộn, tôi cũng chỉ ăn táo. Tôi đã không ợ lên mùi táo. Một mùi khác, vị khác, dai nhách như món thịt lạ chưa một lần ăn nhưng cái mềm mại lại quen thuộc như cắn ngấu cơ thể người tình trong say đắm.

Tôi đánh rơi quả táo. Tôi khạc nhổ, móc mọng để khạc nhổ. Được một lúc, tôi nhìn lại quả táo cùi cụt vì những cái ngoạm quá lớn. Ruột táo trắng, vỏ táo vẫn đỏ thắm như cánh hoa hồng. Hạt táo đã vào bụng tôi rồi. Tôi không móc nhổ được hạt táo. Chẳng biết vừa rồi tôi có nhai hạt không, và nhai nát đến đâu hay khi thấy cứng quá thì nuốt luôn…Táo này chỉ là một quả ngắt từ cây được đâm chồi từ hạt giống. Vẫn có những cây mọc không từ hạt giống táo. Có bàng hoàng lắm không nếu nghĩ về một cây táo mọc trong cơ thể người. Vì ăn táo không nhè hột nên đã mọc cây. Sự đâm rễ từ từ, chậm chạp và hiệu quả như hạ độc liều nhỏ theo quy trình. Nếu sự lớn lên của cây nhanh chóng như đột biến hóa học, có lẽ người ta sẽ đỡ đau đớn hơn. Cây táo phá ruột, nảy trồi ra ngoài hệt như chú gà con mổ vỡ vỏ trứng, xông ra thế giới. Tôi chẳng nghĩ gì ngoài việc toát mồ hôi. Cây táo và những cây táo…Đâu đâu cũng chỉ là táo. Quá lâu không được ngâm mình dưới nắng mặt trời, hít hà khí sạch từ bầu khí quyển thoáng đãng, cũng như việc ăn táo quá thường xuyên khiến da dẻ tôi xanh xao. Người khác…Tôi nghĩ đến điều này…Trong lúc tôi còn tư lự mở gói suy nghĩ thì một đôi cánh vọt qua, cắt cháy khoảng không. Một con bồ câu. Lúc bay dưới ánh đèn cao áp, bồ câu mang lông vàng. Lúc ánh đèn nằm khuất vào màu khuya, bồ câu phủ lông đen.

Như biết rằng tôi đang ở sau, con bồ câu bay thấp và chậm lại. Những cái liệng bay sắc, gọn như nhát chém bổ đôi trái táo. Số cây táo mọc lắt léo khắp nơi khiến tầm nhìn tôi hẹp lại. Một chốc, tôi mất dấu. Trong lúc ngó nghiêng, tôi thấy con bồ câu đứng trên một mái nhà. Con thú bay nhìn tôi, cái mỏ nghếch lên rồi vỗ cánh. Một sợi lông cánh rớt lại sau mỗi lần tung cánh. Tôi chạy, còn con bồ câu bay. Không có tiếng gù gù, chỉ có tiếng vỗ cánh phần phật như chim ưng đi biển. Vẫn có người còn lang thang ngoài đường nhưng không ai chú ý tôi. Đường bay của con chim vòng vèo, quẹo vào xó này, quẹo ra xó nọ, luồn qua nhiều cây táo, đâm xuyên vào một vườn táo với biết bao nhiêu lá, quả ngổn ngang lối đi. Lá cây rơi sột soạt, táo rơi từng quả. Người ta nhặt táo ăn, rồi khi no nê thì nằm ngửa dưới đất như con hải cẩu tắm nắng. Tiếng ngáy pho pho thỏa mãn. Mùi táo và lá cây dày thành sương mù. Phần đường này không có đèn cao áp. Tôi đã cố để không mất dấu con bồ câu bằng cách tập trung vào cả mắt lẫn tai. Chạy một hồi, chân tôi vấp vào một rễ cây và ngã lộn nhào. Đầu tôi vô sự nhưng đôi bàn tay đã xước máu vì mài xuống đường. Tôi cố tìm kiếm một mảnh trăng dẫn đường nhưng chỉ thấy lá cây. Trời không om om màu mực nhưng mọi vật mù mờ như thị lực của người cận thâm niên mất kính. Trong lúc dọ dẫm chẳng biết lạc vào đâu, tôi nghe thấy tiếng đập cánh. Chỉ một tiếng nhỏ, ngắn cũng đủ để tôi lần ra dấu con bồ câu. Cánh vỗ mạnh hơn nhưng con chim chỉ bay lưng chừng vì cổng trời bị rào lại. Đoạn đường giữa người và chim kéo dài, ngừng lại rồi nối dài.

Mắt tôi sáng rõ hơn nhờ mẩu sáng của các hộ dân ngủ quên tắt đèn. Tôi nhìn thấy nhiều người ngủ lăn lóc dưới đất sau khi đã xơi no táo. Mấy cái bụng tròn căng phập phồng, phô ra cái rốn lồi. Chưa một lần tôi đến gần chỗ con bồ câu. Tôi mãi ở sau. Hễ tôi chạy vượt lên con chim liền bay vụt như một đầu đạn. Tôi chạy mãi. Đâu phải tôi muốn bắt con bồ câu. Còn bồ câu, cớ gì lại vờn trước mặt tôi như mặt trăng? Nếu đây là cuộc săn đuổi, thì tôi như thợ săn bị con mồi dẫn dụ thành mồi. Rõ ràng chẳng ai bắt ai, cũng chẳng ai đuổi ai. Đấy là sự thắp sáng. Nhưng? Bộ hành tìm sáng từ đôi cánh hay đôi cánh tìm sáng bằng cách dẫn theo bộ hành…

Những thân táo rẽ ra như được vén màn. Trong lúc đói bụng, tôi định cúi nhặt một quả táo để lót dạ nhưng lại thôi. Chạy quá một con đường, tôi đi chậm lại vì một cây táo già mọc đồ sộ giữa lối đi. Một cơn gió xoáy qua làm rung rinh cành táo, lá rơi xuống như trận mưa. Một quả táo rơi trúng đầu tôi đau điếng. Chẳng có sáng kiến nào lóe ra trong đầu tôi. Chỉ cơn đau như búa giáng nài tôi dừng lại. Và rồi, tôi đã bội bạc lại suy nghĩ của mình bởi con bồ câu đã bay vọt khỏi tầm mắt. Lông vũ rơi, chập chờn trước mắt như một mách bảo rằng con vật đã rẽ vào đường lớn. Đèn sáng giúp tôi thấy rõ mặt những người đang ngủ dựa vệ đường. Một cô gái đứng tỳ tay trên lan can ban công. Màu da xanh xao không đồng nghĩa tất cả cùng mắc bệnh hiểm nghèo. Thị trấn táo này, da dẻ ai cũng xanh và càng lớn màu da càng sậm, đỏ thắm như vỏ táo. Lòng đường đã không còn bóng xe. Mọi thứ quạnh quẽ trong tiếng lá rơi, cùng tiếng chân tôi quét trên lá. Tại con hè, một chàng đang huơ hoắng tay. Cặp chân chàng ta dính vào mặt đất, và lún xuống. Trong lúc tôi chạy đến để kéo chàng trai khỏi lòng đất thì táo lại rụng. Những quả to bằng cái đấu gạo nện xuống lòng đường, lăn lóc khắp nơi. Thoắt cái, đôi chân chàng trai đã ăn liền mặt đất, đôi bàn tay cứng đơ và vươn dài, trổ cành. Từ các cành khúc khuỷu như xương đơm ra các nhánh nhỏ hơn. Lá cây mọc ồ ạt như lúa trổ đòng đòng. Chàng trai biến mất ngay trước mắt tôi. Một cây táo mọc ngay trước mắt tôi. Cây chưa ra quả nhưng đấy rõ ràng là một cái cây nảy lớn từ cơ thể người.

Con bồ câu lại vỗ cánh sau một chặng dừng. Lông vũ rơi một lần nữa nhắc nhỏ tôi rằng con bồ câu đã bay nhanh hơn và sắp băng hết đường lớn. Trên con đường mới, tôi thấy một ông già đang gặm táo rồi ngã chúi xuống. Tứ chi ông ta cắm ngập xuống đường, miệng ông ta ngoác lớn, hét không thành tiếng. Ánh sáng đổ dọc hai bên đường rồi ngắn đi, lọt thỏm như cái bóng đổ trườn mặt đất. Trời đất âm u một lúc rồi sáng trở lại vì sáu ánh đèn cùng chiếu vào một chỗ. Tôi dừng chạy vì đã để mất dấu con bồ câu. Không còn nghe thấy tiếng vỗ cánh. Tôi chỉ nghe thấy tiếng lá cây xào xạc dữ dội. Bầu trời thị trấn rung chuyển vì những cành lớn đang lay như cái cựa mình của người khổng lồ. Giờ đây, tôi cố định ở một vị trí đầy đủ ánh sáng.

Trước mặt tôi, Nhà Vòng. Trước mắt tôi, một cây táo.

Sau một hồi ngó nghiêng, tôi tìm thấy những sợi lông vũ. Số lông vung vãi quanh con đường dẫn vào nhà. Con bồ câu đã bay đến đây. Mỗi một sợi lông rớt lại, tạo thành một dấu chân, một đường kẻ nối các dấu chấm thành một bản đồ hoàn chỉnh. Tôi đi theo dấu lông vũ rơi, và nhặt từng sợi một sau khi ướm dấu chân mình lên vị trí nằm chờ của các sợi lông cánh. Thêm sáu ngọn sáng từ sáu cây nến không rõ ai cắm ngoài cổng nhà. Bên trong kể ra cũng sáng sủa. Nguồn sáng cũng từ những cây nến được thắp trong nhà. Sợi lông vũ cuối cùng nằm dưới một rễ cây gồ khỏi mặt đất. Ông Cả lại sai quả. Những trái chín mọng hoặc rơi quanh gốc, hoặc vẫn cao vút trên các cành lớn.

“Chàng tìm gì ở đây. Nếu muốn ăn táo thì hãy ăn. Uống nước từ nguồn bao giờ cũng ngọt. Ta thấy chàng đang mệt, có phải chàng đã lả sức sau một chuyến đi dài. Đến đây, và bồi bổ.”

Hắn là ai mà nói với tôi như vậy. Một kẻ lạ mặt trong vô vàn những kẻ lạ mặt trên cõi đời này. Dưới những ngọn sáng, tôi xác thực được hắn không phải người tôi gặp ban chiều. Hắn có đeo dây chuyền với cái mặt giấu trong ngực áo. Chỗ đứng của hắn không gần tôi, cũng chẳng quá xa tôi. Khoảng cách này gần kề nhưng cũng xa xăm. Tôi đứng dưới gốc cây táo, còn hắn đứng dựa lưng trên thân táo. Thế rồi, hắn trèo sang trái, sang phải, đu lên cái cành gần đấy lanh lẹ như con sóc.

“Tôi tìm con bồ câu.”

“Không có bồ câu ở đây, chỉ có một cây táo. Chàng ăn một trái đi. Rất nhiều quả dưới chân chàng nhưng tuyệt đối chẳng phải trái ngon. Nếu chàng muốn, ta sẽ hái giúp chàng. Táo ngon giòn khi ăn cả vỏ, nhớ đừng nhè hạt vì chàng sẽ để lỡ mất những viên trân châu.”

“Ăn táo không nhè hạt sẽ mọc cây trong bụng.”

“Chàng đúng một nửa.”

“Thế nửa còn lại?”

“Chỉ những người đã chết, cây mới mọc trong bụng. Gượm đã, chàng đừng sợ hãi, đấy là một quy luật thôi. Nói đúng hơn, chỉ là một sự vãn sinh sau khi hết tuổi trời. Một thân xác dù mỹ miều, thánh thiện đến đâu rồi cũng thối rữa và bị lãng quên dưới lòng đất. Đấy là khi không còn linh hồn. Nhưng nếu xác họ nảy thành cây, thì đấy là tái sinh. Chàng nghĩ xem, còn gì vĩ đại hơn được sống vĩnh hằng.”

Tôi không thể thấy mặt hắn. Việc hắn leo trèo lên tục trên cây táo chỉ là một lí do. Nơi đây được thắp sáng bởi ánh nến, tôi có thể biện hộ rằng ánh sáng không đủ, còn thị lực tôi vốn đã chẳng tinh tường. Cái mặt lạ lùng với những đường gân gấp lên gấp xuống như di chuyển liên tục. Hắn không ăn táo nhưng hễ với tay là nắm được táo. Táo rơi bồm bộp như mưa rào. Phần gốc cây nổi gờ lên như muốn trồi khỏi mặt đất. Tôi ngửi thấy mùi táo chín mọng của lễ hội hàng năm. Không hề có mùi gỗ, hương lá cây khuấy trong gió, thoang thoảng thấy mùi mốc meo của đất lở. Hắn cười vang, tiếng cười cuốn thành tiếng xào xạc của những cành táo. Số táo treo trên cành cũng lắc lư như túm chuông lúc động gió. Ngoài kia, người ta xuống hết đường. Tất cả nhặt táo ăn, ai mang theo ghế cao thì leo lên hái táo. Số người cắm rễ chuyển sinh thành cây đơm quả, người ta hái quả, nhai rốp roắc trong tiếng vỡ xương. Không một ai nhổ hạt. Một vố lừa quá đau khi tất cả đều nuốt hạt. Hương táo đổ trào khắp nơi. Tôi thấy mê man.

“Ăn, là thống trị.” hắn nói trong lúc mắt tôi mê mẩn trong giấc. Giọng hắn du dương hơn tiếng em bé gọi cuộc đời và êm, lịm chất nghiện hơn sữa mẹ.

Người thị trấn nhảy nhót, mừng vui. Nam thanh lột bỏ áo, lột bỏ quần, mặc nhiên thả con giống ngóc thẳng. Nữ tú thả tóc, vén váy, rồi tháo lần lượt từ đôi tất cho đến mảnh đồ lót cuối cùng. Các cặp đôi cùng hái táo và cùng ăn. Họ ăn táo trong khoái trá, thụ hưởng vật chất trong thế chúa muôn loài. Ông Cả trổ quả. Quả tự bứng rơi xuống để rồi đám hai chân bò lồm cồm thành loài bốn cẳng. Bàn tay tôi xiết lại, nắm thấy táo. Một quả táo đỏ tươi như máu xử nữ mất cuộc đời. Trái to bằng bàn tay tôi, nắn thấy cứng, dày, chắc mẻm là táo chín cây. Quả Ông Cả, quà Ông Cả. Mùi táo ngậy thơm làm tôi say mèm. Trong cái choáng mình ê ẩm, nhũn nhão như được chắp cánh, tôi thấy nhiều quang cảnh chập chờn hiện ra, khép lại mở, mở lại khép. Tôi chẳng vén được gì nhưng cái úp mở đã thôi thúc lòng tham phải rút kiếm cướp ngai. Miệng tôi khan, thấy khát, thấy đói, thấy thèm thuồng và thấy được kích dục. Một cái cắn ngập răng vào táo, có khi ngốn hết sạch như hố đen húp sống cả thiên thạch lẫn hành tinh. Cái giòn ngọt của táo Ông Cả tôi đã thử nhưng táo ngày hôm nay sẽ là thượng phẩm. Táo nảy chín kể từ lúc tôi tìm vào Nhà Vòng. Ăn, cái bụng luôn đói ngấu sẽ được thỏa. Một sự no căng phát phì? Hay tôi sẽ chạm đến thứ khoái lạc tối cao và nguyên thủy nhất của thế giới.

Tôi ăn táo.

“Khoan!” – Tiếng ngăn tôi ăn táo.

Vẫn là hắn, kẻ lạ mặt trong vô vàn những kẻ lạ mặt trên cõi đời này. Hắn vẫn cheo leo trên thân cây táo, bám vững chắc như dính vào cây.

“Này chàng, Thiên Đường trong tay chàng, hãy…” – Hắn nói.

“Khoan…” – Hắn lại nói.

“Đồ Lưỡi Chẻ, Kẻ Xấu Xa, Thứ Quỷ Quyệt Trên Cánh Đồng…” – Hắn vẫn nói.

Hắn dựa vào Ông Cả. Hắn ôm mặt, vằn vò mặt. Tiếng hắn cứa làm hai, kháng nhau chan chát. Giọng hắn lúc ngọt ngào như nước hoa, lúc lại dữ dằn như sấm. Sau cái chỉ tay về phía tôi, hắn ngã lộn khỏi cây và đột ngột biến mất sau như trò ảo thuật. Thế rơi của hắn, hai cánh tay duỗi hai bên với đôi chân chập lại theo khuôn thánh giá đổ nhào. Tôi không lần được dấu hắn. Lý do ánh sáng là thừa, tôi cũng chẳng bao biện rằng cỏ mọc dày và rậm đến mức có thể chơi trốn tìm. Hắn đâu rồi. Sau cú rơi, hắn có phải đã tan thành vũng nước và ngấm hoặc bị cây hút làm dinh dưỡng.

Ông Cả trước mặt tôi. Phần vỏ nhăn nheo như bộ mặt tối cổ rỉ nhựa xanh, biểu hiện cho sự tái sinh. Táo trong tay tôi. Chỉ một cái ngoạm, nhai, nuốt ngấu và tôi….

Tôi do dự chưa ăn. Đầu óc tôi choáng lộn bởi tiếng hò hét phía ngoài. Đèn đóm của thị trấn tắt phụt. Người ta xuống đường đốt nến. Những cây nến cong queo, ánh lửa vẹo vọ như lưỡi rắn tìm mồi trong đêm.

Những cơ thể tìm nhau, cùng hái táo và cùng nhai, mớm nhau bằng cái hôn. Táo ăn không nhè hạt. Mọi người ca hát bằng cách vỗ miệng hú. Những thân mình uốn éo, cuốn vào nhau, cuốn vào thân táo.

Tay trái tôi nắm số lông con bồ câu đánh rơi. Chặng đường giữa tôi với bồ cầu, giữa người và chim, giữa cặp chân và đôi cánh. Bảy, đấy là số lông cánh tôi có. Đếm đi đếm lại, vẫn chỉ con số này. Vốn tôi nghĩ mình nhặt được nhiều hơn bảy sợi lông. Nắm chặt bàn tay, tôi đâm bảy đầu ngọn lông vũ vào ngực. Đâm từng nhát một, liên tục cho đến khi cơn đau làm tôi choàng tỉnh. Bảy sợi lông ngấm ngút vào ngực tôi. Chúng biến mất sau khi để lại một bên ngực bầm dập, trầy trụa vết đâm. Máu rỉ và chảy nối nhau từng giọt từng giọt như nước sáp nến. Cơn đau làm tôi tỉnh táo.

Tôi lõa thể từ bao giờ.

Nhà Vòng loang lổ, mục rỗng, tỏa mùi mốc meo của nấm siêu vi trùng. Cây táo Ông Cả kềnh càng như con bạch tuộc già đang hấp hối. Táo rơi bồm bộp từng đợt như lũ kéo.

Những cây táo khác đang quẫy đạp đòi ngoi khỏi đất nhưng rễ đã bắt vào Ông Cả. Mùa lễ hội…Người trong thị trấn ăn táo cả vỏ, cả hột. Tiếng cắn to tướng, nhai cũng to tướng. Một người ngã lăn lộn, hóa cây.

Đôi bàn tay tôi xòe hướng trời. Quả táo đứng trên một bàn tay. Tay còn lại trống trơn, bàn tay từng nắm bảy lông vũ. Trái quả tươi đỏ như mảnh đất màu mỡ, chờ khai phá. Mùi táo chín ngọt ươm trí tuệ nhân loại. Lát táo dày, tinh túy của trời và biển. Uống hết sao rơi, liếm khắp dãy ngân hà…Chúa Tể…

Tôi nghĩ ngợi về tương lai. Tôi đắn đo, nhắm nghiền mắt để đắn đo. Tôi trầm tư thật lâu, tựa như đang chết trong một giấc im lặng kéo dài, đốt cháy tuổi trời. Vết đâm nơi lồng ngực đã khép miệng nhưng máu vẫn nhức nhối và sôi sục, thúc giục tôi mở Thiên Đường…

Không phải trò tưởng tượng! – Tiếng đánh trong đầu trong ngân vang.-Tương lai nào phải trò tưởng tượng. Chọn tương lai, không giống như chọn vật để đấu giá, tìm nơi để náu thân trong khi đấy chỉ là sự ăn bám liều lĩnh. Một Thiên Đường, hay nhiều Thiên Đường…Tôi điên mất. Một con thuyền có đến được đất hứa không khi chúng ta đã dùng hết gỗ thuyền cốt để đóng cho mình một áo quan bền, đẹp nhằm kiêu hãnh với giun dế giòi bọ, sẽ gặm thân ta thành xương trắng. Táo, không phải táo, là tôi. Lông vũ, không phải lông vũ, vẫn là tôi. Cân lượng này, tôi chọn…

TRU SA

 

Advertisement

Độc

 

Nhìn, vẫn chỉ là nhìn và không vẫn chỉ là nhìn. Cặp mắt không thể hạn định tầm với bằng chỉ số thước đo hay đường chân trời. Không của báu nào thú bằng việc chọc thủng tầm nhìn khỏi những bộ sọ tróc lở, phố trôn ốc hay đền đài miếu tẩm. Khi máu không còn chảy, sẽ thoát ra ngoài bằng luồng hơi đỏ hoặc một màu nhạt ngấm từ trong và dần sánh ngầu. Bên ô cửa kính, chỉ là những miểng kính vỡ toác, trông nham nhở như hàm răng cải mả. Trong nhà chẳng có gì. Họa chăng là những cái bàn, ghế ngổn ngang. Ghế, bàn đơn hay kép đều có. Hẳn từng có một, hoặc hai cái ghế còn một, hoặc hai chân. Giờ thì chân ghế, bàn đã cụt ngủn, hoặc lìa mất như kẻ thọt chân. Mặt các bàn toang hoác đường nứt vỡ, tạo thành khe, rãnh, những hang những hốc trườn ngoằn ngoèo. Chỗ thả được vài ngón tay, chỗ thọc hết được một cánh tay. Nhiều dòng viết nằm đè lên nhau, và nhiều hình khối cũng nghiến lên nhau, kéo dài. Thử nhắm một mắt lại, sẽ thấy ít bàn, ghế hơn. Tất cả chúng cũng tả tơi, hay, đang liền lại như trò phù phép.

Tôi chết đã lâu. Cái chết không đến từ cơn bạo bệnh chớp nhoáng, hoặc một viên đạn tầm xa, cũng chớp nhoáng. Mấy con dao, nhỏ chỉ bằng ngón tay vẫn cắm quanh xác. Chỉ cần chạm một đầu ngón tay, lay nhẹ là máu ộc ra. Chẳng thể biết có thật đấy là một cái xác không. Tiếng thở, thì tắt rồi. Tiếng tim cũng thôi đập. Đúng hơn, là quả tim đã bị các mũi dao bằm nát nhừ. Chỉ máu còn phun ra. Từng tia nhỏ, bắn cao như khẩu phun nước hoặc tràn ra, loang dài như một rãnh mương. Từ chỗ này, có thể đi xa hơn bằng cách vạch thêm một con mắt trên trán. Bên ngoài, loài rắn đỏ đang trườn bò. Màu đỏ trên mình rắn như thứ nước sơn đặc. Mỗi con rắn bò đi, thứ màu cũng chạm trổ mặt đất, và kéo lê. Rắn ở khắp nơi. Không đến từ một xó ngách hoặc bụi rậm. Rắn bò trên vỉa hè, treo vắt vẻo thân cây, trườn lên các mái nhà, chiễm chệ cả trước cổng nhà mà không một ai xua chổi. Mọi nẻo đường đều thấy rắn. Những con rắn còi cọc tuồng như chưa trưởng thành, những con dài ngằng, to lớn, không thiếu con bụng chảy phệ hệt như vừa nuốt chửng con mồi quá cỡ. Họ đi lại, tránh giẫm vào đuôi rắn. Ai thiếu cảnh giác liền bị rắn tấn công. Không có cú táp, chỉ một cái quật đuôi khiến mặt mày xây xẩm. Màu đỏ trên mình rắn bám dính trên người.

Không thể thấy nổi một khuôn mặt đầy đặn hoàn toàn.

Họ, những người đang đi lại hoặc ngừng đi lại, chỉ có nửa mặt. Phần còn lại là một màu trắng đục. Có khi chỉ một màu cánh giáp bọ hung. Sẽ chẳng lạ, nếu thấy một cái mặt với hai nửa đối đầu. Một bên mặt như nhăn nhó, và ẩm mốc. Nửa mặt kia nhăn nhó, và ẩm mốc hơn. Đã có những gương mặt bị lóc đi hết đường nét. Hẳn gương mặt đấy vốn chẳng đẹp đẽ, hoặc quá thừa khiếm khuyết đến nỗi phải khoét đi. Chẳng còn mắt, mũi hay hốc miệng. Nhưng rồi, sẽ lại có mắt, mũi, miệng cùng những đường, những nét từ mắt, mũi, miệng. Truất đi sự ban ơn của Chúa, họ vẽ lại mặt mình bằng búa và đinh dùi. Vẽ giúp nhau, hoặc đắp bừa một cái mặt. Nhiều khi, chẳng cần đến vật dụng gì. Đơn giản, một gương mặt đã bị cạo nát tự tái tạo, bất chấp sẽ thành thế nào. Chẳng còn sự bình đẳng nào khi đã hớp lấy dòng nước rỉ từ phiến đá hình cặp đùi.

Nhắm mắt trái, và nhìn. Mở mắt trái, nhắm mắt phải, và cũng nhìn. Số bàn ghế hẵng còn ngổn ngang. Chẳng thứ nào mọc lại chân. Từng chiếc được dồn lại và thành một khối vuông chẳng vuông lắm. Hít thật căng buồng ngực. Giữ lấy cái hít hơi đấy để chất đầy tim. Nén mãi thế, và chẳng cần đẩy hơi bẩn ra. Và, cũng thận trọng, tránh thở rõ tiếng. Từ đây, sau tấm ván mỏng chia nhỏ lối đi, nhìn ra. Nghe. Sẽ thấy tiếng thở ra, nhỏ, chậm, từ từ. Chỉ một cái hít quá sâu, thở quá bạo sẽ đánh động rắn. Cú quật đuôi chỉ đủ bươu đầu. Mạnh hơn, thì rạn xương. Màu đỏ trên mình rắn sẽ dính vào, bám xuyên da như thứ nhựa trường cửu. Chẳng thể lau đi vết màu loang dù có cọ rửa nhiều lần. Đấy sẽ là dấu ấn để nhận biết một khuôn mặt trong vô vàn khuôn mặt chen chúc trong những dãy phố hoang tàn ngổn ngang người.

Tôi chết bởi nhiều mũi dao. Những vết dao nhọn và rất cong.

Thứ nước rỉ từ phiến đá, sẽ thấm sâu hơn vào tạng phủ. Nuốt nước bọt thêm mười lần, dòng nước sẽ mãi trong lồng ngực. Một mắt nhắm. Mắt còn lại cũng nghiền chặt. Bầu trời sẽ chẳng mất. Ánh sáng rót tràn tầm mắt và sủi mùi mật ong pha máu. Sẽ có một con mắt thứ ba mở đường, và khai thông mọi bề mặt vốn lõm, lồi hoặc cong hình liềm gặt. Chẳng đi đâu khỏi những cọc dài như chấn song sơn xanh lục…Quang cảnh này, còn có thể lộn nhào dù tay không chống đất. Những cái mặt, bị gãy rời rồi được tái tạo khác xa nguyên gốc. Và loài rắn đỏ đang ngoe nguẩy cái đuôi với vẻ hung tợn. Cái lưỡi chẻ đôi thò ra thụt vào, liếm láp trong không khí, tìm mùi thù địch. Lẩm bẩm thế nào cũng không toán hết sĩ số của mặt, của bàn, ghế hay bầy rắn ngày một nhan nhản.

Chân lý không đến từ một cái mặt. Càng không đến từ một tiếng nói cất cao, phá vỡ cả vùng trời đỏ lựng ngả màu cánh giáp bọ hung. Phiến đá nước rỉ, có hình con mắt lớn. Một rãnh con con, sẽ lộ ra khi đã cạo hết lớp rêu xanh. Mọi giống nòi sẵn sàng nuốt lấy thứ nước rỉ sau khi đã gõ chán chê. Nhiều cái miệng ngoác rộng và táp lấy phần rãnh, để lưỡi trườn vào như con đỉa. Dòng nước ngấm, từ đầu lưỡi. Mấy thân thể oằn vẹo vọ, vẫn không chịu nhổ ra. Xa xăm, một cái sọ trắng tách đôi. Giữa đường nứt chia đôi sọ, một vệt nước còn loang dính. Một cái nuốt, và thâm nhập. Bầy rắn nhiều lên. Chúng sục sạo. Nhiều con bò thành đàn trên phố. Bò trái, phải, sang ngang, ngẩng cổ và đe dọa người ta bằng tiếng khè hung hãn. Rắn chắn trước bất kì ai. Chẳng một lí do, rắn quất đuôi như cách đánh dấu lãnh thổ. Một sự phản kháng, sẽ không còn cái quất đuôi. Một cú đớp sát thủ, túi nọc tiết từ nanh sẽ giết chết mọi thù địch. Lớp mặt ngoài đã nát bươm và hiện hữu nơi chốn khác. Phần mặt trong, được tạo ra quá nhanh chóng. Từ các bậu cửa, chỉ thấy những bản mặt giống nhau dù chẳng giống nhau. Những dấu đỏ chẳng nhạt, cũng chẳng đậm lên.

Xác tôi ngấm đỏ ngầu. Ngoài những vết đâm bởi dao, phần còn lại cơ thể ngả đỏ ngầu. Nước màu đỏ hơn máu, đậm hơn máu và làm dịu cả mùi tanh của máu bằng mùi hôi của rắn. Hẳn người một chân đã bị rắn quấn. Máu còn đổ, người đã chết. Bóp miệng, và quệt vào miệng xác thứ nước rỉ từ phiến đá. Tôi chẳng sống lại. Vẫn cái xác đấy, giờ nhổm dậy và đi lại. Mấy mũi dao nhỏ còn trước ngực, máu còn phun thành tia nhỏ. Một cái trở lưng đi, trở lưng lại, cái xác đã mất. Cái cổ bẻ rôm rốp, rồi vươn dài ra húc xuyên bầu trời đỏ.

Tôi đã đi hẳn. Thật nhanh, chẳng để lại bóng, dấu chân hay một dấu máu. Những hàng cây đã che lối, hay các con phố đã nối dài thêm và chồng kéo thành thứ kiến trúc vô định. Một cái tóm chặt cổ rắn. Đầu rắn xé làm hai.

Thứ nước rỉ từ phiến đá thẩm thấu và tạo ra sức mạnh. Trầm mình trong thứ quyền năng được mọc cánh và khống chế cả thần ma. Đấy chỉ là giấc mù quá dai và được đánh tráo thành những dày xé xương tủy. Một chút thần thông không là gì khi tinh thần luôn rệu rã. Những cái răng luôn có máu. Một vài chiếc lung lay, chờ bật tung khỏi lợi. Hai con ngươi cũng uể oải, chỉ thấy màu cánh giáp bọ hung sủi đỏ. Tầm nhìn này, chẳng quá dài và từ lâu không thể tường tận dù là con kiến leo tường. Số mặt người, được xác định bởi một chỉ thị từ tâm não. Sẽ là đen, hoặc trắng, nửa đen hoặc trắng hay một khối hình mặt nhão, vô sắc vị. Hãy ôm mặt mình, lần sờ xem còn bao nhiêu nét còn hằn lên. Buộc phải chạy lùi, để chui rúc trong gầm bàn, ghế, những rãnh nứt từ bàn, ghế dù chỉ để nhét nửa cái đầu vào. Rắn, hãy còn đây. Một cú táp, đủ đau và đủ độc để kết liễu sự hiện hữu một cái mặt, vốn gãy nát. Cơn đau chẳng thấu tim, và có đáng lắm không so với việc tạm bợ trong ngăn kéo bàn, ghế. Hít một hơi sâu, rồi thở phù. Sự khỏe khoắn vốn chẳng thể ăn mày. Tôi lơ lửng trên nóc tòa thị chính. Cái chết đứng. Cái chân độc nhất và duy nhất cắm phập nóc thị chính như bám rễ. Cái chết thẳng mình trước mọi cơn gió và đánh bại mọi cú quất đuôi, mổ độc của loài rắn đỏ. Lũ rắn lẩn đi, kéo vội vã thứ phẩm độc tố vào các bụi cây.

Đau đầu, ôi đầu đau như có máu ứ trong não. Họ nói với nhau. Nóc thị chính có vật cản, một lưỡi kiếm cắm xuyên vào sọ. Họ với gọi nhau hạ xác xuống.

Trời đổ mưa, mưa không đỏ, mưa tanh, mưa không máu.

Mưa tanh.

