Ngày Độc Lập Của Nước Mỹ

trantrungta

Ngày Bốn Tháng Bảy là Ngày Độc Lập của nước Mỹ.

Năm bắt đầu có ngày này là năm Một Ngàn Bảy Trăm Bảy Mươi Bảy.

Chính thức là Ngày Lễ kể từ năm Một Ngàn Chín Trăm Bốn Mươi Mốt.

Đây là một Ngày Trọng Đại của nước Mỹ.

Mỹ chớ không phải là Hoa Kỳ.

Người Trung Hoa không ai thích ai gọi họ là Người Tàu dù Người Trung Hoa thường đi xâm chiếm hay cướp bóc nước khác bằng Tàu, từng mang tiếng là Giặc Tàu Ô, Bọn Tàu Phù.

Người Việt ở phía Nam nước Trung Hoa, bây giờ là Trung Quốc, không thích ai gọi mình là Người An Nam.

Người Tàu xỏ lá người Việt gọi người Việt là Ố Nàm Dành / Dân An Nam Xấu Xí, nước của người Việt là Nước An Nam.

Chiến tranh từng xảy ra giữa quân Ta và quân Tàu.

Có một ngàn năm quân Tàu đô hộ nước Đại Việt.

Có ba ngàn năm dân Đại Việt làm chủ đất nước mình.

Người Tàu không biết xấu hổ khi nói xấu nước khác.

Chúng gọi nước Anh là xứ Hồng Mao vì người Anh lông da, tóc đầu và râu miệng màu đỏ.

Chúng gọi nước Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là các xứ Tây Dương vì dân và quân các nước này dùng tàu đi cướp các nước phương Đông giống như Giặc Biển Đến Từ Đại Dương.

Chúng gọi nước Mỹ là xứ Cờ Hoa, viết chữ Tàu là Hoa Kỳ Quốc vì cờ của nước Mỹ có nhiều sao giống như chùm hoa.

Cách gọi đó xỏ lá.

Cách gọi đó thấy-sao-thì-nói-vậy giống như ba chữ tắt USA của nhóm chữ United States of America, Liên Bang Hợp Chúng Quốc Mỹ, chúng xuyên tạc thành Uncle SAM, Chú Sam.

Chúng tự hào nước chúng là xứ sở của Bác Mao Chệt Thun, các nước khác, dân khác đều thấp hơn Tàu.

Ngày hôm nay là Ngày Lễ Độc Lập của nước Mỹ, nước đẹp đẽ nghĩa từ chữ America, sao người Việt mình cứ gọi là Lễ Độc Lập Hoa Kỳ?

Có người nói với tôi rằng: Người Việt Nam Giống Người Tàu từ vóc dáng đến màu da, từ cách ăn cầm đũa đến cách nói xí xô xí xào.

À há! Sử gia Tạ Chí Đại Trường đã viết đúng: Việt Nam Là Một Phiên Bản Của Trung Quốc!

Phải chi có ngày Ba Mươi Mốt tháng Bốn nhỉ để tôi chạy trốn tới tận xứ Congo!

Hôm nay, phố xá Mỹ có cái lạ: Không Thấy Người Mỹ Treo Cờ mừng.

Nếu là ngày Quốc Hận 30 – 4 – 1975 thì phố Bolsa dài mút chỉ đã treo cờ Mỹ và cờ Việt Nam Cộng Hòa đầy khắp…

Người Mỹ tỉnh bơ ăn mừng, người mình phùng mang nuốt hận.

Ông Phan Bội Châu nói đúng quá: “Lập Thân Tối Hạ Thị Văn Chương!”. Tôi làm thơ không biết mình viết sao cho cao thượng?

Trần Trung Tá

Sắp Tới Ngày Của Mẹ

trantrungta

Tôi có không nhiều bạn,
đúng hơn mươi người thôi,
lang bạt mười phương trời;
tôi trong mười phương đó…

Chúng tôi, mây gặp gió…
thì tan như khói sương;
nếu có còn nhớ thương…
thì hẹn nhau kiếp khác!

Cùng nòi giống Âu Lạc,
đành đau nỗi lạc đàn.
Cùng là người Việt Nam…
vượt xuống Nam kiếm sống!

Chúng tôi không hy vọng
có ngày đứng dưới cờ
như xưa trong nắng mưa,
như xưa trên chiến địa…

Nhiều khi cắn lóng mía
nghĩ tới lóng xương người,
không thể khóc thì cười:
cuộc biển dâu, đành vậy!

