Có còn nhận ra tôi không Hỡi thành phố cũ Những mái ngói xanh rêu Bức tường vôi loang lổ Bài thơ xưa ghi dấu một phần đời.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi mơ ước tuổi hai mươi Bờ bến cũ, ngậm ngùi thân sỏi đá Tôi về đây, sông xưa, dòng nước lạ Ngó mây trời mà khóc tuổi hoa niên.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi cây đa cũ trong sân Nơi tôi đứng những chiều thu lá đổ Đừng hát nữa đa ơi, bài ca buồn vạn cổ Tấm thân gầy đau nhức nhối trong đêm.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi những giọt cà-phê đen Ly rượu đắng cho môi đời bớt nhạt Khói thuốc bay như mây trời phiêu bạt Trên con đường nay đã đổi thay tên.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi bè bạn anh em Ai còn sống và ai đã chết Ai ở lại lao đao, ai phương trời biền biệt Giờ chia tay sao chẳng hẹn quay về.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi ghế đá công viên Những mái lá che tôi thời mưa nắng Từ nơi đó trong đêm dài yên lặng Tôi ngồi nghe sông núi gọi tên mình.
Có còn nhận ra tôi không Có còn nhận ra tôi không Nếu mai mốt tôi về Có còn nhận ra tôi không Hay tại chính tôi quên.
Một lần ghé thăm Rockport, một thành phố du lịch nhỏ, cách Boston khoảng một giờ lái xe. Dọc hai bên đường phố hẹp là những quán bán quà kỷ niệm du lịch.
Tôi đi ngang một tiệm bán hàng điêu khắc. Nhiều tượng Phật được trưng bày. Tôi dừng lại. Trước khi chụp vài tấm hình, tôi đứng thẳng, nhìn các tượng Phật và chắp tay vái một vái. Du khách tấp nập và hình như có ai đó đang nhìn tôi.
Rất nhiều người nghĩ chỉ có Phật được đặt trên chánh điện nghiêm trang trầm hương nghi ngút mới là Phật, còn Phật ở các cửa tiệm, ở những phòng trưng bày nghệ thuật, viện bảo tàng thì không phải.
Thật ra, hình tượng chỉ để nhắc nhở. Phật trong tâm, trong suy nghĩ có tánh thiện, trong nhận thức, và vì thế, Phật ở mọi nơi. Khoảnh khắc ta nghĩ đến Phật là lúc Phật hiện ra trong ta. Bất cứ nơi nào, bất cứ hoàn cảnh nào.
Tuần trước đó tôi đi chùa nhân lễ Phật Đản. Thầy trụ trì rất vui và bảo “Lâu lắm con không về chùa, lát nữa con lên nói vài lời với các đạo hữu nhân ngày Phật Đản”. Tôi không chuẩn bị gì nhưng nói rất dễ dàng vì Đạo Phật có rất nhiều điều hay, nét đẹp để nói về. Tôi nói sở dĩ đức Phật chọn một nơi nhiều bất công, nghèo nàn như Ấn Độ để thị hiện chỉ vì tình thương của đức Phật dành cho con người.
CHENNAI, INDIA
Phật ở Ấn Độ cũng không khác gì Phật ở Rockport tấp nập.
Một lần ở Chennai, tôi hỏi người chủ tiệm món hàng nào được du khách ưa chuộng nhất, người chủ tiệm trả lời “tượng Phật”.
Đức Phật là biểu tượng của tình thương và Đạo Phật là đạo của tình thương. Ai lại không muốn mang về nhà một biểu tượng từ bi, bác ái và bao dung như thế dù người đó thuộc tôn giáo nào.
Trong ý nghĩa đó, Đạo Phật không chỉ là đạo riêng của những người Phật Tử mà là đạo chung của con người, bởi vì con người còn tồn tại đến hôm nay là nhờ có tình thương. Thế giới con người sẽ tận diệt nếu một ngày tình thương không thắng được hận thù.