 

TRU SA

 

TƯỜNG SẮT

trusa

Cha tôi mất từ lâu và tôi không mấy quan trọng rằng ông đã từng có mặt trong đời mình. Tôi chưa một ngày sống cùng cha và ông ấy cũng chưa một lần bế ẵm, hay cựng nựng tôi. Như tôi nói, cha tôi mất sớm. Thế nên tôi được phép quên người cha này đi. Tuy nhiên trong lý lịch hoặc một lúc nào đấy, có thể là trong một bài tập làm văn cần đến bóng dáng người cha…Thì tôi có thể họa lại trong đầu gương mặt mà tôi đã từng thấy trong gian nhà thờ họ, rồi sau đó tôi sẽ phết lên lớp màu trầm đục do tôi nghĩ ra. Rằng cha tôi là người nhân hậu, rất hay cười, thường làm ngựa cho tôi cưỡi, dẫn tôi đi mua đồ chơi vào mỗi dịp trung thu…Chẳng khó gì.
Từ nhỏ tôi đã được nhiều người lớn yêu quý. Họ thường cho tôi bánh ăn, bế ẵm tôi trên tay và không tiếc lời khen với tôi. Thú thực, tôi không thích thú gì việc này, thậm chí còn kinh tởm lũ người đã bế, bẹo mặt, bóp mũi, rồi dốc tôi lên cao như một con búp bê. Mẹ tôi không thích thú gì nhưng lại hùa với họ bằng cách đi làm việc khác. Bánh kẹo họ tự bóc rồi nhét vào miệng tôi. Thật lòng khi đấy tôi đã muốn nhổ thẳng vào mặt họ nhưng vì lý do nào đấy tôi lại nhai sạch và toét miệng cười. Họ mến mộ nụ cười của tôi và hứa hẹn sẽ đến nữa.
“Ân sủng của loài người là nói và viết được…”- Kể từ khi tôi biết thạo bảng chữ cái, chính tả và các loại cú pháp thì tôi gần như quyên sinh vào các con chữ. Mỗi tuần mẹ đã phải mua cho tôi rất nhiều vở và giấy nháp. Ông nội tôi hoàn toàn vui vì sự tự giác của một đứa trẻ mới đi học. Còn mẹ tôi? Bà chẳng phàn nàn gì và còn lấy làm tự hào. Mỗi cuốn sổ chi chít những cái tên, một mẫu câu tôi sao chép lại trong sách báo hoặc từ một tấm băng rôn tôi nhìn thấy khi trên đường về nhà.
Một lần, tôi thấy ông đã dùng chiếc gậy ba toong gỗ đánh một con chó hoang. Lúc đấy tôi ở ngoài nhà. Con chó rất gầy, cái bụng lép kẹp, triệu chứng của một cơn đói từ nhiều tuần. Trên lưng, đầu và chân nó trầy trụa thương tật. Một vết thương khác đang rướm máu do cú đánh từ ông nội. Nó kêu ư ử, nghểnh đầu lên nhìn ông nội, rồi quẫy đuôi. Nhà tôi không nuôi chó, trước đấy tôi cũng không hề nghe mẹ hay ông nội nhắc về chó. Con vật này, chỉ đang xin ăn vì đói.
“Đồ súc vật!”
Ông nội vung chiếc ba toong. Một cú đánh, rồi cú nữa, thêm một cú nữa…Trong chớp mắt người con chó chi chít vết đánh. Máu văng be bét trên người con vật, trên batoong, dưới nền đất, trên mặt ông nội và mắt tôi nhức đỏ. Chỉ nghe tiếng ăng ẳng, rồi con chó lết đi mất. Không ai can ông nội, những kẻ ở gần đấy chỉ đứng nhìn, cười hoặc xót xa bằng thứ tình thương của kẻ thất phu. Ngày hôm sau, có người kháo nhau rằng con chó ông nội tôi đánh hôm qua đã chết. Một toán thợ xây đã phanh xác và nấu ăn. Tôi nói với ông nội về cái chết của con chó.
“Nó chết rồi cháu ạ.”- Ông nội nói.
“Ông đánh chết nó.”
“Ông không đánh chết nó.”
“Cháu đã thấy ông đánh nó.”
“Ông chỉ đuổi nó đi.”
“Nó đang đói mà ông.”
“Không nhà không cửa thì sống làm gì. Chết sẽ danh dự hơn.”
Ông nội nhìn tôi. Đôi mắt đấy tôi không dám nhìn vào. Trong cặp mắt ông nội tôi chỉ thấy một màn đen đang bao trùm, một sức nặng đè lên cổ tôi và cặp mắt từ từ hướng lên cao. Tôi như bị đè bẹp, và bé nhỏ như con thạch sùng. Lúc ông nội xoay cây batoong, tôi thấy một lớp máu khô bám mũi gậy.
“Cháu phải nhớ, ông đã giải thoát con vật đáng thương.”
“Vâng ạ, cháu nhớ.”
“Nhớ thế nào?”
“Ông đã đánh, để giải thoát con chó.”
“Ông đã giải thoát con vật đáng thương, nhắc lại ông nghe.”
“Ông đã giải thoát con vật đáng thương”
“Phải, chính thế. Ông là người giải thoát.”
Lên phòng, tôi mở giấy và tự tay tổ chức lễ tang cho con chó. Lúc đấy, tôi chỉ biết rằng một đám ma cần có quan tài và vòng hoa. Người đi viếng chính là tôi. Sợ rằng con chó sẽ lẻ loi, tôi đã tạo thêm nhiều con chó khác. Đầu mỗi con đều được buộc khăn trắng.“Mong mày siêu thoát.” – Tôi viết lên giấy. Từng con chó sủa thành tiếng người. Vài chữ bị nhòe. Tôi đã viết ra một bát cơm đầy với đủ thịt thăn, sườn và đốt trước mộ địa. Tôi, và những phần tôi mang hình chó cùng đào đất bằng tay. Một hố huyệt vừa đủ. Đám kẻ tôi chậm chạp hạ huyệt, vùi đất lấp lên, cũng bằng tay. Cỗ quan tài trôi xuống đất.
Mẹ tôi như một cái bóng trăng. Không cáu giận ai, không vui đùa, không tán phét, và không một lần nói về mình. Bà vẫn dành tình thương cho tôi. Mẹ tôi vẫn nấu nướng, dạy tôi lễ độ với người lớn, làm việc nhà, hỏi han về các quan hệ trong lớp…Kỳ lạ là tôi chẳng cảm thấy chút xúc động nào. Ngay cả khi ôm chặt mẹ, úp mặt vào bầu vú bà tôi vẫn thấy thiếu thốn. Hơi ấm của bà không làm tôi mãn nguyện và thú thực tôi còn không tin được rằng mình đã từng sống trong bụng bà.
Tôi rơi đi trong vòng tay mẹ – Đặt câu viết lên giấy, tôi thở phào. Trong đầu tôi lúc này đây chật cứng những chiếc quan tài bật nắp. Tình bạn, tình thầy trò, cái đẹp, cái tốt, tình thương…Tại sao bao lẽ phải mà tôi vẫn luôn nghe trên lớp lại không vào đầu. Trong lớp tôi là học sinh ngoan. Đi học đúng giờ, ghi bài đầy đủ và thân thiện với bạn cùng lớp. Ở nhà, tôi cũng là đứa con biết nghe lời. Tôi rất siêng đọc sách nhưng không phải sách học của nhà trường. Sách tôi đọc lấy từ nhà kho. Nhiều cuốn long bìa, rụng trang, bị mọt ăn thủng…Những cuốn sách và những cái tên lạ hoắc lần đầu tôi được biết. Đọc họ và tôi thấy huyết mạch tràn trề. Tôi thấy các vùng trời khô kiệt sắc nắng. Nhiều mầm cây đâm chồi từ xác người. Người ta cười ra máu, khóc ra bùn đen, và khi mở miệng tôi thấy trôi ra những bào thai không đầu, không tay chân đang giãy giụa. Chẳng có đạo đức sáng trong như pha lê, nhiều thứ còn đối nghịch với cái lẽ phải mà tôi biết đến. Đau đớn đến rã rời. Nhiều dòng viết còn thức tỉnh những cơn đau trong tôi. Chúng cứ thế chạy và khiến toàn thân tôi ê ẩm. Tôi tìm thấy nỗi thống khoái, sự mê đắm của một tâm hồn phục sinh từ những lần chết. Thứ sách này, tôi phải lén lút đọc, thậm chí che giấu bằng cách bọc lại bằng vỏ sách giáo khoa hoặc dán nhãn ngoài là sách tham khảo.
Mang chiếc đi-hia, tôi nương náu trong bóng Alice, chạy quanh các tầng nhà chật, rồi bị tống giam vào căn buồng số 6, gặp người gù treo cổ và đốt cháy mình trong chữ. Trong giấc mơ, tôi đi vào tầng tháp chật cứng những vỏ rượu và miểng chai, một cái xác ngồi gục đầu trong xó đang rữa từ từ, bầu trời lở loét nhiều vùng đen, đâu phải mây, chỉ là những bầy dơi, quạ đang bay toán loạn đấy thôi, ở nẻo phố nọ, một thằng nhóc đánh giầy bị giết nhiều lần(1), những kẻ đuôi lợn, ông cụ giáp chiến đàn cá mập bằng mái chèo,(2) viên thẩm phán không hốc mắt…Nhiều lần tôi bị ngã bật khỏi giường. Một lần khác, tôi tỉnh dậy và thấy tay mình còn đang viết. Giấy lem nhem, một phần vì tôi tẩy xóa, hoặc do viết đè lên.
Ông nội quản lý một cửa hàng đồ cổ trên phố. Ông cũng là nhân vật chủ chốt trong nhiều phường hội. Trải qua nhiều năm, ông nội tôi già đi, tóc bạc nhiều và rụng nhiều hơn. Người cha ngủ say dưới mười tầng đất và không một lần tìm thăm tôi dù là trong giấc mơ, một thoáng ảo ảnh bắt gặp trên đường hay một sự trục vớt khi diễn cảnh tủi thân trước mặt người khác. Miệng tôi gọi tên cha, mô tả khuôn mặt, mái tóc cha, rồi một kỷ niệm không hề có để tôi nhắc đi nhắc lại nhằm họ tin tuyệt đối vai diễn của mình. Tôi là con rối trong bàn tay mình. Sẽ chẳng cây đũa phép nào bao dung với tôi. Ông nội tôi thường uống rượu, dạo phố một mình. Trong mọi cuộc họp tại nhà không ai dám chen lời khi ông nội nói. Họ chỉ biết tán dương, khúm núm và ra về. Ông nội độc thoại giữa đám đông, là con đại bàng già giữa bầy gà cụt chân. Áo cựu chiến binh với nghìn nghịt huân huy chương cắm khắp ngực ông như bằng chứng, và cái chân yếu, tấm lưng hơi còng, sẹo khắp mình mẩy sẽ thuyết phục mọi con dân về một huyền thoại đánh giặc cứu nước. Cây batoong vung có lực và sẵn sàng đập bể những cái đầu thất lễ, dám ngả nghiêng, ngáp ngủ trước diễn văn lịch sử. Ông nội thật quá cô đơn. Tuy vậy nỗi cô đơn này vẫn chưa uy hiếp được ông nội. Càng không thể làm đau ông nội đến mức phải mong ngóng một kì tích từ thằng người gỗ. “Ông nội em là người nhân hậu. Nếp nhăn trên mặt ông là nỗi nhọc nhằn, là tình thương dành cho em. Nội thường dỗ mỗi khi em khóc, đôi vai ông đã gánh hết sức nặng để lo cho em ăn học…” – Trong bài văn lớp ba yêu cầu tả ông nội tôi đã viết vậy. Cô giáo đã rất xúc động vì bài văn của tôi. Những ai biết gia cảnh nhà tôi sẽ dễ dàng bóc mẽ được lời bịp bợm nhưng tôi không ái ngại gì. Chỉ cần ôm mặt khóc, mếu máo trong nước mắt rồi nói to trên lớp rằng “Đấy là ước mơ về ông em, một lúc nào đó sẽ bớt nghiêm khắc.” – Để cái chứng cứ giả mạo tồn tại và bảo vệ cho tôi như cái mặt thiên thần, tôi nhắc đến cha. Thân phận mồ côi cha dễ lấy lòng tin hơn gì hết. Họ dành cho tôi sự an ủi và chẳng ai ghét tôi cả. Tôi trở thành người đặc biệt. Được họ yêu quý và không tiếc giúp đỡ nếu tôi có ý nhờ. Mọi thứ thật hoàn hảo. Cái lốt người này…
*
Tôi không thích truyện cổ tích. Suy nghĩ này có từ khi tôi còn rất bé. (Trước cả khi tôi tìm được số sách ở nhà kho.) Thế giới cổ tích chứa nhiều căn ác và sẽ dưỡng chết tuổi thần tiên. Những bài học về tính ác. Rằng muốn sống hạnh phúc phải biết đổ nước sôi và làm mắm thịt người, biết thao túng chim mổ mắt để chiếm ngôi hoàng hậu, phép thần chỉ đến với kẻ biếng lười nhưng giỏi ăn vạ thần tiên, mọi cuộc thi đều không công bằng và luôn có ưu tiên, tình yêu sẽ làm mù mắt và biến chúng ta thành bọt biển…Trong thế giới cổ tích, tôi chỉ thấy những cái sọ người bị chôn đang kêu khóc. Trước khi có phép màu ai cũng đều lương thiện. Cái ác sẽ bị giết bởi cái ác. Để sinh tồn và để chiến thắng thì phải ác hơn. Chân lí không thuộc về cái thiện, chân lí là ngai vàng của cái ác. Những điều này tôi ghi lại vào giấy và giấu thật kỹ.
Bài tập làm văn tôi đạt điểm tuyệt đối. Khi ấy tôi đã vắng mặt, và mấy kẻ tôi đang tranh nhau quyền sống trên thân xác tôi. Chúng ngấu nghiến não óc, hút hết huyết dịch và lùa rắn vào trong tôi. Mái tóc Gorgon phủ lên đầu tôi. Ngồi trên bàn, nọc rắn chảy qua ngòi bút, tôi thành kẻ mạo danh lẽ phải….
Mỗi khi ông nội hỏi tôi về lớp học, tôi đã nói rằng tất cả đều tốt. Rằng tôi ngồi cạnh bạn này, chơi với bạn này, rồi thì trò vật tay lúc nào tôi cũng được nhường…Sợ rằng ông nội phát giác ra cái mũi dài, tôi đã phải làm thân với hầu hết người trong lớp. Để họ chịu gọi điện, rủ đi chơi, đạp xe qua nhà chở tôi đi học. Tôi lấy lòng họ bằng quà vặt, học theo sở thích của họ, nếu một người sợ ếch thì không lý gì tôi lại hôn con vật đấy. Đây có thể là một tôi khác, lém lỉnh và dối trá. Nhìn thấy một người mù bị mất gậy đang loay hoay tìm đường, một tên trong nhóm cười. Một tên khác cười theo, thêm một tên nữa cười, chỉ trỏ tay. Người mù rõ ràng nghe thấy và đang chửi bới loạn lên. Đám bạn của tôi vẫn cười, trong tràng cười đấy có cả tiếng tôi. Người mù kia vấp ngã, cái mặt hắn ta mài xuống đường, dường như một vài cái răng đã gãy. “Crocuta crocuta” – Đó là chúng tôi, và một tôi đáng hổ thẹn đang giễu nhại chính tôi.
Không người lớn nào quanh tôi răn dạy rằng bọn tôi trẻ hư và cần đánh roi vào đít. Tôi muốn làm cây gậy để người mù kia có thể chống dậy. Tôi không thể. Họ còn ở đây. Lúc này, tôi đóng vai lạ với chính tôi.
Về nhà, tôi giả bệnh để tối không phải cùng ông nội vào nhà Vòng. Mẹ tôi lấy thuốc cảm và hỏi đau ở đâu. Trán tôi không hề nóng, mặt mũi còn khá tươi tỉnh. “Ọe, ọe…” – Mấy tiếng nôn này đã đánh lừa được mẹ. Sẽ không hay nếu ông nội tôi nhìn ra vai diễn của tôi. Và tôi đã phải tránh vào buồng tắm, lấy tay móc họng để tiếng nôn bật to hơn, đau đớn hơn. Chiếc batoong, thứ hung khí đã lấy nửa mạng con chó ngày nào gõ vài cái xuống đất. Tôi hoảng loạn, và suýt quên vai diễn…
“Cháu nghỉ ngơi đi. Nếu nặng, mai nghỉ học một hôm.”
Tiếng chiếc batoong lùi xa dần. Tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Phòng học, cũng là buồng riêng của tôi là một căn xép chật chội. Phía dưới là một phòng để trống. Ngày trước đấy là chỗ ở của cha. Từ khi cha qua đời nó bị bỏ quên, trở thành nơi chất đồ cũ, hỏng hoặc đang chờ thanh lý. Mẹ và ông nội ở tầng dưới cùng. Nơi ở của họ sạch sẽ, sáng sủa và luôn nồng nặc hơi người.
Vị đắng ngấm vào lưỡi tôi và đang tan dần. Lúc mẹ đi khỏi, tôi nhổ mấy viên thuốc trong miệng ra. Sau đấy tôi súc miệng rồi lên gác. Số giấy được lôi ra và tôi mở bút. Trước hết tôi phải lấy chữ rèn thành một cây roi để quất vào mình. Quất thật đau để máu tôi bắn ra ngoài. “Đấy là sự trừng phạt. Vì vai diễn vô lại trước người mù…”
Trong các cuốn sách giáo khoa, từ lâu tôi chỉ ngửi ra mùi ẩm mốc. Mỗi khi giở trang sách, tôi luôn thấy các con chữ đang chuyển động. Một chữ cái, rồi một hàng chữ dài, ngay đến dấu phẩy cũng như đang chạy trên giấy. Những câu chữ bốc mùi và xám đen như những con gián…Tất cả chúng bò quanh trang giấy, thành từng đàn. Hàng chục cái râu nghoe nguẩy, rồi hếch lên như dò đường. Chúng bò lồm cồm quanh tôi và truyền đến tôi những cơn ngứa. Nếu tôi quăng cuốn sách lên cao chúng sẽ bay toán loạn, tạo thành một cơn mưa màu đen.
Giờ Giáo Dục Công Dân, tôi được dạy về lòng nhân ái. Tất cả chúng tôi đều đọc đồng thanh. Tôi cũng đọc, nhưng một phút nào đó, khi cô giáo quay lên bảng và không ai nhìn sang tôi thì tôi sẽ tống khứ đi hết. Nhổ hết lẽ phải ra và mong đến một sự trừng trị nhưng bất thành. Chẳng đứa bạn nào của tôi là ghi nhớ bài học này. Chúng vẫn sẽ học thuộc vì đấy là trách nhiệm của học sinh. Trong vở nháp của tôi lúc nào cũng dày đặc chữ. Công thức toán, hình học, lịch học hoặc sinh hoạt lớp…Có đủ, và đấy chỉ là tấm vỏ cho các hình mà tôi vẽ lên. Mấy mẫu vẽ đè lên chữ. Đáng ra tôi muốn viết ra nhưng nếu để ai đọc thấy thì thật không hay. Mẫu hình này, tôi sẽ tái tạo lại khi trở về tòa án của mình.
*
Càng lên lớp cao, tôi càng căm ghét trường học. Mỗi năm tôi đều chuyển lớp. Tôi có thầy cô mới, bạn mới, và một vai mới để diễn. Như mọi năm, tôi thường lấy lòng tất cả bạn bè trong lớp. Ngoại hình tôi nhỏ nhắn, khuôn mặt hiền lành và mọi lúc đều có thể cười nên dễ lừa được thiện cảm của người khác. Hội nhóm nào cũng có mặt tôi. Một nhóm nữ, được gọi là kiêu căng cũng dành một chỗ trống cho tôi. Trong nhiều trường hợp tôi đã phải cố gây rắc rối để họ thấy rằng tôi cũng như họ. Hiểu nhưng không nói và hành xử như một kẻ ngốc nhưng chân thành – Đấy là mã khóa để tôi có thể gia nhập và an toàn trong bọn họ. Từng năm trôi qua, tôi thấy mình phải viết ra nhiều thứ hơn. Đã có lúc tôi mất cả giờ để đọc, sửa lại những thứ mình viết lúc nhỏ. Ông nội không hề thích căn gác của tôi vì nó quá lộn xộn. Bàn ghế trong phòng đều cũ và bị mọt ăn, chưa kể phòng còn chật, trần thấp. Tôi luôn đóng nắp, rồi khóa lại để tránh mẹ trèo lên lúc tôi đi vắng. Sắp xếp lại mấy tờ giấy, tôi bắt đầu viết một trang mới. Lần này tôi muốn lập mộ cho mình. Những kẻ tôi mang một khuôn mặt với nhiều giọng nói. Chúng đều dí dỏm, ngoan ngoãn và nhiều khi ngờ ngệch tới mức không ai nỡ bắt tội nếu làm sai.
Tôi mặc chúng lên người.
Chúng trở thành vật sống, có tiếng nói khi tôi gặp gỡ con người. Khi còn lại một mình trên căn gác. Mở cây đèn bàn, tôi cầm lấy bút. Tôi trút bỏ những kẻ tôi khỏi mình, và sau đấy cố gắng không nhớ lại những gì đã xảy ra khi cho chúng thế chỗ mình. Tôi sẽ bật khóc, hoặc tự vả gãy răng mình vì quá nhục nhã. Tôi chặt đầu bọn chúng rồi táng xuống mộ. Không có hương. Cũng chẳng có một cái vái cung kính theo nghi lễ. Đất sẽ nuốt chửng chúng. Nhưng chẳng chắc đâu. Khi tôi rời khỏi đây và gặp người khác, chúng sẽ chiếm đoạt lại tôi. Không khác được nhưng chí ít lúc này chúng đang chết…
Chiếc batoong của ông nội đã từng làm mẹ bị thương. Đấy là chuyện từ lâu và không ai còn muốn nhắc lại. Hẳn là mẹ đã cãi lại ông nội, hoặc làm gì đấy khiến ông nội quá tức giận. Cha tôi có bảo vệ mẹ không? Tôi nghĩ có, hoặc có thể là không nếu cha chết rồi. Tôi gọi gian phòng thờ họ Tru là nhà Vòng. Mỗi tuần tôi phải vào đấy để thắp hương cho cha và đấng tổ tiên. Ông nội tôi cũng ở đấy. Trần gian nhà ám đen bởi khói hương tích tụ từ nhiều năm. Bát hương dày kín que hương. Những tàn hương đâm chĩa sang hai bên hoặc uốn cong, xếp cạnh nhau như những nan quạt. Các đấng tổ tiên, đều mang họ Tru. Chẳng một gương mặt nào giống tôi. Tất cả lạ hoắc và dường như đang nhạo báng tôi từ cõi mù khơi nơi địa đàng.
Tôi không hỏi về cha, cũng không hỏi về bất kỳ ai trong gian thờ họ Tru. Đấy là chuyện từ ngày xưa. Và không gì dối trá bằng việc nói về quá khứ. Mọi bào chữa nhằm trục vớt một chân lý bị nhuốm bẩn đều vô nghĩa. Trên hết, chúng ta sẽ thấy rõ các anh hùng khi họ được cân cùng chiếc lông vũ. Căn gác của tôi là nơi rửa tội. Một pháp trường với ghế xét xử còn trống. Tôi tự định đoạt hình phạt cho mình. Giấy bút. Những kẻ tôi tứ chi bị buộc vào tảng đá nghìn cân và đang giãy dụa dưới đáy sông, bị tống vào chuồng cọp, đang giật đùng đùng trên ghế điện, hoặc bị trói vào cột, chờ đội súng đến…Trên bàn viết, tôi thú tội với chính tôi. Nơi đây, linh hồn tôi được ân xá. Chiếc batoong sẽ không vươn đến được.
Tôi không mang một người bạn nào trong đầu. Sống cùng, các cuộc họp mặt, dã ngoại hay đúng hơn là sự lừa đảo lòng tin nhằm tạo ra một đường tắt để tôi không bị tách khỏi cộng đồng. Không ít lần tôi đã lấy xương máu mình nặn thành vài mẫu người. Sau khi thiết kế cho những mẫu hình đấy một thân phận, tôi kể với hội bạn. Họ tin sái cổ và còn có ý định tìm gặp người đó. Cặp mắt chăm chú, chốc chốc lấy tay chấm nước mắt không nói được gì đâu. Chỉ cần một sự kiện lạ. Ai đó thấy một món tiền vô chủ, một nhóm người đánh nhau, tai nạn xe, một xích mích từ trong nhóm và bắt buộc phải có sự thanh toán…Sẽ chia rẽ họ ngay tức khắc. Người cha đã nện vào mặt con mình khi bắt quả tang nó xem phim khiêu dâm ở tuổi dậy thì. Nhà thuyết pháp sẽ bị khâu miệng bằng dây thép nếu nói về một chủ nghĩa đói máu. Gặp một tội phạm trên đường, ai cũng có quyền cầm dao…
“Thoát khỏi vườn mù, loài người bị trục xuất vào trầm luân bởi đức cha đẻ toàn năng…” – Câu cuối cùng cho tối nay. Sau đấy tôi đọc 1984. (3)
*
Tôi đã nổi sát cơ trong đầu và muốn đâm chết ông nội bằng chiếc batoong ông vẫn mang bên mình.
“Dọn sạch sẽ, sạch sẽ…”
Tất cả sách ở nhà kho được chất đống và đang cháy đen trong ngọn lửa được đốt lên từ rác và lá cây.
“Ông làm gì thế này? Trời ơi! Sách của cháu…”
Tôi vứt cặp vào lao vào ngọn lửa đang bốc ngày một cao. Từng tầng sách rụng tả tơi trong lửa. Chữ bay biến thành tro đen. Tay tôi quờ vào ngọn lửa. Khói từ lá cây xông lòa mắt tôi. Tôi không cứu được cuốn nào, còn bàn tay thì đã bị lửa làm bỏng.
“Cháu yêu, ra đây với ông.”
Đầu chiếc batoong gõ cồng cộc xuống nền đất.
Tiêu biến cả. Tòa án của tôi. Sảnh đường của tôi. Vị thầy thuốc nông thôn bị thiêu sống rồi. Đóa hoa đỏ trong tay chàng cũng trụi từng cánh rồi…Ngọn lửa chó má, mày đốt sống hết giống người rồi…
Ông nội xách cổ tôi lên. Mắt tôi vẫn nhìn vào đám cháy. Mùi sách lẫn vào lá cây và khói. Nhiều nền Văn Minh bị lửa đốt mù hết. Tôi thấy những linh hồn chưa kịp xưng tội đã tiêu vong. Không rõ ông nội nói gì. Dường như ông nói rất to. Tai tôi chỉ nghe thấy tiếng lửa cháy. Khói ngùn ngụt thành từng tầng. Mắt tôi cay xè, ướt nhẹp đi và đỏ tới mức lúc nào cũng có thể bắn ra máu.
“Tru Sa. Nghe ông nói đây! Tru sa!”
“Ông đốt cả cháu rồi…”
Mắt ông nội trợn trừng. Mái róc bạc rủ xuống, phất phơ từng lọn. Nhiều tro giấy bay lất phất. Mảnh to, mảnh nhỏ, mảnh vẫn còn cháy, bám vào áo quần, dính kẹt trong tóc, trên trán ông nội. Cây batoong của ông nội vung lên. Chỉ là cái đặt gậy lên vai nhưng tôi vẫn cảm thấy một sức nặng nghìn cân đang đè xuống. Năm quả núi, và một lá bùa. Tôi sụm xuống.
“Mấy thứ sách thế này nên đốt từ lâu.” – Ông nội nói.
“Người viết đều là những vĩ nhân. Cô giáo cháu vẫn dạy phải đọc các nhân vật tầm cỡ.”
Ông nội bật cười, cây gậy đè nặng hơn.
“Một đứa trẻ ngoan sẽ không cãi người lớn. Cháu sao thế này. Cháu mang họ Tru, là cháu ta.”
Tôi rất muốn cướp lấy cây batoong và đâm nhiều nhát lên ông mình. Ý nghĩ cháy rực lên và hoàn toàn tôi sẽ làm thế. Tiếng gằn giọng của ông, cái nhìn cau có, gằm ghè khiến tôi nổi gai ốc. Tuồng như ông nội đã đọc ra sát niệm của tôi nên đã nắm chặt cây batoong bằng hai tay. Nhìn số sách rữa thành vụn tro, tôi nghĩ đến phòng viết của mình. Căn gác riêng, phòng sám hối, là tường diện bích của tôi…Không xong rồi. Sách ở nhà kho tôi đã chuyển lên gác. Số nhét trong ngăn kéo, số đặt ở giá học tập, số kê làm gối, số thì được chồng thành tầng và nằm trên mặt bàn. Nếu chúng được chất hết ở đây nghĩa là ông nội tôi đã lên được căn gác. Mọi ổ khóa trong nhà trước khi đánh chìa đều phải hỏi qua ông nội. Không lạ nếu ông nội có một chìa dự phòng. Mọi giấy tờ của tôi. Trong vở ghi chép, sổ nhật ký. Trên kệ giá, trong hộc kéo, rồi thì nhiều tờ còn chưa xếp lại hẵng bừa bộn trên bàn…Lời than vãn, huyệt mộ của hàng chục kẻ tôi sẽ bị xới hết lên. Sẽ không gì cứu vãn được nếu ông nội mở chúng ra đọc. Một que diêm đánh xòe, và nơi nương thân cuối cùng, chốn rửa tội để tôi được làm người sẽ không còn nữa. Mồ hôi tôi túa nhễ nhại, từng đốt tay tê dần dần. Tôi thấy thở khó.
Lúc này đây tôi phải diễn trò. Tiêu hủy nỗi uất hận sâu trong mình bằng cách khoanh tay lại, cúi đầu thấp xuống, không quên sụt sịt cái mũi. Tôi vào với ông và nói rằng mình làm thế chỉ vì quá tiếc chỗ sách đấy. Ông nội đi một bước, tôi đi một bước. Ông nội đi hai bước, tôi đi hai bước. Tôi rót nước cho ông nội, tự nhận sai. Cái mặt tôi trông thật hướng thiện. Tôi còn gãi gãi đầu, cười hề hề để làm ông dịu xuống.
“Chỗ sách đấy là của cha cháu. Giờ thì ông đốt nó cho cha cháu.”
“Sao ông không giữ lại…Ý cháu là để làm kỷ niệm, sinh tiền chắc cha cháu quý chúng lắm.”
“Khỉ gió. Ông đã đọc một vài cuốn rồi. Ba lăng nhăng cả. Làm gì có đứa trẻ nào lại không muốn lớn, rồi kẻ thấy mình không bằng cả chó, rồi lại cả chuyện súc vật nổi loạn nữa…Độc hại, quá độc hại…”
“Ông không biết trong mỗi một người có bao nhiêu túi nọc đâu…” – Tôi muốn hét to như thế vào mặt ông nội. Chiếc batoong vẫn trên tay ông. Khuôn mặt héo quắt, những nốt tàn nhang lõm sâu như ăn vào tận xương. Bởi tuổi tác, mắt ông nội mờ đục, nhưng không có nghĩa là nó kém tinh tường và dễ thỏa hiệp. Tôi cược rằng cả tuổi trẻ ông nội tôi đã uy hiếp người khác bằng việc nhìn chằm chằm họ.
“Ông ơi, ông lấy sách ở phòng cháu ra thì…Thì…” – Tôi dịu giọng, vờ như ấp úng để dò xét ông nội.
“Buồng học của cháu…” – Tôi rùng mình – “Nó…”- Mồ hôi bắt đầu rịn, tôi cố làm vẻ tỉnh bơ – “Tối, chật nữa…” – Tôi nuốt khan cả tiếng thở của mình – “Nhưng được cái gọn gàng.” – Tôi thở phào. Tiếng thở tôi đã cố không để lọt ra ngoài bằng cách nén lại trong họng rồi nuốt ngược. Rất có thể ông nội sẽ phát giác tôi đã không thành thật.
Giấy tờ của tôi đã được an toàn. “Gượm đã.”- Một nỗi lo sợ khác ló dần ra. Rõ ràng hiếm khi tôi dọn phòng. Trên bàn luôn vung vãi giấy nháp. Chưa kể là tối qua tôi viết đến mờ sáng, lúc đi học vẫn chưa kịp cất bản viết đi.
Lên trên phòng, tôi quên cả việc bật đèn khiến mình bị vấp ngã trong bóng tối. Tôi hối hả leo lên căn gác. Đèn bật sáng. Quả như lời ông nội, căn gác gọn gàng đến khó tin. Bụi bặm, mạng nhện đều được quét hết. Sàn nhà bóng loáng. Mùi thuốc diệt côn trùng vẫn còn nồng nặc. Tôi gần như ngã gục khi lỡ hít thở quá sâu. Lũ mối, gián, kiến hẳn đã chết sạch. Ra giường, gối cũng được thay mới. Sự sáng sủa, ngăn nắp trái lại khiến tôi thấy chơi vơi. Vở ở kia, bút ở kia. Những bản xưng tội mà tôi quên cất đều trong hộc kéo. Tôi mở ra, đọc rồi xem đã đủ chưa. Ơn trời là tất cả còn nguyên.
Không một ai trong số những khách khứa lui tới nhà tôi biết về căn gác. Khách của ông nội, mấy người hàng xóm chẳng một lần vào quá phòng khách. Không phải ông nội. Là mẹ. Hẳn mẹ đã quét dọn, rồi cất giấy tờ của tôi đi. Mẹ biết về những gì tôi viết ngoài bài học trên trường ư? Từ bao giờ? Mẹ có đọc chúng không? Hay mẹ chỉ lên dọn thôi? Mẹ…Tôi muốn ngừng mọi câu hỏi lại. Tẩy trắng mọi ngờ vực bằng niềm hân hoan được bảo vệ. Những bản viết vẫn chưa thất thoát ra ngoài. Với tôi thế là đủ.
6h chiều, cả nhà tôi ngồi ăn cơm. Mẹ không nói gì với tôi ngoài hỏi chuyện học. Ông nội chỉ ăn lưng bát con rồi kết thúc bữa ăn bằng nửa cốc rượu cùng ít tôm khô, lạc sống. Xong bữa, mẹ bưng mâm xuống bếp. Tôi xuống bếp cùng mẹ. “Mẹ dọn gác của con phải không?” – Tôi hỏi mẹ. Mẹ không đáp, chỉ gật.
“Lần sau con sẽ tự giác. Mẹ không cần phải lên dọn nữa đâu.”
“Đừng bao giờ để đồ đạc bừa bãi nữa.” – Mẹ tôi nói.
“Mẹ, tại sao ông nội lại đốt sách của cha?”
“Mẹ không biết.”
“Mẹ có đọc chỗ sách đấy không?”
“Mẹ không đọc.”
“Mẹ không thích đọc sách à.”
“Chắc vậy…”
Sáng chủ nhật, ông nội dẫn tôi đi mua sách. Sách do ông nội chỉ định và tôi bắt buộc phải đọc. Hạt Giống Tâm Hồn, Đường Kách Mệnh, Tư Tưởng Mác-Lenin, một loạt những đầu sách tham khảo nhà trường. Tôi vẫn đọc chúng, như một bài tập thuộc lòng để lấy điểm mỗi khi ông nội đột xuất hỏi.
*
Một năm nữa trôi qua, tôi lớn thêm một tuổi. Tôi học trường khác. Lễ bế giảng mỗi năm tôi thường tỏ ra tiếc nuối và còn òa khóc khi ôm lấy mỗi người bạn. Tôi không nghĩ mình lại là đứa mau nước mắt nhưng ngày hôm đấy hễ tôi muốn là khóc được. Ai nấy đều tin nước mắt tôi là thật lòng. Nhiều lời khen tặng, nhiều vòng ôm dành cho tôi. Có kẻ đã tặng hết phần thưởng cuối năm cho tôi. Cô nàng hoa khôi của lớp đã hiến tặng tôi nụ hôn đầu đời. Hình ảnh tôi trong họ còn quá trong sáng, và họ sẽ giữ lấy nó cho tới ngày hội ngộ. (Dù chẳng bao giờ có ngày đó.)