Lòng ai cũng nát bấy,
gặp thì trút vào bia,
nâng cốc lên cùng chia…
tiếng thở dài thậm thượt!

Ôi chao người một nước
chừ hóa kẻ-đồng-hương!
Nam Bắc dãi giang sơn…
chừ là làng xóm nhỏ!

Phan Bội Châu thương chó,
lập mộ cho chó già.
Ai thương nhỉ chúng ta:
cái bình tro lạnh ngắt?

“Đảng Phái còn, nước mất,
Đảng Phái mất, nước còn”.
Một Đảng đã quá buồn,
thêm Đảng buồn thêm nữa?

Phan Bội Châu nói, chớ /
không phải tôi, đâu, nha!
Tan nát cuộc nước nhà…
tiếc chi tình bạn hữu?

Dù sao…tay cứ níu
khói sương xứ người ta…
Dù sao còn thấy hoa,
nhớ lại thời trai trẻ!

Sắp tới ngày-của-Mẹ,
thương lắm Mẹ Âu Cơ,
nhớ lắm cái bóng cờ
phất phơ chiều biên ải…

Trần Trung Tá

MỖI NĂM…BÓNG NGUYỆT BÊN THỀM.

trantrungta

Mỗi năm thêm! Mỗi năm thêm, Trời ạ!
Hăm sáu năm trời…tôi cái mả không bia!
Người lính đi sau cuộc chiến đã về…
với tù ngục rồi lưu vong biệt xứ!

Bốn mươi năm biết bao người tự tử,
biết bao người vùi nấm mộ…bình tro.
Tôi sống đây mà đã chết bao giờ,
như con chim lạc bầy, như con thuyền lạc bến!

Bao người chết, trước tôi, hiển hiện:
gió mù trời, đèn chớp nháy tha hương!
Đèn sáng soi sao đi cứ lạc đuờng?
Con cháu Lạc Long Quân, triệu triệu người lạc lõng!

Bà Mẹ Âu Cơ muôn đời vẫn sống
với Âu Lo, Phiền Muộn, phải không?
Con Rồng cháu Tiên huyền sử mịt mùng.
Đừng nhắc nữa! Ai điên khùng mới nhắc!

Mỗi năm thêm! Mỗi năm thêm muốn khóc.
Giặc chưa vào Tổng Thống đã buông gươm…
thì ba quân dù tay súng có gườm gườm
cũng chỉ là trò chơi của người thua cuộc!

Ngựa phi nước đại rồi thôi ngừng bước,
hí vang vang thành những hồi chuông Chùa,
thành những hồi chuông Nhà Thờ.
Thời mạt kiếp không ai ngờ, đã tới!

Tôi chưa nghe lãnh tụ nào nói trước dân: Tôi Có Tội.
Họ đổ thừa Lỗi Của Đồng Minh!
Và thế thôi, non nước Việt Nam mình
có tơi tả như lá cờ cũng phải!

Ôi Tổ Quốc! Bỏ đi không trở lại!
Ôi Thời Gian! Năm cứ mỗi năm thêm!
Mỗi ban khuya tôi hứng nguyệt bên thềm,
trăng không vỡ mà trái tim tôi vỡ…

Trần Trung Tá

Một Định Nghĩa Thơ

trantrungta

Em ít khi để ý
anh nói gì trong thơ.
Em cứ nghĩ anh mơ
nên thơ nói toàn mộng…

Mộng thì như lượn sóng
thấy đó rồi tan đâu?
Những bọt nổi trên đầu
tan đi…vì bèo bọt!

Trái khế chua không ngọt.
Ly chè ngọt sẽ chua.
Chuyện đó không phải mơ
mà nó là sự thật!

Anh nói y ông Phật:
Sắc tức là thị không!
Ờ nhỉ thơ mấy dòng
chẳng qua không và có…

Nhiều khi thơ – hơi thở.
Hơi thở đâu có bền?
Thơ không phải cái nền
dựng nên lầu Văn Hóa…

Thơ anh là chiếc lá
– một chiếc lá Thu vàng.
Là một chút mơ màng.
Cảm ơn em cảm nhận!

Nếu gửi em giấy trắng,
hỏi thật em mừng không?
Chắc mái tóc bềnh bồng
em lắc đầu…dễ ghét!