CAPE COD, MASSACHUSETTS
Mới “gặp Phật” ở Rockport tháng trước, nay lại “gặp Phật” ở Cape Cod. Lần này tôi không lạy Phật. Phật ở Cape Cod được dùng như một loại trang sức hay chỉ để lừa bịp khách hàng.
Một tượng đức Phật được đặt trước cửa một tiệm coi bói, một tượng đức Phật được đặt trong lồng kính chung với áo quần, một tượng đức Phật được dựng trên lối đi như để chào đón khách hàng, một số tượng đức Phật bị nhốt bên trong cửa sắt của một khu vườn dường như lâu rồi không ai chăm sóc.
Buôn bán tượng Phật là một kỹ nghệ đang được thịnh hành, bắt đầu từ quê hương đức Phật. Bước xuống phi trường quốc tế New Delhi hình ảnh đầu tiên những khách phương xa bắt gặp là bàn tay đức Phật. Bước vào tiệm bán đồ kỷ niệm cho du khách ở nhiều nơi trên xứ Ấn, hình ảnh được trưng bày nhiều nhất cũng là đức Phật. Khuôn mặt bao dung, nụ cười nhân hậu của ngài rất thu hút khách thập phương.
Tuy nhiên, đúng như Giảng sư Tây Tạng Dzongsar Jamyang Khyentse viết, Ấn Độ là quốc gia đã lãng quên người con yêu quý của mình: Đức Phật. Bởi vì di sản của đức Phật không phải là khuôn mặt bao dung, nụ cười nhân hậu hay ngay cả đền đài mà là những lời dạy của ngài. Rất hiếm tại Ấn Độ có nơi phát hành các kinh sách Phật Giáo, phần lớn chỉ bán các tượng Phật hay giữ đền thờ để thu tiền.
Nhìn những tượng Phật ở Cape Cod, tôi thầm mơ ước, ngày nào người Mỹ nói riêng và Tây Phương nói chung không còn nhìn các tượng Phật như món đồ trang trí mà cùng tìm hiểu, cùng lắng nghe những lời khuyên của đức Phật, ngày đó nhân loại sẽ hòa bình.
KYOTO, NHẬT
Tại Nhật, đạo Phật trở thành một đạo dân tộc, cùng với Thần Đạo (Shinto) đã và đang tồn tại một cách hài hòa. Đạo dân tộc không nên hiểu theo nghĩa là quốc giáo hay đạo riêng của một nước nhưng tư tưởng Phật Giáo thấm đậm vào đời sống văn hóa và con người Nhật.
Người dân Nhật không đến chùa lễ Phật, tụng kinh thường xuyên nhưng trên đường đi làm họ có thể dừng chân ở một ngôi chùa, kéo dây chuông ba lần, chắp tay cầu nguyện.
Người hướng dẫn du lịch kể lại khi người Nhật sinh con, cha mẹ thường ẳm con đến đền Thần Đạo để làm lễ cầu nguyện nhưng khi qua đời thường làm đám tang theo nghi lễ Phật Giáo.
SEOUL, NAM HÀN
Seoul thì khác. Đạo Phật một thời hưng thịnh tại Triều Tiên đang mờ dần vào quá khứ. Thống kê năm 2005, chỉ 25% dân số xác nhận là tín đồ Phật Giáo nhưng con số đó đã xuống thấp dần đến mức ngày nay Phật Giáo tại Nam Hàn không còn được xác định một cách rõ ràng như một tôn giáo mà đang hòa chung vào tập tục văn hóa.
Chùa Jogyesa, ngôi chùa lớn nhất tại Seoul, được biết như là một địa điểm du lịch nhiều hơn là Thiền Viện chính của tông phái Jogye. Cám dỗ vật chất đã thu hút các thế hệ trẻ đi theo, bỏ lại sau lưng họ những cụ già ngồi đếm từng ngày cuối của đời mình trong lời kinh tiếng kệ. Các tượng Phật dễ tìm thấy ở khu shopping Insadong hơn là tại các ngôi chùa.