Vai diễn thằng ngốc lừa được tình cảm nhiều người hơn tôi nghĩ. “Học sinh ngoan, hiền lành, hòa đồng dù nhiều lúc hơi hiếu động…” – Đấy là cát-xê diễn của tôi. Nó quá hậu hĩnh. Và như thế, trong mấy chục năm không ai thù hằn với tôi cả. Nhiều đứa coi tôi như tri kỷ và đấy là một thành công khác, cho vai diễn quá sức xuất thần. Vòng nguyệt quế kết bằng lông nhím này, nó dành cho ngươi, và chỉ chính ngươi…
Những bạn hữu mà tôi luôn muốn bầu bạn đã chết. Ông nội tôi đã đại đồ sát họ bằng ngọn lửa Ares. Giờ đây tôi chỉ biết ngồi viết. Tôi để tang cho sách bằng chữ của mình. Cả buổi tối tôi không làm bài tập, không học bài, thậm chí còn chẳng thèm soạn sách vở cho ngày hôm sau. Tôi ngồi viết, chữ đổ kín trang viết. Hồ như tôi không để mình nghỉ tay. Chỉ viết, và viết. Mong linh hồn của họ sẽ xá tội cho ông tôi. Tôi sẵn sàng lấy hồn mình để trả tội. Trên căn gác chỉ có tôi. Sách. Thứ Đạo dẫn lối đã không còn. Lũ hề đang tạm chết. Tôi ngồi dựa vào cây thánh giá và viết tội trạng của mình.
Nghe thấy tiếng cộc cộc của đầu gậy, tôi giật nảy người. Trên bàn viết bừa bộn giấy và vở ghi. Không có lấy một cuốn vở học hay sách giáo khoa. Tôi đọc thật to các công thức, định nghĩa, phương trình toán, cuống quýt đọc cả sáu điều Bác Hồ dạy. Sáu điều được tôi nhại theo trật tự, có lúc đọc xuôi, đọc ngược, đọc ngâu nghiến các như cửu chương. Vừa đọc tôi vừa run rẩy nhưng cố không để cảm xúc làm loãng tiếng đọc vạm vỡ. Chiếc batoong đã rời đi. Tôi ngã vật xuống bàn và thở phào.
Những ngày sau tôi cẩn thận hơn. Trên mặt bàn lúc nào cũng có sách giáo khoa, vở ghi trên lớp. Thế nhưng rắc rối lại có ngay.
“Chẳng có hơn mười nghìn.”- Túi tôi rỗng tuếch trong khi tôi luôn thiếu giấy bút.
Tôi xin tiền mẹ, chỉ phần nào đó vì rất có thể ông nội sẽ bắt gặp. Những đứa bạn cùng lớp sẵn sàng bỏ tiền túi để mua cho tôi sách bút. Để họ tự nguyện thế thì tôi đã phải hạ mình. Làm họ vui bằng cách học biết sở trường của họ, nhưng rõ ràng tôi không được trội hơn. Tôi biết hút thuốc từ lâu nhưng vẫn phải vờ như mình chưa ngậm điếu thuốc trong miệng bao giờ. Để họ phấn khích, tôi chối đây đẩy rằng sợ bị cô giáo bắt, chưa đến tuổi hút…Họ nào để tôi yên và đấy cũng là điều tôi chờ. Tôi rít thuốc, ho sặc sụa, giẫy chân giẫy tay. Cái điệu bộ của tôi làm họ thích chí và cười hô hố cùng nhau. Trò họ chơi, tôi cũng chơi. Món họ ăn, tôi cũng nghiền. Họ uống rượu và xem phim khiêu dâm cùng nhau, tôi cũng xin nhập hội. Vai khỉ của tôi tới giờ vẫn chưa lỗi thời.
Tôi đối đãi người đời bằng thân phận không phải là tôi. Những kẻ tôi mà chưa một lần tôi muốn nhận mặt. Vứt bỏ chúng. Tôi không làm được. Chỉ cần thiếu chúng, dù nửa ngày tôi không biết làm sao để bảo vệ mình. Đấy đã là thứ trang phục tối thiểu nhất tôi bắt buộc phải mặc để không bị trần truồng…
Tôi chết từ trong trứng mẹ. Máu trong người tôi từ lâu đã khô kiệt. Tôi là kẻ có tội và cuộc đời tôi chỉ là sự xưng tội.
*
“Cháu muốn theo nghề gì?” – Ông nội gọi tôi lại hỏi khi tôi đi học về.
“Cháu còn đang đi học mà ông.” – Tôi đáp lời, không quên nở nụ cười.
“Không lâu nữa cháu sẽ học xong, sẽ phải tìm việc cho mình.”
“Cháu muốn sưu tập sách.”
“Ồ, cháu yêu, đấy không thể coi là nghề.”
“Viết sách thì sao hả ông.”
“Ý cháu là trở thành nhà văn. Cháu vẫn thường viết cái gì sao?”
“Dạ không…Viết gì được chứ…Chỉ là cháu thấy nhà văn thường được công chúng ngưỡng mộ. Sẽ làm rạng danh dòng họ Tru.”
“Nghĩ hay lắm cháu yêu. Nhưng này cháu…” – Ông nội gõ cây batoong xuống đất. – “Dòng họ ta không cần nhà văn. Nghệ sỹ là lũ cứng đầu…”
“Họ hiểu quá cái thế nhân này rồi. Này ông! Họ sống mái vì thứ gọi là Người. Đấy là những Uriel.” – Tôi hét vang trong đầu mình. Cái tiếng nói này đây, đang muốn phá nát tôi để thoát ra ngoài. Cơn giận của gió, là cuồng phong. Tôi muốn người ông mang trong mình chữ thập ngoặc này nghe thấy. Ông chẳng biết được tội lỗi của mình lớn nhường nào. Thiêu đốt sách, chỉ có loài Satan.
“…” – Tôi câm bặt. Tôi nhường xác mình cho những kẻ vẫn luôn chầu trực trong tôi. Bọn ngươi thèm khát thân xác này lắm đây, giờ thì ta thí nó cho lũ ngươi, chỉ đổi lại các ngươi hãy giúp ta qua mặt ông nội mình, hãy làm ơn.
“Học viện G rất tốt đấy. Cháu nên theo khoa Sử hoặc Luật.” – Ông nội vừa nói vừa xoay đầu gậy batoong.
“Học viện G. Dạ vâng, học viện G.”
Tôi bổ trợ sự thiếu thốn về sách bằng cách tìm đến những cửa hàng sách cũ. Đọc ké và không mua lấy một cuốn dù được giảm giá tới mức cho không. Ông nội tôi còn đấy và ai mà biết ông ấy sẽ làm gì nếu bắt quả tang tôi. Mẹ không bao giờ hỏi tôi tại sao mua nhiều giấy bút. Bà luôn hờ hững như một mảnh sương đi lạc. Miễn là bà chịu tiếp tế tôi bằng cách cung cấp tiền để mua giấy bút là tôi đã phải mang ơn bà. Những bản viết của tôi ngày một nhiều. Ngoài các cáo trạng tôi viết cho mình, tôi còn ghi lại một thứ bỗng chốc nảy từ đầu mình. Cũng có thể tôi chợt nhớ đến một cuốn sách ngày trước và ghi đôi điều xúc cảm. Cho đến nay chưa một ai biết về hồ sơ mật của tôi. Bẵng đi một thời gian, căn gác của tôi trở lại với sự lộn xộn, bẩn thỉu vốn có. Đám côn trùng sinh sôi trở lại. Ruồi muỗi bay vèo vèo. Mạng nhện chằng chịt trần nhà. Nếu rọi đèn lên trần, sẽ thấy hằng hà xác bướm dính trên lưới nhện. Một căn gác luôn tối, chật chội, bừa bãi và nhiều gián, mối chẳng thể gọi là chỗ ở của người. Nhưng chỉ cái môi trường này mới phù hợp và dành cho tôi. Đây là nhà ngục của tôi, cũng là Nghiệt Kính Đài (4) của riêng tôi. Tôi là tù phạm và kiêm luôn cai ngục. Kẻ tôi ở đây thành khẩn cung khai. Nhà tù, cũng là chỗ nương thân của tôi, đến nay vẫn chưa bị ai phát giác.
Nhà Vòng vẫn là nơi tôi sợ phải vào nhất. Ngày giỗ, tết hoặc một ngày nào đấy do ông nội bắt buộc tôi đều phải vào thắp hương. Quỳ dưới điện thờ, cúng vái trong khi tôi còn chẳng hiểu họ thế nào. Ông nội cung kính với các vị tằng tổ và thường xuyên nhang khói. Chỉ riêng cha là ít được nhắc đến. Còn việc hương đèn thì ông nội chỉ đốt vào ngày giỗ, duy nhất vào ngày đấy. Tại sao ư? Vì cha chỉ là rể. Mẹ tôi mới thực sự là người họ Tru. Cha tôi mang dòng máu lạ và để hoàn toàn được bên mẹ cha đã phải mang họ Tru. Dòng giống của cha được nối tiếp bằng tôi nhưng thứ hạt giống đó bị tước quyền nảy mầm trên đất tiên tổ. Ông nội họ Tru, mẹ họ Tru, cha tôi họ Tru và tôi cũng là người họ Tru.
“Những năm…Trên chiến trận miền nam…” – Một loạt những chuyện hiển hách của tổ tiên được kể ra. Đáng ra tôi không hề muốn nghe nhưng vì e sợ cây batoong sẽ gõ lên đầu mình tôi phải ngồi đấy. Thành khẩn. Lắng nghe. Cặp mắt chăm chú, hồ hởi và tỏ ra nôn nóng mỗi khi ông nội ngừng kể vì một cơn ho.
Hương cháy và tôi để mặc mình tan rữa theo màn hương.
Anh hùng. Thế nào mới là anh hùng đây? Xông pha chiến trường cứu lấy chủ tướng…Chặt đầu tướng giặc…Lấy xác giữ thẳng lá quốc kì…Hiến mình thành mồi lửa để đốt sạch chiến trường…Hay…Thế này, thế kia…Trên hết, một người hùng thì phải biết giết người và không ngại giết người. Không ai định tội sát nhân cho người hùng cả. Chiến tranh, đấy chỉ là sự suy vong của tính người. Họ thỏa sức bắn giết, chẻ xác nhau, để máu ngấm đỏ đất mẹ. Lựu đạn giã con dân da vàng thành thịt nhầy. Tổ Quốc chia đôi và hàn gắn bằng cuộc tắm máu không nương tay. Nỗi ăn năn của mỗi người họ là cái chết của những đồng chí, sự lở lét của giống nòi bởi ác nghiệp họ chuốc từ chiến tranh, hoặc rằng họ ngã xuống khi mà tính ác chưa nguôi và còn muốn giết người… Mọi trang sử đều là máu, bức họa đồ khuyết gốc, và là con cá chép hóa rồng từ thịt người. Thánh Phù Đổng, là anh hùng lịch sử cũng là nạn nhân của lịch sử. Một đứa trẻ bị ăn thịt tuổi thơ. Chiến thắng, cũng chỉ là Linh Sơn của Quỷ. Bọn họ giết nhau thê thảm để rồi điên loạn tìm xương cốt đồng bào trên bãi rác xương người. Vậy sao nhiều người vẫn luôn nhắc về những thứ tàn khốc với sự ngạo nghễ…Tôi quá xa thời đại của họ hay tôi không hiểu được họ…
Cái mẫu từ “Ngày xưa…” luôn làm tôi run sợ, như huyết thống dòng họ Tru mà tôi là kẻ phải kế thừa.
Giờ đây tôi muốn kết thúc trang viết của mình. Căn gác chật chội, cây đèn bàn luôn được tôi vặn nhỏ tới mức chỉ đủ nhìn. Ở đây. Tiếng sục sạo của một con chuột đói, tiếng quẫy mình của một con muỗi bay lạc vào lưới nhện, nhưng rõ ràng nhất vẫn là tiếng thì thầm của chính tôi với trang viết. Tôi chưa bao giờ mở đèn quá sáng. Ngay từ nhỏ tôi đã không ưa mặt trời rồi. Mỗi khi cúp điện, bóng đèn chợt tắt vì đứt dây tóc, nổ cầu chì hay gì đấy miễn là trong một khoảnh khắc nhỏ ánh sáng bị mất đi thì tôi là người vui nhất. Những kẻ quanh tôi, phần lớn là thế thường la toáng lên, rồi loay hoay gọi nhau như sợ rằng mình sẽ lạc mất khỏi thế gian. Riêng tôi ngồi (hoặc đứng) một chỗ, và thấy thanh thản. Tôi tạm vắng khỏi bọn họ trong lúc đấy. Vầng thái dương không mang đến tôi sự tin tưởng. Chính thứ ánh sáng rực rỡ từ cánh chim lửa làm hết thảy chúng ta nhầm lẫn. Chẳng gì quang vinh khi rèm tối buông dày, bình minh còn tàn chết chừng nào xác chết còn thống trị cõi trần gian. Thứ vây bám quanh mỗi người chỉ là một bó chỉ bùng nhùng với một đầu được gắn với cổ tay. Đầu còn lại không rõ nơi đâu. Loại chỉ này mỏng lắm, và trong suốt, có đứt cũng chẳng ai biết. Tự thao túng mình. Tôi căm thù chính tôi. Sẽ nhiều người còn ghi nhớ một tôi trong quá khứ là đứa trẻ ngoan, dễ bảo, chăm học và có nhiều bạn. Vài cô bạn học còn tỏ vẻ ngượng nghịu khi nhớ lại từng bị tôi bẹo má, đét mông. Những bức thư tình của tôi hẳn là họ còn giữ và cất cẩn thận trong cái hộc kéo mà chỉ họ có chìa khóa. Thật quá đỗi đẹp đẽ cho một ký ức tuổi hồng. Màn ảo thuật của tôi quá điêu luyện và các khán giả đều mắc lỡm. Tôi tủi nhục, mắc tội với chính tôi vì đã lừa dối quá nhiều người. Sẽ không hay gì nếu tôi tiết lộ cái tôi gốc của mình với họ. Không một ai tin rằng đấy là tôi. Họ sẽ pha trò với nhau và còn nghĩ rằng tôi có tố chất của một đạo diễn tiềm năng. Thôi nào, để yên thế đi. Gánh xiếc sẽ bị người ta ném trứng thối, bị dỡ đi, bị tẩy chay nếu không thể mua vui. Cây thánh giá nào sẽ xá tội cho tôi. Quờ quạng, cố tìm lấy một cuốn sách để tự trấn an mình, tôi trống rỗng hoàn toàn. Không còn sách nữa, chỉ có những bản án ghi tội mình. Tôi cầm bút lên và viết tiếp…
*
Tôi đỗ tốt nghiệp như bao đứa học sinh bình thường khác. Giờ đây, tôi phải thi đại học. Học viện G, nơi ông nội đã nghía từ trước. Chẳng lý do gì mà tôi lại từ chối nộp hồ sơ để thi vào đấy. Tôi thi khoa Lí Luận Chính Trị-Giáo Dục Công Dân. Tôi không chọn ngành này, đấy là chỉ thị trước mắt của ông nội. Tôi hoàn toàn nghe, hoàn toàn gật và hoàn toàn làm theo như đấy là kim chỉ Nam.
Thời gian này tôi viết ít hơn. Một phần vì lý do thi cử, mặt khác tôi bắt đầu e dè mẹ. Bà đã bắt đầu quan sát nhiều đến hoạt động của tôi. Phía dưới căn gác vốn rất lộn xộn bởi bàn ghế cũ, giường chiếu…Nhưng nay thì nó đã được sửa chữa lại. Mấy món đồ được dọn đi hết. Nơi đấy được kê tủ bàn mới, trở thành phòng riêng của tôi. Rõ ràng mẹ đã không nói trước với tôi ông nội sẽ sửa lại phòng. Ngày hôm đấy bà nhờ tôi chuyển quà cho một người họ hàng. Đường xa nên tôi phải đi từ sớm. Người họ hàng giữ tôi lại dùng bữa nên phải tối mịt tôi mới về đến nhà. Lúc trở về mọi thứ xong xuôi cả.
Căn gác vẫn còn. Tôi tỏ ra hạnh phúc vì sự quan tâm từ ông và mẹ. Diễn comedy thì quá đơn giản. Ông nội và mẹ là các khán giả mà rất khó để tôi có thể chọc cười chỉ bằng điệu bộ hay giọng nói. Ông nội lúc vui lắm chỉ nhếch miệng cười. Thế nhưng tôi lại không nghĩ họ có thể nhìn ra vai diễn của mình, bởi họ đã gật gù rồi nói sang chuyện khác. Tôi được an toàn.
Khách nhà tôi gần đây rất nhiều. Hầu hết đều là người đến mua bình gốm của ông nội. Số còn lại thì là hàng xóm, hoặc một ai đấy từ quê lên chơi. Nhiều người là bạn đồng cốt của ông nội. Mùi người nồng nặc quanh nhà. Điều tôi khó chịu hơn là họ còn mang theo con cháu của mình và để mặc chúng chạy nhảy quanh nhà. Tôi chưa bao giờ sống như một đứa trẻ và có lẽ vì thế mà tôi không ưa gì trẻ con. Mấy trò đùa nghịch, sự hồn nhiên của chúng làm tôi nhớ đến những trò ma của tên chín đuôi, và chỉ nhiêu đó thôi cũng đủ để tôi thấy ê chề, kinh tởm chính tôi và không cách nào khác tôi phải trốn lên căn gác, viết…
“Học viện G rất danh giá. Cháu phải vào bằng được.” – Không biết đã bao nhiêu lần ông nội nói với tôi như vậy. Sau đấy ông nội lại nhắc về tằng tổ họ Tru. Tôi họ Tru. Và người họ Tru…
Trong những ngày ôn thi, ông nội ngồi dưới căn gác, vừa đi vừa gõ batoong xuống đất. Mẹ tôi cũng hay lên phòng với lý do là mang hoa quả hoặc súp để tôi bồi bổ. Họ không nói chuyện ồn ào, thậm chí chẳng nói lời nào với nhau. Những gì họ làm chỉ là đi lại. Những tiếng động nhỏ, và tôi nghe thấy hết. Mỗi bước chân dường như lúc nào cũng có thể đặt lên cầu thang, rồi chầm chậm leo lên từng bậc. Tiếng gậy batoong luôn báo trước với tôi rằng ông nội còn dưới đó. Cái nắp căn gác chẳng đủ chắc chắn để cản nổi ai đâu. Vai tôi trĩu nặng. Cuốn sách tham khảo, bài tập toán, tài liệu lịch sử, đề thi năm…Tôi muốn vứt béng mấy thứ này đi để cầm lấy cây bút và viết. Đầu gậy batoong, và ông nội…Ngón tay cầm bút không nghe theo lời tôi nữa. Chúng phản trắc lại tôi bằng cách ghi ra lời giải của bài toán. “Ông nội sẽ lên, bất cứ lúc nào đấy…” – Tiếng nói thì thầm bên tai. Thật đúng là một chuyện đùa.
“Lúc nào cũng có thể lên…Lúc nào cũng có thể lên…”
Tôi ngồi trên gác thâu đêm để giữ lấy án đường của mình. Hôm sau, tôi rời phòng cùng cái quần nhem nhuốc cứt đái.
Khách khứa vẫn lui tới nhà tôi. Tôi viện cớ ôn thi để không phải xuống gặp họ. Ông nội không phàn nàn, nhưng không có nghĩa ông sẽ để tôi yên thân. Buồng dưới căn gác không lúc nào vắng đi tiếng người. Đèn sáng choang. Trên căn gác của tôi thì ảm đạm ánh sáng. Ở đấy, không ông nội thì là mẹ. Họ thay trực luân phiên và chỉ đợi một phút sơ sảy của tôi…
Những ngày ôn thi đằng đẵng kéo dài như thế. Sau cùng tôi cũng hoàn thành việc thi cử. Thời gian tiếp theo chỉ là chờ đợi.
*
Một thời gian dài chờ kết quả, không gặp gỡ ai và chỉ la cà các hiệu sách cũ tôi thấy thật thanh thản. Mấy đứa bạn vẫn thường lui tới nhà tôi nhưng thật may rằng tôi luôn vắng nhà. Đời người sẽ bi thảm đến đâu nếu không có lấy một người bạn. Ngay đến Yozo còn cần Horiki (5). Tôi thì không. Tôi không mong đợi gì dù một miếng nhỏ của quả đào tiên. Bạn. Tôi không thiếu, thậm chí còn nhiều. Tôi sợ họ. Thực sự thế. Mỗi khi đi ngòai đường, ngồi trên xe Bus, đứng ở quầy sách cũ, mua đồ trong siêu thị…Tôi luôn đội mũ và đeo khẩu trang như cách để không ai nhận ra mình. Khi nhìn thấy một người quen, ở đây là bạn cũ, tôi thường hốt hoảng. Sợ rằng kẻ đó sẽ nhận ra dù là cái vẫy tay chào theo lối người qua đường. Còn gì khiếp đảm bằng việc kẻ đó sẽ gọi những bạn bè của mình mà tôi cũng quen lại. Lôi kéo tôi lại. Quàng vai, chào hỏi rồi với sự hồ hởi từng đứa bắt tôi phải chường mặt ra ngoài. Tôi nào biết phải chào đón họ thế nào. Ngay đến việc nhớ ra họ là ai tôi đã phải vắt óc rồi. Mỗi cuộc gặp như vậy tôi thường chào lại họ, rồi thì họ làm gì tôi nhái theo. Sau đấy tôi vờ sửng sốt vì một sự kiện đằng xa để họ tập trung về đó. Cũng có khi tôi tự làm rơi đồ, buộc lại dây giầy. Chỉ cần họ tạm quên tôi đi một lúc, tôi sẽ có thời gian để nhớ lại họ. Tên của họ, thói quen, gia cảnh, câu cửa miệng, cái vảy ngược… Tôi chưa nghĩ mình sẽ thực sự kết bạn với ai ngoài những cuốn sách. Nhưng đấy phải là sách của những người đã chết hàng thế kỉ.
Sách của người chết, đấy mới là điều tôi cần. Công tội của họ đã được định đoạt chán chê. Họ là tri kỉ, cũng là ân sư của tôi. Để đến được với họ tôi cần một cây bút để viết. Con người sinh ra từ đất, và sẽ thành đất. Những cái chết bất tử. Kafka, Doxtoevxki, Joyce, Michelet, Blake…Họ không sống như một con người. Đấy là những linh hồn còn nặng lòng với loài người. Mang cái xác dễ hoại thư, họ cầm lấy bút và dốc kiệt máu mình, xối thành thứ mực thiêng. Họ liều mạng để viết. Liều mạng để hoàn thành sứ mệnh đời mình. Những hình thái mê cung, một thực thể sương mù, con đường muôn lối cụt, dải khăn tang bằng văn tự, loài người trong khán phòng không con người hay chăng mọi điều đấy chỉ là sự gột rửa lại chân lý. Không thứ minh triết nào sáng suốt bằng sự đọa đày trong tội lỗi. Đừng nhắc về ánh sáng hay tối tăm vì ngày tạo dựng đầu tiên đã qua rồi. Vừa đi, tôi vừa lẩm bẩm :
“Nhà tu hành không mặc áo.”
“Nhà tu hành không mặc quần.”
“Nhà tu hành đang xấu hổ…”
Về đến nhà, tôi thấy cửa mở. Như thường lệ, tôi nói to để ông nội và mẹ biết mình đã về. Nhà cửa từ trong ra ngoài vẫn sáng sủa bởi nhiều ngọn đèn. Sàn nhà sạch, bếp sạch, một mảnh rác cũng chẳng thấy. Trong nhà không có người nhưng phòng nào cũng sáng đèn. Cửa mọi gian buồng cũng mở toang như có khách. Phòng ông nội, phòng mẹ, rồi thì nhà tắm, buồng khách…đều như vậy. Điều này thật không đúng. Ông nội dù thích sự sáng sủa nhưng chưa bao giờ rời khỏi phòng mà vẫn để đèn. Đi trong màn ánh sáng dày thành từng lớp, tôi đi lên phòng mình. Đứng trước cửa, tôi sững sờ vì ngọn đèn sáng rực tỏa từ căn gác của mình. Ông nội ngồi ở dưới nhà. Dường như vừa tan cuộc họp trên phường nên ông vẫn khoác trang phục cự chiến binh. Những huân chương đánh Mỹ hạng nhất lập lòe ngực áo như đèn đom đóm. Cây batoong được nắm chặt lại khi ông nhìn thấy tôi. Ông gọi tôi vào. Cái khuôn mặt già nua, mốc meo dần đi vì tuổi tác này luôn khiến tôi phải nhìn tránh đi giờ đây còn gớm ghiếc hơn khi giận giữ.
“Cháu đã trượt …” – Ông nội nói thế.
“Cháu xin lỗ…” – “ Không.” – Ông nội cắt ngang lời tôi – “Đây không còn là việc ai có lỗi nữa rồi.”
“Cháu đang toan tính cái quái gì vậy…”
Tiếng quát kéo dài. Chưa bao giờ tôi thấy ông giận dữ như vậy. Con mắt ông đục ngầu, trợn trừng như muốn trút mọi thịnh nộ lên tôi. Trong những trường hợp thế này, tôi sẽ phải cầu cạnh đến lũ kẻ tôi. Một vai diễn lãng tử hồi đầu và tôi sẽ thoát nạn. Cùng lắm chỉ bị quát mắng vài ngày hoặc cấm túc một tuần. Lời khẩn cầu của tôi bị chặn ngang và đứt đoạn hoàn toàn. Ông nội lấy ra nhiều mảnh giấy nhàu nát, ghi chằng chịt chữ. Những dấu gạch xóa lem nhem, chữ nọ đè lên chữ kia, các gạch đầu dòng, rồi một chữ thật lớn chồi lên, in đậm như vào trang giấy. Chữ của tôi. Đúng là thế. Những bản án tôi viết cho mình, giờ đây đều lộ ra ngoài. Ông nội đọc từng chữ trên giấy bằng ngữ giọng giận dữ đến khàn đặc. Đâu chỉ vài trang giấy. Ông nội lấy từ dưới bàn một quyển vở A4 khổ 200 trang. Và cũng như vậy, ông nội đọc chúng lên. Những lời đọc như hóa thép và vang ồ ồ.
Còn gì thê thảm hơn lúc này. Tay chân tôi tê cứng và chôn lại một chỗ. Những thứ này dù đã có lúc tôi muốn công khai ra để một ai đấy biết được tôi đã thống khổ thế nào khi trót mang kiếp người. Nhưng không phải thế này. Tiếng đọc của ông nội chứa đầy phẫn uất, chữ bị bẻ gãy, bị nát nhừ trong họng ông nội. Và khi ông nội nhả thành tiếng đọc. tôi quên khuấy đi mình đang ở đâu. Giờ đây, đầu óc tôi quay cuồng cả lên. Mấy tiếng nghe như vạn quả Đại Hồng Chung được đánh cùng lúc, như tiếng niệm Định Tâm Chú. Quỷ Môn Quan được khai mở và hàng vạn ác hồn tìm đến tôi để thỏa lòng khát máu…Người ông này không chịu dừng, và tiếp tục đọc bằng hết tội trạng của tôi. Tiếng đọc lớn, và thật vang hệt như ông muốn ai cũng nghe thấy được. Từng trang cứ thế mở. Giấy đơn, giấy đúp, vở ô ly, vở kẻ ngang, sổ nhật kí. Chữ được quật từ giấy và đốt kiệt quệ. Tiếng đọc dồn nhau không ngắt không nghỉ tiếng tràn lên tiếng ồ ạt đè nghiến rồi lại ồ ạt từng lớp từng lớp một như đội quân Nam Hán. Chiếc ghế tam cấp bị đá đổ, và tôi đang chới với dưới sợi thòng lọng…
“Dừng lại đi…Dừng lại đi…” – Tôi nói lớn. Và quỳ mọp xuống.
“Những thứ này là gì….”
Tôi im lặng.
“Ông không thể hiểu nổi cháu đang làm cái quái gì. Mấy thứ này đều từ phòng cháu, có đúng là nét chữ của cháu…”
“Chính là chữ của cháu.” – Tôi bật khỏi thế quỳ và đứng ngay ngắn trước mặt ông. Lần đầu tiên tôi đứng vững được như thế trước ông mình.
“Ai đã bắt cháu làm thế này.”
“Không ai cả.”
“Nói thật với ông.”
“Chính cháu đã viết. Phải, chính là cháu!”
“Đống giấy lộn này chỉ toàn cặn bã. Một con người, theo đúng nghĩa không thể thế này được. Nói với ông. Tru Sa! Thành thật với ông…”
“Cháu chỉ đang tự cứu mình và cứu cả ông nữa.”
“Cứu ư? Vết xe đã đổ thì đừng đạp lên.”
“Cha cháu là ai?”
“Là con của ta, chồng mẹ cháu và là cha cháu.”
“Cha cháu họ gì?”
“Họ Tru.”
“Cha cháu, không họ Tru và không họ gì hết. Kẻ không nương náu!”
“Không. Không tốt tí nào, người đã chết từ lâu lắm rồi…Lâu lắm rồi…”
“Cháu sẽ viết, và sẽ còn viết…”
Miệng ông nội mở ngoác ra. Răng ông còn đầy đủ, và đều xỉn vàng, ố đen. Dường như ông nội muốn cười lên, nhưng không thành tiếng. Hàm răng nghiến lại ken két. Có cái nào vỡ không. Chịu. Sau một câu nói mà tôi nghe không rõ, ông nội giơ cao cây ba toong. Một cú đánh ngay đỉnh đầu tôi. Câu hỏi của ông nội vẫn vậy và tôi tiếp tục chọc điên ông bằng câu trả lời của mình. Đây là lần đầu tiên ông nội đánh tôi mạnh và túi bụi đến như vậy. Mồ hôi ông vã ra, chảy cả xuống mặt tôi. Một vài tấm huân chương sút khỏi ngực và rơi xuống đầu tôi. Vừa nói, tôi vừa cười “Huân chương đánh người hạng nhất, sao vàng, anh hùng lao động ha…ha…” Gậy giáng mạnh thêm một lực. Gậy be bét máu. Cả máu tươi lẫn máu khô. Nhìn ra ngoài cửa, tôi thấy mẹ đứng đấy. Bà nép vào một bên cánh và len lén nhìn tôi.
Một tiếng “Rắc…” vang lên. Cây batoong gẫy làm hai. Tôi lịm đi.
*
Sau trận đòn nhừ tử tôi được đưa vào nhà Vòng để sám lỗi với tổ tiên. Trận đòn không để lại thương tật gì trầm trọng dù tôi đã bị đánh ngất. Người tôi chỉ hơi ê ẩm. Tôi bị bỏ đói và chỉ được uống nước. Nước rất lạnh và buốt. Tôi nghĩ chúng được rót ra từ một chai nước trong tủ lạnh. Các ngọn đèn trong nhà Vòng đều được bật sáng. Từ lúc tôi vào đây chúng đã bật, và giờ vẫn thế. Khác với mọi khi, mấy cái bóng đèn được thay mới. Loại bóng đèn vàng, với công suất lớn tới mức tôi luôn bị đổ mồ hôi và mất nước.
Cửa nhà Vòng bị khóa nhiều lớp. Ông nội là người giữ chìa. Hàng ngày ông vẫn vào nhà Vòng, nhưng không vào trong. Chỉ đi lại bên ngoài rồi hỏi vọng vào. Cây ba toong của ông được nối dài lại bằng một đoạn thép ruột đặc. Tiếng batoong gõ xuống đất nghe bong bong, hệt như người ta đánh cồng. Ông nội vẫn mong đợi một lời nhận lỗi từ tôi. Có lẽ rằng đây là hiện thực dối trá nhất mà chưa bao giờ ông nghĩ mình sẽ vướng vào. Tôi đây, một sự ngoại lệ của dòng họ Tru. Như ông nội nói, cha tôi đã mắc tội với tiên tổ vì chết quá trẻ. Bây giờ thì là tôi. Có lẽ rằng, khi mẹ thụ thai tôi, bà đã mang trong mình những quả trứng định mệnh.(6)
Tôi đã có giấy báo từ học viện G. Nghĩa là tôi đã đỗ, nhưng điều gì đã khiến ông nội nghĩ rằng tôi đã thất bại trong kì thi này. Mẹ nói tôi phải nghe lời ông nội.
“Ông nội đang giận lắm. Con phải ngoan vào.” – Mẹ nói thế đấy.
“Cha con ngoan lắm phải không?”
Mẹ không nói và tôi cũng không nghĩ bà sẽ thành thật.
“Cha không ngoan đâu. Con tin chắc. Cha đã chết.”
Mẹ tránh ánh nhìn của tôi. Lời bà nói vẫn chỉ thế. Tôi không hỏi về chuyện căn gác nữa, giờ đây nó không quan trọng. Diễn trò, điều này cũng vô nghĩa rồi. Các khuôn mặt già cỗi đang nhìn tôi qua khung ảnh. Họ giận dữ, họ trợn trừng, họ muốn xin Ngọc Đế cấp phép để được hiện hữu trên trần gian giáng cơn thịnh thộ xuống đứa nghịch tổ là tôi. Tôi sẽ không tránh họ. Quỳ mọp giữa nhà Vòng, tôi nhìn vào gian thờ. Gương mặt cha lẻ loi. Tôi cũng lẻ loi. Tôi và cha, đều là kẻ không nương náu.
Mấy ngày sau. Tôi nghe thấy tiếng ầm ĩ bên ngoài. Có vẻ như rất nhiều người đến nhà tôi. Rồi sau đấy tôi nghe thấy tiếng búa, đục, máy khoan, rồi tiếng hô hào chuyển đồ đạc. Khi im ắng hơn tôi nghe thấy tiếng mặc cả của một bà đồng nát. Tôi chưa kịp nghe họ kì kèo thế nào thì tiếng búa, đục, máy khoan lại vang lên và trấn áp tất cả. Mấy người thợ đi lại rầm rầm và đang khiêng theo thứ gì đấy.
*
Ông nội khóa thêm một lớp khóa phía ngoài. Tiếng đấm cửa vẫn bình bịch, tôi đòi ra. Sau ổ khóa mới, ông bảo mẹ mang xích cùng một ổ khóa khác để xiết chặt cách cửa. Những quả đấm không hiệu lực, tiếng đói tự do, hoặc chỉ là một cấp bách khi quá mót tiểu. Mẹ tôi truyền hơi mình qua kẽ cửa, bảo rằng tôi phải ngoan, phải biết nghe lời. Ông nội đập đầu batoong vào mặt cửa, quát lớn như tiếng hành quân lịch sử. Tôi húc đầu vào cánh cửa, vết thương chưa lành khạc máu và phủ đỏ băng ca.
Ở yên đấy, nhốt nó vào trong. Chưa phải lúc này, đồ con vật khó thuần. Tiếng ông nội nói với mẹ. Tôi bớt hung hăng, cái nóng của chục ngọn đèn làm tôi kiệt sức. Muốn vớ cây bút và giấy, tôi vô vọng, đạp quẫy như ăn vạ những bóng ma trong nhà thờ. Chiều tối, mẹ tôi vào và tiếp tục răn đe tôi phải ngoan, nhận lỗi rằng mình hư và bị bạn xấu lôi kéo, đầu độc. Tôi hỏi mẹ rằng thế nào là lẽ phải. Mẹ ngần ngừ, đôi mắt bà ngần ngại. Trong lúc nhìn tôi, quãng nửa giây, mẹ định đánh động gì đấy nhưng tiếng batoong gõ xuống nền đất đã khiến bà sực tỉnh. Cái mỉm cười, mẹ nhắn tôi “Quay đầu là bờ.” Tôi hỏi mẹ “Tại sao thế này?” Mẹ đã khuất sau cánh cửa. Tiếng tra khóa, xiếng xích lẻng xẻng. Mẹ theo ông nội lên gác, tôi đoán thế. Nếu ông nội đợi mẹ ở lối cầu thang.
*
Viết. Giờ đây tôi muốn viết.
Cây diêm cuối cùng trong đêm giáng sinh. Tôi cần viết ra. Trước khi những tội chứng bị cháy đen và tiêu biến khỏi hồng trần.
Tôi đã tìm thấy cây bút. Tôi cắn nát đầu bút để thấy được ngòi. Mực đổ ra. Mực tươi nóng. Tôi sẽ không lãng phí giọt nào.