Anh làm thơ như vẹt
chẳng có nghĩa lý gì,
coi như tiếng thầm thì
của gió và cây chạm…

Thơ anh là vết nám
của vết thương ngày xưa,
của một thời nắng mưa
lá cờ bay ngõ trúc…

Anh xin em đừng khóc
nếu em đọc kỹ hơn.
Anh xin em đừng thương
bởi anh xa em lắm…

Trần Trung Tá

THƠ HẬU HIỆN ĐẠI

trantrungta

Cứ như thường lệ sau Mừng Chúa, trời lạnh vô cùng đến hết năm. Những nỗi mừng vui rồi sẽ nguội để tình thương mến được thêm chăng?

Đó là câu hỏi và câu đáp…để nói nhau nghe…để ấm lòng? Trách Chúa thì không ai dám trách, chỉ buồn thời tiết vẫn mùa Đông!

Dĩ nhiên hi vọng là hi vọng! Ai cấm mình không ngước mặt lên? Ai cấm những người trai chiến bại ngừng tay đấm ngực tại-ta-hèn?

Trái đất xoay vòng, đủ, lại xoay. Giáng Sinh thì chỉ một-đêm-nay! Bên hiên căn quán cà phê sáng, ai cấm ai nhìn khói thuốc bay…

Đời ảo huyền như giấc huyễn mơ…Bốn mươi năm lạnh vút lên cờ…Cờ trên Quảng Trị thành xưa nát, nhắm mắt mơ màng chuyện-rất-xưa!

Người lính giụi đi tàn thuốc cuối. Uống đi giọt cuối tách cà phê. Nhìn trời mấy hạt mưa rơi xuống, tiếng nước mưa buồn, nhỏ, đủ nghe…

Ngày cuối năm rồi sẽ hết năm! Lời an ủi đó đợi Tân Xuân. Khứ niên kim nhật…, ừ mai mốt, nhân diện đào hoa, em, cố nhân…

TRẦN TRUNG TÁ

Bốn Mươi Năm

trantrungta

Bốn thập niên rồi, tôi vẫn sống,
bạn bè cùng tuổi chẳng còn ai…
Tôi đi lính thuở đời trai trẻ,
bạn cũng như mình…chết thuở trai!

Những thằng chết trận ôi là sướng,
có được cờ tang phủ lễ tang,
tôi, cải tạo đi, mưa lắc rắc,
cuối đời hàng dọc hết hàng ngang!

Rồi…Ra cải tạo, đời thêm tuổi,
đồn ải ngày xưa tạ núi rừng:
nước mắt cầm chan lon gạo mục,
chiêu hồn bè bạn chút rưng rưng…

Rồi…Tôi ra biển, đi, mong khuất
cái bóng của mình khi nắng lên.
Gọi bạn gọi bè: linh hiển nhé,
ba chìm bảy nổi giúp anh em…

Rồi…Tôi sống sót. Tôi còn sống.
Sữa cặn, bơ thừa, có phải không?
Đưa miếng bánh thơm lên miệng cắn,
nhớ khoai lang luộc, nhớ vô cùng…

Bốn thập niên rồi, tôi sống sót.
Sống thừa…Chưa thấy một ngày vui.
Cờ bay…vẫn có cờ bay đó,
thiên hạ còn thương nhớ một thời!

Tôi đứng dưới cờ, tôi muốn quỵ.
Mình đã quá già như ngựa già,
chân bon chưa hết đường thiên lý,
lỏng vó chồn chân bóng nguyệt tà!

Bốn cái thập niên, bốn cái mười,
chỉ thèm một cái: nụ cười tươi!
Bao giờ, biết đợi bao giờ nữa:
bến cũ, đò xưa, cuộc đổi đời!

Trần Trung Tá

Capstan

trantrungta


Chiếc áo phong sương tặng ấm nàng! Nặng áo thư sinh phụ áo chàng
! Chàng ơi cảm tạ ơn chàng tặng chiếc áo nhẹ hều trên thế gian!

Cho anh phát súng tim anh nát! Mấy kẻ tòng chinh mà trở về? Chiếc áo phong sương là áo lính…thôi chàng để mặc những đêm khuya!

Nếu tim chưa nát, chàng đi tiếp…hết cải tạo thì đến nước người. Công an phải sợ thằng ăn nhậu, điếu thuốc một thời cắm ở môi!