Đạo Phật là đạo của con người với các giá trị tình thương và sự thật nhưng để mang tình thương và sự thật đến cho con người, Phật Giáo cũng cần thay đổi cách hoằng dương.
MONTEREY, CALIFORNIA
Trên con đường chính dọc bờ vịnh Monterey có một tiệm Ấn Độ bán đồ kỷ niệm cho du khách. Một phụ nữ Ấn ngoài 60 tuổi và một thanh niên Ấn trạc 30 tuổi đang coi tiệm. Một số hình tượng đạo Hindu như Lord Shiva, Lord Brahma v.v… được trưng bày nhưng đa số là tượng Phật.
Tôi dừng lại chụp một số hình những tượng Phật được đặt bên ngoài. Chàng thanh niên bước ra ngăn cản. Anh chỉ tấm giấy nhỏ “No photography” gắn trên một trong những tượng Phật. Tôi ngừng, nhưng không quên phản ứng “Tấm giấy quá nhỏ để thấy”, và tôi lại tiếp “Lẽ ra anh nên để cho du khách chụp hình thoải mái. Bức tượng đẹp sẽ gây cho họ ấn tượng đẹp khi nhìn lại. Biết đâu vì thế họ sẽ trở lại mua. Cho dù không mua, họ sẽ giúp anh quảng cáo miễn phí khi gởi cho bạn bè họ.”
Chàng thanh niên dịu giọng “Vâng, anh nói cũng đúng.” Tuy nói vậy anh ta vẫn không lấy cái bảng cấm chụp hình xuống. Tôi bước vào tiệm. Chàng thanh niên hỏi tôi muốn mua tượng Phật nào không. Tôi đáp “Tôi là Phật Tử nhưng cám ơn, tôi không mua.”
Tôi muốn thử anh ta một câu rất dễ “Anh biết Đức Phật ra đời ở đâu không?” “Nepal”, chàng thanh niên đáp ngay. “Anh google chứ gì?” Anh cười “Đúng vậy.” Lý do tôi đoán anh ta google vì người có kiến thức lịch sử căn bản cũng có thể biết Đức Phật đản sanh tại một vương quốc của nước Ấn Độ, ngày nay thuộc lãnh thổ Cộng Hòa Nepal. Tôi giải thích “Đúng ra anh nên trả lời là Ấn Độ nay thuộc Nepal vì khi Đức Phật ra đời chưa có nước Nepal. Là người Ấn anh cũng nên hãnh diện là nơi Đức Phật ra đời.”
Anh không nói gì nhưng người đàn bà lớn tuổi gật đầu.
Nhiều báo chí ca ngợi sự phục hồi Phật Giáo tại Ấn Độ bởi vì đi đâu họ cũng gặp hình tượng Đức Phật. Nụ cười Đức Phật có thể nhận ra từ khi du khách bước xuống phi trường New Delhi cho đến một quán nhỏ bán đồ kỷ niệm ven đường.
Tôi không lạc quan như vậy. Cao trào phục hưng phải được đánh dấu bằng tăng đoàn, tu viện, thiền viện, trung tâm nghiên cứu, đại học, thiện trí thức, tín đồ. Đạo Phật không phải là một món đồ để trưng bày, một thị hiếu dù hấp dẫn bao nhiêu.
Nhìn những đồng bạc cắc và viên đá mỏng viết chữ “fortune” đặt dưới chân một tượng Phật, tôi định nói với anh Đức Phật không mang may mắn tài lộc gì đến cho ai cả, nhưng rồi đổi ý. Nói để làm gì, một người không biết nơi sinh của một trong số rất ít bậc thầy của nhân loại thì Đức Phật trong mắt anh đơn giản chỉ là một món hàng.