Hà Nội 2014

(1) Chi tiết trong tiểu thuyết Đi Tìm Nhân Vật của Tạ Duy Anh
(2) Trong tiểu thuyết Ông Già Và Biển Cả của Hemingway
(3) Tiểu thuyết của George Orwel
(4) Nơi các oan hồn sau khi chết bị giải đến và soi chiếu tội lỗi lúc còn sống.
(5) Nhân vật trong tiểu thuyết Mất Tư Cách Làm Người của Dazai Osamu
(6) Tiểu thuyết của Mikhail Bulgakov

NGƯỜI GÙ

trusa

Một tủ gỗ chẳng có gì ngoài những cuốn sách đã nát bươm tới mức không thành một trang giấy. Loại gỗ gụ nên rất bền. Theo lời kể, cái tủ này là gia bảo của dòng họ ông. Từ đời tằng tổ để lại. Riêng thứ sách cũ mốc thì do ông tích trữ. Rất nhiều sách. Nếu đếm từng quyển có lẽ tôi phải mất hơn ngày. Cái tủ xây cao sát trần và kéo dàiốp quanh bốn bức tường. Lúc mới bước vào, trừ việc ho sù sụ vì bụi thì tôi đã lầm tưởng rằng tường hầm được khoét sâu để cất sách. Như mọi tủ kệ, cái tủ này cũng được chia tầng. Các ngăn bằng phẳng và sâu ướm vừa một bàn tay. Sách chất chật cứng. Chúng xếp ngang, chếch chéo, nằm chồng lên nhau, quay gáy ra ngoài. Bụi và mạng nhện bện dày như cái kén màu xám đục. Lối ra vào, cũng là cửa thông gió duy nhất luôn mở. Tôi nghĩ cổng cầu thang mở để không chết ngộp trong hầm. Ông, một người quá già so với những thượng tuế ở Phố. Tôi ít được nghe về ông ngoài việc ông từng giết vợ. Ngộ sát, hoặc đại loại thế khi ông cố rút mũi tên cắm trong lồng ngực vợ mình. Có lẽ ông đã rút quá mạnh, hoặc vợ ông quá yếu để trụ vững sau lực chấn động khi rút tên. Phố này kéo dài, nối liên miên. Tôi ở dãy đầu còn ông ở cuối. Thời thơ ấu, tôi đã chẳng biết ông. Mọi bàn tay trong phố ít nhiều đã sờ lên người tôi, trừ ông. Tôi chắc ông đã chẳng để ý dãy phố có bao nhiêu đứa trẻ và là con nhà ai. Ngày đầu gặp tôi đã nói tên, số nhà, tên cha mẹ như một sự thành thật.Tiếng “Vào đi” thay giấy thông lệ để từ đó tôi lui tới thường xuyên chỗ ông. Cũn gngày đầu, ông đã mời tôi kẹo, bánh. Một ấm trà được pha lại từ bã buổi sáng. Trong nhà ông chẳng còn ai. Người nhà ông li tán khắp năm châu. Đứa con ôngchết trong bụng mẹ trong lần sơ tán cuối cùng, trước khi về Phố. Vợ cũng đã qua đời.Ông không bị tù, chỉ nhận án treo. Với ông, mất đi người vợ đã là bản án nghiệt ngã nhất. Ông bị gù, không do tuổi già. Râu tóc ông bạc phếch, da bèo nhẽo với nhữngchấm đồi mồi và gân xanh, đấy là tuổi già. Vốn là người siêng lao động nên đến từngtuổi này bước chân ông vẫn vững. Chuyện cắt tỉa sân vườn, nhổ cỏ dại hay sửa mái ngói ông đều tự làm. Cái lưng gù của ông nhiều khi như đường móc của cầu vồng.Tôi nói với ông “Gù bẩm sinh, có phải trò đùa của Tạo Hóa.” Ông nói “Tạo Hóa chẳng bao giờ nghiêm túc, còn con người thì luôn thích đùa.” Ông ít giao du với người ở Phố. Thực ra những người đồng tuế thì đã quá yếu và chỉ quanh quẩn trong nhà bằng những bước chầm chậm như con rùa kéo lê bộ mai.Lớp người sau ông một chút, thuộc vào thế hệ tiếp nối hoặc hạt giống như tôi, ông cũng không bắt chuyện, ai chào thì ông chào lại còn thì đường ai nấy đi. Ông như con đại bàng ẩn dật cả cái bóng dù vẫn đủ vuốt, mỏ để lột xác một lần nữa. Có lẽ vì vậy không mấy người chú ý đến ông. Những ngày lễ bắn pháo hoa, cả phố tưng bừng. Ai cũng ra đường sau khi đã trang trí cửa nhà thật đẹp. Ông ở nhà cấp bốn, mái nhà nửa ngói nửa tôn, gạch nhà nứt toác thành những rãnh dài, tường rụng rời. Từ ngày buồng vệ sinh bị sập ông thành khách quen của vệ sinh công cộng. Việc tắm giặt ở ngayngoài trời, với một chậu một gáo. May rằng bể nước nhà ông không hỏng chứ khéoông phải tắm lúc trời mưa hoặc tắm khô như mèo. Ông có cái sân rộng nhưng ông chỉ1
tỉa cỏ dại, loại cây nào vô tình mọc trên đất nhà ông thì ông chăm chút. Tôi gõ cửa.Ông bảo tôi vào với ông hoặc giúp ông kéo cửa như một lần đóng cửa thật chặt. “Ông không thích người ta à?” “Con người, quý lắm. Chỉ là càng sống càng khó kiếm người.” “Ở đâu chẳng có người hở ông.” “Ở đâu chả có người nhưng người ở đâu.” Hầm sách của ông luôn làm tôi khó thở. Dường như đã quá lâu ông không quét dọn. Tủ chưa hề mục. Riêng sách thì đã mủn nát. Mấy cuốn lành, thì cũng nham nhở như bị xé nhỏ. Tôi chẳng đọc được chữ nào. Cuốn long bìa, cuốn bìa đã bạc hết màu,có cuốn thì vừa cầm lên đã rụng lả tả. Mở trang nào cũng thấy bụi. Nhiều lúc tôi còn thấy mọt chạy thành đàn. Giữa gian hầm, có dựng cái ghế mây. Ghế cũng cũ, bụi đóng trắng như một mô hình tuyết. Dù ghế lúc nào cũng cót két nhưng ngồi vẫn chắc.Cạnh ghế, luôn có một ngọn đèn cầy. Thứ ánh sáng vàng mỡ cháy quanh hầm như một mặt trời tí hon. Đã nhiều lần tôi vào đây, rồi ho sù sụ. Mấy lần sau tôi đeo khẩu trang. Riêng ông thì vẫn lui tới thường xuyên. Không một mảnh khẩu trang hay khăn tay. Nhiều khi ông còn hít ngửi rất sâu. Lúc tôi mang đến cây phất trần và chổi để cùng ông dọn hầm, ông đã bẻ đôi từng thứ một. “Cũng phải dọn dẹp cho sáng sủa chứ ông.” “Kì cọ, lau rửa, chỉ làm gương sáng chứ chẳng sạch bụi. Hầu hết chúng ta tin cậy ảnh chiếu trong gương là mặt mình. Trăng trong hồ cũng là trăng nhưng chẳng phải trăng. Các bản sao đã thống trị cả sơn hà này và đội lốt bằng ti tỉ thế thân.” “Bụi bặm thế sẽ sinh bệnh đấy ông.” “Quỷ đồng lõa với bụi bặm hơn là dịch bệnh.” Lối cầu thang lên xuống hầm luôn mở. Ông ngồi trên ghế mây, lửa đèn cầy chao nghiêng như điệu nhảy chú lùn. Mắt ông nhìn quanh những giá sách. Bụi bặm rụng từng mảng hễ ông giậm chân quá mạnh. Tay ông lúc vắt trái, khi vắt phải. Rồi ông ôm đầu. Tôi từng thấy ông mở sách. Từng cuốn, từng cuốn. Không cuốn nào nguyên vẹn, dù chỉ một phần tư trang. Tôi tự hỏi ông tìm gì ở số sách cũ đã nát bươm đó.Hay, ông vốn đọc làu chỗ sách đấy. Ông mở sách chỉ để kiểm tra lại trí nhớ. Suy nghĩcủa tôi bị bẻ ngoặt khi thấy ông sờ lên mặt sách. Ông lật từng trang. Lật bìa, rồi lật đi lật lại. Mắt ông nhìn đăm đăm, thế rồi ông gấp sách và cất trở vào tủ. Ông đi lại mộtlúc quanh tủ sách bốn mặt, lần tay vào từng gáy sách. Ông lấy đúng cuốn mình đã cất trước đó và mở. Việc quan sát ông chầm chậm, không để vang tiếng thật thích thú.Bụi và mạng nhện lúc nào cũng dính trên tóc, vương mảnh trên mặt, vai áo. Nhữnglúc ông trầm ngâm nhìn trang sách, tôi tưởng rằng ông đang mặc niệm cho một thế kỷ bị lãng quên. Một lần nữa, ý nghĩ tôi bị bẻ ngoặt. Đấy là khi tôi thấy ông miết nhẹ ngón tay lên cuốn sách và liếm. Cái liếm chậm rãi lúc thì lên bìa, khi thì ở gáy, có lúc lại ở một trang bất kì. Một cái vấp chân, rồi tiếng ho vì bụi hầm không làm ông giật mình. Vẫn cử chỉ dấu yêu bằng cái liếm, cái dụi mặt. Sự nâng niu quá đà của ông với tủ sách cũ khiến tôi nghĩ đến việc ông đang ngấu nghiến những hồi ức về người vợ.Đã nhiều lần tôi hồ nghi việc liếm sách đấy là một tưởng tượng về cuộc tái sinh các phế tích từ một cái lưỡi lão hóa. Nếu còn đủ răng, liệu ông có nhai…
Người ở Phố bảo ông gàn. Số sách của ông vẫn nhiều người biết. Hẳn có người còn thấy nó khi còn vẹn nguyên. Mấy bô lão chỉ xua tay, tránh né lời thắc mắc của tôi. Sách gì, thể loại gì. Chữ gì, và viết gì. Những câu hỏi đổ dồn, chạy vòng quanhđầu tôi trong những ô trống. Có lần, ông nói với tôi. “Sách là cái tim đen luôn bị đánh tráo của quá khứ. Dù bao nhiêu thời đại nữa thì sách vẫn là bửu bối của trời. Văn minh của loài người là ngôn ngữ và chữ viết, trong đấy chữ viết là thứ trường cửu khi đóng thành sách. Những điển thư bất tử. Thập kỷ qua, chữ viết đã xuống mồ và bị quật mả nhiều lần để thành bù nhìn, đồng sự của quỷ dữ. Chúng tụng ca bằng những bài hát nhai xương uống máu, nhảy nhót trên những xác người còn ấm, còn nhúc nhích, chúng trồng cây trong óc người sống và tận diệ tthủy tổ bằng năm mươi cuộc săn trên rừng, năm mươi cuộc săn dưới biển. Sách đổ máu không đổ chữ. Chữ là máu không là sách. Trong lúc ông ngồi trong hầm, huơ hoắng tay, hít ngửi thứ bụi chồng chất hàng thế kỷ thì tôi đi lùi phía cầu thang. Nếu đèn cầy đột ngột tắt, ông vẫn ngồi. Ông hỏi tôithấy gì khi đèn đã tắt. “Không gì cả.” “Thế khi đèn bật.” “Tất cả.” “Chắc không?” “Cháu nhìn được. Trời sáng hơn bởi đèn.” “Người mù luôn thấy tối nhưng không phải trời phủ bóng đêm. Người mắt sáng khó nhìn ra bóng tối của người mù và không thấy đường dù không mù. Nguyên thủy của bóng tối không màu đen.” “Sau cơn mưa trời lại sáng mà ông.” “Sau cơn mưa, trời tạnh. Vẫn tối.” Vợ ông chết vào một buổi tàn minh, tôi tin thế. Viễn cảnh của sự lìa đời là hơi thở trút cạn không còn gì. Cái chết chậm rãi như cánh cửa khép từ từ, hoặc đột ngột như mặt trời cuối cùng bị bắn rụng giữa ban ngày. Hơi thở vợ ông sẽ bay vút như đôi cánh, mỏng mảnh như khói thuốc lá hay chờn vờn đứt đoạn như con cá bay khỏi mặt biển chốc lát rồi lại chìm xuống biển? Tôi không biết, cũng không dám hỏi ông. Vườn nhà ông nhiều bia mộ. Chia hai dãy và chẳng có tên. Người nhà ông chẳng nhiều đến thế. Ông vẫn nói rằng sinh mạng là những gì sống và từng được sống. Một nhành hoa, một xác người đều bình đẳng khi vùi trong đất. Người ở Phố đã quên béng ông. Tôi nghĩ họ vờ quên. Một dị hợm so với những đồng đẳng bằng nhau. Phần khác vì cái sân với đầy rẫy bia mộ lại là một xúi quẩy. Mỗi tai ương xảy đến người ta có quyền đổ thừa ông. Trước những vu khống ông đều im lặng. Cái bóng gù lẩn khuấttrong cộng đồng lưng thẳng, lưng dài nhưng sẵn sàng còng trước mũ cánh chuồn. Nhà ông không treo biển Gia Đình Văn Hóa. Phố không cấp cho ông và ông cũng không xin, mặt khác một ông già sống cô độc thì chẳng thể gọi là có gia đình. Tôi vẫn tìm đến ông. Một ngày, tôi thấy ông cắm bia sau vườn. Không hề có áo quan. Dưới lòng đất chỉ có sỏi và đất. Ông đào một rãnh, rồi táng mộ. Tôi hỏi ông “Tại sao nhiều bia mộ đến thế.” Một tiếng thở nửa chừng, rồi một cái cười nhẹ cũng tiêu biến nửa chừng nhường chỗ cho một tiếng ho ngắt quãng. “Quả đất này đã quá nhiều ma. Chúng ta sinh sống, ăn lộc từ ma và tranh luôn đất của ma.” “Bởi vậy ma đành nương náu trên thân xác người.” – Tôi nói với ông. “Nguồn gốc của ma là người.”- Ông nói với tôi, nói với vườn bia mộ. Rồi, ông xòe đôi bàn tay – “Hóa thân của người?” – Lời ông rót vào hai lòng bàn tay dày kín những lớp sẹo. Chẳng thể thấy dù nửa cái hoa tay hay nửa nét chỉ tay. Ông không ở ngoài vườn. Lúc này, ông xuống hầm. Những cuốn sách sẽ được lật ra và ông hít hà lớp bụi đóng. Ông vươn người, xòe tay trong tủ sách bốn mặt. Có thể lúc này ông đang xâm nhập vào những thế kỉ cũ, đối ẩm với các đế vương và và vụng trộm với những vưu vật thời hồng hoang. Ông. Một người gù. Dãy Phố nhộn nhịp cờ đèn. Biểu ngữ giăng khắp nơi. Các lễ hội, những tiệc tùng thâu đêm, rồi thì những cuộc đua xe mừng thắng bóng đá, pháo hoa đỏ ngầu trời nối dài từng ngày, tháng. Đâu đấy, những trung tâm nạo phá thai mọc chồng chéo để đồ tể giống người. Đâu đấy, bạt ngàn cây bị chém đổ cùng lúc như bản án tru di dòng tộc. Đâu đấy, mỗi giây Thần Chết bắt được một hồn. Cũng đâu đấy, đàn đàn người quần tụ, lắc lư trên bàn nhậu như lật đật. Cái hầm sách cùng hai hàng bia mộ là điềm gở của Phố. Một thứ lạc hậu, hão huyền và nằm ngoài lề thời đại này. Đám trẻ lớn lên, già đi mà chẳng biết có một người gù luôn lang thang trong bóng tối, mong tìm một bát nước cứu khát. Tôi về lại chỗ ông. Lần này ông không đón tôi. Cửa xuống hầm vẫn mở. Bụi đóng dọc quanh lối lên xuống. Đèn cầy đã tắt. Tôi mang theo một ngọn nến. Bụi đóng dày mặt sàn, ngập đến mắt cá chân. Tơ nhện giăng khắp ngóc ngách và cũng dày lên,trắng đục như lớp mây khổng lồ. Không thấy bóng nhện nào. Một cái hắt hơi làm bụirụng từng mảng. Như tiếng hét trong xứ tuyết phủ, bụi chuyển động rồi rơi ầm ầm.Tôi phẩy tay, hất mạnh để tránh những mảng bụi quá to nện vào đầu. Ông ngồi trên ghế mây. Ông đã chết. Bụi kết tảng, vùi lấp chỉ để chừa cái đầu lâu. Phủi bụi, tôi thấy một bàn tay xương chống cằm. Không thể gỡ bàn tay khỏi cằm, tôi để thế. Một khung xương người gù suy tư. Tôi gạt ngọn đèn cầy trên bàn và nhỏ sáp, cắm nến. Hầm sáng rõ. Sách đã không còn trên bốn mặt tủ. Chúng nằm xếp thành những hàng, những tầng dài dưới đất và bao quanh chỗ ông ngồi. Tủ sách ngủ trong lớp bụi dày. Số sách nằm mặt đất không biết đã ngủ chưa hay hẵng còn thoi thóp chừng nào những chữ bị cắt xẻo còn chưa bạch hóa. Tôi hít một hơi sâu. Bụi đi vào mũi và tôi nuốt lấy như đang nhai một phần quá khứ ông. Trong kho sách tàn mục, rách nát ông là một nét phẩy. Mang theo hài cốt ông, tôi lên cầu thang và ra sân. Những bia mộ rêu phủ. Cỏ mọc rậm cả mảnh sân. Nhiều cây dại mọc chồi, đâm xẻ um tùm thành bụi gai. Mạng nhện và bụi thời gian kết trắng vườn mộ. Vợ ông, một mũi tên trước ngực. Theo lời ông, tên đâm qua ngực vợ từ rất lâu.Cơn đau luôn hành hạ vợ ông. Mũi tên không cắt đôi quả tim mà xuyên thấu và tồn tại như một chi trên cơ thể. Ông đã rút mũi tên khỏi lồng ngực vợ. Mũi tên được ông bẻ đôi. Vợ ông vẫn sống. Bà được giải thoát nhưng cái tự do này đã không mang bà đến nước Trời. Mất mũi tên trên ngực, vợ ông thấy rỗng tuếch. Sẽ không còn cơn đau nào âm ỉ lồng ngực. Những liều thuốc giảm đau và cơn oằn mình quy thuận khôngcòn nữa. Cơ thể bà nhẹ như được Chúa trao cánh nhưng bà đã không biết phải làm gìvới đôi cánh. Cái chân này là của bà, cái tay này là của bà. Lưng bà không gù nhưngvẫn cong xuống như bị bẻ cột sống. Ông chỉ ngón tay. Mắt vợ ông nhìn vào đầu ngóntay ông. Chưa thấy đường. Vợ ông khiếp sợ cuộc sống mới mẻ cùng hai bàn taytrắng. Bà đã lấy trộm hai nửa mũi tên. Khi cắm lại tên vào ngực, bà gục xuống. Hóa thân của người… Hóa thân của người… Tôi nhìn hai hàng mộ. Phần mộ trái bảy mươi tư bia, mộ phải sáu mươi tư bia. Tôiđứng ở phần sân chia đôi hai cánh mộ. Phố vẫn huyên náo như mọi ngày. Người ở Phố đi lại như đàn người cô độc. Tôi đứng mãi ở mảnh sân. Mấy người nhìn thấy tôi qua hàng rào cửa. Họ xì xào, lẩm bẩm và cười the thé cùng nhau. Theo lời họ, người ngợm tôi trắng phau. Cả áo quần, tóc tai lẫn mắt, mũi, miệng. Tôi như cái bóng gác mộ cỗi tuổi. Người, vốn một hóa thân… Bình minh lên rồi tàn. Hoàng hôn tưới vàng đỏ hai lối mộ rồi cũng tàn. Bóng đêm đổ dày, kéo chìm muôn nơi như cái xòe cánh khổng lồ của con sâu hóa bướm. Trời chưa tối. Cõng trên lưng bộ xương người gù, tôi vòng vào vườn mộ. Mỗi một tấm biatôi đặt một cái khấu đầu. Tôi sẽ bước ra bằng cổng lớn để tìm và tắm trong thứ ánh sáng chưa từng biết đến.

TRU SA

Cú Ngã

trusa

Tặng Người Quen

Hắn ngã cầu thang. Tai nạn năm sáu tuổi. Một cú đau trước ngày vào đời. Hắn vào lớp một. Mẫu giáo cũng là một trường học, thứ biên giới khác nằm ngoài hệ thống gia đình. Mẫu giáo bé, rồi mẫu giáo lớn, những nơi ai ai cũng phải đi qua. Thời con nít của tôi, vì nghịch ngợm nên chẳng bao giờ được phiếu bé ngoan. Cô giáo đã tát tai khi tôi hát sai nhịp. Cái tát không làm tôi khóc dù tôi đã ngã lăn dưới đất. Bàn tay thép cùng khuôn mặt quỷ sứ của cô giáo đã phủ ác mộng lên tuổi trẻ con của tôi. Dấu tát đỏ ửng má là bằng chứng kết tội cô giáo. Cha tôi đã đòi công đạo cho tôi bằng cái tát khiến cô giáo ngã lăn, hộc máu và bất tỉnh. Tôi chẳng thấy cha mình, trước mặt tôi là con quỷ đực đánh gục con quỷ cái. Ấn tượng đầu tiên của tôi với trường học là thế, và điều này đã bám lấy tôi, khiến tôi luôn kiêng dè mọi thầy cô giáo. Tôi không kính trọng một ai, và luôn luôn co mình thủ thế. Với tôi, một giáo viên điển hình là phải biết tát trẻ con ngã lăn dưới đất. Trở lại chuyện của hắn, như tôi đã kể, hắn từng ngã cầu thang. Cái cầu thang hắn ngã là ở nhà hắn. Đấy là một cầu thang dài, uốn nối lên sân thượng. Vốn là kẻ thích leo trèo nhưng kì quặc là hắn chỉ biết leo lên, không biết leo xuống. Cầu thang dựng cũng thế, cầu thang đóng thành bậc trên tường cũng vậy, ngay cả cầu thang bậc, xây cao cũng làm hắn khó xuống. Ngày hôm đấy mấy anh chị, chú bác thì đi làm hoặc ở tầng dưới. Hắn leo lên từng bậc, và khi mãn chí trên tầng thượng thì đòi xuống. Cầu thang chín bậc, bậc trên cao gấp hai bậc dưới, uốn gấp như thân rắn. Hắn kể rằng đã ngồi trên từng bậc thang rồi tụt xuống từng bậc một. Một cái vấp, trơn khiến hắn đổ nhào. Hắn lăn như quả bóng và đập đầu xuống một bậc thang. Hắn bị u đầu. Cục u to như quả ổi. Tiếng khóc đầu tiên của hắn là thế. Trong một cú ngã lộn ngược đập đầu.
Ngày chào đời hắn đã khóc tiếng khóc của mọi thiên thần bị trục xuất. Những lần khóc vì mẹ vắng nhà, vì không được mua quà, không được cho đồ chơi, bị vấp té hoặc do bản tính mít ướt chẳng từ một cơn đau. Đây là tiếng khóc đầu tiên, cú vào đời đau điếng để từ sau đấy hắn mãi chìm vào tiếng khóc.
Tôi nghe nhiều về hắn. Trước và sau, hắn vẫn là con dơi treo mình trốn ánh sáng. Thời bé con hắn hay vẽ vời. Vì vẽ hắn quên tất cả, học hành chểnh mảng cũng vì mải vẽ. Hắn không còn nhớ gì về số tranh vẽ lúc bé, tôi đồ rằng hắn chưa quên, chỉ nhớ không được rõ. Những bức tranh nhem nhuốc chẳng nghĩa lí gì dù được tạo ra từ những giấc mơ, những tưởng tượng, thứ mà mọi đứa trẻ đã bị truất bỏ, bị nghiền nát trong lò đúc tạo nhi đồng miền Bắc. Nát bét. Hắn nói với tôi, nhưng về những bức tranh trẻ con của hắn hay về những tưởng tượng ấu trĩ cũng của hắn. Chuyện về hắn là sự khạc nhổ vào cái đầu ngu si, được cha mẹ chu cấp đầy đủ, trang bị đến chân răng. Hắn học dở và mỗi lần trả bài kiểm tra là một bữa đòn roi. Gia đình hắn mướn gia sư liên tục nhưng chẳng tẩy sáng được cái não bộ ngập ngụa hình ảnh tưởng tượng. Một lần, hắn gom lá cây, rác rến để đốt giữa sân trường. Cô giáo chủ nhiệm lớp hắn đã gô cổ hắn, ném vào phòng bảo vệ và mời cha mẹ hắn đến để trả con. Tội danh phóng hỏa được đóng thẳng lên mình hắn. Ai cũng đều biết lửa chỉ cháy lá cây nhưng việc mang diêm đến lớp đã là vi phạm nội quy. Các giáo bảo kẻ cầm súng rồi sẽ bắn người. Hạnh kiểm của hắn bị đánh tụt xuống âm rồi lần lượt được kéo lên trung bình sau những cuộc hẹn hò lén lút của cha mẹ hắn nơi nhà cô chủ nhiệm. Hắn thường xuyên không đeo khăn đỏ, hễ ra chơi là hắn tháo béng khỏi cổ. Sổ sao đỏ không bao giờ để trống, hễ hắn còn đi học. Trong khi các bạn đồng lứa khéo léo buộc lại khăn thì hắn loay hoay, chỉ vắt được khăn. Mẹ hắn thường xuyên buộc khăn giúp hắn, nhưng tôi được biết cả khi được dạy hắn cũng không thể tự đeo. Hắn quá vụng về để có thể thắt nút đúng, gấp ra hai sợi râu màu cánh hoa hồng phấp phới. Tôi không biết hắn có cố tình làm trò không khi không tháo khăn bằng cách gỡ nút. Hắn kéo hai đầu khăn, cái nút thắt thít chặt vào và thu nhỏ so với ban đầu. Càng kéo, khăn càng sít, và tròng quanh cổ hắn như vòng khóa. Hắn loay hoay, rồi lăn bò dưới đất khiến ai cũng phì cười. Chúng bạn hết cười khi mắt hắn trợn ngược, nằm lịm một chỗ. Cô y tế bảo hắn bị choáng do đói. Lần khác, hắn bị cô giáo bắt đứng lên bục giảng vì dám bôi bẩn vào khăn quàng đỏ. Một cái khăn đỏ tươi màu nhiệt huyết, dù có sờn, bạc vì dùng lâu nhưng đã lem luốc khi hắn chép lên các công thức toán, khái niệm, định nghĩa môn lịch sử hoặc nhiều đoạn trong bài kiểm tra làm văn thuộc lòng. Một tội lỗi nghiêm trọng bao gồm cả gian lận trong kiểm tra, lười học lẫn phạm thượng làm xấu đồ dùng nhà trường. Cô giáo hắn đay nghiến rằng khăn đỏ là màu cờ, trét bẩn khăn đỏ là trét bẩn màu cờ, ném bùn lên tổ quốc. Mày đáng chặt đầu. Đấy là lời hắn nghe từ cô giáo và tôi nghe lại từ hắn. Đứng trên bục giảng, cô giáo mắng hắn té tát, thế rồi cô giáo gọi hết cán bộ lớp cho đến thành viên lớp và hỏi hắn có đáng đuổi học không. Lẽ dĩ nhiên, ai cũng gật, và đợi khi cô giáo nguôi giận thì nói đỡ để hắn không bị đuổi, chỉ kỉ luật, hạ hạnh kiểm, mời phụ huynh, hay đình chỉ một, hai ngày học.
Hắn là cái ách của cha mẹ. Họ đang nuôi một con mèo không biết bắt chuột, chỉ biết ăn, nằm ườn và ỉa đái tứ tung. Học bạ của hắn nhìn bết bát. Cứ học lại quên, bao nhiêu kiến thức vào đầu hắn là nhão nhớt thành nước lã. Người nhà hắn bàn rằng hắn bị đần độn do cú ngã đập đầu lúc bé. Tôi thuộc quá khứ của hắn hơn hắn. Người nhà nhồi hắn uống thuốc bổ não, đi khám thần kinh, mướn thầy giải hạn và ép hắn uống những bát thuốc của lang vườn nhiều đến mức hắn phải nhập viện vì ngộ độc. Khỏe lại, hắn vẫn thế. Vẫn vẽ vời linh tinh và vẫn đội sổ. Mấy ông anh họ hắn bảo Tương lai thằng này là cái sọt rác. Cha mẹ hắn có nói về trí khôn của hắn trước lúc ngã, bảo rằng hắn vốn thông minh. Cái thông minh của hắn là ăn ngon, biết gọi mẹ lúc đói, vòi vĩnh quà đi chợ và không đái dầm. Đôi vợ chồng kể lể, cười cùng nhau và trách cái cầu thang quá cao đã xô ngã con mình.
Bức tranh tay hắn tặng tôi qua đường chim bay đã tan tành. Đấy là khi tôi nhìn mãi không hiểu gì. Tôi gửi thư cho hắn. Một chiều mưa tầm tã, tôi nhận được thư hồi đáp. Trong thư hắn viết một chữ Đốt. Tôi không nỡ đốt, nhưng cuối cùng bức tranh cũng cháy. Lúc tranh cháy, bức tranh như được tái tạo bằng đường cọ sắc. Lửa ăn đến đâu, tranh rõ đến đấy. Trước kia cố nhìn thế nào tôi cũng chỉ nhìn ra một khối thù lù, lem luốc như dấu chân bẩn. Giờ đây, một bản lề khác ngoi lên, chấp chới, uốn lượn như vật sống. Lửa đã dẫn màu tranh và khoác lên chúng thứ nhựa tái sinh. Mọi hình ảnh xối phụt như nhát cuốc cắt trúng mạch suối. Nét tranh cuồn cuộn như thành phố chợt bừng tỉnh. Mắt tôi không rời được ngọn lửa, các hình ảnh như đang bay lượn trong đầu, giắt tôi vào chốn siêu thần. Lửa tàn, tranh chết thành tro. Thành phố lãng quên thức giấc rồi lịm đi, chết vào vĩnh cửu. Tôi thọc tay vào đống tro tàn, cố sục sạo. Không tìm thấy mẩu tranh nào, tôi gục xuống và ôm mặt khóc.
Tôi gửi thư báo cho hắn chuyện bức tranh. Thư trả lời của hắn viết rằng, Mày giết đi cái chết của bức tranh. Trong mày có thánh.
Hắn lại ngã cầu thang. Cú ngã cũng tại cái cầu thang dẫn lên tầng thượng. Hắn quên mọi chuyện kể từ sau lần ngã đấy. Tôi thì nhớ, đúng hơn, tôi thuộc nằm lòng. Mỗi một chuyện trôi đi, mỗi một ngày chết đi sau 24 giờ, sẽ thành quá khứ. Hắn ghét điều này, còn tôi thì thích thú nhai nuốt kí ức của người khác. Hồi ức của người là món khoái khẩu của tôi. Tôi nhai nhỏ, chậm rãi cho đến khi tất cả nhuyễn nhừ, và nhập vào cơ thể tôi. Hắn cho không tôi quá khứ của mình. Lần với đến một mẩu kí ức tròn vo như viên kẹo đường, tôi bỏ vào miệng. Tôi không nhai mà ngậm, lấy lưỡi vờn chơi. Thước phim về hắn. Tôi không nhìn thấy người bạn nào của hắn. Bọn cùng lớp hưởng thụ các trò vui của hắn, tiếc nuối khi hắn không đến trường và vứt hắn vào xó tối khi tìm được một thú tiêu khiển mới. Bài làm văn tả cô giáo, đọc bài nào tôi cũng thấy tiên nữ. Hắn tả cô giáo có bộ mặt choắt, tai dơi cùng mái tóc khô cứng màu cánh gián, lúc nổi nóng cô lấy phấn ném như quăng lựu đạn. Hắn bị tống vào xó lớp, ngồi một mình một bàn, một ghế. Hắn cô độc một cõi, và hắn tha hồ vẽ vời cho đến lần mời phụ huynh cuối kì về điểm học tập. Án lưu ban. Bạn cùng lớp ê ồ hắn, hắn thành nỗi ô nhục của gia đình máu mặt nhất Phố Cổ.
Lí do đần độn từ một cú ngã mất hiệu lực. Người nhà hắn mắng hắn té tát. Mắng chán, họ đánh hắn đến gãy thước kẻ. Cha hắn nhìn hắn như kẻ thù, chửi rằng Đồ quái thai. Mấy người lớn băm bổ vì hắn đã phá hoại danh dự gia đình. Mấy ông anh hắn học giỏi, nhiều bằng khen và đều là cháu ngoan. Hắn ngu dốt và hư đốn bậc nhất. Hắn chỉ ngã gục khi mọi vở vẽ bị đem bán đồng nát. Nhiều trang vẽ của hắn được tìm thấy trong sọt rác nhà xí. Tất cả đều nhăn nhúm, dính bệt những mẩu cứt vàng, đen. Lũ ruồi đánh chén cả lớp cứt bám lẫn giấc mơ hạ sinh trong hình vẽ của hắn.
Hắn tìm lên sân thượng. Đi lại chán chê, hắn xuống nhà. Hắn vấp cầu thang, ngã từ bậc thứ nhất của cầu thang tính từ trên xuống bậc thứ chín của cầu thang tính từ dưới. Lần ngã này hắn không lăn mòng mòng mà ngã thốc một lèo, trượt từ trên xuống. Lúc hắn húc vào bức tường chắn ở đoạn gấp khúc cầu thang thì bất tỉnh. Sau đấy hắn còn lăn thêm vài bậc nữa rồi mới tiếp đất. Cái đầu hắn cũng đập xuống bậc cuối cùng. Cú ngã này làm cơ thể hắn trầy trụa, bầm tím như cạo gió độc. Người hắn bầm máu nhưng đầu không chảy máu. Thời điểm này, cơ thể hắn đã cứng cáp, sẵn sàng cho tuổi trưởng thành nên thần chết đã tay trắng trở về. Người nhà hắn quên hết bực bội, túc trực bên giường hắn. Sau lần ngã này hắn trầm tính đi. Hắn không chào hỏi ai, không nói chuyện với ai. Đi học về, hắn chui vào phòng. Hắn đọc sách. Cái tủ sách từ thời ông nội, hắn lấy làm của riêng. Trong nhà không ai nói gì, trái lại còn mừng vì món gia tài thừa thãi đã có người chịu khuân. Đọc hết sách của ông, hắn tìm đến thư viện. Mắt hắn bớt tinh tường và mãn kiếp núp sau hai mắt kính dày lên theo thời gian.
Hắn ở Bắc, tôi mạn Nam. Tôi kính vua Gia Long, hắn nể đế Quang Trung. Tôi và hắn thư từ qua lại suốt. Chỗ tôi mưa dai dẳng. Chốn hắn ở mưa nắng thất thường. Tôi bảo hắn Nguyễn Huệ không phải chân mệnh thiên tử, đấy là kẻ đồ long. Hắn gật nửa chừng. Trên đời ai cũng là chân mệnh thiên tử. Ai nhận ra mình là rồng thì sẽ đồ sát mọi con rồng. Lời hắn, tôi còn nhớ. Tôi viết thư đến hắn Tây Sơn là phường giặc cỏ. Hắn hồi đáp tôi. Thời chiến, phe ngược chiến tuyến thì là giặc. Xiêm La là giặc, Đại Thanh là giặc, Tây Sơn là giặc, nhà Nguyễn cũng là giặc. Giặc bên ngoài là đại thù, giặc bên trong là cựu địch. Chính quyền không giết chóc là chính quyền rơm. Một lần khác, hắn nói chiến thắng là thứ hào quang càng nhìn càng mù mắt. Một dân tộc chỉ biết ợ nhai lại thì mãi dưới đáy giếng.
Hắn trầm tư, đôi mắt gần đó thôi mà xa xăm đến vô hồn.
Từ bao giờ, cha mẹ hắn luôn khép nép khi thấy hắn. Dường như lúc hắn vắng nhà thì cả gia đình đều dễ thở. Sách vở khiến khuôn mặt hắn sáng láng nhưng cũng khó gần. Tôi còn nhớ lần gia đình hắn đang tiệc tùng, hắn chợt nói to Ai cũng cười thì ai khóc. Gia đình hắn nháo nhác chẳng hiểu. Hắn mở toang cửa, nói to Ai cũng cười thì tôi đi khóc. Tiệc gia đình kết thúc tại thời điểm hắn chạy ra cánh cửa mở toang hướng ra bên ngoài. Một đám cháy đang ngùn ngụt phía xa, dân cư xúm lại xôn xao như ngắm pháo hoa. Bên cứu hỏa không ai nhấc máy. Khắp các cột điện, bờ tường công cộng dán thông báo cảnh giác, lệnh truy nã hoặc tin tìm trẻ lạc. Những cảnh báo leo khắp phố phường, bám nhan nhản muôn nơi như tự nhân bản. Đám trẻ lạc nhà rồi cũng về lại với gia đình, chúng, khi đấy là những cái xác không hồn bị rút mất nội tạng.
Hắn Bắc, tôi Nam. Tôi thư từ qua lại với hắn vào mỗi lúc rảnh. Tôi luôn đói kí ức, còn hắn sẵn sàng hiến cho tôi dù một phần hay toàn bộ quá khứ. Tranh của hắn hoặc sẽ mốc meo trong phòng tối, hoặc sẽ bị quẳng đi nếu treo trong triển lãm. Các bức tranh sệt màu ảm đạm, trắng loãng như con ngươi chết, nhiều khi hắn vẽ một cánh đồng gồm các đốt xương nối lại với nhau, các bàn tay xương dưới đất với tiếng gọi phía trên, mẹ tìm con, con tìm mẹ, đi qua nhau mà không biết, chỉ ngửi thấy hương ruột thịt. Nhiều bức chỉ có thể giải mã bằng cách ném vào lửa. Oái ăm là, thứ tranh hiện hình trong lửa sẽ mất giá trị nếu thâu hình. Máy chỉ rọi ra cảnh giấy tranh cháy trong lửa. Một quang cảnh vô vị, tệ hại còn hơn ngắm bắp ngô chín dần dưới lửa than hồng. Hắn hay ra ngoài, chỉ một mình và trở về nhà, cũng một mình trong căn phòng trống. Quanh buồng hắn cơ man biết bao nhiêu sách. Ngoài việc vẽ, hắn viết bài kiếm tiền. Nhà hắn bao ăn ở, còn tiền nong hắn tự lo, những món tiền đem lại bất an và phiền phức vì mỗi tháng các cán bộ phường lại bấm chuông nhà hắn. Các cán bộ bảo hắn đừng u uất nữa, viết cho đẹp đời. Chừng nào xác người không ngã xuống nữa thì đời đẹp. Lời hắn. Người nhà hắn nói trăn trở tối ngày thì tương lai con ở đâu trong mớ ngổn ngang như bòng bong. Nhìn xem, tuổi trẻ mà thân xác đã hoang tàn như ông già, ăn cũng trầm tư mà ngủ cũng trằn trọc đến mức phải chong đèn đến sáng. Ai bắt tội con nào. Có đáng gì, khi tự hành xác mình vì những chuyện không đâu. Phí phạm cuộc đời thế này thì ai cứu được con. Sau đấy, lời của hắn như chẻ tôi tiếng ruột già Nhìn thấy đồng loại đau, mà không thấy nhói thì loài người tuyệt chủng. Đôi mắt mất tiếng khóc là đôi mắt mù. Con người vốn là lí tưởng của Chúa. Đừng nghĩ rằng Chúa đã đày đọa giống người vì một trái trí tuệ, đấy là thử thách của Chúa. Lí tưởng này sẽ cứu thế giới, đe dọa thế giới hay đồng lõa với thế lực ma để diệt chủng, đưa Văn Minh về Đồ Đá. Tội ác lớn nhất của thế gian là con người. Nếu không chuộc tội, sẽ quay quắt trong ngu muội để rồi chết phí phạm trong tiếng nấc của Chúa. Con cầm bút vì nỗi đau đã gọi con làm thế, nếu con không còn biết đau, nghĩa là con đã chết, khi ấy hãy cho con một dao. Hắn đã nhượng phần kí ức này cho tôi. Và tôi nhai, nuốt trong sự buốt rát cuống họng. Như miếng thủy tinh nhiều cạnh sắc, tôi đã bật máu miệng, rách họng và tan nát ngũ tạng. Chính trong cơn quặn đau vật chất này, tôi nhìn được hắn. Có lần, hắn lấy kéo cắt rách mười đầu ngón tay, và vẽ trong cái đau run rẩy, quyết không đánh rơi bút. Tôi hỏi hắn sao phải khổ thế. Hắn bảo tôi Có đau hơn Chúa Jesu đóng đinh trên thánh giá? Tôi bảo Đâu thể so mình với Chúa. Hắn hỏi Chúa Jesu cũng là người? Tôi gật. Hắn tiếp lời Chúa Jesu là người, tôi cũng là người. Tại sao Chúa có thể chịu đau, mà tôi thì không. Tôi bảo hắn không thể hóa Chúa. Tôi chịu đau để hiểu Chúa. Tôi không là Kitô hữu, tôi là Con Người Hắn nói.
Bức tranh vẽ từ mười ngón tay bật máu được bày triển lãm. Người xem tranh nhìn qua rồi đi hẳn. Hắn khiêng bức tranh ra đại sảnh và châm lửa. Mười con rồng vươn mình trong ngọn lửa như gào thét. Người ở sảnh đường cứng đơ nhìn tranh cháy, và cứng đơ suốt một ngày một đêm cho đến khi ai nấy ngã đo đất vì kiệt sức. Một xe cứu thương được điều đến. Lúc tỉnh lại, họ trốn khỏi bệnh viện, tri hô cứu cái đẹp. Tôi không biết họ còn sững sờ vì bức tranh bị cháy hay vì cách hắn đốt bức tranh.
Cha hắn bảo rằng thiên tài của gia đình là thiên tai của dòng họ.
Mẹ hắn bảo, không phải con mình. Nó là ai chứ không phải con mình. Con mình không thế. Con mình…Con mình…
Sau cú ngã, hắn lạ lẫm với mọi ai từng biết hắn. Tôi bảo rằng, còn muốn về lại không? Hắn bảo rằng đã quên đường hậu. Tôi quên khuấy, quá khứ của hắn đã sạch trắng trong ruột tôi. Hắn quên, còn tôi nhớ. Có lẽ, tôi đã là hắn một lúc nào đấy.
Hắn ngoài Bắc, tôi gần Nam. Chỗ tôi hay mưa, chỗ hắn đang mưa to. Hắn viết cho tôi Chúa đang xót xa cho cả hai miền. Tôi thấy hắn đi dưới trời mưa. Cơn mưa đủ lớn để tạo lụt và cuốn hắn đi. Không ai đánh hắn, hắn tự đánh mình và mượn sự xối xả của trận mưa như cái roi quất vào thân mình bầm dập.
Người ta bảo hắn là quái nhân. Người nhà bảo hắn là quái thai.
Hắn lên cầu thang tầng thượng.
Hắn không cho tôi phần kí ức nào nữa. Mọi lá thứ bay vào khoảng không, liền vô tăm tích. Tôi còm cõi, xác xơ, kiệt quệ như xác khô. Tôi không đói, tôi thiếu thốn và thấy trống rỗng bên trong.
Tôi hướng Bắc tìm hắn.
Nhà hắn đóng dấu niêm phong. Dân quanh đây bảo cả gia đình đã chuyển đi. Cuộc chuyển nhà nhanh chóng, khẩn trương như chạy giặc. Đất Bắc chỉ thế này. Tôi về lại cố đô. Trước lúc đi, tôi nghe thấy tiếng người sau cánh cổng niêm phong nhà hắn.
Tiếng leo cầu thang, vấp ngã. Ai đang sau cánh cổng