Nếu anh thích sống thì ăn cơm. Điếu thuốc Capstan cháy đỏ lòm…Ai dám ném quăng thời quá khứ để về mà dựng lại Quê Hương?

Điếu Cày vừa tới bao người đón, cờ xí tung bay đẹp quá chừng! Nó hất lá cờ không đếm xỉa, Bắc Nam hồ dễ mối tình chung!

Cho anh phát súng tim anh nát
! Tự tử hay ta bắn kẻ thù? Xé xác phanh thây ta chẳng nỡ, đốt từng điếu thuốc…đốt cơn mơ!

Trần Trung Tá

NHẬT MỘ HƯƠNG QUAN

trantrungta

Xưa, Thôi Hiệu lên lầu Hoàng Hạc
Làm bài thơ treo vách núi rồi đi…
Tám câu thơ quanh cỏ mọc xanh rì
Ai qua, ngó, cũng cúi đầu. Tư lự!

Hai câu cuối mềm lòng người xa xứ
Người-Bây-Giờ, người bỏ nước Việt Nam…
Hai câu thơ, có hai chữ Hương Quan
Không mưa gió mà lạnh lòng khôn tả!

Nhiều người dịch: “Quê Hương ngó lại, chừ đâu tá?
Khói sóng chiều hôm giục nổi buồn!”
Tôi gật gù: Không thể dịch hay hơn
Tôi bụm tai: Không muốn nghe tiếng sóng.

Trước cảnh tang thương ai mà không xúc động?
Những thằng-chăn-bò chừ đổi lốt lên ông
Những tên ma đầu chừ giở thói chơi ngông
Áo bỏ vô thùng, thắt cà vạt, ngo ngoe như đồ vượn khỉ!

Nhật Mộ Hương Quan Hà Xứ Thị?
Yên Ba Giang Thượng Sử Nhân Sầu!
Hai câu thơ của một tên thi sĩ Tàu
Chắc nó muốn trêu ngươi chúng ta đó chắc?

Nhật Mộ Hương Quan, từ ngày nước mất
Quên thì quên không được, nhớ thì buồn
Chiều vô tình ngó cọng khói hơi sương
Thương quá đỗi khói lam chiều mái rạ…

Quê Hương hỏi chứ chừ đâu tá?
Khói sóng trên sông giục nỗi buồn!
Tôi sửa lại nhìn chơi không biết có dễ thương?
Ghét lắm thằng Tàu sao thơ Tàu…lại thích?

Ôi những con sông chảy hoài không biết mệt
Tôi một tàn binh sống chết nao nao…
Ngó ra Hoàng Sa biển biếc ba đào
Rồi ngó lên trời cao rớt vào đâu giọt lệ?

TRẦN TRUNG TÁ

DẬY MÀ ĐI – ĐỨNG DẬY MÀ ĐI!

trantrungta

Năm 1818, vua Gia Long ra Hoàng Sa
Thăm lính và cắm bia làm dấu tích…, đặt tên biển là Nam Hải, Biển Của Nước Nam.

Năm 1858 quân Pháp chiếm Đông Dương làm thuộc địa. Biên bao quanh nước ta và một phần Cambodge được Pháp đạt tên là Mer de l’Indochine, tức Biển Đông Dương, nay ta gọi là Biển Đông.

Chính quyền Pháp thiết lập Đài Khí Tượng và dựng Hải Đăng trên quần đảo Hoàng Sa
Bản đồ Đông Dương, Indochine, có in những chi tiết đó
Khi quân Pháp rút về Pháp, năm 1956, Hoàng Sa, Trường Sa bàn giao cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vì dưới vĩ tuyến 17
Tổng Thống Ngô Đình Diệm đưa lính ra trấn giữ, đưa công chức ra làm việc

Tổng Thống Ngô Đình Diệm lập kế hoạch lấy phân chim ở Hoàng Sa Trường Sa làm phân bón ruộng
Đưa bản kế hoạch cho Cố Vấn Mỹ xem, trình về Mỹ, bị bác.
Nước Mỹ thừa phân để viện trợ cho Việt Nam!