NEPAL
Buổi chiều trên đường phố Pokhara, cách vườn Lumbini nơi Thái Tử Tất Đạt Đa sinh ra 126 miles (203 km). Ở Mỹ đó là một đoạn đường ngắn có thể lái xe đến thăm và trở lại phố cùng ngày. Nhưng Nepal thì không. Đường rất xấu và đèo dốc cheo leo phải mất cả ngày mới tới nơi và không thể trở lại trước khi trời tối.
Đây không hẳn là tượng Phật mà chỉ là tấm bia bằng nhôm hay xi-măng đúc hình đức Phật. Dưới chân đức Phật không phải là hoa quả do thập phương bá tánh cúng dường, chung quanh ngài không phải là những bậc La Hán và trên nền trời không phải chư thiên vân tập về nghe pháp.
Không, chung quanh ngài là hình ảnh quảng cáo. Một lon Coke, một lon Exel, những mẫu vẽ áo quần, đồ trang sức, những bụi hoa dại héo tàn. Cách đó không xa, một hãng máy bay tuyến đường ngắn từ Pokhara đi Kathmandu được đặt một cái tên rất an toàn là Buddha Air.
Theo thống kê, hơn 80% dân Nepal theo Ấn Độ Giáo (Hinduism), khoảng 8% là Phật Giáo. Nhưng thực tế, nếu tách chư tăng và tín đồ Tây Tạng, Miến, con số thuần túy Phật Giáo Nepal từ thời vương quốc Shakya còn lại ít hơn nhiều.
Chính quyền Nepal đầu thế kỷ 20 cũng không khoan dung cho một tôn giáo lớn của nhân loại đã gieo hạt mầm đầu tiên trên đất Nepal của họ. Triều đình Rana trong những năm 1926 và 1944 từng có chính sách kỳ thị với tông phái Theravada và một số tăng sĩ thuộc tông phái này đã bị trục xuất sang các nước lân cận.
Người dân Nepal, nhất là các chủ tiệm bán đồ kỷ niệm, rất hãnh diện khi giới thiệu với du khách “Nepal là quê hương của đức Phật” nhưng đó chỉ là cách để gạ bán hàng chứ không biết gì về Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế hay kinh điển Phật Giáo.
Tương tự ở Chennai, miền Nam Ấn Độ, khi tôi hỏi món quà kỷ niệm nào khách ưa chuộng nhất, người chủ tiệm trả lời “tượng Phật”.
Dù trong hoàn cảnh nào và được đối xử ra sao, đức Phật vẫn mỉm cười.
BRAINTREE, MASSACHUSETTS
Nhớ lại chuyện nhiều năm trước. Không bao lâu sau khi dọn về nhà mới, ngày nọ nhìn ra đường, một tu sĩ Phật Giáo còn khá trẻ đang đứng ngắm căn nhà đang treo bảng bán. Vợ tôi nhìn tôi “Anh đến đâu là có chùa theo đó.” Lúc đầu tôi tưởng là thầy đi lạc nhưng khi bước ra hỏi mới biết vợ tôi nói đúng.
Thật vậy, vài tháng sau, căn nhà của người láng giềng trở thành ngôi thiền viện. Thiền viện Bồ Đề như tên chùa được khắc vào viên đá trước cổng ra vào. Ngoại trừ những ngày lễ lớn ghé qua thăm và chúc sức khỏe các thầy, tôi ít khi đến chùa và cũng không nhớ hết pháp hiệu các thầy. Một phần vì bận rộn với đời sống và phần khác cũng không cảm thấy cần thiết. “Trong núi không có Phật” như Tổ Trúc Lâm đã dạy thì trong chùa cũng chưa hẳn có Phật. Đến chùa để tìm gì?