TRU SA

Chân Không

trusa
Chúng đang tiêu đi.
Nhà của tôi. Cái cơ ngoai sáu tầng, với vườn tược, bể bơi, những gian kiến trúc Tây Âu, phòng để sách, rượu, đồ cổ…biến mất dần như bị nung chảy. Cái bể cá ở phòng khách đã không thấy nữa. Cũng trong phòng khách, tôi không còn thấy cặp sừng voi Tây Tạng, bộ lông Bạch Hổ trải lót sàn. Những chai rượu rắn hổ, bò cạp rỗng ruột. Một ít chai thì còn lưu lại một mẩu da rắn, hoặc một, hai cái chân rết. Nửa giây khi con mắt tôi nhìn vào, số tàn vật biến mất. Một ngày sau, tôi không vào được phòng khách vì cái cầu thang uốn hình xoắn ốc đã bị tiêu mất. Chỉ còn lại một khoảng trống lớn và xa giữa nơi tôi đứng và phòng khách. Tôi đoán rằng cũng chẳng còn gì thừa lại trong phòng khách. Mấy ngày trước tôi không còn nghe thấy tiếng xòe đuôi của con công trắng mua từ Pardubice. Con công vẫn ngoài vườn. Vẫn đi lại, vẫn ăn được thóc ngô, uống được nước. Nó không xòe đuôi nữa vì bộ lông vũ đã trụi sạch. Con công đi lại, ngúc ngoắc cái đuôi cụt ngủn trong bất lực. Đám giúp việc nhà tôi chẳng còn ai. Bọn chúng hoặc xin nghỉ, hoặc đã lén lút trốn mà không cần nhận tiền công. Một vài đứa hỏi tôi về bạn của mình. Tôi nói không biết. Lúc này đây, vách tường phòng đồ cổ bị khoét một lỗ lớn. Dưới đất không thấy vỏ tường, bụi dính lại. Nó đang bị tiêu đi.
Đứng bên ngoài nhìn, nhà của tôi vẫn vậy. Còn khang trang, rộng lớn, toát vẻ khí phái. Tầng bốn đã bị tiêu hết. Chẳng còn tường, nóc hay mặt sàn. Lúc mở cửa phòng, chỉ thấy một khoảng không rỗng hoác. Từng có lần tôi vấp ngã và lộn cổ xuống tầng dưới. May sao tôi ngã đúng vào cái đệm. Tôi không biết nhà mình bị thế từ bao giờ. Thoạt tiên, tôi chỉ thấy mất đi mấy món đồ cổ, chậu hoa cảnh. Rồi những vật dụng mất đi. Phòng tranh ở tầng bốn chỉ còn trơ khung. Sơn dầu, Phố Phái, Dã Thú rồi Salvador biến mất một cách quái lạ. Tôi không nghĩ là có trộm vì camera vẫn hoạt động. Mở các đoạn phim, tôi được thấy tường tận. Một trong các đoạn phim ghi lại việc cái bình gốm thời Gia Long biến mất. Cái bình trong tủ kính chống đạn, có khóa mật mã. Không thấy một bóng đen khả nghi. Rồi thì, chiếc bình tan đi một nửa. Một chốc sau, nửa còn lại cũng tan biến theo. Thước phim được chiếu đi chiếu lại cả chục lần. Và vẫn thế. Từng món đồ cổ đều tan rữa vào hư không theo cách như vậy. Sau này, tôi không xem lại phim trên camera. Những món đồ đã bị cái gì đó hút mất ư? Không có một tên đạo trích nào. Tôi nghĩ về một loại mối phàm ăn có bộ hàm thép đang trú ẩn nơi nào đó trong nhà. Đoạn phim trên camera đã xóa bỏ giả thiết đấy. Không có con vật nào. Chỉ có sự tiêu biến vào cát bụi.
Vách của từng phòng bị mòn đi và tiêu biến mất. Cái bể bơi bị rút cạn nước, khu vườn sau nhà cũng trơ trụi như mả đất hoang.
Tôi phải đi rất cẩn thận vì bất cứ lúc nào cũng có thể mắc chân vào một lỗ thủng dưới sàn. Vết hổng đấy nhỏ thì chân tôi bị tụt xuống, lớn hơn thì nửa người kẹt lại như sa xuống đầm lầy. Những vụ tiêu biến vô tăm tích vẫn như vậy. Kéo dài, và thường xuyên như một thời gian biểu. Tôi gọi một số người đến chơi. Bọn họ được tôi kể về cái nhà mình. Chẳng ai tin. Lúc nói về những hốc thủng quanh nhà, họ cười và bảo tôi có sở thích quái gở. Ngày hôm sau, đám người đã đi đâu mất. Gian phòng nơi đám người ngủ qua đêm, đã bị tiêu đi mất. Bên ngoài nhà vẫn thế. Thật quái lạ khi nhiều tầng nhà đã bị tiêu đến mức trở thành một cái khung. Vậy mà nhà tôi chưa nghiêng, chưa sập chỗ nào. Nhìn vẫn rất vững trãi.
“Từ lúc nào?” – Tôi tự hỏi, tự nói, rồi trả lời bằng chính câu đấy. Tôi nằm ở tầng một, và nhìn thẳng được lên tầng ba. Sàn đá hoa bị thủng lỗ chỗ. Không một viên gạch nào rơi xuống, cát cũng thế. Nhìn những góc tủ bị gặm thủng, còn chẳng thấy mạt gỗ hay mùn cưa. Đường ống nước, điện đóm vẫn ổn định. Lúc mở vòi, nước vẫn chảy. Thoạt tiên nước chảy bé, rồi chỉ vài giọt rỉ ra. Mở vòi cả ngày, số nước rỉ còn chưa làm đầy một bát cơm. Đường ống không trục trặc gì, chỉ là vặn không ra nước. Tôi đoán mạch nước ngầm nhà tôi bị ứ đọng, hoặc thoát đi đâu đấy. Có thể lắm, nếu nghĩ số nước ngầm đã tiêu biến, như nhà của tôi giờ đây. Ánh sáng có thể đi qua một lỗ nhỏ trên tường và dùi đến tận móng nhà. Nếu tôi nằm, ánh sáng sẽ đâm thẳng và lột con mắt đang khép lại của tôi bằng luồng nhiệt nóng bỏng. Mười hai giờ trưa, nhà tôi như một cái lò lửa. Vô vàn tia nắng đâm xen kẽ nhau, kéo vào nhà. Vì chẳng còn vật dụng nào nên tia nắng chiếu thành đường thẳng, từ nóc tầng sáu xuống nền tầng một. Tôi bị bủa vây bởi các đường sáng. Nắm lấy một viên gạch lót nền để đội lên đầu thay mũ. Một tíc tắc, viên gạch tan mất như bọt xà phòng.
Tổng thể nhà vẫn vững như bàn thạch. Tường nhà lõm sâu như dính phải Acid đậm đặc. Lần này tôi thấy rõ, sự bào thực rất nhanh và theo từng khắc. Cái két của tôi đã bị tiêu hết sắt thép, nắm kéo cửa. Ngay đến một cái đinh ốc cũng chẳng rớt lại. Riêng số đô la, vàng, tiền mặt và cổ phiếu là còn. Thế cũng là may vì tôi có thể mua nước, đồ ăn hay cái ra giường để nằm tạm dù biết chắc chúng sẽ tiêu biến đi.
Tường nhà mỏng tang như làm bằng giấy. Một mũi kim nhỏ cũng có thể đâm xuyên thấu tường nhà. Chạm tay vào, toàn thể nhà ngả nghiêng. Một cơn gió nhỏ cũng có thể cuốn nhà tôi sang phương Bắc. Ấy thế mà nhà tôi vẫn chưa bị kéo sập, chưa bị thổi mất dù lúc này nó chỉ còn là một cái khung rỗng. Mái nhà chưa tiêu mất. Nó còn lồ lộ trên đầu tôi, nhưng nếu có nắng, có mưa thì tôi chẳng tránh đâu được. Lúc sấm sét, tôi cảm thấy như bị đánh ngay bên tai. Tôi còn nhìn thấy ánh sét ngoằn ngoèo in trên mái nhà. Hệt như vốn trên mái đã có hình vẽ ánh sét, và vô tình luồng sét đánh đấy ướm đúng vào hình vẽ. “Mái nhà làm bằng thứ nguyên liệu trong, bằng phalê, thủy tinh siêu bền hoặc băng hàn ngàn năm…” – Tôi tự lẩm bẩm nhiều lần để sáo ngôn ăn thẳng vào trí não, trở thành tượng hình. Dù thế, nửa não bộ của tôi vẫn biết mái nhà được làm bằng ngói, bê tông loại một.
Nhân viên đưa cơm đến nhà tôi. Hắn chưa kịp lấy tiền hàng thì nửa bên người của hắn bị ăn cụt vào khoảng không. Chẳng có máu, thậm chí nửa còn lại chẳng còn lộ ra xương, thịt đỏ hay ngũ tạng. Phẳng lì, nhẵn hín như mảnh giấy. Tôi nhét tiền vào tay bên kia. Tập tiền rơi xuống. Nửa còn lại bị mòn dần đi. Và trước mắt tôi là cái đầu với một mẩu cổ lơ lửng. “Này!” – Tiếng gọi quá muộn. Cái đầu cùng mẩu cổ tan phụt đi. Thùng đồ ăn đóng hộp, nước khoáng lăn lóc dưới nền đất đã tróc hết gạch. Tôi cúi nhặt. Vì quá đói nên tôi chẳng buồn tìm bát hay đũa. Tôi bốc ăn. Mỗi chai nước, tôi nốc cạn bằng một hơi.
Tôi gọi cho siêu thị để mua thêm hàng vì số thức ăn còn dư không thấy đâu nữa. Tôi ăn chưa hết. Chúng bị tiêu đi rồi.
Vào đúng giờ đấy, cả một đoàn người nối thành hàng đi vào nhà tôi. Cũng như tên nhân viên nọ, bọn người này không lấy được một đồng nào của tôi. Từng kẻ bị tiêu biến cùng lúc. Ngay cả khi bọn họ chen chúc nhau và làm cửa ra vào như muốn vỡ tung ra, thì cũng chỉ mất vài giây để tiêu biến mất. Họ như những nét mờ vẽ từ bút chì, bị một cái tẩy loại tốt chà vào là trắng xóa. Mười thùng đồ hộp, mười thùng mỳ gói, hai mươi thùng nước. Lúc đếm lại, tôi thấy mất đâu ba thùng. Đếm một lần nữa, chỉ còn đúng mười thùng, cả nước lẫn đồ ăn.
Tiêu biến.
“Chó thật!” – Tôi ăn nhồm nhoàm, phồng cả hai má, thậm chí chẳng thèm bóc vỏ. Nhiều khi, tôi gặm một mẩu mỳ sống và phải nhổ ra bằng hết. Trong miệng tôi, chỉ là vỏ gói mỳ. Đến gói phụ gia cũng chẳng có. Mở chai, thì nước cũng bị tiêu cạn đi. Gạch nhà đã chẳng còn một viên. Chỉ còn cát vữa, và hàng chục chồng ngoại tệ, vàng thỏi và thẻ tín dụng. Số của cải dày đặc, lớp này chồng lớp kia và ngổn ngang quanh tôi. Tôi không nhai được thứ nào.
Tôi ở tầng một và nhìn lên tầng trệt. Mọi kiến trúc nhà đã bị chảy thành bọt khí. Đến mấy bậc thang để bước lên, nhằm bám nhảy lên tầng trên cũng không còn. Nhìn ra ngoài. Không thấy vườn, bể bơi hay hàng rào. Mọi vật trơ trụi, tan tác như vừa trải qua địa chấn bom và bị sa mạc hóa.
Tranh ảnh, giấy báo, sách vở hoặc một bộ áo quần để đắp lên người thay chăn cũng không còn nữa. Người tôi lem luốc và hoàn toàn trần truồng. Đói, khát, và vẫn sống khỏe re. Đi lại trong nhà, lúc nào tôi cũng vấp chân phải một miếng vàng, bó đô la và ngã sõng soài.
Miếng đất ngoài vườn chẳng gieo nổi mầm cây nào. Đến một nhánh cỏ dại cũng chẳng thấy mọc. Không còn mạch nước dưới đất. Dưỡng chất từ đất có khi cũng bị tiêu cạn. Long mạch nhà tôi đã vỡ, hay bị cái gì đấy ăn nhẵn. Cái gì đấy, đó là gì, cái thứ chó đẻ nào, thứ ngoại lai với cái miệng tổ bố…Điều gì đã ăn tiêu đất tổ nhà tôi. Người vợ của tôi đã bị tiêu đi từ lâu. Đứa cháu tôi cũng thế. Bọn người làm, rồi đám bạn hữu của tôi…Cũng tuần tự bị ăn tiêu như vậy. Bọn họ hoặc bị tiêu liền theo phần nào đó trong nhà, hoặc bị bã ra ngay trước mặt tôi. Tôi thò tay, và không cứu được. Những người đấy, như một cốc nước bị nung dưới ngọn lửa trăm độ. Hóa hơi dần dần. Và hóa hơi hoàn toàn. Chẳng còn gì ở họ, ngoài những ký ức đang dần chết đi vì sự suy yếu trí nhớ lúc tuổi già. Tôi không bị tiêu. Tôi sống sót. Chỉ mình tôi còn lại và tạm bợ trong cái lõi nhà bị tiêu rỗng đến tận đáy.
Miếng nước hãn hữu còn sót lại trong mảnh sành sau cơn mưa. Tôi văng mạng, chửi thề, chửi lớn, chửi to và nguyền rủa, cũng thật to. Điện đóm chẳng còn nữa. Bấm máy điện thoại, còn không nghe thấy tiếng tút tút. Nhà tôi. Ngày cũng như đêm. Chẳng sáng, chẳng tối. Trông loạng nhoạng, lòe nhòe. Chả ra âm mà cũng không ra dương. Nhìn lên, vẫn thấy mái nhà. Nhìn từ ngoài, vẫn thấy sừng sững cái cơ ngơi hoàng kim của nhà tài phú hào hoa – Tôi.
Không còn gì để tiêu.
Tôi chỉ tay. Chỉ thẳng ngón tay. Chỉ phía này, phía nọ, bên này, bên kia. Tôi lại nguyền rủa, rồi tôi cười. Tôi đi lại, đạp vào tường, chẳng đổ. Dẫm xuống đất, cũng chả lún thêm. Vàng, đô la, ngoại tệ vẫn lúc nhúc dưới chân tôi. Chúng nhiều lên phải không? Bới chỉ thấy tiền vàng. Những khối vàng, hàng tầng lớp đô la, khế ước luôn bền bỉ theo thời gian và chẳng tiêu biến dù tôi có xé nát, đập vỡ hay nuốt vào bụng. Không có ai ở đây cả. Bửa đầu mình, tôi mơ hồ nhìn thấy họ. Rồi từng dư ảnh bị nhai cụt. Nghĩ, thấy, rồi bị tiêu đi. Lại nghĩ, lại thấy, rồi lại bị tiêu. Tiếp tục nghĩ, tiếp tục thấy, rồi tiếp tục bị tiêu…
Tôi múa máy, chân vấp vào khối tài sản kếch xù không cách nào xóa sổ. Vấp ngã, tôi lăn lộn và rơi tõm xuống tầng tầng lớp lớp tài sản. Chẳng còn nhà cửa, đất đai gì sất. Tôi ngoi lên, rồi vấp khi nhoài người. Giờ đây, tôi sẽ múa máy đến lúc kiệt quệ. Biết đâu chừng đó thân thể tôi sẽ tiêu biến. Tôi sẽ gặp lại những gì mình từng có và đã đánh mất trong cuộc đổi trác quỷ không biết thần chẳng hay. Tôi sẽ quì gối cùng ước mong được trừng trị, dù từ một xà gỗ đủ chắc chắn để tôi cheo leo cùng sợi thừng.

Tru Sa

Tháo Mắt

trusa

Gửi Gánh Sách Rong

Một tấm cản. Thứ chướng ngại luôn rào bước mỗi lúc tôi muốn tìm vào sâu hơn trong nàng. Phải, nó đấy : Cái kính.
Cái kính án ngữ trước mắt nàng. Hẳn thế rồi, vì nàng đeo kính. Trên mặt nàng lúc này là một cái kính mắt vuông. Gọng kính Lacoste nâu sẫm phù hợp với nước da trắng của nàng. Đây chỉ là một gọng kính trong số hàng lố những gọng kính nàng trữ trong tủ. Trừ tròng mắt thủy tinh trong, còn thì gọng kính nàng thay thường xuyên. Dường như nàng không mua sắm gì ngoài những gọng kính. Mắt kính nàng vẫn thay đổi để khớp với gọng. Chỉ cần một cuộc hẹn đến phòng khám mắt. Chiều đến, nàng về bên tôi với một mắt kính hoàn toàn mới. Tôi không có thành kiến nhiều với những cái kính. Một cặp kính vừa vặn trước mắt sẽ phủ thêm hào quang. Kính mắt không mang lại tri thức, nhưng đeo kính sẽ tạo thêm quyền lực. Một ông thầy mắt lành luôn mất điểm trước ông thầy đeo kính. Dù học vấn ngang nhau, người đeo kính vẫn luôn có lợi thế về hình thức.
Tôi từng đọc được câu chuyện một kẻ luôn mê mẩn những phụ nữ đeo kính. Hắn sưu tập đủ hình ảnh người mẫu đeo kính. Tranh ảnh, áp-phích, tạp chí play-Boy, ảnh cắt trên báo. Trong máy tính của hắn có đến một nghìn ảnh nữ đeo kính với mọi tư thế. Nếu truy cập các Wed khiêu dâm, ưu tiên hàng đầu của hắn luôn là phim có nữ chính đeo kính. Hắn vẫn thường rình mò ở các phòng thẩm mỹ, vệ sinh công cộng, nhà tắm tập thể để nhìn trộm những cô nàng mắt kính. Những cuộc nhìn vụng trộm thế luôn làm hắn thất vọng vì trừ lúc ỉa đái, chẳng cô nàng nào tắm mà vẫn đeo kính. Niềm say mê của hắn ngày một mạnh. Trong một cuộc triển lãm tranh quốc tế về chủ đề Cái Đẹp Nữ Quyền, hắn đã đập, xé mọi bức tranh chỉ vì không thấy người con gái nào đeo kính. Và rồi, hắn cưới một cô gái mù với cặp kính trắng luôn thường trực trên sống mũi…
Tôi bảo nàng “Em có thể bỏ kính một lúc không?”
Nàng lắc, và nói “Tại sao chứ. Em cần phải đeo kính.”
Cái kính vẫn trên mắt nàng. Thứ mắt kiếng thủy tinh trong làm nàng quý phái, nhưng chính nó đã cản tôi thâm nhập vào đôi mắt nàng. Tôi biết rằng nàng cận không nặng. Những tròng kính nàng đeo luôn mỏng như nhau. Miếng kính mỏng tang như vỏ bánh trứng. Cả hai mắt kính mỏng đều nhau, và cũng trong suốt như nhau. Nàng chẳng cận quá một độ. Việc nàng tránh phải tháo kính chắc vì thâm niên cận thị của nàng. Đôi mắt cận nhẹ dù nhiều năm chưa hẳn sẽ dại nhưng chẳng còn trong và khỏe khoắn như bình thường. Đấy là điều nàng lo ư, khi phải nheo mắt nhìn bạn đời.
*
…Hãy bỏ kính một lần, để anh được nhìn vào mắt em. Đã quá lâu rồi, anh chưa được nhìn đôi mắt trần của em. Một cái nhìn. Sẽ chẳng hệ trọng gì. Thiếu cặp kính, hẳn em không nhìn rõ anh nhưng hãy để anh thay ánh sáng cho em. Một chốc thôi. Anh muốn nhìn vào đôi mắt em, và tìm kiếm khuôn mặt mình. Chính anh. Chứ không phải tên đàn ông lạ khác.
Tôi không ít lần nói vậy. Nàng chẳng gật, hẳn rồi. Từ lâu cái kính đã là vật bất ly thân của nàng. Chưa khi nào nàng bỏ nó ra. Ngay cả khi kính bẩn vì bụi bặm và mưa. Những lúc thế, nàng lấy khăn lau mặt trước kính, rồi quấn khăn vào ngón út, luồn lau mặt sau. Khá mất thời gian nhưng rồi hai tròng mắt cũng sạch. Trong những giấc ngủ, ngắn hay dài nàng vẫn không bỏ kính. Nàng nói mắt nàng không tốt ngay cả trong lúc ngủ, nếu thiếu cặp kính nàng sợ sẽ lạc đường vĩnh viễn trong giấc mơ. Tôi chẳng tin, thế nhưng tôi vẫn nghe và gật. Lúc hôn nàng, tôi luôn phải nghiêng đầu. Những cuộc hôn chỉ dịu nhẹ từ mũi trở xuống. Chưa một lần đầu tôi và nàng ghì hẳn lên nhau, mắt chìm vào mắt. Tôi hoàn toàn tự do với phần thân thể từ đầu trở xuống của nàng. Loài đàn ông luôn vậy, khi lột hết áo quần người tình thì sẽ chỉ chăm chú vào bộ vú và hạ bộ. Cái đầu bạn tình sẽ bị đánh quên, hoặc chỉ ngấu nghiến ở phạm vi vòm miệng. Tôi khác. Tôi cần đôi mắt nàng. Và, chẳng bao giờ nàng thỏa tôi cả. Những lần phối ngẫu, nàng dâng tôi tất cả trừ cặp kính trước mắt. Vậy nên, tôi có cuồng điên mấy vẫn không được tì lên kính. Chính điều này, dù tôi đã rưới được vào trong nàng nhưng chẳng thể coi là cực khoái. Như đã nói, tôi cần cặp mắt nàng. Dõi thật sâu vào đáy mắt nàng, để ngắm nghía khuôn mặt mình. Mắt nàng chẳng to lắm, nhưng vẫn đủ để tôi thấy dù lờ đờ bóng mình. Lúc này đây, tôi muốn thâu tóm trọn vẹn tâm hồn nàng. Chỉ cần đi được vào mắt nàng, bước từng bước sâu để bóng ảnh mình hòa tan vào đấy. Tôi sẽ chiến thắng cả thần Cupid.
*
Đôi mắt nàng nằm khuất sau tròng kính thủy tinh.
*
“Để anh nhìn đôi mắt em, một lần nào.”
“Anh vẫn nhìn thấy mắt em đó thôi.” – Nàng nói, rồi vuốt ve mai tóc tôi.
“Đôi mắt sau kính em kìa.”
“Vẫn chỉ thế thôi anh. Tròng kính đâu có xước, mờ đến nỗi anh không thấy mắt em.”
“Mắt em đang hấp háy. Những này, hãy để anh dõi vào để thấy mặt mình.”
“Em đang nhìn anh, đồng tử em chỉ lưu hình anh.”
Nàng đẩy cao cặp kính. Nụ hôn lứa đôi vẫn nghiêng nghiêng. Tôi chẳng biết cái gã quái gở thích thú đến đâu khi hôn cô gái mù. Hắn sẽ tháo kính nàng ta, hay cũng hôn nghiêng đầu, hoặc hắn ấn mắt hắn vào mặt kính lạnh. Trong album, máy ảnh và Facebook có đủ kiểu ảnh về nàng. Luôn là cặp kính trước mắt. Loại kính gọng đen, xanh, tím than, gọng vuông, tròn, bầu dục…Đủ hết. Phóng to các bức ảnh, tôi chẳng tìm thấy hình gì nơi tâm mắt nàng. Rõ ràng mỗi khi bấm máy nàng đều nhìn tôi. Nhiều bức, do ngược sáng, bị lóa nên chỉ chụp ra cặp kính trắng muốt như sáp nến.
Mỗi ngày, tôi đều ve vuốt thân thể nàng. Chỉ riêng đôi mắt nàng tôi chưa chạm vào. Tôi có thể vuốt vào hàng lông mày nhỏ, ngắn của nàng. Riêng các lông mi nhỏ như lông bàn chải loại mềm là tôi chưa được chạm. Ngay đến việc đầy hào hứng là miết chậm ngón tay qua khóe mắt nàng và cúi sát mặt để đắm chìm vào viên ngọc trai đen, tôi cũng chỉ thử trong tưởng tượng. Tròng kính thủy tinh trong chắn lì trước mắt nàng. Loại mắt kính quá trong, phẳng và nhẵn mịn như lớp băng kết mặt hồ.
*
“Em còn cất giữ ai trong mắt thế?”
“Anh sao vậy? Bộ phim giả tưởng nào đang trong đầu anh thế.”
“Chẳng phim ảnh nào cả. Chỉ là đôi mắt em thôi. Ngoài anh, còn thứ gì trong đấy không?”
“Anh không tin em sao.”
“Đương nhiên có, nhưng anh vẫn muốn thấy nó. Cái mặt của anh.”
“Anh vẫn thấy đấy thôi.”
“Lý do gì mà em không bỏ kính, để anh tìm mình trong đấy.”
“Thôi nào, em sẽ loạng choạng nếu thiếu cặp kính. Anh biết không, em chẳng muốn thấy anh mờ đục đâu.”
Cuộc thoại kết thúc ở đấy. Tôi nghĩ ngợi. Thế rồi tôi ngủ gật. Tỉnh giấc, tôi quả quyết phải thấy được đôi mắt nàng.
…Còn ai nữa trong đáy mắt nàng nếu không chỉ là tôi.
*
Cốc café nóng tôi pha riêng cho nàng. Uống nửa cốc, nàng bảo rằng buồn ngủ. Nghiễm nhiên nàng đã ngủ một giấc say trên giường. Tôi chỉ chờ thế.
Lần này, nàng sẽ không đủ tỉnh thức để tóm, và gạt tay tôi. Mắt nàng nhắm nghiền sau lớp mắt kính thủy tinh. Giờ, tôi sẽ tháo bỏ nó, để tiếp cận đôi mắt nàng. Phần đuôi của gọng kính cong, uốn vào màng tai nên tôi phải vất vả để gỡ ra. Xoay trái, rồi xoay phải. Nàng đeo kính chặt vào sống mũi, nên tôi phải dùng sức. Một lúc, tôi đã lấy được cái kính ra. Mắt nàng vẫn khép lại, rất chặt. Mắt nàng dù đã nhắm, con ngươi vẫn lồi lên như hai viên bi. Nắn vuốt, tôi vỗ mặt để nàng dậy. Mắt nhắm, tôi lay mạnh, nói to dần vào tai nàng. Tôi lại quên cốc café rồi. Nhưng chỉ lúc này thôi. Cơ hội của tôi.
Tôi vạch mắt nàng lên. Da mắt nàng dính quá sâu. Tôi loay hoay, rồi vã mồ hồi. Cơn nóng nực cùng sự nôn nóng đã thiêu cạn sự tỉnh táo trong tôi. Lúc này, đỉnh đầu tôi như có khói bốc lên. Mắt dại hẳn và mờ hẳn. Câu chuyện về kẻ cuồng say phụ nữ đeo kính nối đoạn trong đầu. Phần tiếp sau, kể về cô gái mù đã chạy trốn khỏi hắn sau khi ném chiếc kính đi. Cô nàng mắc chứng Amaurosis Fgax cả hai mắt. Giờ, ánh sáng trở lại và cô đã đi theo lối có đèn. Hắn, không chịu nổi sự phản bội này nên đã tóm cổ cô gái và cầm tù cô vĩnh viễn vào cặp mắt kính. Đôi mắt nàng vẫn ẩn quá sâu dưới da mắt. Tôi cần phải soi. Vì mồ hôi vã nhiều, làm ướt cả đầu tôi thêm rối trí. Loay hoay, tôi chọc hai ngón tay vào một bên mắt nàng. Ngón tay ấn mạnh, rồi đục xuyên. Con ngươi nàng bị móc ra như nhẩy ốc. Con mắt nằm lẫn cùng vũng máu. Tôi đã cướp mắt nàng, hệt như hắn thổi tắt ánh hải đăng của cô gái. Nhìn vào tròng đen, tôi không thấy gì hết. Chẳng một bóng ảnh nào bám lại, dù mỗi mặt tôi ghé vào. Thế rồi, tôi đã lóc con mắt còn lại của nàng. Tôi móc thật nhanh, thuần thục như đã kinh nghiệm. Hai con mắt nằm trên lòng bàn tay. Tôi đã nhìn vào từng con mắt. Rõ ràng chúng còn tươi nóng, và còn trợn trừng. Tuyệt chẳng hình hài gì in lại. Tôi khều, rồi nắn. Chợt nghe tiếng “Rắc” tôi ngỡ mình đạp phải miểng kính. Quá nóng vội, tôi nắm chặt bàn tay. Lúc xòe ra, hai con mắt đã nát nhão, lẫn cả vào nhau. Không còn tròng đen, trắng. Chỉ một thứ bầy hầy như đất sét vùi chung máu.
“Thấy gì chưa.”
Tôi nhìn quanh. Tiếng nói từ nàng. Hẳn nàng đã thức dậy. Tôi luống cuống. Miệng lắp bắp và không biết biện minh thế nào cho hành động điên rồ của mình. Hai hốc mắt nàng cạn dần máu và trơ ra đen ngòm. Tôi tính đi giật lùi, thế mà lại tiến về phía nàng. Chỉ đợi thế, nàng tóm chặt tay tôi.
“Đố thối tha, nhìn tôi xem.” – Tôi rùng mình vì giọng của nàng.
“Anh…Anh…”
“Anh thỏa mãn chưa. Đã tìm thấy chưa.”
Nàng kéo mạnh tôi vào giường. Đôi tay nàng áp hai bên má. Mười đầu ngón tay nàng bấu lấy da mặt tôi. Mắt tôi chạm hốc mắt nàng.
“Nhìn xem, đồ thối tha.”
Giọng nàng đay nghiến. Từ trong hốc mắt hoăm hoắm, tôi nhìn thấy một bóng mờ đỏ. Lúc nàng dí mặt sát kề, tôi nhìn thấy rõ hơn. Cái mặt trong đấy nhác giống tôi và gớm ghiếc hơn tôi. Lúc này tôi quá hoảng loạn, còn kẻ trong hốc mắt thì bình thản và tỏ vẻ đang thích chí dù không cười. Tôi đứng thẳng còn hắn đứng lộn đầu như đang treo ngược. Tôi nhợt nhạt còn hắn đỏ au ảu như con dơi vừa liếm no máu.
“Tìm đi, đồ thối tha…”
Nàng gào lên. Nàng cười, vống cao từng trang như tiếng sói tru. Tôi chưa thể thoát khỏi vòng tay nàng. Tôi chưa tưởng ra đôi bàn tay búp măng lại có lúc nhiều sức mạnh đến thế.
*
Nắng xối qua cửa sổ, đổ chồng thành như mái đình quện vàng vàng. Tôi nhíu mắt, rồi mở mắt từ từ. Sau mắt trái là mắt phải. Do chưa quen với nắng chói, tôi úp mắt vào hai lòng bàn tay và nhìn qua các khe ngón tay.
“Anh chịu dậy rồi sao?” – Giọng nàng lọt từ phòng trong.
Tôi ngồi trên giường hồi lâu, đợi hồi tỉnh hẳn.
“Anh ngủ li bi mấy ngày liền đấy.” – Nàng lại nói.
“Anh có một giấc mộng kỳ quặc.”
“Kỳ quặc thế nào vậy anh.”
“Chỉ là…À…Vớ vẩn thôi em…”
Tôi dậy, và vào với nàng. Tôi muốn ôm, và hôn nàng. “Khoan đã.” – Nàng bỗng nói to. Rồi bảo tôi đợi ở ngoài.
“Em đang thay áo quần đấy ư? Anh có thể giúp em đấy.”
“Ồ không, em đang lựa kính. Em không biết mình đã từng mua loại kính nào màu tối không nữa. Mắt em hơi đỏ, chắc là bị đau mắt. Em sẽ vạ lây anh đấy, nên giờ phải tìm một cái kính khác.”
“Mắt em thế nào?” – Tôi hỏi, và thấy bồn chồn.
“Mắt em đỏ. Triệu chứng đau mắt đỏ, hoặc mắt hột hay gì đấy đại loại vậy. Chốc nữa nữa em sẽ đến viện mắt trung ương.”
Nàng vẫn phòng bên kia. Tôi đứng phòng ngoài. Chân cứ ì một chỗ. Tôi nghĩ về đôi mắt nàng. Sau đấy, nàng ra ngoài bằng cửa sau. Chiều, nàng về với một cặp kính râm trước mắt. Vẫn loại tròng thủy tinh nhưng đủ thẫm màu để không ai thấy đôi mắt nàng. Tôi và nàng làm tình vào cuối buổi chiều. Cặp kính không rời mắt nàng. Tôi đã lả xuống và không phóng tinh.
Tôi không chạm vào cặp kính của nàng, dù một ngón tay. Mắt nàng đang bệnh và cần cách ly, chưa biết bao lâu. Cũng lúc này, tôi tìm thấy trong nhà nửa cốc café uống dở. Café nguội ngắt, và mù đen vì để lâu.
*
…Phần sau chuyện kẻ mê nữ đeo kính tôi chưa được biết. Đoạn sau, là tiếp nối hoặc là phần kết của câu chuyện. Sẽ thế nào đây? Tôi nghĩ ngợi. Tôi vò đầu và nhấp từng ngụm café. Một lúc, tôi thấy ngái ngủ.