Cùng với dự tính lập nhà máy phân, Tổng Thống Ngô Đình Diệm còn muốn lập nhà máy sản xuất súng đạn
Rừng Giá Tị, tức cây gỗ Teck dùng làm báng súng, được trồng cả ngàn ngàn mẫu, cố vấn Mỹ khuyên đừng.
Rừng Giá Tị còn đó, 60 năm rất xanh tốt
Long Bình đáng lẽ là nhà máy chế súng và đạn, Mỹ trưng thu dùng làm Kho chứa Đạn Mỹ!
Năm 1973, Mỹ ký kết với “Phe Bên Kia” Hiệp Định Paris để rút hết nửa triệu quân Mỹ về trong danh dự

Trước đó, một năm, Tổng Thống Nixon của Mỹ qua Tàu gặp Mao Chệt Tung, giao hảo thắm thiết.

Năm 1974, đầu năm, Hải Quân VNCH có chuyến công tác Hoàng Sa, bị chiến thuyền của Trung Cộng ngăn cản.

Bên ta khai hỏa, quân Tàu đáp lễ ngay và chiếm đảo, bắt hết Đại Đội Địa Phương Quân trấn đóng đảo, giết chết hơn bảy mươi sĩ quan và thủy thủ VNCH, một số sống sót thì bắt đưa về Tàu.

Không Quân VNCH ở Biên Hòa, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang trong tình trạng sẵn sàng cất cánh
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu báo ngay cho chính phủ Mỹ biết và xin giúp đỡ

Hạm Đội 7 Mỹ đang rất gần Hoàng Sa không phản ứng gì
Máy bay và tàu chiến VNCH đành bất động
Ta mất Hoàng Sa vào tay giặc!
Sau đó, Tàu Cộng có gửi thư cho Tổng Thống Thiệu qua trung gian Singapour với yêu cầu Tổng Thống Thiệu cử Cố Vấn của mình là Hoàng Đức Nhã qua nhận.
Ông Hoàng Đức Nhã đi nhận. Nội dung thế nào thì tới nay cũng không nghe nói dù ông Hoàng Đức Nhã còn sống.

Chứng tích lịch sử rành rành, ta thua Tàu thật đáng xấu hỗ!

Lại nhớ chuyện Tổng Thống Diệm cầu tài nơi chính phủ Tàu Đài Loan giúp xây dựng trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, và xin tin tình báo của nhóm gián điệp Tàu tại Miến Điện, Tổng Thống Diệm cho đứt Tưởng Giới Thạch đảo Ba Bình, đảo lớn nhất ở Trường Sa như cách đền ơn…
Hiệp Định Genève 7 – 1954 xác định Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc lãnh thổ của Nam VN.

Dấu tích lịch sử còn ràng ràng.
Nội dung thư Chu Ân Lai viết cho Tổng Thống Thiệu không được cho biết.
Việt Nam dưới chế độ nào cũng chỉ còn máu xương…

Nước ta từng có tên là Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Ngu rồi lại Đại Việt. tên cuối cùng cho đến năm 1945 là Đại Nam. Ông bà tổ tiên chưa hề xưng nước-tui-là-nước nhược-tiểu, chúng ta đạp lại sạch bàn thờ Tiên Tổ…vòng tay thưa khắp thế giới : Việt Nam Là Quốc Gia Nhược Tiểu, Trời ơi!

Hồ Quý Ly đặt tên nước cực kỳ chính xác: Đại Ngu

Ông Tản Đà làm thơ…cũng chính xác: Nước Bốn Ngàn Năm Chưa Thức Tỉnh, Dân Bao Nhiêu Triệu Cứ Còn Mê! Nước Bốn Ngàn Năm Chưa Người Nhớn, Dân Lên Trăm Triệu Toàn Trẻ Con!

Buồn quá khi lật lại những trang lịch sử ố vàng…
Lật lại và thấy những câu Hịch Sát Đát, nước mắt cứ tuôn tuôn.
Hưng Đạo Đại Vương quyết tâm đánh quân Nguyên, kêu gọi ba quân một lòng một dạ. Và quân ta đã thắng!
Nay…Hịch không thấy
Chỉ nghe những lời khuyên: Nhẫn nhịn! Dĩ bất biến ứng vạn biến!

Một câu nhịn chín câu nhục! Không thể được!
Thà sống mái một lần. Thà một lần quyết liệt
Quyết Tử cũng là Quyết Sinh!

Hãy dây mà đi hãy dây mà đi
Anh Em Ơi!

TRẦN TRUNG TÁ