Ngày còn nhỏ tôi thường niệm hồng danh Đức Phật và ngủ nhiều năm dưới chân ngài. Những đêm khuya im vắng tôi ngồi dưới hiên chùa ngắm hàng vạn vì sao mọc kín vòm trời. Tôi tâm sự với ngôi sao những chuyện thầm kín nhất, những chuyện tôi chưa từng nói với ai và cho dù tôi muốn cũng chẳng có ai gần gũi để cùng san sẻ. Qua Mỹ cũng thế. Tôi niệm Phật và nghĩ đến những lời dạy của ngài ở bất cứ nơi đâu dù khi ngồi nhìn những đám mây bay bên kia cửa sổ phi cơ, những đêm thao thức và ngay cả những chiều kẹt trên xa lộ. Tôi yêu đạo Phật vì đạo Phật là đạo của tình thương, bao dung và tha thứ.
Tôi chợt hiểu ra, đến chùa không phải để “gặp Phật” mà gặp lại chính mình.
TRẦN TRUNG ĐẠO
(Ảnh ttđ “Một chân dung Đức Phật trên đường phố Nepal”)
Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu
– Viên kẹo tròn này để dành cho Mẹ Viên kẹo vuông này để lại cho Ba Viên kẹo nhỏ này để qua cho chị Viên kẹo lớn này để lại cho em Còn viên kẹo thật to này… là phần Bé đấy
Bên bờ biển Palawan Có một em bé gái Tuổi mới chừng lên sáu lên năm Đang ngồi đếm từng viên sỏi nhỏ Và nói chuyện một mình Như nói với xa xăm
– Em đến từ Việt Nam Câu trả lời thường xuyên và duy nhất Hai tiếng rất đơn sơ mà nhiều người quên mất Chỉ hai tiếng này thôi Em nhớ kỹ trong lòng
Em chỉ ra ngoài Đông Hải mênh mông Cho tất cả những câu hỏi khác
Mẹ em đâu? – Ngủ ngoài biển cả
Em của em đâu? – Sóng cuốn đi rồi
Chị của em đâu? – Nghe chị thét trên mui
Ba em đâu? Em lắc đầu không nói – Bé thức dậy thì chẳng còn ai nữa
Chiếc ghe nhỏ vớt vào đây mấy bữa Trên ghe sót lại chỉ dăm người Lạ lùng thay một em bé mồ côi Đã sống sót sau sáu tuần trên biển
Họ kể lại em từ đâu không biết Cha mẹ em đã chết đói trên tàu Chị của em hải tặc bắt đi đâu Sóng cuốn mất người em trai một tuổi
Kẻ sống sót trong sáu tuần trôi nổi Đã cắt thịt mình lấy máu thắm môi em Ôi những giọt máu Việt Nam Linh diệu vô cùng Nuôi sống em Một người con gái Việt
Mai em lớn dù phương nào cách biệt Nhớ đừng bao giờ đổi máu Việt Nam Máu thương yêu đã chảy bốn ngàn năm Và sẽ chảy cho muôn đời còn lại
– Viên kẹo tròn này để dành cho Mẹ Viên kẹo vuông này để lại cho Ba Viên kẹo nhỏ này để qua cho chị Viên kẹo lớn này để lại cho em Còn viên kẹo thật to này… là phần Bé đấy
Suốt tuần nay em vẫn ngồi Một mình lẩm bẩm Ngơ ngác nhìn ra phía biển xa xôi Như thuở chờ Mẹ đi chợ về – Thật trễ làm sao Em tiếp tục thì thầm Những câu nói vẩn vơ Mẹ ngày xưa vẫn thường hay trách móc Em cúi đầu nhưng không ai vuốt tóc Biển ngậm ngùi mang thương nhớ ra đi Mai này ai hỏi Bé yêu chi Em sẽ nói là em yêu biển
Nơi cha chết không trống kèn đưa tiễn Nơi tiếng chị rên Nghe buốt cả thịt da Nơi Mẹ chẳng về dù đêm tối đi qua Nơi em trai ở lại Với muôn trùng sóng vỗ
Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu.