Tru Sa

TIẾNG CHUÔNG

trusa

Tôi và Đán đã tìm được chỗ nghỉ chân tạm thời. Đấy là một thị trấn nhỏ. Nền công nghiệp vẫn chưa hoàn toàn khống chế nơi này nên tôi có thể yên tâm với các lọ nước mắm, cá tươi không dán bao bì. Nơi đây chưa có internet, sóng điện từ nhiễu thường xuyên nên tôi không cách nào để liên lạc với những người còn lại trong nhóm. Dân phượt chúng tôi thường không mang nhiều tiền trong người nên việc ở lại thị trấn quá lâu sẽ là một khó khăn. Dù giá thuê trọ nơi đây rất rẻ nhưng có lẽ chúng tôi phải sớm rời đi. Trước mắt tôi phải đợi Đán sửa xong chiếc xe để có thể tiếp tục cuộc hành trình.
“Mấy hôm mày có nghe thấy gì không?”
Đán hỏi trong lúc đang loay hoay với chiếc cờ-lê.
“Hôm qua tao ngủ sớm.”
“Tao không nói hôm qua.”- Đán vẫn tiếp tục với câu hỏi – “Mà hai hôm trước, nếu tao nhớ không nhầm là hơn mười hai giờ. Tao nghe thấy tiếng kẻng, cũng có thể là tiếng trống ngũ liên.”
Tôi giữ câu nói của Đán trong đầu một lúc lâu. Ngày đầu tiên ở thị trấn tôi đã rất mệt nên vừa nhận phòng đã ngủ một giấc dài. Còn ngày tiếp theo, cũng là tối hôm qua tôi cũng ngủ sớm nhưng tôi chỉ chợp mắt vài tiếng đầu. Có lẽ giấc ngủ của tôi sẽ kéo dài hơn nhưng như Đán nói đã có một âm thanh chen ngang vào giấc ngủ của tôi. Khi đó tôi đã thức dậy. Và tôi vẫn nhớ mang máng về thứ âm thanh lạ hoắc đó. Hoàn toàn không phải tiếng kẻng hay trống ngũ liên. Nếu để nói đó là tiếng gió cào vào vách núi cũng không phải, vì thứ âm thanh đó tuy ở rất xa, cũng như việc nó chỉ thoáng vương trong đầu tôi nhưng tôi dám chắc đó là tiếng của một quả chuông. Tôi thường lên Hà Nội vào mỗi dịp giáng sinh và đã nhiều lần được nghe chuông nhà thờ. Chỉ là tiếng chuông hôm qua không có độ cao, không dội vang và thuần khiết như chuông nhà thờ. Tiếng chuông bị phân rã dần dần và…Tôi chẳng thể nhớ thêm nữa nhưng tối nay tôi sẽ thức nhiều hơn mười hai giờ để có dịp nghe thật kỹ tiếng chuông đó, nếu nó còn vang lên.
Tôi mở điện thoại. Qua một đêm sạc điện, ổ pin đã đầy nhưng vẫn chưa có lấy một tin nhắn. Sau hàng chục cuộc gọi đi tôi chỉ nhận được những tiếng tút tút vô hồn. Ngay cả tiếng nói quen thuộc ở tổng đài cũng chẳng vang lên. Điện nơi đây vẫn có, các thông tin thời tiết, chương trình phim truyện tôi vẫn được biết nhưng chỉ ở dạng âm thanh.
“Nhóm anh cả có lẽ đã đi được vài địa điểm rồi. Chẳng biết họ có đến đảo Cò không nữa.”
Chúng tôi ăn trưa ở một quán cách nhà trọ không xa. Tôi gọi một suất cơm thịt kho, cá dim nước mắm và một đĩa bắp cải luộc. Đán chỉ gọi vài món sơ sài, còn thì kết thúc bữa ăn bằng một cốc rượu trắng.
Dùng bữa xong, Đán mua một chai rượu.
*
Mười giờ tối, không còn ngôi nhà nào sáng đèn. Ở thị trấn này đều là người lao động nên việc ngủ sớm là chuyện dễ hiểu. Nhiều miền quê chín giờ người làng đã đi ngủ. Tôi với điều khiển bật tivi thì chỉ nhận được những dòng xẹt điện đen trắng. Chuyển các kênh khác cũng chẳng có thêm âm thanh nào ngoài tiếng rè rè và dòng chữ mất tín hiệu.
“Tắt đi. Có phim cũng làm quái gì xem được.” – Đán nói và mở balô lấy ra một bộ bài.
“Ba cây uống rượu không. Thằng nào thua phải cạn hết chén.”
“Tao không thích chơi bài.”
Tôi còn nhớ mình có mang theo vài cuốn sách.
Đán vẫn chơi bài, một mình. Gã tự phân ra hai dòng suy nghĩ. Mỗi một ván bài hạ gã rót một cốc rượu, tu bằng sạch.
Mấy cuốn sách tôi mang theo chẳng dễ đọc chút nào. Tôi chúa ghét loại sách quá phức tạp và tôi chỉ đọc nó như một mẹo để mau buồn ngủ.
Cửa sổ vẫn mở. Căn phòng tôi là ngọn đèn duy nhất của thành phố.
Tôi buông cuốn sách đó và ngồi lên chiếc bàn dựng phía cửa sổ. Ngoài trời ngăm ngẳm một màu đen thần bí. Tôi vẫn nghe thấy tiếng gió. Cơn gió không mang lại cơn lạnh nhưng lại xuyên thấu da thịt. Tôi còn nhớ đối diện với cửa sổ có một lùm cây. Cơn gió dù chỉ ở mức vi vu cũng phải đánh động tới mỗi chiếc lá. Vào lúc trời bắt đầu trở khuya thế này tối thiểu cũng phải nghe thấy chút âm thanh. Hình như gió thổi mạnh hơn nhưng chẳng có tiếng sột soạt lá cây. Thứ rơi vào lỗ tai tôi là một âm thanh sâu hút, hệt như được vọng ra từ vỏ ốc.
Mở đèn pin cá nhân, một khoảng sáng dài được chiếu sáng. khung cảnh vẫn đơn chiếc như vậy. Không có lấy một dấu chân người mà chỉ có tiếng gió thổi. Lá cây đang bị hút vào cơn gió, xoay thành những vòng lốc nhỏ. Tôi thấy cả một mẩu xương nhỏ trong vòng gió. Rõ ràng gió chỉ ở mức riu riu.
Đán bảo tôi đóng cửa sổ lại. Tôi nghe theo. Cũng chẳng lý do gì mà đứng trước cửa sổ lâu như vậy.
*
“Có phải hôm qua mày đi ra đường.” – Tôi hỏi Đán khi hai đứa chuẩn bị đi ăn sáng.
Đán dậy trước tôi nhưng trên gương mặt vẫn còn vẻ uể oải của một người thiếu ngủ. Gã ngồi dựa tường, ngửa cổ lên trần, mái tóc chưa chải có vài sợi chổng lên. Lúc gã vươn vai ngồi dậy, chuẩn bị vào nhà tắm tối nhìn thấy gã kỹ hơn. Đôi mắt gã nặng trĩu. Hai khối thâm quầng ở hai bên mắt đang ngày một lan rộng ra như muốn nhấn chìm hai con ngươi vào trũng xoáy vô tận.
“Tối qua mày đi đâu.” – Tôi lặp lại câu hỏi.
“Sao mày hỏi tao trong khi lúc tao bật đèn mày cũng đã không có ở phòng.”
Và Đán bỏ lửng cuộc trò chuyện ở đấy.
Tôi muốn thanh minh lại với gã, vì tôi nhớ rằng cả đêm hôm qua đã ngủ trong phòng. Đèn tôi không bật nhưng tôi đã rọi đèn pin về phía Đán nằm và không thấy gã ở đó. Có thể lúc đó gã ra khỏi phòng để xuống khu vệ sinh phía dưới nhà.
Nhà trọ này chỉ có hai chúng tôi, ba bốn người nữa là khách thuê trọ. Ở tầng một là địa phận của ông chủ và ngay từ đầu tôi đã biết về việc quản lý chặt chẽ của ông. Cửa ra vào được khóa từ rất sớm, những ba lớp khóa. Và tôi cũng không muốn có sự đôi co với ông ta vì rằng tôi chẳng đi đâu buổi tối.
*
Xe đã sửa xong. Chỉ còn lau chùi thêm lần nữa, lắp các phụ tùng vào thì sẽ có thể chạy được. Số tiền tôi và Đán mang theo vẫn còn kha khá nhưng có lẽ chúng tôi phải rời khỏi đây ngay.
Đán nói về bố gã. Kể từ lúc ông ấy qua đời, trong một cơn nhồi máu cơ tim thì những gì liên quan đến ông ấy Đán đều không muốn nhắc đến. Ngày hôm nay gã bỗng nhắc lại chuyện cũ.” Ông ấy trách tao.”- Gã nói. Trên gương mặt vốn đã uể oải từ lúc mới ngủ dậy tôi thấy một luồng xám xịt. Hoàn toàn không phải sự tiếc nuối hay xót xa nào khi gợi nhớ lại quá khứ. Tôi không nghĩ rằng bố Đán báo mộng vì khi dòng điện tâm đồ của ông ấy tắt phụt thì cơn ác mộng cuộc đời gã cũng biến mất. Từ đó gã luôn ngủ rất say và không bao giờ nằm mộng. Điều Đán nói với tôi là về những lời trách móc. Trong cả buổi sáng gã chỉ nói về nó. Những lời trách móc, và chỉ như vậy.
Ở thị trấn này lâu lâu lại có khách ở phương xa đến thuê trọ. Họ chỉ ở vài ngày rồi trả phòng. Dân ở thị trấn khá hiếu khách và việc còn thừa nhiều đất quá lý tưởng để mở một trung tâm du lịch. Chỉ cần có một nguồn trợ lực, đầu tư về điện đóm. Việc quá xiết chặt cửa nẻo khi trời tối khiến bọn tôi phải dành cả ngày để đi hết mọi nẻo của thị trấn. Con sông, các gò đất hoang hay cánh đồng lúa bát ngát tôi đều đã đi qua. Ngoài việc khí hậu trong lành thì nơi đây chẳng để lại ấn tượng gì. Cảnh quan nơi đây thậm chí còn thua xa các miền quê mà tôi biết. Ở các mảnh đất đó còn có cái để tham quan hoặc ít ra thì cũng có những món đặc sản để mua về làm quà.
*
Xăng trong xe còn rất ít nên hai đứa tôi không thể đi đâu xa. Theo những gì tôi hỏi được thì đi theo con đường đất sẽ ra khỏi thị trấn. Đi thêm chục mét nữa chúng tôi sẽ tới một thị trấn khác, nơi đó các dịch vụ thương mại tương đối phát triển, người ở đây vẫn thường tới đó để trao đổi hàng hóa. Không chắc nơi đó có cây xăng nhưng chắc tôi sẽ mua được xăng thùng ở các cửa hàng hoặc trong một khu chợ. Sóng điện trường nơi đó chắc sẽ ổn định, để bọn tôi có thể liên lạc được với nhóm anh cả. Hẳn rằng họ đang tổ chức một bữa tiệc ngoài trời, chụp ảnh hoặc ghé vào các quầy hàng để mua đồ lưu niệm. Nếu trời tối họ sẽ dựng lều, cũng có khi tìm một nhà trọ giá rẻ để nghỉ qua đêm. Nếu không phải tôi và Đán tới muộn thì đã có thể cùng họ có hai ngày vui chơi tuyệt vời. Tôi vẫn nhớ những chuyến du lịch bụi của mấy năm trước. Đó là một bữa tiệc ngoài trời, trên một khu đất bỏ hoang. Chúng tôi đã đốt lửa trại, mở cát- xét và chia thành từng cặp nhảy múa theo ánh lửa. Trong đầu chúng tôi có vô số các ý tưởng kỳ quặc nên chẳng khó để duy trì ngọn lửa trại tới suốt đêm.
Bọn tôi không bắt chuyện với bất cứ ai trong khu nhà trọ. Còn những người ở thị trấn tôi chỉ mở lời khu mua hàng, hỏi thăm về đường đi. Ngay cả lúc nhận từ họ những con cá còn tươi hoặc cái bắt tay thân thiện từ một người già cả tôi cũng muốn bắt quan hệ với họ. Và tôi biết họ đã giấu tôi, về tiếng chuông lúc đêm tối. Không ai trong bọn họ thừa nhận là có tiếng chuông được đánh từ buổi đêm. Cái kẹo mút và gói bimbim không giúp tôi mua chuộc được cái gật đầu của bất kì đứa trẻ nào. Chiều hôm đó tôi đã đi thêm một vòng quanh thị trấn. Đán ở nhà và tôi chỉ đi một mình. Tôi bỏ chút tiền để thuê chiếc xe đạp của một người trong thị trấn. Chiếc xe hơi cà khổ nhưng khá bền.
Nhà cửa ở đây không quá lụp xụp nhưng cũng khó có thể gọi là hiện đại. Ngoài các ngôi nhà trọ thì tất cả đều nhỏ nhắn trong chục mét vuông. Khá nhiều bãi đất bỏ hoang để làm sân chơi cho đám trẻ con. Đã lâu tôi không đạp xe nên đi tầm chục mét thì thấm mệt. Nhiều quãng đường tôi đã phải dắt xe để tránh đâm vào ổ gà hoặc bị tuột xuống một con dốc dài với đầy đá găm.
Trí nhớ tôi rất tốt nên dù đã quẹo vào chục đoạn đường tôi vẫn nhớ đường về nhà trọ. Ở hai bên đường có đủ các loại cây nhưng tất cả đều đã trụi hết lá. Cả những cây cao tầm một mét tới những cây có thể liệt vào hàng đại thụ cũng đều rụng sạch lá. Đang là mùa hè nên không lý nào cây rụng nhiều như vậy. Khi tôi lấy con dao nhỏ móc ở chùm chìa khóa rạch một đường sâu thì thấy nhựa cây vẫn ứa ra. Tôi ngắt dòng suy nghĩ bằng giả thiết về một trận bão lớn càn quét. Những cái cây không phải mối bận tâm của tôi nên tôi đi tiếp. Dẫu vậy, hình ảnh những cái cây trụi lá đã lưu lại trong đầu tôi. Những cái cây thật cao, với bộ cành nhọn hoắt vươn dài tứ phía như cái móng vuốt. Các nhánh cành nhô ra, cài cắm và tạo thành những cái gai nhỏ quanh bộ vuốt. Tôi chuyển dòng suy nghĩ về hướng khác, trước nó kịp gài thêm vào thân cây một đường nứt sâu ngoắm, và trong cái hốc nứt đó là tiếng ùng ục của một cái bụng đang cồn cào.
*
“ Mày thấy ông ấy thế nào?” – Đán hỏi khi tôi vừa bước vào phòng.
Khuôn mặt Đán vẫn mang vẻ xanh xao của một người nhiều ngày chưa ngủ. Môi gã trắng bợt và khô cứng. Ánh nhìn của gã mang những tia dại. Để ý kỹ thì thấy cặp mắt giật giật, mang vẻ sợ hãi. Hắn vẫn lặp lại câu hỏi đó, còn tôi thì né tránh ánh nhìn của gã. Không rõ tại sao nhưng khi nhìn vào đôi mắt đã quá mệt mỏi nhưng vẫn cố mở to ra tôi lại thấy ngột ngạt. Trong cái đồng tử đó không phải là tôi vì ngay cả khi tôi đứng yên thì cái hình hài lạ hoắc đó vẫn di chuyển.
“Ông ấy là ai?” – Tôi hỏi.
“Bố tao.” – Đán nói, mắt vẫn nhìn về phía tôi.
“Bố mày rất tàn bạo, tao nói thật lòng. Một con quỷ.”
“Ông ấy rất thích máu, nên đã có cả một bộ sưu tập các dụng cụ để lấy máu.”
“Nhưng ông ấy chết rồi.”
“Mày biết trong một giấc mộng có bao nhiêu con quỷ không?”
“Mày có thích thử cảm giác mạnh không.” – Tôi nói- “Tao biết một chỗ.”
“Ở thị trấn này ư?”
“Ừ. Nghĩa trang của thị trấn. Bia mộ ở đó nhiều gấp mấy lần ở Quảng trị. Tha hồ mà tham quan.”
Đán lắc lắc đầu. Tôi nhắc lại về cái kế hoạch dạo đêm ở nghĩa trang thêm lần nữa. Chuyện đi vào nghĩa trang vào buổi đêm không phải ý tưởng lần đầu của tôi. Trước đây đã nhiều lần nhóm chúng tôi đã chơi trò này. Tất nhiên không ai đi một mình mà đi theo cặp. Tôi và Đán luôn là một cặp ăn ý. Tôi có thừa gan dạ, còn Đán thì luôn bình tĩnh. Kể cả khi chân vướng vào một bàn tay lở loét dòi bọ trồi ra từ dưới bia mộ, thì thay vì hét rống hay ngất lịm đi, gã sẽ chậm rãi gỡ từng ngón tay ra rồi đi tiếp.
Cả chiều bọn tôi không nói chuyện với nhau. Đán chỉ nằm trên giường, ít lâu lại trở mình vì khó ngủ. Tôi lấy chiếc điện thoại, thử nhấn vài cuộc gọi. Phía đầu dây vẫn chỉ có tiếng rè rè đáp lại. Ngoài cửa sổ vài người dân đã trở về nhà sau một ngày làm việc, mặt mũi ai cũng phấn khởi nhưng chẳng có lấy một cuộc chuyện trò nào vang lên.
Cái nghĩa trang đó tôi vẫn nhớ rõ. Đây có lẽ là nghĩa trang duy nhất của thị trấn nên được xây dựng rất cẩn thận. Toàn bộ nghĩa trang được bao bọc bởi một bức tường đá ong dày. Cánh cổng ra vào được làm bằng thép nhưng vì đã quá nhiều năm nên đã rỉ sét cả. Ổ khóa của cánh cổng cũng đã bị bào mòn. Sự rỉ sét ăn rỗng lỗ khóa và phá đi cấu tạo nhằm khớp với chìa khóa. Nghĩa trang không có đường hậu nên tôi luôn thắc mắc người ở thị trấn sẽ vào bằng cách nào mỗi khi cần viếng mộ.
Cửa vào bị bít nhưng tôi vẫn có thể vào bằng cách leo qua tường. Lúc đó tôi không vào hẳn vì vướng chiếc xe đạp ở ngoài. Tôi chỉ bám trên tường, cheo leo một lúc lâu. Bên trong quả rất rộng, có kích cỡ của một cánh đồng. Đất ở đây nhìn rất bằng phẳng. Cỏ mọc rậm rạm nhưng hầu hết đều là cỏ chết. Các ngôi mộ xây trồi lên trên và được sắp xếp rất gọn gàng. Các ngôi mộ xếp theo từng hàng thẳng tắp. Có một khoảng trống vừa đủ giữa các ngôi mộ để có thể đi lại. Phần đất đi, coi tạm là hành lang khu mồ không bằng nhau. Chỗ đường rất hẹp, chỗ lại quá chật. Lúc rộng dần, khi lại hóp dần, đôi chỗ đường ngoạt chéo, chỉa ngang rồi uốn vòng tròn. Chắc do tục lệ ở đây nên các ngôi mộ được xây cất tương tự nhau. Chúng không xây thành khối chữ nhật, cũng không có mái che, tất cả chỉ là những tấm bia bằng đá. Kích thước và độ lớn của những tấm bia bằng nhau. Rêu phong như nhau.
Cái nghĩa trang với bạt ngàn ngôi mộ khiến tôi thấy hứng thú và muốn được tham quan. Nếu tôi thuyết phục được Đán thì có lẽ đây sẽ là chuyện đáng nhớ nhất mà tôi có thể đem ra kể khi gặp lại nhóm anh cả.
“Vấn đề là ở chỗ không thể để người của thị trấn biết.” – Tôi lẩm bẩm.
Đán tiếp tục trở mình. Ít lâu gã lại vùng dậy, vò đầu, định nói điều gì đó nhưng miệng chỉ há nửa chừng liền ngậm lại.
*
Mặt trời chỉ giữ lại chút ánh sáng cỏn con, vừa đủ để đốt lên một ngọn hoàng hôn ngắn ngủi. Nó sẽ chơi vơi trên bầu trời ít lâu nữa rồi mới hoàn trả thị trấn cho bóng đêm để bắt đầu một chuyến đi dài. Đám trẻ con kết thúc trò chơi rượt bắt, những người lớn thì cũng đã trở về nhà. Muộn rồi và họ cần chuẩn bị cho một bữa tối.
“Ông ấy gọi tao!” – Đán vùng khỏi chăn và gào tướng lên.
“Mày dậy rồi à, hơn sáu giờ rồi, chuẩn bị đi ăn thôi.” – Tôi nói.
“Ông ấy đang ở quanh đây, chắc chắn là thế.”
Tôi gãi gãi đầu, định bụng nhiếc mắng gã vì thái độ kì quặc từ sáng tới giờ nhưng khi nhìn gã tôi đã phải hạ giọng. Cái khuôn mặt vuông vức đó nhăn nhúm lại, cặp môi khô ran và nứt nẻ như thiếu nước, có lẽ do tư thế nằm hoặc vì chưa được chải chuốt nên mái tóc rủ xuống, che khuất một phần khuôn mặt. Cái quầng thâm trên mặt gã dường như lại loang rộng ra, phủ tới sống mũi, đôi mắt mở rất to, hệt như muốn trồi hẳn ra ngoài. Tia mắt đó tôi đã nhìn qua, từ rất lâu. Ngày hôm đó tôi tìm thấy gã trong một công trường đã ngừng thi công. Cũng như bây giờ, gã co ro vào một góc, cặp mắt mở lồi ra, chỉ khác là khi ấy trên người gã chi chít lỗ thủng. Các vết thương không sâu tới mức chạm vào ngũ quan nhưng mỗi cử động mạnh của gã đều khiến máu trào ra. Phải rất khó khăn tôi mới tới gần được Đán vì hễ thấy tiếng động gã lại chạy đi. Thứ lúc đó gã có thể nương tựa là một cái hốc nhỏ trong công trường. “Ông ấy cắm rất nhiều…ống sắt vào người tao. Tao đau lắm.”- Gã lặp đi lặp lại câu nói đó trong hàng giờ. Kể cả khi cuống họng bắt đầu khô rát, câu nói không liền thành một từ ngữ mà vỡ thành các chữ cái thì gã vẫn không dừng lại. Tôi thấy máu trào ra khi gã ho.
Nhiều lần Đán có ý định lóc các vết sẹo trên cơ thể bằng một con dao thật bén. Phần bẹn cũng có sẹo và gã cũng từng nói với tôi rằng sẽ chẳng ngại gì nếu lưỡi dao có kết liễu sự cộng sinh giữa gã và tên đầy tớ đó. Nhưng gã đã không làm vậy.
Đán đứng dậy, vừa đi gã vừa lẩm bẩm “ Ông ấy gọi tao….”
“Mày sao vậy, ông ta đã chết từ lâu rồi.”
“Ông ấy gọi tao”- Đán gào lên- “Ông ấy gọi tao…”
“Cứ ngủ một giấc đi, rồi ngày mai tao và mày sẽ đi khỏi đây.”
Đán đứng ở giữa nhà, im lặng thật lâu.
Tôi không mang theo thuốc ngủ nên có lẽ sẽ phải trông chừng gã suốt đêm.
“Máy nghỉ ngơi đi, tao đi mua cơm.” – Tôi mặc quần dài vào rồi cầm ví theo. Để an tâm tôi đã khóa cửa lại.
*
Cửa đã bị phá và Đán đi đâu mất. Tôi hỏi mấy người phòng bên thì chỉ nhận được những cái lắc đầu. Ông chủ nhà không biết việc này vì lúc đó đang ở ngoài đường. Ông ấy không trách tôi về việc cửa hỏng nhưng đã khuyên tôi trở về phòng vì trời cũng sắp tối.
Đồ đạc của Đán vẫn ở trong phòng, xe của gã vẫn đang nằm dưới nhà xe. Tôi có hỏi mấy người ngoài đường thì chỉ nhận được những cái lắc đầu. Gã không có ngoài cánh đồng, cũng không có ở các khu đất trống cách khu nhà hơn chục cây. Tôi chỉ biết rằng gã đã bỏ đi, manh mối là cánh cửa bị đạp văng ra.
Người ở thị trấn không có bất cứ hoạt động nào khi trời tối. Mọi cửa nẻo đều đóng chặt. Tôi không rõ lịch hoạt động của thị trấn trước giờ vẫn vậy hay vì lý do gì khác mà họ kiêng kỵ việc ra đường buổi tối. Nhưng dù là như vậy họ cũng không nên cấm đoán khi mà tôi chỉ là khách thuê phòng. Nếu vì lý do an ninh thì tôi chưa thấy ai nói về việc có thảo khấu lục lâm, nói là có chó sói cũng không phải vì thị trấn không nằm trong rừng.
Mới tám giờ mà trời đã tối mịt. Mây đen ở thị trấn này nhiều hơn những nơi khác. Để màu tối dày đặc tới mức không để vuột dù một vệt trăng mong manh nhất chắc đã phải có hàng tầng lớp mây chồng lên nhau. Những khối mây đen bện vào nhau và tạo thành một cái kén khổng lồ để có thể chứa trọn cả thị trấn.
Tôi muốn qua phòng nên cạnh để mời vài người chơi mấy ván bài để giết thời gian nhưng các phòng đều đóng cửa. Mặc cho tôi có gõ cửa mạnh tới đâu họ vẫn không ra mở cửa. Đèn trong các căn phòng đều tắt nên tôi nghĩ họ đã đi ngủ cả, chỉ kì lạ là tại sao phòng nào cũng hạ đèn sớm như thế.
Tôi phải chốt cánh cửa từ bên trong để nó đỡ bung ra. Ông chủ nhà muốn thay cửa cho tôi nhưng tôi từ chối và hẹn lại vào sáng mai. Tôi sẽ nán lại thì trấn thêm vài hôm để có thể tìm ra Đán.
Một âm thanh lạ khuấy đảo sự yên tĩnh của căn phòng. Tôi mở cửa sổ để có thể nghe thật kỹ thứ âm thanh này. Tiếng chuông, rõ ràng là nó. Ngày hôm qua tôi cũng nghe thấy tiếng chuông, khi ấy tôi muốn gọi Đán dậy nhưng gã đã ra khỏi phòng. Quả chuông có vẻ không lớn lắm, hoặc cũng có thể nó được đánh ở rất xa nên tôi chỉ nghe văng vẳng. Nhưng nếu là như vậy, tại sao có lúc tôi nghe thấy có hàng chục quả chuông cùng đánh lên. Ít phút trước tiếng chuông vang rất gần, tôi nghe như nó đang vọng từ dưới đường. Những tiếng chuông cũng có sự khác nhau, không hoàn toàn là từ một loại chuông đánh lên. Có tiếng với âm vực lớn như đánh từ chuông nhà thờ, có lúc thì lanh canh như tiếng chuông gió, thậm chí tôi còn nghe thấy một tiếng vang inh ỏi và rè rè của loại chuông điện tử.
Ngoài trời rất tối, chiếc đèn pin trong tay tôi cũng chỉ soi được một đoạn ngắn. Gió thổi khá mạnh so với hai đêm trước. Tiếng chuông không hề bị át đi bởi tiếng gió, nó vẫn vang đều đều nhưng không theo một trật tự tiết tấu nào.
Tôi đóng cửa sổ lại và trở về giường.
Tiếng chuông vẫn văng vẳng trong đầu. Những suy nghĩ mơ hồ đã vẽ ra một hình ảnh để nhập vào tiếng chuông. Đó là một buổi tế lễ ngoài trời, vị pháp sư với áo quần lòe xòe, mặt mũi tô vẽ đủ thứ màu sắc đang vung một cây gậy dài gắn nhiều quả chuông. Thứ âm thanh truyền ra từ những quả chuông cao vút nhưng trầm đục và nỉ non như tiếng ru của bà mẹ mất con.
*
Cú vấp khiến tôi ngã bổ xuống đất. Có lẽ tôi đã vấp phải một cành cây hoặc một viên đá trồi lên dưới đường đi. Chiếc đèn pin, cũng là ngọn hải đăng soi đường duy nhất của tôi đã tuột khỏi tay và lăn lóc đâu đó. Bóng tối vẫn nắm đại quyền nên tôi chỉ có thể đứng loay hoay một chỗ. Lúc ngã tôi có nghe thấy một tiếng xoảng, có lẽ chiếc đèn pin đã văng vào chỗ nào đó và đã hỏng.
“CÓ AI KHÔ………..NG !”
Tôi hô lớn nhưng không thấy lời đáp lại. Thực ra dù cổ họng tôi có đủ lớn để hô nhiều lần như vậy thì có lẽ sẽ chẳng ai nghe thấy. Tiếng chuông vẫn còn vang lên và nó đã nghiền nát tiếng nói của tôi. Sẽ không có một ô cửa nào sáng đèn, cũng chẳng có một ánh trăng nào hé ra để tôi có thể nhìn thấy, chút nào đó con đường trở về nhà trọ. Cú ngã ban nãy không làm tôi chảy máu nhưng đã khiến tôi tỉnh táo hơn. Với những gì còn lại trong trí nhớ thì có lẽ tôi đã ở ngoài đường một lúc lâu. Tôi không rõ tại sao mình lại ở đây, để rồi vấp ngã, đánh mất cây đèn pin nhưng tôi biết mình đã mở khóa. Tôi không có nhiều sức mạnh như Đán nhưng tôi lại có chút thủ thuật về mở khóa. Đừng nói là ba ổ khóa, ngay cả khi ông chủ nhà có lắp loại khóa chống trộm hoặc cửa mật mã thì cũng không làm khó được tôi. Chỉ có điều tôi không biết phải trở về thế nào. Cứ lang thang mãi trong đêm tối thế này thì chẳng hay ho gì.
Tôi thận trọng từng bước đi để không bị ngã. Trước tiên tôi phải sờ được vào tường của một ngôi nhà, rồi tôi sẽ men theo bức tường tìm tới cửa chính. Tôi sẽ ngồi trước cửa cho tới trời sáng. Nếu ngôi nhà đó có nuôi chó thì thật tốt vì hẳn nó sẽ phát hiện ra tôi và sủa vang cả thị trấn. Chỉ mong lúc đó tiếng chuông tạm dừng lại đôi phút để tiếng sủa có thể đánh thức chủ nhà.
Tôi vướng vào một vật lớn, nó chắn dưới chân tôi. Bàn tay tôi sờ thấy bề mặt thô ráp của một phiến đá. Đi thêm một quãng tôi lại vấp phải một phiến đá khác, lần này suýt nữa tôi vấp té. Cứ như vậy, tôi dọ dẫm một lúc lâu trong bóng tối. Những tiếng chuông nhỏ tạm ngừng lại, tôi định nhân dịp hét lên một tiếng lớn để có thể đánh thức một hộ dân nào đó, kể cả sau đó có bị nhiếc mắng, miễn là họ cho tôi một ánh đèn để có thể về được khu nhà trọ. Miệng tôi há ra và cứ há như vậy. Một tiếng chuông khác đã thế chỗ cho những tiếng chuông nhỏ. Lần này là tiếng của một cái đại hồng chung mà nhà chùa vẫn thường đánh vào sáng sớm. Tiếng đại hồng chung này khác hẳn với những tiếng đại hồng chung mà tôi đã từng nghe. Không hề có sự mênh mang, cũng chẳng có chút cảm giác nhẹ nhõm, thư thái khi lắng nghe tiếng chuông này. Thứ âm thanh này trùm xuống cả thị trấn và khiến bóng tối them kềnh càng. Bước chân của tôi cũng vì vậy mà loạn cả lên, tôi chỉ biết mình đang đi chứ không biết mình đi thẳng, đi chéo hay đi vòng tròn.
Tiếng chuông chỉ vang lên một lần rồi mất hút vào bóng tối. Tôi vẫn đi trong đêm, đôi bàn tay huơ ra hai bên. Nếu trong tay tôi có thêm một cây gậy thì sẽ rất giống một hành khất mù.
Sự yên lặng chỉ kéo dài vài giây rồi tiếp tục bị xáo động bởi những tiếng chuông khác nhau. Tôi càng đi lâu trong thị trấn thì mật độ tiếng chuông càng dày. Khả năng xác định phương hướng của tôi đã hỏng và cặp chân của tôi đang bị tiếng chuông dẫn dụ. Trong lúc đang bước sang bên trái, một tiếng chuông khác đã vang lên khiến. Đôi chân tôi bước chệch sang một bên và đi theo tiếng chuông đó. Được một quãng thì tôi lại đi giật lùi vì đằng sau vừa có một tiếng chuông khác.
*
Tôi vướng phải một phiến đá khác. Thêm vài bước chân tôi lại chạm phải một phiến đá, rồi một phiến đá. Tôi ngã bổ chửng.
Tay tôi chạm thấy một vật hình chữ nhật. Tôi nhặt vật đó lên và thở phào một cái khi ngửi thấy mùi diêm sinh. Rất nhanh nhẹn, tôi mở bao diêm ra rồi rút ra một que.
Tôi đánh lửa. Ánh lửa cháy rực trên thanh gỗ. Lửa chỉ chiếu sáng được một khoảng nhỏ nhưng tôi vẫn thấy hạnh phúc vì cuối cùng đã vớ được một tấm ván, khả dĩ có thể đưa mình vào đất liền.
Cái phiến đá đã làm tôi vấp ngã đã lộ nguyên hình. Nó hoàn toàn không phải phiến đá hay cột mốc gì, mà là một bia mộ. Tấm ảnh đặt nơi ngôi mộ là của một ông già, gương mặt lão rêu đã phủ xanh, các đường nứt trên bia đá khiến gương mặt đó không còn toàn vẹn. Huơ cây diêm ra xung quanh tôi thấy các bia mộ khác. Ở nơi tôi đứng có tới bốn bia mộ và chúng nằm ở bốn hướng khác nhau. Bốn tấm bia đổ nát bo chặt tôi ở giữa, tôi thấy mình như bị mai phục và rơi vào một tình thế hiểm hóc mà không cách nào phá vây được.
Bốn gương mặt. Một đã rêu phong, một khuyết nửa bởi các đường nứt vỡ, một thì hai cặp mắt trợn trừng như của người còn sống, một thì ám đầy bụi bặm, chỉ lộ ra cái miệng móm mém đang mỉm cười.
Cây diêm tắt phụt đi, tôi chạy điên loạn trong bóng tối, tiếp tục va quệt vào hàng chục bia mộ. Tiếng chuông vẫn va lanh canh, có tới chục quả chuông cùng đánh lên.
Thêm một bước chân hụt, tôi lảo đảo và ngã đập lưng vào một tấm bia. Tôi nghe thấy một tiếng thì thầm, dường như nó vang ra từ tấm bia mà tôi đang tựa lưng vào. Đó là tiếng nói. Không thể sai được, dù nó không thật rõ ràng nhưng đó đúng là tiếng của một con người.
Tôi rút que diêm thứ hai và đánh lửa. Ánh lửa phụt lên, đốm lửa đã phá vỡ một phần nhỏ của bóng tối và giúp tôi tiếp cận được với cái tiếng nói đó.
Vẫn là một tấm bia, giống như hầu hết mọi tấm bia ở đây. Khi ánh lửa soi vào vị trí tiếng nói đã phát ra tôi thấy một khuôn mặt. Không phải là một tấm bưu ảnh với hàng chữ đề tên họ, năm mất mà đó là khuôn mặt của một người còn sống. Nó lồi ra khỏi bia đá và không ngừng nhúc nhích. Cái khuôn mặt này đã bị nhấn chìm vào một màu đen sâu thẳm, hai con mắt đã khuyết một, cái mồm vẫn lẩm bẩm.
– ……………..…………..……….
Lửa cháy đến tận cùng que diêm và đốt phỏng ngón tay tôi. Ánh sáng nhòa khỏi cặp mắt tôi. Những tiếng chuông rung ngày một mạnh, tuồng như ở mỗi bia mộ đều gắn một quả chuông. Chúng cùng đánh lên, ngạo nghễ như tiếng hú đầy thỏa mãn của bầy dã thú khi nhìn thấy con mồi sập bẫy. Cái hình ảnh quen thuộc gắn với khuôn mặt trồi ra từ tấm bia trong tôi đang bị những tiếng chuông bằm nát. Chỉ còn lại một cái miệng đang mấp máy….
Mỗi bước lùi của tôi đều chạm vào một tấm bia. Hẳn rằng chúng đang chụm quanh tôi, rào kín lại để xây thành một nhà mồ.
Cái hình ảnh trong tôi đã mất, miệng tôi ngóac ra và hét một tiếng cuối cùng. Dường như có một tiếng hét khác đáp lại tôi. Cũng ngay sau đó, có hàng loạt tiếng động vang lên. Tôi nghe ra tiếng của các tấm bia di chuyển. Một tấm bia đã đẩy tôi ra khỏi vòng vây. Tôi bị hất văng ra vài mét. Bóng tối vẫn nhốt tôi trong cũi nhưng ý nghĩ về một ngọn lửa đã cứu tôi khỏi nỗi kinh hoàng. Bao diêm chắc hẳn còn đâu đó. Tôi dí mũi xuống đất và hít sâu. Tôi cứ bò dưới đất, hít những hơi dài cho tới khi ngửi thấy mùi diêm sinh.
Tiếng chuông vẫn vọng thăm thẳm, có cả tiếng đại hồng chung.
Que diêm cuối cùng được đánh lên. Tôi dí que diêm đang cháy vào hai bên áo. Lửa lan ra và cháy bùng bùng. Da thịt tôi cháy vào màn lửa. Một sự êm ái trong lửa, và tất cả chìm lún cùng phát hỏa. Tôi không còn nhìn thấy tấm bia với cái đầu ngoi ra nữa. Những tấm bia khác đã xếp thành một bức tường dài để cầm tù nó.
Từ mọi phía, hàng chục tấm bia tiếp tục di chuyển. Những cái ngách ngoằn ngoèo đã thành hình. Với ngọn lửa trên người tôi có thể lách khỏi chúng.
Ngọn lửa bốc ngày một cao và trùm lấy tôi. Cơ thể tôi cháy thành đuốc.
Bóng tối rách ra, những tiếng chuông cũng bắt đầu hỗn loạn. Các tấm bia xê dịch nháo nhào. Nghiêng trái, nghiêng phải, đổ nhào. Có tiếng vỡ rôm rốp.
Ngọn đuốc bốc cao lên, kéo thành một đường lửa dài. Tôi phóng vọt, và lăn dài quét đất. Tôi rực rỡ như một bánh xe Phong Hỏa. Các mảnh bóng tối bị nghiền đi, chậm rãi loét ra như vết thương con quỷ. Những mảnh lửa nhỏ rơi rụng phía sau, chúng sẽ thắp ánh sáng thêm một lúc nữa trước khi các đốt tay đen mọc trở lại và nắm chặt lấy.