Tôi về qua thành phố buổi chiều Giọt mưa thu rót lên con đường nhỏ Chiếc lá cuối mùa nằm yên trước ngõ Chợt nhớ một người giờ đã đi xa
Vẫn con đường này và như mới hôm qua Chiếc máy ảnh cầm tay, người đi tìm mùa thu theo từng góc độ Mùa thu Boston, New Orleans hay mùa thu Hà Nội Ống kính tuy xa nhưng nỗi nhớ rất gần
Như tôi và người từ độ quen thân Đọc chuyện Massada mà nghĩ về sông Hát Từ ngọn núi hoài nghi, rẽ chia, ngăn cách Có một dòng sông xanh mát giữa tâm hồn
Dòng sông của từ bi, bác ái, cảm thông Của “Bài giảng trên núi” trong Matthew và lời kinh Phật Để biết thứ tha, thương yêu, thành thật Nhỏ giọt tình người lên mỗi vết đau
Chắp cho cuộc đời đôi cánh để bay Đắp cho anh em con đường hy vọng Người đi xa, như vì sao trên dải thiên hà cao rộng Còn mãi nơi này dấu ấn một mùa thu. Trần Trung Đạo
Một Lạt ma trẻ nhìn xuống học viện Larung Gar và có thể đó cũng là lần cuối. Nếu không có áp lực nào, và chắc cũng không một áp lực nào, buộc Trung Cộng thay đổi ý định, vài hôm nữa một phần lớn của tu viện nổi tiếng thế giới này sẽ bị phá hủy.
Larung Gar không chỉ là học viện mà còn là biểu tượng văn hóa Phật Giáo Tây Tạng và lý do phá hủy cũng không phải vì đông đúc, thiếu an toàn như Trung Cộng viện lý do nhưng chính là nhằm xóa bỏ giá trị văn hóa.
Bởi vì, như tổ chức Human Right Watch phản bác, nếu chính quyền Trung Cộng cho là đông đúc thì thay vì phá hủy mà giải pháp đơn giản là xây thêm nhiều tu viện khác.
Từ khi chiếm đóng Tây Tạng năm 1950 đến nay, mục tiêu cuối cùng của nhà cầm quyền Trung Cộng là xóa bỏ Tây Tạng, một quốc gia có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, có chính phủ và đơn vị tiền tệ riêng.
Chính sách xóa bỏ Tây Tạng của Trung Cộng được thực hiện bằng hai cách, (1) diệt chủng văn hóa (ethnocide) nhằm hủy diệt các giá trị văn hóa và (2) đồng hóa chủng tộc qua việc định cư ồ ạt người Hán vào Tây Tạng.
Năm 1949, chỉ vỏn vẹn 300 đến 400 người Hán định cư ở Lhasa, thủ đô Tây Tạng, nhưng hiện nay tính trên toàn lãnh thổ, người Tây Tạng đã trở thành thiểu số trên chính quê hương mình. Lịch sử vàng son của Tây Tạng đang chìm dần vào quá khứ.
Trong lúc tình cảm của nhân loại yêu chuộng tự do và hòa bình dành cho Tây Tạng luôn tràn đầy, thực tế chính trị cho thấy khả năng Tây Tạng được độc lập lần nữa phải gắn liền với sự tan rã của Trung Cộng, giống như trường hợp của các nước vùng Baltic trong cơ chế CS Liên Xô trước đây.
Tây Tạng là một bài học trước mắt cho người Việt Nam còn quan tâm đến tiền đồ đất nước.
Như người viết đã có lần viết đến, nhìn Tây Tạng để thấy nếu chỉ biết tôn vinh quá khứ mà làm ngơ trước hiểm họa Trung Cộng hôm nay, rồi lịch sử dân tộc Việt với những chiến công hiển hách của các thời Ngô, Đinh, Lý, Trần cũng sẽ chỉ là những tấm bia trong một ngôi đền cổ.
Nếu tất cả chúng ta đều im lặng, làm ngơ, chịu nhục trước hiểm họa Trung Cộng, rồi bốn ngàn năm nữa, những đứa trẻ dòng Việt tộc đi ngang qua di tích đền Hùng, sẽ căm hận biết bao khi nghĩ về tổ tiên nhu nhược của chúng vào bốn ngàn năm trước đó.
“Ai là tác giả của nhạc phẩm Tôi đưaem sang sông” là vấn đề được bàn thảo khá rộng rãi trong vài năm qua. Người viết có đọc trên Internet những tranh luận nhưng thú thiệt chưa bao giờ dám hỏi thẳng anh Nhật Ngân vì, một phần, hỏi là nghi ngờ mà nghi ngờ là xúc phạm và phần khác là vì anh đã nói rõ ra rồi. Nhạc sĩ Nhật Ngân khẳng định anh đã viết nhạc phẩm đầu tay đầy kỷ niệm vào năm 1960 khi chỉ vào 18 tuổi ở Đà Nẵng và giải thích lý do có thêm tên nhạc sĩ Y Vũ.
Tôi đưa em sang sông theo lời kể của Nhạc sĩ Nhật Ngân
Nhạc sĩ Trường Kỳ, một cây bút chuyên viết đời sống và tác phẩm của các văn nghệ sĩ, trong một bài viết vào năm 2000, đã thuật lại nguồn gốc của nhạc phẩm Tôi đưa em sang sông theo lời kể của nhạc sĩ Nhật Ngân, và dưới đây là vài đoạn chính: “Theo lời tâm sự của Nhật Ngân, đáng lẽ ông đã trở thành một nhạc công vĩ cầm như người em họ là Nhật Hiền, nhưng vì gia đình ông quá nghèo, không mua nổi cây đàn cho ông. Do đó, ông đành quyết định thôi học. Vì lòng đam mê âm nhạc và nhất là nhờ ở khả năng thiên phú của mình, Nhật Ngân đã hoàn thành nhạc phẩm đầu tay khi ông mới vừa 18 tuổi vào năm 1960. Ðó là một ca khúc tình cảm mang tên Tôi đưa em sang sông.
Mặc dù chưa có phương tiện phổ biến rộng rãi trong thời gian đầu, nhưng Tôi đưa em sang sông đã trở thành một ca khúc được giới học sinh, sinh viên Ðà Nẵng rất ưa thích, chép tay truyền cho nhau hát.
Sau đó Nhật Ngân gửi ca khúc này vào Sài Gòn nhờ nhạc sĩ Y Vân phổ biến dùm, với sự sửa đổi một vài chữ trong bản nhạc cho hợp với đường lối của Bộ Thông tin lúc đó không cho phép phổ biến những nhạc phẩm ủy mị, ướt át. Câu “Rồi thời gian lặng lẽ trôi, đời tôi là cánh mây trôi bốn phương trời. Và đời em là cánh hoa thì bao người ước mơ, đưa đón trông chờ” được nhạc sĩ Y Vân đổi thành “Rồi thời gian lặng lẽ trôi, đời tôi là chiến binh đi khắp phương trời. Mà đời em là ước mơ đẹp muôn ngàn ý thơ, như ngóng trông chờ” cho phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh của đất nước.
Câu kết của bản chính là “Nàng đã thay một lối về, thay cả bàn tay đón đưa” cũng đã được Y Vân đổi thành “Nàng đã thay một lối về, quên cả người trong gió mưa.” Sự thay đổi lời ca này đã khiến cho tác giả cảm thấy “hẫng” đi một chút, như lời ông nói, vì không đúng với tâm trạng của mình khi đến lúc đó, chưa hề trải qua đời sống trong quân ngũ.
Hơn nữa, vì tác giả còn là một người chưa có tên tuổi nên cần nhờ tới một nhạc sĩ nổi tiếng đứng chung tên để Tôi đưa em sang sông đến với quần chúng dễ dàng hơn. Khi được phát hành, Tôi đưa em sang sông được ký tên bởi hai người là Trần Nhật Ngân và Y Vũ“.