Tru Sa

GIẤC SAY

trusa

Nàng ngủ, còn tôi thức.
Giấc ngủ đến với nàng thật nhanh. Từ lúc nào, nàng chỉ ngủ thế này. Một hai câu chuyện,vài nụ hôn rồi thì nàng buồn ngủ. Vòng ôm chưa đủ chặt để tôi thấy mình quá thô bạo và làm nàng đau. Còn nụ hôn thì thật ngắn. Chưa có sự bỏng rát như bị đốt cháy. Chỉ là hai cặp môi chạm lấy nhau, rồi tuột mất. Nhiều buổi tối qua đi vào những cơn buồn ngủ. Tôi chỉ có thể ngắm nhìn nàng, ve vuốt mặt và tóc nàng. Dĩ nhiên, cũng thật khẽ, để tránh làm nàng thức giấc.
Mỗi sáng, nàng dậy sớm hơn cả tôi. Bữa sáng được chuẩn bị khi tôi vẫn li bì trên giường. Thường thì, nàng mua gì đấy về để nấu. Mỳ gói, phở ăn liền. Hoặc những món có thể ăn ngay, như bánh mỳ, xôi, ngô luộc…Hiếm có dịp tôi cùng nàng ra ngoài ăn. Nàng còn phải đi làm. Tôi. Tất nhiên. Cũng phải đến cơ quan. Bữa sáng rất nhanh. Không hơn nửa tiếng. Dù tôi có dậy thật sớm, để có thể trò chuyện với nàng lâu hơn. Thì, nàng vẫn chỉ kết thúc bữa sáng trong đúng nửa tiếng.
“Anh ngon giấc chứ.” – Nàng nói khi thấy tôi vào buổi sáng, hoặc lúc nàng vừa ngủ dậy, và thấy tôi.
“Anh chưa thể ngủ.”
“Em đã ngủ được một giấc. Giờ em lại thấy buồn ngủ rồi.”
“Em ngủ đã nhiều rồi. Rửa mặt, rồi ăn cái gì đấy. Anh sẽ pha cafe.”
“Em phải ra hiệu thuốc.” – Nàng trả lời ngay. Dường như câu trả lời đã ở sẵn đầu nàng. Và, tôi vừa dứt câu hỏi, thì nàng đáp lại – “Em sẽ mua thêm thuốc ngủ. Anh cũng nên uống, nếu thấy khó ngủ.”
Tôi làm kinh doanh, còn nàng chỉ là một văn thư quèn. Trước đây, tôi cũng như nàng, là một nhân viên mạt hạng. Tiền lương ba cọc ba đồng khiến tôi không dám nghĩ về một chuyến du lịch nước ngoài. Tôi thường xuyên phải vay mượn chỗ này chỗ kia để trả đủ tiền thuê nhà. Nàng có thể ngủ bất cứ lúc nào, còn tôi thì ngay đến việc thiếp đi quá nửa tiếng đã là lãng phí. Mỗi ngày tôi chỉ ngủ sáu tiếng. Thời gian còn lại tôi kiếm ăn, bằng mọi cách có thể. Tôi thức trắng nhiều đêm mà vẫn tỉnh táo. Sức khỏe tôi có sa sút. Nhìn vào tấm ảnh nhóm chụp nhiều năm trước, tôi phải bật cười. Thật gầy gò, vì nước da tôi vốn đen nhẻm, khi lên hình lại trắng bợt bạt như bị trát vôi. Có thể khi ấy tôi đứng ngược sáng, hoặc cái máy ảnh kia để chế độ sáng quá lớn. Trong ảnh, tôi mặc cái áo khoác rộng thùng thình. Vì tôi lùn, dáng người bé, nên nhìn như tên tiểu quỷ trong thế giới khổng lồ. Còn nhiều tấm ảnh thế này nữa. Tôi từng cho nàng xem, nhưng nàng chẳng cười gì. Tôi đưa bức nào, nàng xem bức ấy.
“Chẳng giống anh bây giờ chút nào.” – Nàng nói thế.
“Kể ra, nhìn cũng ngồ ngộ.” – Tôi nói.
“Nhìn anh bây giờ xem, thật bảnh bao.” – Nàng nói.
“Già đi.”– Tôi nói – “Lại có vẻ tươm tất quá. Ngày đấy, anh chỉ có hai cái quần vải để mặc năm. Tất cọc cạch, quần còn thủng đít nữa.”
“Ngủ một giấc đi anh.” – Nàng nói.
“Buổi sáng mới bắt đầu thôi em.”
“Hôm nay là Chủ Nhật, em muốn ngủ.”
“Em không định tận hưởng một ngày nghỉ sao?”
“Giờ em buồn ngủ quá rồi. Anh có định đi đâu không?”
Giấc ngủ đến sớm trong khi tôi còn muốn nói với nàng nhiều hơn. Những lọ thuốc ngủ trong tủ kính đều được uống đều đặn. Tôi chưa từng động đến một viên. Nàng thì uống thường xuyên. Một, hai viên vào mỗi tối. Có lúc nào uống vào trưa, hoặc chiều.
Một tuần trước, tôi gặp lại Jin.
Jin. Đấy là đồng nghiệp cũ của tôi. Bọn tôi cùng làm trong một cửa hàng đồ điện tử. Jin làm quản lý, tôi thì kém hơn, chỉ là nhân viên gác cửa. Nhờ Jin, tôi có được nhiều mối làm ăn bên ngoài. Tôi không thiết lắm cái cửa hàng ọp ẹp, không lắp nổi một cái điều hòa này. Jin cũng vậy. Tôi bỏ việc sớm hơn Jin. Trước khi đường ai nấy đi, tôi có uống với Jin một bữa. Một quán rượu nhỏ. Rượu dốc cạn từng chai, thuốc lá bị đốt rụi từng bao. Vì say quá, tôi và Jin đã ngủ gục. Không ai ở quán lay bọn tôi dậy cả. Lúc tôi tỉnh dậy thì Jin đi rồi. Jin trả tiền rượu. Giờ thì Jin quay lại, và tương ngộ với tôi đúng ở cái quán rượu nhỏ ngày xưa.
“Một quý ông lịch lãm.” – Jin nói, rồi vuốt mặt tôi. Rồi Jin sờ tai, vuốt xuống mũi tôi. Khi ngón tay Jin đi xuống miệng thì tôi gạt tay Jin.
Jin không búi tóc phía sau nữa. Mái tóc Jin ngắn đến vai. Nhấp chút vang đỏ, thì giờ tôi đã đủ tỉnh táo để bắt chuyện với Jin. Những gì về tôi Jin còn nhớ, và luôn kể ra. “Kết hôn rồi.” – Tôi nói với Jin. Jin, chỉ cười rồi nhấp rượu.
“Đúng quán này nhỉ. Anh, và em đã uống thật đã đời.”
“Chuyện xưa lắm rồi, giờ thì tôi có vợ rồi.”
“Một quý ông lịch lãm.” – Jin cười – “Phải không nhỉ.”
“Cô ấy rất thích ngủ.” – Tôi nói – “Nếu không có lẽ tôi sẽ đưa cô ấy đến đây.”
“Lâu rồi, em chưa có một giấc ngủ lành. Trằn trọc, luôn là trằn trọc.”
Jin uống sang ly thứ ba. Bẵng nhiều năm, Jin vẫn uống nhiều thế. Tửu lượng tôi kém đi rồi. Nhưng sao nhỉ, lúc này đây, ngồi cùng Jin, tôi lại nghĩ đến nàng. Số thuốc ngủ trong tủ thuốc. Một số là mới mua, còn chưa khui nắp. Số khác thì đựng trong các lọ khác nhau. Một, hai vỉ bóc dở. Tôi chẳng chắc chắn tất cả đều là thuốc ngủ. Trừ ra các lọ thuốc có dán nhãn, hoặc hình dáng giống với thuốc ngủ. Số còn lại không gắn mác. Hoặc mác bị trầy, bị mờ. Hình dáng và màu mỗi viên thuốc cũng khác nhau. Viên xanh, viên đỏ, viên con nhộng. Tôi nghĩ, nàng có khẩu vị về thuốc ngủ.
Phía bên kia, khách khứa nói chuyện rất ồn. Bọn tôi ngồi góc trong cung, chỗ kín đáo nhất nhưng vẫn có vài con mắt bắt gặp thấy. Một tên để ria mép tiến đến, mời Jin rượu.
“Dô một cái, rồi anh có thể xin cô em số điện thoại chứ.”
Cái gã này, chẳng ngại khi thấy tôi ngồi đấy. Tôi nhìn hắn, lừ mắt. Hắn ngoảnh ra sau, búng tay cái tách. Hai tên ngồi bàn ngoài quay ra. Hai cái đầu trọc lốc, trông hầm hè. Rồi bốn tia mắt nhìn sang. Chỉ cần một cái búng tay, hai gã ôn vật sẽ lao vào tôi như hổ đói. Tên ria mép nhìn Jin. Jin không nhìn hắn. Jin nhìn tôi, rồi cười, sau đấy mới quay sang đáp trả ánh nhìn hắn bằng cái nhếch miệng. “Thật chẳng ra dáng đàn ông.” – Jin nói và yêu cầu gã kia cùng Jin uống rượu bằng chai, và chỉ một hơi, duy nhất một hơi. Hai người, hai chai Chivas. Chẳng đợi tiếng bắt đầu, Jin đã ngửa cổ chai, và tu rượu. Sau vài giây, gã kia đã bỏ cuộc, và quỵ xuống mà nôn. Jin vẫn đứng đấy. Những cái tu ừng ực. Mắt Jin đã trợn ngược.
“Jin ơi! Đủ rồi…”
*
Buồng ngủ không bao giờ sáng đèn. Từng có một cái đèn ngủ đóng phía góc tường. Cái đèn chỉ được bật một lần. Rồi tắt vĩnh viễn. Vấn đề chỉ là cái đèn ngủ. Những loại đèn khác tôi vẫn có thể bật. Trong khi nàng lịm sâu vào giấc ngủ, thì tôi nằm bên cạnh, rồi ngắm nàng. Tôi hoàn toàn có thể hôn nàng, hít hương tóc, hoặc nghịch ngợm những ngón tay nàng bằng răng và lưỡi. Mùi cơ thể nàng nhiều lần khiến tôi phát điên. Nàng thở chậm và khẽ, hệt như vây con cá vàng. Nếu đèn ngủ được thắp. Màu vàng nhẹ của đèn sẽ làm nàng đẹp hơn. Như mọi ngày, và đã thành niên biểu, tôi chỉ có thể nhìn nàng bằng ánh trăng hắt vào từ cửa sổ. Hay từ cây đèn bàn nhỏ phía bàn. Thứ màu lành lạnh, trắng đục như tường nhà đá. Tôi ghét phải đốt loại đèn này trong buồng ngủ. Nhưng thà thế, còn hơn để bóng tối giương oai, thổi nơi này vào hũ mực. Từng một lần, mùi cơ thể nàng lan tỏa và khiến tôi mê mẩn. Nụ hôn của tôi có mạnh bạo hơn. Tôi ghì nàng. Lần đấy, miệng tôi ngấu nghiến lên mặt nàng như loài gặm nhấm. Rồi, nàng thức tỉnh. Nàng chẳng xô tôi, cũng không hồi đáp cơn điên cuồng của tôi bằng một nụ hôn hay cái xiết ôm. Nàng chỉ nằm đấy. Phó mặc thân mình cho tôi.
Tôi không thể nhìn vào cặp mắt nàng thêm một giây nào. Nếu mắt nàng vằn lên những tia giận dữ, hay nhíu lên như quở trách thì tôi đã biết mình mắc tội. Mắt nàng. Hoàn toàn thờ ơ. Hệt như chưa có gì xảy ra. Hệt như nàng đang bị bóng đè. Cũng hệt như chưa hề thấy tôi.
“Đã muộn rồi, sao anh không ngủ.” – Nàng nói.
“Có phải…”
Tôi ngắt giọng mình lại. Nàng nói rằng tôi cần phải đi ngủ. Sau đấy nàng không ngủ lại.
“Anh muốn ăn gì không.”
“Anh sẽ ở đây. Bên cạnh em.”
“Em nhớ là tủ lạnh và chạn không còn gì ngoài mỳ ăn liền và đồ hộp. Phố mình không có quán ăn đêm.”
“Chúng ta là một đôi phải không?
Nàng gật và nói rằng tôi và nàng đã kết hôn.
“Đều vì tình yêu!”
“Vâng, tình yêu…”
“Nếu anh khó ngủ, em sẽ đi lấy thuốc ngủ.”
“Đâu cần đến thuốc ngủ. Một lát là anh ngủ thôi.” – Tôi tắt cái đèn bàn. Ngọn sáng cuối cùng trong phòng bị thổi vào đêm. Nàng có lẽ đã ngủ lại. Còn tôi cũng ra khỏi buồng. Bây giờ, tôi lại thấy đói.
Sau giấc ngủ dài. Bởi cơn ngái ngủ, hoặc bởi mấy viên thuốc. Nàng tỉnh giấc.
Tôi ngủ rất ít. Và thường khó ngủ. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc dùng đến thuốc ngủ. Ngay đến những loại an thần nhẹ, tôi cũng không động đến. Những bài Yoga không giúp tôi dễ ngủ. Tôi từng đếm đến hàng nghìn con cừu. Giấc ngủ chưa chấp thuận tôi. Rượu, rồi nhạc nhẹ. Tôi vẫn trằn trọc. Sau một cái cựa mình, thì tôi choàng tỉnh, và biết mình đã ngủ một giấc.
Tôi tránh hỏi nàng về mấy giấc ngủ. Nàng sẽ đưa tôi mấy viên thuốc ngủ chết tiệt.
Tôi nhận được một cuộc gọi từ nhà mình. Số 043…Điện thoại bàn. Dì tôi cầm máy. Tôi chào dì, và dì hỏi thăm tôi. Một câu “Khỏe” và kết thúc màn chào hỏi. Dì nói rằng cần tiền. Bệnh của mẹ tôi. Tiền học mấy đứa em. Chuyện nợ nần của dì. “Con sẽ lo.” – Tôi nói. Rồi dì khóc. Tôi gác máy trước khi dì kịp òa lên, và mếu máo.
“Làm việc đi thôi.” – Tôi nói – “Hãy là một Business siêng năng.”
*
…Con người mất bao nhiêu lâu cho một giấc ngủ. Một ngày, tám tiếng. Nhiều hơn chút, thêm vào vài chục phút khi ngồi xe Bus. Một ngày ngắn, và những giấc ngủ cụt ngủn. Có thể thành giấc không khi mỗi người còn âu lo về ngày hôm sau. Những người lao động luôn có một giấc ngủ nhanh. Giống như cái đồng hồ được cài sẵn. Họ nhắm mắt, rồi chui tọt vào giấc ngủ. Chỉ một tiếng động vừa phải, là họ thức ngay. Nghĩa là họ còn chưa ngủ. Họ còn nghe ngóng. Về sự an toàn của gánh hàng, về một vị khách sẽ giúp họ bán hết hàng. Họ ngủ nhanh, và thức cũng mau. Hàng ngày tôi gặp biết bao người ngủ vội vã như vậy. Nhiều cấp dưới của tôi đã kết thúc nhanh bữa trưa, để tìm một góc để ngả lưng. Ngủ gật trong giờ làm, hoặc xin cáo về sớm, chỉ để ngủ. Tôi luôn tự hỏi, họ mơ thấy gì. Hay cũng như tôi, họ chẳng mơ được gì. Họ li bì khi giấc ngủ gọi họ vào. Bởi họ đổ quá nhiều mồ hôi cho một ngày, nên họ chỉ muốn gục vào gối. Rồi lịm đi như đang chết lâm sàng. Tôi từng nghe, một anh chàng đang ôm hôn người yêu thì thấy cô nàng đã ngủ khò. Tôi không cần đến thuốc ngủ. Nàng thì uống nhiều. Mỗi ngày bốn viên. Có khi hơn. Nàng không nói về giấc mơ của mình. Và tôi, chẳng nghĩ rằng nàng mộng thấy Công Chúa hay Hoàng Tử. Chỉ một giấc mộng về xứ Alice thôi, có lẽ tôi sẽ thấy nụ cười của nàng vào mỗi sáng, khi nàng ngủ dậy…
Tôi có anh trai, vào mười năm trước. Giờ, tôi chỉ nhìn thấy anh mình vào ngày dỗ. Hai nhăm. Đấy là tuổi chết anh tôi. Giờ, tôi ở đúng cái tuổi đấy. Hai mươi nhăm. Một chiếc xe tải phanh không kịp, cái trượt chân từ tầng thượng, cú đốt chí tử của rết hay bò cạp, trở thành bã thịt trong cuộc đồ sát nhầm của xã hội đen…Những thứ đấy chẳng cướp anh tôi đi. Một trăm viên thuốc ngủ. Và gia đình tôi phải đeo khăn trắng. Người ta tìm thấy xác anh ở nhà kho của ký túc xá. Cái nhà kho số 36. Tôi nhớ mãi con số đấy. Hai mắt đóng hẳn, tứ chi duỗi theo thế nằm, gương mặt thật thư thái, thật bình an. Đấy là anh tôi. Một giấc ngủ sâu. Như tôi được nghe lại. Quá sâu. Và không tỉnh nữa…
Hôm nay, Jin gọi cho tôi. Một ngày thứ năm. Tôi chật vật với các dự án và mẫu thiết kế. Hàng chục cuộc điện thoại. Cấp trên, đồng nghiệp, bạn làm ăn, đối tác…Ngày hôm đấy tôi đã uống ba cốc café. Cuộc hẹn với Jin tôi không bỏ. Chỉ là vài tiếng hàn huyên. Jin nói rằng muốn gặp nàng. Tôi đã gọi cho nàng. Sáu cuộc điện thoại. Sáu mối quan tâm bất thành. Vì không nghe thấy tiếng nàng, tôi đã lái xe về. Nàng còn đấy. Còn trong giấc ngủ. Tôi còn hớp được hơi thở của nàng khi áp miệng lên mũi nàng. Một nụ hôn, nhẹ, lúc nàng trở mình, thì tôi đi.
Quán rượu nhỏ không biển. Vẫn là nó. Quán đông, và đâu đâu cũng thấy những khuôn mặt khả ố. Lúc tôi đến, Jin đã ở đó. Tôi không biết sẽ có một tên ria mép nào đến chỗ Jin không. Chỗ ngồi của Jin chưa có thứ gì. Nhưng tôi ngửi được mùi thuốc lá và rượu mạnh.
“Chàng trai lịch lãm đến rồi.” – Jin nói và kéo tôi ngồi bên cạnh. Sau đấy, Jin dựa đầu vào vai tôi, nhưng rồi Jin ngồi thẳng lại.
“Ái chà! Cô nàng của anh sẽ điên lên mất. Em chẳng mong bị nện guốc vào đầu đâu.”
Tôi nói nàng không đến. Ngồi một lúc. Jin hỏi về nàng. Một cô gái đẹp, và mê ngủ. Tôi đã dừng lại khi nhớ rằng những điều này tôi đã kể với Jin trước đấy. Ngồi cạnh tôi, nhìn tôi, và uống cốc nước của tôi. Dường như Jin chẳng bỏ sót lời nào của tôi.
“Chucky(1) không dọa nổi cô ấy, vì cô ấy ngủ rồi.”
“Trong lúc nằm thử giường ở trung tâm mua sắm, nàng ta đã ngủ luôn phải không?”
Tôi gật, rồi Jin cười. Rồi, tôi dừng nói về nàng. Luôn là những giấc ngủ. Nàng đã mê mệt việc ngủ rồi.
“Anh đọc Kawabata bao giờ chưa? Ông ta có một cuốn tiểu thuyết viết về những cô gái ngủ li bì.”
“Rồi họ tỉnh lại chứ.”
“Một trong số họ đã chết.”
Sau đấy, tôi không nói thêm câu nào. Tôi chỉ ngồi. Và, tôi đã ôm lấy Jin. Rất chặt. Dường như Jin đã hôn tôi. Miệng tôi ấm hơn khi môi Jin kề vào. Hơi thở của Jin thấm vào tôi. Những ngón tay của tôi và Jin đan vào nhau, và bện chặt lại.
“Tối nay, em sẽ ngủ say.” – Jin nói, rồi vuốt lên mặt tôi. Jin vuốt rất từ từ, dù thế tôi vẫn thấy rát vì những móng tay quá dài, cứng và sắc. Môi Jin đã gần kề. Tôi tránh nụ hôn đấy.
“Một cô gái nóng bỏng, và một chàng lùn phong lưu. Cuộc đời thật đẹp.” – Lão già ở quầy pha chế rượu nói. Mấy người khách quanh đấy đến, gọi rượu, rồi về bàn. Một tên bồi bàn làm đổ rượu vào người một người. Một quả đấm, rồi thì tên bồi bàn đo đất. Người trong quán đã dìu hắn đi.
“Ông nên về ngủ đi.” – Jin nói với lão bồi bàn.
“Một giấc ngủ sẽ quật ngã tôi ngay. Phải thức mà hưởng thụ chứ.” – Lão pha chế rượu nói.
“Ông hưởng thụ được gì rồi.” – Jin nói, và mở bao thuốc, rút một điếu. Một cái rút tay thật nhanh, lão pha chế đã có bật lửa và mồi lửa cho Jin.
“Phục vụ cho các cô gái.” – Lão nói, và cười. – “Nhìn những đôi tình nhân âu yếm, uống một chút rượu. Cô nghĩ thú không?”
Tôi giơ nắm đấm trước mặt lão pha chế. Lão nói “Một quả đấm, răng rụng, và tao sẽ đau. Tao sẽ đánh trả. Tao sẽ thua hoặc mày thua. Đời vậy mới thú.” – Lão cười. Khách trong quán cũng cười theo.
Tôi kéo Jin ra khỏi quán. Trời tối, tôi phải về.
*
Một cốc sữa nóng vào sáng sớm sẽ giúp nàng tỉnh táo hơn. Tôi pha liền hai cốc. Nàng dậy sớm hơn tôi những mười lăm phút. Mười lăm phút sau, tôi vẫn thấy không nàng. Nàng không đáp lại tiếng gọi của tôi. Hôm qua nàng nói chóng mặt. Rồi nàng nôn. Sau đấy nàng vào nhà tắm. Lúc ra, nàng vẫn chưa thấy khá hơn. Tôi bảo nàng nên đi khám. Nàng lắc, nói rằng muốn ngủ. Nàng nằm, rồi lại dậy. Nàng dùng thuốc ngủ. Một hai viên gì đấy. Nàng ngủ được. Bây giờ, nàng lại đang tìm chúng. Thuốc ngủ của nàng. Hộp y tế nàng lục tung ra. Bông, Oxy già, Panadol, rồi mấy lọ B1 đều bị tháo nắp. “Đâu mất rồi!” – Nàng nói, rồi mở hết ngăn kéo. Giọng nàng hoảng hơn. Lúc tôi lấy đi hai lọ thuốc, thì vẫn còn một lọ nữa. Trong mớ hỗn độn dưới đất, tôi thấy lọ thuốc ngủ đó. Tôi đưa nó cho nàng. Và nàng đã gạt đi. Cú vung tay của nàng rất mạnh, và, lọ thuốc bay mất.
“Thuốc của em đâu!” – Nàng la lên, rồi chợt hụt hơi, và ngã xuống sàn.
Tôi đỡ nàng vào ghế. Sắc mặt nàng rất xấu. Mắt nàng lờ đờ. Mặt nàng xanh, gò má hốc hác như thiếu máu. Những viên thuốc ngủ. Nàng vẫn tìm chúng. Hôm qua nàng đã ngủ cả ngày rồi. “Ngủ thế thôi.” – Tôi nói, thật từ từ – “Em đã quá lạm dụng thuốc rồi.”
“Không đâu. Em cần phải ngủ. Thuốc của em đâu?”
“Em vừa hất chúng đi.”
“Không giống thuốc của em.” – Nàng nói – “Chúng đâu rồi.”
“Ngủ thế chưa đủ sao. Nào, sáng rồi đấy, ăn sáng rồi anh sẽ dẫn em đi đâu đấy.”
Tôi ôm nàng. Hơi thở nàng yếu đi. Khi tôi ôm chặt hơn thì nàng giẫy mạnh, và thoát khỏi vòng tay tôi. Nàng đã ăn sáng, uống sữa theo đúng ý tôi. Và sau đó, nàng lên phòng và nói cần ngủ.
“Nếu em không đi cùng anh thì hãy đến chỗ làm.”
“Em đã bị sa thải.”
Tôi không hỏi thêm, dù nàng đang cố giải thích lý do mình mất đi công việc. Một lúc lâu, tôi không nghe thấy tiếng nàng. Chỉ còn lại tôi dưới này. Đã trễ giờ làm. Cốc sữa của tôi còn đấy. Nó đã nguội hẳn.
Rồi thì, hàng chục cú điện thoại gọi đến tôi. Nhiều cuộc hẹn của khách hàng, đối tác. Dì tôi một lần nữa gọi và kể với tôi về mấy tên du côn đòi nợ thuê. Mấy món đồ đạc bị phá, bị khuân đi, thương tích này nọ…Lúc này đây, tôi chỉ muốn ngủ một giấc.
Lúc sau, nàng xuống nhà. Nàng đã nghiêm chỉnh áo xống. Không trang điểm, chẳng đeo nữ trang. Nàng mang theo ví, rồi nói sẽ ra ngoài. Nàng sẽ mua thêm thuốc ngủ. Như nàng nói, nàng chưa ngủ lại được. Tôi gọi nàng vài câu. Nàng cười đáp, rồi nói “Em sẽ về sớm. Em sẽ dọn nhà, giặt quần áo của anh và nấu cơm tối.” Thế rồi nàng đi. Đến hiệu thuốc của nàng. Tôi chẳng gọi thêm tiếng nào. Dù, chỉ để nàng quay lại, nhìn tôi. Nàng vẫn rạng rỡ. Dù mặt nàng có xuất hiện những sẹo lồi, hay tàn nhang thì nàng vẫn là thần vệ nữ của tôi. Chỉ là da mặt nàng thô rám quá, hai mắt trũng sâu, và khi nói thì luôn khó thở. Nụ cười của nàng như đóa hoa bị rút hết mật, bị tống vào cái tủ kính màu đen.
Điện thoại reo. Ôi, giờ tôi muốn đập béng nó đi.
*
…Mười một. Tôi nhẩm không sai. Mười một. Số mười một. Mười một công việc. Và mười một lần sa thải. Nàng chưa ổn định vào một nơi nào cả. Nhân viên bán hàng, phó nháy, trực điện thoại, lễ tân…Chẳng bao giờ nàng trụ quá một, hai tháng. Tôi từng giới thiệu vào nàng làm cùng cơ quan tôi. Một công ty về quảng cáo thương mại. Nhân viên in ấn, photo tài liệu, đánh máy hoặc trực thang máy. Một vài tuần, và chính tôi phải gật gù với quyết định sa thải nàng. Nàng đã ngủ trong giờ làm việc. Giấy tờ bị cháy khét vì kẹp dưới máy photo quá lâu. Bê trễ việc gõ lại văn bản bằng một giấc ngủ chừng mười lăm phút. Mười lăm phút, chỉ thế, và, công việc hỏng hết. Tôi không biết nàng có mang theo thuốc ngủ khi đi làm không. Có thể có hoặc không. Nàng không kể, và tôi cũng chẳng gặn hỏi. Một lần, tôi đã phải bồi thường cho cửa hàng bánh Nhật Bản, nơi nàng làm hàng chục triệu. Một giấc ngủ gật giữa giờ làm. Và chính nó, đã kéo sương phủ lên nàng. Rồi, cũng chính nó chỉ lối để kẻ lạ hành ác. Tên đấy cuỗm đi hết tiền bạc ở quầy thu ngân. Điện thoại, cái Ipad của nàng, rồi nhiều ổ bánh đắt tiền cũng bị lấy đi. Một nhân viên khác đã gọi nàng dậy. Tôi còn nhớ. Nàng chẳng hoảng gì. Những tiếng thút thít, tiếng gào rống, rồi hô hoán không làm nàng tỉnh ngủ. Tôi cược, nếu không một ai cuống cuồng như vậy, nàng sẽ lại ngủ. Mọi việc suôn sẻ khi tôi bồi thường mọi thiệt hại. Nàng bị sa thải. Tôi nghe người trong cửa hàng dặn phải trông chừng nàng tốt. Một nàng công chúa mơ màng. Ôi, nếu nàng say sưa vào một giấc ngủ kéo dài nhiều năm thì sẽ tốt hơn. Không con rồng nào canh chừng. Nhưng tôi sẽ đến, và đánh thức nàng bằng một cái hôn…
Jin chưa gặp nàng. Tôi cũng chẳng mong có cuộc gặp mặt giữa hai người. Ở quán rượu, hoặc ở bất cứ đâu không cấm uống rượu, thì tôi và Jin đều uống. Những khi nàng từ chối, hoặc làm tôi điên đầu bằng cách nằm câm lặng trên ra giường như một cái xác, thì tôi tìm đến Jin. Thật tồi nếu nghĩ Jin là sự giải khát tạm thời. “Anh có thể đến chỗ em, lúc nào cũng được…”- Jin nói với tôi. Và tôi. Đến chỗ Jin không phải vì câu nói đó. Chúng tôi đã có những cuộc say xưa cùng nhau. Nỗi thèm muốn nhục thể. Không hẳn. Hai chúng tôi chỉ đang điên loạn trong cơn đói đã kéo dài nhiều thập kỷ. Đón nhận cơ thể nhau bằng những cái cắn xé, những cái hôn quá cuồng bạo đến bật máu, những cú đè nghiến, ghìm chặt. Sau đấy, Jin ôm lấy tôi mà ngủ. Còn tôi thức.
“Giờ này cô ấy có ngủ không?” – Tôi nói.
“Cho đến lúc này, trong đầu anh vẫn còn cô ấy.” – Jin đáp. Mặt Jin vẫn áp vào ngực tôi.
“Cô ấy chưa bao giờ gục vào ngực tôi cả. Đêm tân hôn. À, Jin có muốn nghe nữa không.” – Một phút trôi đi. Tôi nói tiếp “Cô ấy rất đẹp. Khách khứa đều chúc phúc cho bọn tôi. Một đám cưới tuyệt nhất với người con gái tôi yêu. Đêm đấy, tôi đã có được cô ấy. Nhưng Jin này, liệu cô ấy có đón được cơn si mê của tôi không. Trong khi ngủ ấy.”
“Vậy là, cô ấy đã uống sẵn thuốc ngủ, rồi để mặc mọi thứ cho anh?” – Jin lên tiếng.
Tôi chỉ gật đầu. Không rõ Jin có dõi theo cái gật đầu của tôi không. Một phút nữa lại trôi mất. Jin ngồi dậy, rồi cứ trần truồng thế ngồi ở bàn. Chai vang đỏ được rót ra cốc. Jin hớp một ngụm nhỏ.
“Em chưa bao giờ ngủ nhiều được như cô vợ anh.” – Jin nói.
“Tôi cũng chẳng ngủ được nhiều.”
“Ở bên anh thì em ngủ được. Một chốc, rồi em sẽ dậy. Anh còn nhớ bữa uống chia tay ở quán rượu nọ không. Anh đã say mà gục, còn em thì tỉnh lắm.”
“Tôi nhớ Jin đã gục trước mà.”
“Anh đã nôn phải không. Rồi còn khóc rất to.”
“Jin đã ngủ trước, và tôi không khóc, không nói gì cả!”
“Được rồi, anh không khóc. Em đã ngủ, và dậy trước anh.”
Jin uống tiếp. Tôi nói thêm về nàng. Chẳng biết Jin nghe không, nhưng tôi vẫn nói. Tôi kể về mấy kỷ niệm giữa tôi và nàng. Ngày tôi mua tặng nàng sợi dây chuyền đính hồng ngọc. Một lâu đài cát thật lớn do tôi và nàng cùng đắp, nhưng thật không may, thủy triều đã táp sập nó. Chuyến du lịch Tuần Châu. Tôi và nàng thuê riêng một du thuyền. Sóng lớn. Gió cũng lớn. Tôi cùng nàng đứng ở mũi thuyền. Một chốc, tôi tự dừng câu chuyện của mình lại. Jin vẫn ở đó. Vừa rót rượu uống, vừa nhìn tôi. Mắt Jin trầm ngâm, nhưng cũng mang vẻ mê đắm. Nếu nhìn vào mắt Jin, tôi sẽ chỉ thấy hình mình. Và sao vậy nhỉ, tôi chẳng muốn tiếp tục chuyện về nàng nữa. Jin vẫn im lặng. Rồi Jin uống rượu. Nếu còn thuốc lá, chắc Jin cũng châm một điếu. Tôi ôm đầu. Nghĩ ngợi một hồi, tôi lẩm bẩm cái gì đấy. Hết lẩm bẩm, tôi lại nghĩ về điều mình vừa lầm bầm ở miệng. Jin ho. Dường như là bị sặc rượu vì uống ngụm lớn, hoặc do trời trở lạnh trong khi Jin vẫn lõa lồ. Xuống giường, tôi mang theo tấm chăn mỏng và khoác cho Jin. Thấy như chưa đủ, tôi ôm Jin. Từ đằng sau, và bằng cả hai tay.
“Vòng ôm này ấm thật. Phải nó dành cho em không?”– Jin nói, và đôi tay tôi nới lỏng.
Điện thoại đổ chuông. Tiếng réo từ túi cái quần kaki treo đầu giường. Nhạc vang ngắn, rồi tắt. Một tin nhắn, một cuộc gọi vội, hay đơn giản chỉ là nháy máy. “Anh phải đi!” – Tôi nói, rồi mặc lại quần áo. Jin nhìn tôi, rồi lại ho. Tôi nhận ra Jin đang giả vờ. Lúc ra cửa, tôi thấy Jin rời khỏi bàn. Jin đến cái tủ nhỏ trong phòng. Mở một ngăn kéo.
Chưa lúc nào tôi thấy nhà mình bừa bộn thế. Các tủ bàn bị kéo dài tới mức đổ sập xuống, đè lên nhau. Sách báo bừa bộn dưới sàn. Cái đèn phòng khách vẫn bật. Bát đĩa, rồi hai cốc sữa trên bàn phòng khách còn đấy. Hiện trạng hệt như một ngày trước, lúc tôi ở đây. Bây giờ khác hơn, vì có bụi bẩn, đáy cốc có kiến, và có mùi lên men. Tôi gọi nàng từ tầng dưới. Nàng không đáp. Tiếng gọi thứ hai vừa dồn lên cổ thì tụt đâu mất. Đã chiều muộn nhưng ngoài trời vẫn sáng. Nắng còn rọi. Mặt trời đã nguội lửa. Khi khí nóng kiệt quệ, mặt trời sẽ trôi về đằng Tây. Tôi bật sẵn đèn. Chỉ đèn cầu thang. Rồi tôi lên phòng ngủ. Trước đấy, tôi thấy những lọ thuốc nằm lăn lóc dưới sàn. Thuốc cảm, hoặc thuốc hạ sốt. Đi mấy bước, tôi lại trở xuống. Tôi đến chỗ Jin.
*
“Jin đang làm gì!” – Mỗi lần gặp Jin tôi lại hỏi thế. Ngày gặp lại Jin tôi cũng đã hỏi thế. Tôi không nhớ Jin trả lời thế nào. Cũng có thể Jin chẳng nói gì, còn nếu có, thì tôi quên rồi. Jin không có nhà riêng. Chỗ Jin ở chỉ là một nhà thuê, giá bèo bọt dù nội thất cũng tiện nghi và ở mặt đường. Mấy bộ quần áo Jin mặc đều khá bắt mắt. Có váy, có áo xẻ, có bộ cánh kiểu Pháp. Chỉ là hàng chợ, vì chất vải quá thô và xuềnh xoàng. Chắc Jin mua nó ở chợ đen hoặc một cửa hàng thanh lý. Chẳng thấy Jin nhắc về công việc hiện giờ. Tôi đoán Jin đang thất nghiệp.
Tôi từng nghe Jin kể về nhiều mối tình. Năm hoặc sáu gì đấy. Thời tôi làm cùng Jin, Jin đã có một chàng trai bên mình. Mối tình đấy chẳng kéo dài lâu. Tôi vẫn luôn hỏi Jin rằng “Thấy sao sau mỗi lần kết thúc một mối tình.” – “Uống rượu cả chai! Chẳng đau đớn gì đâu, chỉ là một bữa rượu tống tiễn.” Tôi vẫn nghĩ Jin đùa, nhưng không. Jin nói thật.
Quán rượu này tôi chẳng muốn quay lại. Thế nhưng Jin đã có yêu cầu. Rằng phải đúng quán này. Đúng chỗ sát tường, nơi nhìn được ra quầy rượu. Ngày hôm nay quán không đông lắm. Cái lão pha chế rượu luôn cố bắt chuyện với Jin. Cái nụ cười trồi hết răng làm tôi thấy ớn. Miệng gã luôn bô bô những điều khiếm nhã. Nhưng rồi gã chẳng làm gì hại đến Jin. “Rượu nào cũng được.” – Tôi nói với Jin. Rồi Jin chọn một chai rượu không ghi mác. Lúc uống tôi mới biết chỉ là Uýtki, nhưng có pha tạp.
“Uống say sẽ dễ ngủ hơn đấy.” – Jin nói.
“Mong là như thế.” – Thực ra tôi chẳng mong thế dù lúc này cơ thể tôi đã bải hoải vì thiếu ngủ.
Jin định nói gì đấy. Tôi không định hỏi. Chúng tôi im lặng. Chỉ chai rượu là vơi đi. Lúc trước tôi có nhận được mấy tin nhắn từ chỗ làm. Một cộng sự đã quở trách việc tôi bỏ làm. Hôm đấy, tôi được phân đi gặp một đối tác người Nhật. Dù đã có người thay tôi nhưng vì không rành việc, nên đã không kí được hợp đồng. Tôi cần phải kiểm điểm. Trong danh bạ, tôi lục thấy những cuộc gọi của dì. Nàng không gọi, nhưng đã nhắn tin. Tôi không nhớ tin nhắn đến lúc nào, chỉ biết nó có trong máy. “Em đã mua được thuốc…” – Tôi chỉ nhớ đến thế. Đúng hơn, tôi chỉ đọc đến đấy. Một cái dốc chén. Rượu chui cả vào họng. Vì uống gấp, tôi gần như sặc, nhưng rồi cũng nuốt hết vào bụng. Jin nhìn tôi. Cái tia mắt này, tôi không lý giải nổi. Chẳng buồn, chẳng vui, không trầm tư, không hờn dỗi, cũng chẳng thể nói là đang phân tâm vào một ngoại cảnh trong đầu. Tôi muốn hỏi Jin quá. Nhưng thôi. Lúc này bọn tôi đang uống rượu kia mà. Xung quanh nhiều cặp mắt có ngó vào, hoặc không. Tên ria mép có đến không, và có thấy Jin không? Rồi lão pha chế rượu nữa? Nếu một cái ôm chặt, có thể làm ấm hơn thì tôi và Jin sẽ tìm đến nhau. Lúc Jin ngáp, tôi la lớn. Jin hỏi, và tôi lắc. Rượu rót tiếp.
“Lúc anh gọi, em còn chưa ngủ đâu.” – Jin nói. Tôi định nói gì đấy, nhưng lại thôi. Jin nói tiếp phần của tôi. Điều Jin nói làm tôi chú tâm ngay. “Anh sợ đúng không? Khi gọi đến ba tiếng mà em chưa dậy. Em chẳng ngủ. Dù lúc dựa vào anh, em muốn ngủ thật.”
“Sợ gì chứ. Chỉ là…”
“Chỉ là anh sợ thôi.”
Một lúc, Jin nói “Em sẽ chẳng giống cô vợ ngủ của anh đâu. Em đâu có nghiền Benzo.”
“Gì cơ?” – Tôi hỏi. Jin nói “Lọ thuốc ngủ mà anh đưa em. Anh lấy của vợ phải không? Thuốc trong đấy là Benzo.” Jin chợt dừng, rồi chợt tiếp tục “Anh yêu vợ mình phải không. Dù anh không gọi tên, nhưng em biết anh đang gọi cô ta. Em nhớ mãi vẻ mừng rỡ của anh khi em tỉnh dậy. À không, khi vợ anh tỉnh dậy. Chỉ là…” – Tôi chỉ nghe đến thế. Jin gục xuống. Đầu Jin gối lên khuỷu tay. Tóc Jin xõa xuống. Lúc này. Cũng như lúc nhiều năm trước.
Jin ngủ, còn tôi thức.
Tôi không định đánh thức Jin. Chai rượu hết rồi. Tôi không gọi thêm. Lúc bồi bàn nhìn tôi, tôi lắc ra hiệu đã uống đủ. Những người phía bên kia đang gọi rượu. Một số tay bợm lăn lóc dưới sàn, dựa vào tường mà ngáy. Tôi dựa tường, rồi lại nhỏm dậy. “Cũng chỉ là cô ấy thôi.” – Tôi nói – “Jin ơi!” – Tôi gọi, và tôi khóc. Chẳng biết mắt tôi có tuôn lệ không nhưng tôi đang khóc. “Nàng ngủ suốt, kể từ hôm đấy.” – Tôi lại nói – “Jin ơi! Tôi tìm ra nàng trong căn phòng đủ loại đèn. Một cái phòng lộn xộn, cứ như nhà kho. Đèn nhiều quá, Jin ơi. Mấy mảnh áo, khuya áo. Chúng nhàu nhĩ, tứ tung khắp nơi. Cái thắt lưng, rồi quần. Tôi thấy máu nữa. Jin biết không? Tôi hoảng lắm. Rồi tôi thấy nàng ở trong xó. Nàng nằm đấy. Không thấy nàng thở, một nhịp run cũng không. Mắt nàng mở trừng, hết cỡ, như cá chết. Người nàng lạnh lắm. Rồi nàng nói với tôi là vuốt mắt cho nàng. Tôi làm theo, nhưng mắt nàng vẫn bật mở như lò xo. Tôi đã che mắt nàng lại. VẪN THẤY nàng nói thế Jin ạ. Ôi, từ đấy nàng thành Hồng Hoa công chúa(3)…”
Rồi sau đấy, dường như tôi đã ngủ gục. Tôi nói quá nhiều hoặc khóc quá nhiều. Có thể lắm, nếu tôi đã gọi thêm một chai và nốc một mình.
*
Khi tỉnh giấc, tôi biết mình đã ngủ. Vẫn quán rượu, vẫn chỗ này, vẫn cái bàn còn vỏ chai, và cốc. Không thấy Jin đâu. Tôi nhìn quanh, vẫn không thấy Jin. Tôi cố nhớ nhưng không được. Lúc ra quầy thì người ta bảo Jin đã thanh toán rồi. Thế nghĩa là Jin đã đi rồi.
“Cô ấy thương mày lắm đấy.” – Lão pha chế vỗ vai, rồi bấu ngón tay, hồ như muốn tôi đứng lại.
“Sao biết!” – Tôi nói.
“Lúc mày ngủ, mày rên rỉ ghê lắm. Cô ấy ôm mày, xoa đầu, lưng, hôn trán rồi hát ru. Cứ như mẹ hiền.”
“Thế sao.”
“Cô ấy bảo là cô ấy tỉnh ngủ rồi. Còn nhắn lại với tao bảo mày dậy đi.”
“Mày này! Tao tưởng tao thức, hóa ra tao lại ngủ. Thế theo mày tao thức chưa, hay còn ngủ?” – Tôi không đáp lời lão. Vì tôi đi rồi. Còn lão, vẫn lèm bèm đằng sau. Đúng thật lão ta già quá rồi.
*
Jin.
Jin thức, còn tôi ngủ?
*
Một hiệu thuốc còn mở. Tôi vào và hỏi về Benzo. Bà dược sỹ nheo nheo mắt rồi hỏi về đơn thuốc. Tôi nói không có. Rồi bà ta cũng bảo không có. “Thế còn Benzo?” – Tôi hỏi lại. “Không có đơn kê tôi không bán. Mà cai đi, rồi bỏ luôn đi. Chẳng tốt lành đâu?”
Tôi đi vài bước, nhìn quanh và cố nhớ đường về nhà.

TRU SA

(1) Chucky: Tên của con búp bê giết người trong dòng phim Ma Búp Bê.
(2) Hồng Hoa công chúa : Tên gọi khác của “công chúa ngủ trong rừng” trong truyện cổ Grim

BẢN ÂM

 

trusa

Mấy ngày nay tôi luôn mất ngủ. Không hẳn là tôi thức trắng đêm bởi tôi vẫn dễ dàng tìm vào giấc ngủ. Tôi chỉ ngủ được mươi phút thì sực tỉnh bởi tiếng mèo kêu. Tôi chẳng chắc có phải mèo lạc hay mèo hàng xóm, vô tình nhảy lạc và không tìm được lối về. Tôi đã đóng chặt cửa sổ, chùm chăn lên đầu nhưng tiếng kêu vẫn rít vào tai tôi. Khó chịu hơn là con mèo đó cứ nhè phòng của tôi mà kêu. Đêm đầu tiên tôi đã thức trắng.

Ngày hôm sau con mèo vẫn đứng trên mái và nhả những tiếng kêu chói tai vào cửa phòng tôi. Tôi đã định lấy một vật gì đó ném lên mái nhà nhằm đuổi nó đi nhưng khi mở cánh cửa sổ thì tôi chẳng tìm thấy chỗ con mèo. Rõ ràng tiếng kêu vẫn văng vẳng nhưng tôi không cách nào phát giác được nó. Sau khi đóng chặt cửa sổ, tôi đã lấy chiếc Headphone đeo vào tai. Nhạc không lời thừa sự du dương để ru ngủ tôi nhưng lại chẳng ngăn nổi sự len lỏi khó chịu của tiếng mèo kêu. Tôi chuyển sang Disco với mức volum tối đa. Tiếng kêu giảm đi phần nào nhưng thay vì con mèo quấy, tôi mất ngủ bởi tiếng nhạc chát chúa.

Một tiếng trôi qua, con mèo vẫn tiếp tục tấu lên thứ âm thanh quái gở. Tôi không lạ gì tiếng kêu loài mèo. Tôi không nói tiếng kêu nhắc nhở chủ nhân về giờ ăn vì đó đã là một nhẽ. Những tiếng kêu thảm thiết, rơi vào kí tự “Ngoao..” kéo dài và vỡ vụn giữa không trung như thế này thường là của đám mèo hoang. Con mèo chỉ có một mình và cả buổi tối chỉ rống lên những tiếng cô độc. Có thể nó đang cất tiếng gọi đồng loại của mình, tôi mong rằng vài phút nữa sẽ nghe thấy tiếng kêu hồi đáp của một con mèo khác. Như vậy con vật này sẽ trả giấc ngủ về với tôi.

Bản tin cuối ngày khép lại mọi chương trình truyền hình. Truyền hình cáp đang chiếu các bộ phim hành động. Kể cả khi tìm được chương trình mình yêu thích thì tôi cũng khó lòng xem một cách thoải mái. Con mèo kia vẫn ngự gần cửa phòng và quấy nhiễu tôi bằng tiếng kêu đáng nguyền rủa.

“Con chưa ngủ à?” – Cha tôi gọi cửa.

Tôi không đáp lời. Cha tôi gọi cửa thêm lần nữa, lần này ông nói lớn hơn. Cánh cửa vẫn khóa trái.

Tôi với tay tắt đèn. Cha tôi không gọi cửa nữa. Đợi thêm tầm mười phút, khi chắc chắn rằng ông ấy đã xuống nhà tôi mới bật đèn sáng trở lại.

Sau gần trăm cái hít đất cơ thể tôi bắt đầu mệt nhoài. Cặp mắt tôi từ chập tối đã nặng trĩu để sẵn sàng cho một giấc ngủ. Tôi là người dễ ngủ nên việc thức khuya quá thế này chẳng khác gì một cực hình. Có lẽ tập trung vào cái gì đó sẽ khiến tôi quên đi con mèo. Tôi với cuốn tạp chí phía góc tủ và bắt đầu đọc.

Trang nhất có đăng hình một người đàn ông. Người này rất giàu và có tiếng tăm.

Cách nhà tôi vài dãy phố có một cơ ngơi nhỏ của ông ấy.

*

“Tao không nghe thấy gì cả, còn việc đổi phòng thì mày quên đi.” – Lời anh hai đã kết thúc mọi thương lượng.

Phòng anh hai dán chật cứng những bức tranh trừu tượng không màu. Tranh ảnh hay bất cứ thứ gì về nghệ thuật không bao giờ là niềm đam mê của tôi. Những bức tranh với đủ hình thù lập phương, chữ nhật này khiến tôi ngái ngủ, nhưng nếu cách ly được với tiếng con mèo thì đây sẽ là nơi trú ẩn tốt. Phòng tôi ở áp chót mái nhà nên nếu con mèo có gào lên tôi vẫn sẽ mất ngủ. Tầng hai chắc cũng nghe thấy nhưng âm thanh sẽ bị giảm đi nhiều vì tường ngăn giữa các tầng trong nhà thường rất dày, cũng bởi lý do này mà nhiều lần anh hai đã làm tình với bạn gái ngay trong phòng. Tôi chưa bao giờ có nhu cầu với đàn bà. Và thật lạ khi anh hai tôi lại lấy việc cuồng hoan làm một thú vui, một nhiệm vụ không thể bê trễ. “Mình lẩn thẩn mất rồi” – Tôi tự nói trong đầu – Tại sao gần đây lại suy nghĩ lắm thế nhỉ.”

Tôi kết thúc mọi suy nghĩ bằng lời yêu cầu về việc nhượng phòng.

“Em muốn thuê, anh ra giá đi.”

“Tao đã nói là không. Mà hôm nay mày sao vậy, không giống mày gì cả.”

*

Tôi không nhìn thấy con mèo đó, cho dù đã phải mạo hiểm leo lên mái nhà trong lúc nửa đêm. Tiếng kêu vẫn vọng quanh đây nhưng tôi không xác định được từ hướng nào.

Trước đó tôi có uống hai viên thuốc ngủ, giờ thì thuốc bắt đầu có tác dụng. Kê gối lên đầu, tôi bắt đầu giấc ngủ của mình. Quãng chừng mười phút thì tôi bị giật dậy bởi tiếng mèo. Tôi hoàn toàn tỉnh táo, hệt như vừa bị ai đó dội nước lạnh vào. Hai viên thuốc có lẽ vẫn chưa đủ liều nên tôi đã uống thêm hai viên nữa, nhưng tình trạng cũng không khá hơn lúc trước là mấy. Giấc ngủ của tôi chỉ kéo dài thêm một lúc. Tôi dám chắc mình chẳng ngủ đủ nửa tiếng vì nếu như vậy, dù có bị dựng dậy bất chợt tôi cũng đã khỏe khoắn hơn. Chiếc máy nghe nhạc ở kia và tôi lại mở nó. Rock, Pop, Ballad, Disco…Có đủ loại nhạc nhưng chúng sẽ chẳng giúp tình trạng của tôi khá hơn. Tôi cũng không muốn ra đường giờ này. Đã một giờ sáng, mấy quán ăn gần nhà còn mở nhưng tôi không đói, cũng không muốn ngồi đó để nghe những câu chuyện vô bổ của các thực khách. Sau những tiếng “Ngoao…” nối dài, là một dãy những âm kêu nhỏ hơn. Chốc chốc, chỉ là tiếng “Meo…” thông thường. Rồi, cũng chỉ chốc lát con mèo chợt gầm gừ và gào rống như đang hú dưới mặt trăng. Tôi như bị chẻ xác trong tiếng mèo kêu.

Hôm nay anh hai tôi dẫn bạn gái về nhà. Giờ này nếu chưa ngủ có lẽ họ vẫn đang say xưa trong trò chơi thân xác. Người phụ nữ này có lẽ là một người khác, tôi cũng chẳng nhớ rõ lắm về bạn gái của anh hai. Với anh hai, người tình chỉ có một nhưng mang nhiều thân xác.
“Ngớ ngẩn thật.”- Tôi tự lẩm bẩm- “Mình lại nghĩ đi đâu thế này?”

Nằm trong chăn hồi lâu, tôi ngồi dậy. Tiếng mèo kêu vẫn xoáy vào lỗ tai, hồ như tôi chỉ nghe thấy mỗi âm thanh đó. Cái tiếng kêu này xuyên thấu vào tôi, tạo thành một luồng gió miên man bất tận. Xương cốt, thậm chí ngũ tạng tôi đều cảm nhận được sự hiện diện của nó. Việc mất ngủ quá lâu khiến tôi khó chịu. Đôi mắt tôi vẫn chưa thâm quầng nhưng những đường máu ở đồng tử đã vằn vện thành các nhúm rễ cây. Tôi dùng tới viên thuốc ngủ thứ năm. Tôi nằm lên giường, phủ tấm chăn, rồi cả cái gối lên đầu. Cái âm thanh đó vẫn chưa buông tha tôi. Con mèo đó, rồi tôi sẽ tóm được và bẻ gãy cổ nó để không bao giờ nó có thể làm phiền tôi.

Và cuối cùng, tôi lại phải tìm tới chiếc máy nghe nhạc vốn đã mở sẵn.

Một bản disco thật mạnh với volum ở mức tối đa. Tôi hát theo nhưng vì không thuộc lời nên tôi hát sai cả. Thường ngày tôi không thế này bao giờ nhưng ít nhất, vào lúc này cái trò kỳ quặc này sẽ giúp tôi quên đi tiếng con mèo.

*

Tôi xin nghỉ một ngày để chuẩn bị một cái bẫy. Tôi mua thật nhiều cá, loại vẫn còn tươi ở chợ về. Sau khi kho cá lên, tôi đã nhét vào trong bụng mỗi con vài viên bả chuột. Tôi sẽ rải số cá này lên mái nhà và gần bậu cửa sổ phòng mình. Chỉ cần con mèo đánh hơi và gặm lấy, dù chỉ một miếng, tôi đã có thể yên tâm mà ngon giấc. Để tránh trường hợp con mèo này quá tinh quái sẽ tránh phần dính bả chuột ra, tôi đã rắc lên mình tất cả con cá một lớp thuốc mê. Nếu chất độc không giết được nó thì nó sẽ gục ngã bởi cái bẫy thứ hai. Chỗ thuốc mê này quá đủ để nó phải li bì cả ngày và khi đó, với một con dao thật sắc tôi sẽ cắt phăng đầu nó đi.
Cha tôi nói về việc tôi kho cá còn tôi thì không đáp lời. Ngày trước nhà tôi có thuê người giúp việc để lo việc cơm nước, dọn dẹp nhà cửa. Mấy người đó chỉ làm được một tuần thì xin nghỉ. Tới giờ thì chúng tôi tự lo lấy việc ăn uống. Bữa sáng và trưa tự túc, bữa tối do tôi nấu hoặc gọi cơm bụi. Rất ít khi ba cha con ăn cùng mâm. Anh hai thường gom đủ cơm, thức ăn vào bát rồi mang lên phòng. Cha tôi thường đi đâu đó. Lúc tôi xong bữa cha về và bắt đầu bữa tối của riêng mình. Bát đũa ai ăn người nấy rửa.

Ngày hôm nay anh hai dắt một cô bạn gái khác về. Ả kém tuổi tôi và son phấn lòe loẹt. Gặp cha ả không chào, anh hai tôi cũng không nhắc ả về chuyện đó. Hai người cùng đi lên phòng. Tối nay tôi sẽ đợi con mèo sập bẫy, còn anh hai và ả kia cũng sẽ bắt đầu cuộc chơi của mình.
Mùi cá tanh nồng nặc khắp phòng. Tôi chẳng thể xịt thuốc khử mùi được vì rất có thể con mèo sẽ ngửi ra mùi lạ. Từ rất sớm tôi đã nghe thấy tiếng mèo kêu. Có một vài tiếng phàn nàn về mùi cá của hàng xóm. Con mèo đó đến sớm hơn mọi khi có lẽ một phần do ngửi thấy mùi thức ăn. Tôi không mở cửa, cả tối chỉ tập trung lắng nghe mọi động tĩnh ở ngoài. Kim đồng hồ đã nhích qua vài số nhưng đáp lại tôi vẫn chỉ là tiếng mèo rống. Thứ âm thanh này rít vào căn phòng và cứa vào màng nhĩ tôi. Tiếng kêu kéo thành từng chập, chẳng nghỉ lấy một giây. Vậy ra cái bẫy của tôi đã vô tác dụng.

Tôi đấm vỡ cửa kính phòng. Cánh cửa vỡ tung ra, các mảnh thủy tinh văng khắp nơi. Vì không còn sự che chắn nào nên mùi tanh xộc cả vào phòng và khiến tôi phát mửa. Hai hàm răng tôi nghiến lại. Một cửa kính vỡ, hay thậm chí toàn bộ cửa kính ở ngôi nhà này vỡ hết cũng không cách nào khiến tôi bình tâm trở lại. Tiếng vỡ của các mảnh thủy tinh đánh thức vài hộ gia đình nhưng lại chẳng đánh bật nổi tiếng con mèo kia. Nó vẫn ở gần đây và trêu ngươi tôi bằng tiếng kêu khốn nạn.

“Anh hai.” – Tôi đấm cửa phòng anh hai.

“Chuyện gì!” – Anh hai nói vọng ra.

“Anh có nghe thấy không, tiếng con mèo đó.” – Tôi nói thật lớn để anh hai không bỏ sót được chữ nào.

“Tao không nghe thấy gì.”

“Có mà. Em nghe rất rõ.”

“Gần đây mày sao thế. Lên phòng đi ngủ đi.”

Phòng anh hai vẫn mù đặc một màu đen. Không hề có tiếng người phụ nữ mà anh hai đưa về. Có lẽ sau khi thỏa thê anh hai đã tống cổ ả.

*

Mỗi ngày tôi chỉ ngủ được vài tiếng. Đấy là lúc tôi ngồi trên xe bus, vào giờ nghỉ trưa hoặc khi tảng sáng. Con mèo kia vẫn chưa chịu rời đi. Tôi đã hỏi thăm mấy người hàng xóm ở cạnh nhà, không ai nuôi mèo cả. Các khu phố khác thì đã có người bị mất mèo nhưng đấy là chuyện vài năm về trước. Việc dò hỏi mấy người này gần như vô ích vì tôi chẳng rõ con mèo đó trông thế nào. Những đặc điểm cơ bản về màu lông, kích thước hay chủng loại tôi đều không nắm rõ. Điều tôi rõ nhất là tiếng kêu của nó rất lớn. Một người đã nói với tôi rằng rất có thể đang mùa động đực và con mèo đó đang dùng tiếng kêu để thu hút bạn tình. Tôi đã xem một cuốn băng nghiên cứu về mèo thì thấy rằng tiếng kêu trong mùa động đực chói tai, thảm thiết hơn. Nếu nói là tiếng kêu của một con mèo lạc thì cũng không hẳn vì thường những con mèo đi lạc ít khi chỉ đứng một nơi kêu, vả lại tiếng kêu cũng bi thống, da diết hơn. Con mèo đứng trước của phòng tôi không nằm vào hai loại đó. Tiếng kêu của nó trầm đục và luôn kéo dài. Hồ như vang vào tai tôi thì vỡ vụn ra, tạo thành các mảnh âm với thứ tự lộn xộn. Với một người đã quá lâu sống trong im lặng như tôi thì đây chẳng khác nào một sự đày đọa. Cái tiếng kêu đó ngày một dày đặc và không chỉ vang vào hàng đêm nữa. Đã có lúc nó vang lên vào lúc trời sáng, lúc xế chiều, ngay cả khi đang tắm tôi vẫn nghe thấy. Rất có thể đây là một biểu hiện của căn bệnh tâm thần. Và tôi thường phì cười với cái suy nghĩ khôi hài này. “Mình nghe quá nhiều. Phải rồi, chỉ do mình phải nghe nó quá nhiều.”

Cách nhà tôi hai dãy phố có một khu công trình cao tầng đang xây dở. Toàn thể công trình đã được mười tầng. Nếu nơi này hoàn thiện thì chắc chắn sẽ trở thành khu chọc trời duy nhất của thành phố. Nhưng giờ thì nó đã trở thành một khu bỏ hoang. Tôi leo qua biển cấm để vào trong. Hàng tấn khối gạch đá xếp ngổn ngang, mùi vôi vữa, đất cát vẩn lên khiến tôi thấy khó thở. Đây không phải lần đầu tiên tôi vào đây, cách vài tháng tôi lại tìm đến đây.

Mây đen che mù trời.Trong màn mây âm u. nửa mảnh trăng lộ ra. Gió chỉ thoang thoảng, vừa đủ để làm dịch chuyển những chiếc lá cây. Tôi thật mong tới một trận gió thật mạnh thổi bay tất cả mây đen. Như vậy tôi sẽ có thể ngắm trọn vẹn ánh trăng cùng hàng ngàn ngọn đèn nhỏ đang nhấp nháy quanh giải ngân hà.

Tôi không nghe thấy tiếng của con mèo nữa nhưng một thứ âm thanh khác đã thế chỗ cho nó. Không phải tiếng gió thổi, càng không phải tiếng rao từ một chiếc xe bán đồ ăn dạo. Âm thanh vọng từ góc sân thượng. Ở đó có đặt các thanh sắt, phông bạt. Tôi thấy rất rõ bên trong cái ngách nhỏ được tạo ra bởi sự sắp xếp của đống phế liệu có một bóng người. Người này quỳ dưới đất, quay lưng ra ngoài.
“Này!”
Người đó không đáp lời và vẫn giữ nguyên tư thế đó. Bật hệ thống đèn pin trên điện thoại lên, tôi chĩa đèn vào người này. Đấy là một người đàn ông, tôi chắc chắn. Ông ta dí sát đầu vào bờ tường, thi thoảng thì rên rỉ.

Tôi gọi lớn hơn nhưng ông ta vẫn im lặng.

Vài ngày sau tôi vẫn nhìn thấy người đàn ông này trên sân thượng của khu nhà.

Ông ta vẫn giữ cái tư thế úp mặt vào bờ tường. Đây không phải một tội phạm đang lẩn trốn và phải chịu sự dày vò của lương tri, cũng không hoàn toàn là một người vô gia cư bởi bộ áo ông ta mặc thuộc loại đắt tiền. Thân hình ông ấy nếu đứng thẳng lên thì cũng rất cao lớn.
Đáng ra tôi sẽ bỏ mặc ông ta nếu hôm đó ông ta không gào lên. Sau tiếng gào tôi nghe thấy tiếng khóc. Thứ âm thanh ủy mị đầy đau đớn này đã níu chân tôi lại.

“Ông sao vậy.” – Tôi gọi thật lớn.

Vẫn chỉ có tiếng khóc. Sau đó người đàn ông húc trán vào tường.

Tôi đặt tay lên vai ông ta và kéo ra ngoài. Dưới ánh trăng lúc mờ lúc tỏ khuôn mặt ông ấy lộ dần ra. Tôi chưa kịp giật mình vì gương mặt này thì đã bị đẩy ra.

“Để tôi yên.” – Ông ấy nói vậy và chui vào cái ngách, trở lại với thế quỳ gối quái gở của mình.
Tôi trở về mang theo gương mặt của người đàn ông.

*

Anh hai tôi đang là tù nhân của dục vọng. Một lần, anh hai đã nói với tôi rằng các bức tranh treo trong phòng đều vẽ những trạng thái tình dục. Tất cả chúng đều do anh hai vẽ và cũng bởi thế nó mang tinh thần của anh hai. “Tình dục giải phóng mọi cơn đói.” – Anh hai nói thế đấy. Những bức tranh đều không được tô màu. Trên trang giấy chỉ có những khối hình vẽ theo phương thức lập dị. Một bức chỉ có mấy vòng tròn tròng vào nhau được tô đen, có bức chỉ thấy những khối lập phương xếp cạnh nhau như một biểu tượng trong hình học, một bức khác chỉ rặt những đường ngoằn ngoèo như con rắn đang cuộn mình…
“Mày không hiểu đâu, con người khởi sinh từ tình dục. Chỉ có xác chết mới chối bỏ tình dục. Nếu Zues cấm dục thì loài người chỉ toàn ô hợp. Một thiên sử đục màu. Không có Persues, cũng chẳng có Hercules…”

“Chẳng phải đâu! Đó chỉ là sự vong thân trong tội lỗi.” – Ý nghĩ vọt khỏi đầu tôi bằng một tiếng nói đanh như chém đá. Tôi vẫn ở phòng mình. Ngày đó tôi chỉ nghe vậy rồi im lặng. Từ trước chẳng bao giờ tôi trò chuyện quá nhiều với anh hai. Tôi tưởng rằng mình đã quên sạch những chuyện này. Tôi muốn gặp anh hai.

Cửa phòng anh hai đã khóa trái. Đèn bên trong vẫn sáng, tôi biết anh hai còn bên trong. Tiếng gọi của tôi không được đáp lại. Ngày hôm nay anh hai không dắt cô bạn gái nào về nên tôi tin trong phòng chỉ có mình anh ấy. Nếu không bận bịu với đàn bà thì chẳng có lý do nào anh hai lại tránh mặt tôi.

“Anh có trong đó không!”

Tôi đấm cửa. Cú đấm của tôi chỉ khiến cánh cửa rung lên chứ không làm anh hai rời bỏ căn phòng.

“Con sao vậy.” – Cha gọi tôi từ phía sau.

“Con muốn gặp anh hai.” – Tôi nói.

“Có chuyện gì?” – Cha tôi nói, ông nhìn thẳng vào tôi.

“Con muốn gặp anh hai, thế thôi!”

Tôi gọi thêm một lần nữa. Đèn bên trong phụt tắt. Không rõ vì lý do gì mà tôi thấy quặn thắt một nỗi buồn.

“Gần đây con khác đi nhiều quá.”

“Khác thế nào?” – Tôi hỏi.

“Khác! Khác… – Cha tôi thở dài, nói trong ngao ngán.

*

Một lần nữa tôi nhìn thấy người đàn ông đó. Không phải một buổi đêm khác trên tầng thượng của khu công trình bỏ hoang. Như sợ rằng mình đã nhìn lầm hoặc đây vốn chỉ là sự tương đồng thường thấy của các nét trên khuôn mặt nên tôi đã nhìn bức ảnh trên tờ tạp chí thêm một lúc nữa. Rõ ràng là ông ta. Người đàn ông giàu có và quyền lực nhất trong giới kinh doanh. Cách nhà tôi hai dãy phố có một biệt thự đứng tên ông ta. Mặc dù cái biệt thự đó chẳng ai ở nhưng cách lâu lâu tôi lại thấy ông ấy lái xe vào đó. Luôn có một ông già ra mở cửa với sự khúm núm, dè dặt. Nếu tay chụp ảnh có chỉnh sửa và xóa đi vết bầm đỏ trên trán người đàn ông thì tôi sẽ chẳng nhận ra. Với những gì tôi tìm kiếm trên báo, các trang tin tức thì người đàn ông này được gọi là cá voi sát thủ. Bởi sự từng trải, cũng như lọc lõi và biết cách đưa con mồi vào thế trận của mình. Gia sản ông ấy rất nhiều và con cháu cũng rất đông. Việc cặp bồ là hiển nhiên nhưng chẳng ai trong số những người quanh ông ta tư lợi được gì cho bản thân. Tất cả tài khoản, nhà cửa đều mang tên ông ta. Lô đất quanh chỗ tôi hay thậm chí là cả ngôi nhà này, nếu muốn có, ông ấy chỉ cần gọi một cú điện…Nhưng không biết tại sao vào hàng đêm ông ấy lại leo lên khu công trình bỏ hoang rồi co ro vào một góc. Với quyền lực như thế…

Mười hai giờ đêm, tôi ra khỏi nhà. Gần đây tôi ít nghe thấy tiếng mèo kêu. Cách vài ba bữa, có khi cả tuần tôi mới nghe thấy. Những tiếng kêu cũng không dồn dập và khiến tôi khó chịu nữa. Có lẽ tôi đã bắt đầu quen với âm thanh này. Nếp sinh hoạt ngày trước của tôi không trở lại nữa. Tôi vẫn khó ngủ nhưng không phải vì tiếng của con mèo. Trong đầu tôi luôn có vô vàn những suy nghĩ chồng chéo lên nhau và không ngừng phân tán. Thay vì để mình quên đi, tôi hòa vào chúng và gỡ từng mảnh suy nghĩ ra để ngẫm nghĩ, mong tìm ra một lời giải đáp. Tôi không thường mất nhiều thời gian cho những việc thế này. Sự bình thản của tôi bay biến đâu rồi. Hay đây chính là sự thay đổi mà cha và anh hai đã nhắc đến ở tôi.

Người đàn ông vẫn ở đó, trong cái ngách chật chội được tạo ra bởi các khối sắt vụn chồng chéo lên nhau. Gương mặt uy nghiêm khiến một số đông phải thu mình trong chiếc mai rùa đâu mất rồi. Cả thế đứng ngạo nghễ của người đứng trên những khốn đốn về vật chất cũng chẳng còn nữa. Trước mắt tôi đây chỉ là một phận người nhỏ bé đang côi cút trong bóng tối.
“Tôi biết ông. Rất nhiều người biết ông.”

Người đàn ông vẫn quỳ như vậy, có lẽ nước mắt ông ấy đã chảy sạch nên tôi chỉ nghe thấy những tiếng sụt sịt.

“Này ông, chúng ta nói chuyện với nhau được không?”

“Để tôi yên.” – Ông ta nói.

“Cút đi.” – Người đàn ông quát lớn khi tay tôi vỗ lên vai.

Tôi bị hất văng ra ngoài.

Người đàn ông chợt cong người xuống, hai tay ôm ghì lấy đầu. Tôi nghe thấy tiếng nấc. Ông ấy co quắp trong góc tối. Những tiếng nấc rơi vào bóng tối.

“Để tao yên…Chỉ một chốc…”

Ông ta ôm đầu mà gào như thế. Tiếng vọng thăm thẳm như người ta thổi tù và. Một hồi thì cụt hết. Cái đầu người đàn ông va mạnh vào vách tường.

Tôi nhìn người đàn ông thêm một lúc, rồi từng bước lùi dần về phía sau cho tới lúc chạm cầu thang.

Tôi trở về theo lối cầu thang. Vừa bám tay vịn tôi vừa bước ngược. Chẳng thể thấy người đàn ông kia vì tôi đã ở tầng dưới.

Không còn tiếng mèo kêu nữa, có lẽ rằng con vật đó đã tìm thấy bầy đàn hoặc không thì đã quá mệt mỏi và yên giấc ở một xó xỉnh nào đó. Đôi mắt tôi đã khép chặt, cơ thể cũng buông lỏng sẵn sàng cho một giấc ngủ nhưng chính tôi đã không cho mình được yên. Những gì về người đàn ông vẫn thôi thúc trong suy nghĩ tôi. Tôi không muốn dập nó đi…

*

Người đàn bà bị tôi tống khỏi nhà bằng một cái tát in rõ năm đầu ngón tay. Trước khi biến khỏi phòng, ả không quên nguýt lườm và chửi thề tôi. Ả chửi vọng từ xa, và bước đi thật nhanh. Ả vẫn dè chừng cái tát của tôi. Anh hai không ngăn nổi tôi, việc sa đà vào đàn bà đã khiến anh không còn nhiều sức lực, dù là để bảo vệ bạn tình của mình..

“Mày làm cái quái gì vậy.” – Anh hai quát lớn.

“Đã mười năm rồi. Cứ thế này mãi sao.” – Tôi nói.

Anh hai tôi phì cười. Và nói “Mày phá cửa phòng rồi đuổi người tình của tao đi. Thật ra mày muốn gì đây?”

Tôi kéo chiếc ghế lại gần và ngồi xuống. Trong căn phòng, bủa vây quanh tôi vẫn là các bức tranh không màu. Phòng anh hai ngoài chiếc giường, một cái tủ nhỏ thì chỉ có tranh và hàng chồng tạp chí khiêu dâm được đặt mua ở nước ngoài.

“Anh cần một người đàn bà chứ không cần một con điếm.”

Anh hai đã quá đờ đẫn rồi, và tôi muốn anh ấy tỉnh táo hơn để có thể cùng tôi nói chuyện, như hai người đàn ông.

“Một người vợ, và một mái nhà sẽ cần với anh lúc này.” – Tôi nhấn mạnh từng chữ.

“Mày nghĩ mày là Norn sao! Đây là cuộc sống của tao và chỉ mình tao có thể can thiệp vào.”

“Em là em trai anh, em phải có trách nhiệm với anh.”

“Mang cái trách nhiệm mà mày nói biến khỏi mắt tao đi.” – Anh hai cười lớn, và chỉ tay về phía tôi – “Không ai có thể cản tao sống! KHÔNG AI CẢ…Mày hiểu chưa!”

Anh hai bị hụt hơi và bắt đầu ho. Mắt anh hai vẫn chĩa về phía tôi, trừng trừng với đầy phẫn nộ.

Tôi đã ra khỏi phòng, như điều anh hai muốn. Cánh cửa phòng chính tay tôi phá tung nhưng anh hai sẽ chẳng vì vậy mà ra ngoài. Và tôi biết còn lâu lắm anh hai mới ra ngoài.

Tôi gặp cha dưới tầng một. Cuộc tranh luận giữa tôi và anh hai ắt hẳn đã đánh động tới ông. Nhưng ông vẫn lặng thinh. Người cha của tôi trước giờ chỉ im lặng, kể cả việc anh hai biến căn phòng mình thành một nấm mồ ông vẫn im lặng.

“Ai mà ở mãi một chỗ được…” Cha tôi lẩm bẩm một mình. Ông ấy tránh mọi câu hỏi của tôi bằng những cái vỗ trán.

Cha tôi với điều khiển, bật kênh bóng đá, volum mở to dần và chạm ở mức 100.

Tôi ra khỏi nhà.

*
“Người đàn ông đã chết.”- Tôi đọc được tin này trên một trang rao vặt. Mọi tờ báo đều đăng tin này thế nên đây chẳng phải sự đặt điều. Tôi đã trở lại khu nhà bỏ hoang như để chắc chắn hơn. Cái hốc còn đấy. Không có người. Chỉ có tôi. Người đàn ông lạ đã chết. Hôm đấy là lần cuối cùng tôi gặp ông ta. Sự kiện này đã gây xôn xao dư luận. Có ti tỉ lời bàn tán quanh cái chết của người đàn ông và tôi không quan tâm tới nó, cái tôi muốn biết nhất bây giờ là về chính tôi.

Bởi tôi thấy rã rời, vì con người xa lạ, chỉ gặp gỡ đôi lần.

“Ông ấy đã chết…Đã chết…” – Tôi lầm bầm một mình. Lồng ngực tôi nhức mỏi. Nhiều cơn đau cuộn trào thành sóng, vọng thân mình tôi. Người đàn ông đã theo bảy tiếng éc. Sao tôi đau đớn đến thế này. Thật điên rồ.

“Chết thì có gì lạ. Ai mà sống mãi được chứ.” – Anh hai nói.

“Con khóc đấy ư, trước giờ con đâu có khóc.” – Cha tôi nói.

“Ông ấy đã kết thúc cuộc đời mình bằng một cú nhảy từ sân thượng tổng công ty.” – Tôi nói thật lớn để anh hai và cha có thể nghe thấy – “ Có bao nhiêu người bàn tán quanh xác chết của ông ấy, và có con mắt nào chịu thương xót ông ấy…”

“À, có chứ! – Vẫn là tiếng nói của tôi. – “Sẽ có người còn gào rống lên đấy chứ. Xác ông ấy nào có nguyên vẹn…”

Mấy người hàng xóm quát tháo vì bị tôi làm ồn.

Cha tôi ngồi phòng dưới, ông ấy không trả lời, cũng sẽ không lên phòng tôi bất kể việc tôi có gào lớn tới mức đánh động tới tổ dân phòng.

“Em trai tao đâu rồi, còn mày là ai ?” – Anh hai tôi nói và tặc lưỡi.

“Người em của anh, hắn như thế nào?” – Tôi hỏi. Và anh trai tôi đã lật cánh cửa đã bị tôi làm hỏng ra. Anh ấy nhìn tôi, cái nhìn hoang dại và đờ đẫn của một con bệnh.

“Em trai tao…”- Anh hai im lặng một lúc, và nói “Nó rất ngoan.”

Cuộc trò chuyện đứt ở đó.

Tối hôm đó tôi đã ở trên phòng. Cơn gió lật tung trang báo, ở một mục nhỏ có ghi

“Ông X còn nằm ở nhà xác, người nhà chưa…”

Không thể đánh rơi, dù nửa hạt nước mắt. Buồng ngực tôi còn rệu rã. Ngũ tạng bã ra, luôn âm ỉ và thấy đau đáu. Tất cả vì đàn ông lạ. Tôi ngồi nép vào góc căn phòng đã tắt hết đèn. Hình ảnh về người đàn ông, cái tư thế gục mình trong bóng tối đeo bám lấy tôi. Chúng bện chặt tôi và tôi cũng không muốn bứt khỏi chúng.

“Chết, đã chết rồi…Mà mình…” – Tiếng nói lập bập hồi lâu trong cặp môi khô rát.

Tiếng mèo không vang lên nữa. Con vật chắc đi mất rồi. Bây giờ, trong gian buồng không có lấy nửa mảnh sáng này chỉ có mình tôi. Ngả người ra sau, lưng tôi chạm vào vách tường. Tôi ngẩng đầu lên, trước mặt vẫn chỉ một màn tối âm âm.

Tôi im lặng và cứ như vậy, giữ cái tư thế im lặng.

*

Tôi ở trong phòng cả một ngày. Khuya hôm sau tôi quyết định ra khỏi phòng.

“Ông X không trò chuyện với ai ngày hôm đấy. Nhân viên gọi và ông ta dường như đã lờ hết.” – Một mẩu tin, có vẻ đã cũ chợt ló trong đầu.

Phòng anh hai còn sáng đèn. Thứ âm thanh bao gồm tiếng cót két của chân giường, cả tiếng cười man rợ lẫn tiếng kêu gào vì đau đớn giúp tôi biết được hiện trạng trong phòng. Tôi đứng trước cửa một lúc lâu. Cửa phòng chưa thay và tôi có thể dễ dàng đẩy nó ra để vào bên trong.

Ngón tay tôi vừa chạm vào nắm cửa liền khững lại. Anh trai và người đàn bà, hai thân hình trần truồng đang chặt vào nhau như muốn đồng hóa làm một. Hai người họ, với đầy đủ đam mê đang tròng lên cổ nhau chiếc gông mang ấn phong của cõi quỷ. Tiếng rú đầy khoái lạc vang ra từ hai cái miệng đã chấm dứt sự ghé thăm cuối cùng của tôi. Tôi đi thật nhanh và thật khẽ để không làm phiền tới họ.

Cha tôi ngồi dưới tầng một. Luôn là như vậy, ông thường thức rất khuya. Hôm nay ông không xem đá bóng hay đọc báo. Ông uống rượu với một cái cốc thật lớn.
“Con định đi sao ?” – Cha tôi nói khi nhìn thấy tôi

Tôi gật đầu.

“Cha biết rồi con sẽ đi.” – Cha tôi nói.

“Con sẽ trở về thăm nhà.” – Tôi nói.

“Nhà. Đâu mới là nhà…”

“Cha bảo trọng.”

“Đi đi. Tìm lối mà đi đi.”

Đi vài bước, tôi ngoái lại nhìn cha một lần cuối cùng. Chút rượu cuối cùng đã trút cả vào cốc. Cha không nhìn tôi. Ông uống cạn cốc rượu bằng một hơi thật dài.

Ra khỏi cánh cửa, tôi nghe thấy một tiếng vang. Thứ gì đấy đã rơi và vỡ ra. Một cái chai, bát sứ, cốc phale hoặc một miếng kính, đại loại vậy.

Khuya rồi, mây mù phủ cuồn cuộn, che lấp cả mặt trăng. Ánh sao cũng nhòa đi bởi lớp mây quá dày. Ngọn đèn đường nhấp nháy hồi lâu rồi tắt phụt.

Tôi nghe thấy những âm vang trên mái nhà. Gió…Chỉ là tiếng gió cọ trên mái hiên. Không còn tiếng mèo. Tôi im lặng trong giây lát.

“Không tìm thấy thông tin gì về nguyên nhân cái chết. Xét nghiệm cho thấy ông X không dùng ma túy hay có dấu hiệu của bệnh nan y. “Vấn đề chỉ ở màng nhĩ.” – Bác sỹ A quả quyết – Màng nhĩ của ông X đã bị tổn thương nghiêm trọng. Bởi một vật thật sắc…”Không hề có dấu hiệu bị tra tấn. Không phải mưu sát. Và có thể là một tai nạn. Sân thượng tổng công ty không có rào chắn, và tường thấp tới mức bước qua là rơi. Một nhân chứng A cho biết nhiều tuần trước ông X có nói rằng có tiếng trong đầu …”

Bài của báo nào đây. Chịu thôi. Lá cải thì chỉ thế. Kẻ lạ đã chết và đang nằm trong một cái giường lạnh. Nhà xác không chối ai cả. Chỉ là thêm một cái xác, và hầm chật hơn.

Người tôi trườn dài xuống. Trời quá tối để thấy chút bóng quét mặt đất. Tôi đạp lên bóng tối và đi tiếp, theo đường mái nhà.

Tru Sa