Nhạc sĩ Nhật Ngân qua đời ngày 21 tháng 1, 2012 tại California, Hoa Kỳ.
Tôi đưa em sang sông theo lời kể của Nhạc sĩ Y Vũ:
Trong một bài viết được phổ biến rộng rãi trên Internet, nhạc sĩ Y Vũ nhắc lại chuyện tình để lại một đứa con tinh thần có tên Tôi đưa em sang sông: “Tôi sinh ra ở Hà Nội nhưng lớn lên tại đất Sài Gòn náo nhiệt. Những ngày tháng thơ ngây tại trường trung học có lẽ không bao giờ phai mờ trong trí nhớ của tôi, bởi ở đó tôi đã để trái tim mình rung động trước cô bạn chung lớp tên Thanh. Tình yêu học trò trong sáng lắm, chỉ cảm nhận qua ánh mắt, nụ cười chứ đâu có dám ngồi gần, dám nắm tay. Những khi tan trường sóng bước bên nhau cũng không biết nói câu gì, chỉ biết… đá cái lon sữa bò khua vang đường phố.
Thanh là con một gia đình khá giả, có cây xăng ở ngã bảy Lý Thái Tổ. Còn tôi hồi đó chỉ có chiếc “xế nổ” hiệu Roumie ngày ngày đi học. Mỗi chiều khi thay ba ra trông cây xăng, Thanh lại nhắc tôi ra đổ xăng… chùa. Những ngày tháng đó với tôi thật hạnh phúc, lãng mạn. Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, Thanh biến mất khỏi cuộc đời tôi vì một đám cưới ép gả với chàng bác sĩ. Hụt hẫng, chơi vơi, tôi uống chén đắng đầu đời và nếm trải mùi vị của “thất tình”. Tỉnh cơn say vào 2 giờ sáng, tôi ôm guitare và thế là Tôi đưa em sang sông ra đời. Bài hát với giai điệu buồn da diết được coi là tài sản chung cho nhiều chàng trai lâm vào cảnh như tôi thời đó.
Mối tình đầu làm tôi trắng tay, nhưng nỗi bất hạnh ấy đem lại cho tôi xúc cảm để có được hai bài hát tâm đắc. Sau Tôi đưa em sang sông gắn liền với tiếng hát Lệ Thu, ca khúc Ngày Cưới Em lại thành công vang dội: “Hôm nay ngày cưới em, nào men nồng nào hoa thơm, nào môi hồng nào da phấn, khăn áo muôn sắc đua chen…”
Tương tự, nhạc sĩ Y Vũ cũng “ngậm ngùi tâm sự” chuyện tình của ông cho nhạc sĩ Trịnh Hưng nghe: ”Đó là nhạc ghi lại mối tình đầu của em. Dạo đó, em còn là học sinh trung học tư thục Hàn Thuyên ở phố Cao Thắng, gần nhà và lớp nhạc của anh, yêu một nữ sinh cùng lớp tên Thanh. Đó là mối tình học trò, trong trắng. Tình yêu chúng em chỉ cảm nhận qua ánh mắt trao đổi, chứ chưa một lần nắm tay nhau. Nhà nàng giàu sang, có cây xăng ở ngã bảy Lý Thái Tổ, còn em thì nghèo, chỉ có chiếc xe gắn máy hiệu Bromic do anh Y Vân mua cho. Nàng dặn em, mỗi ngày cứ vào buổi chiều, canh đúng giờ nàng ra thay thế cho cha mẹ nàng về nhà nghỉ ngơi, thì tới để nàng đổ đầy bình xăng cho, không phải trả tiền. Và cứ thế, rồi bẵng đi một tuần không thấy Thanh đi học và ra cây xăng. Em nhớ Thanh quá, mới lấy hết can đảm tới nhà nàng, hỏi thăm cô em gái nàng, thì được biết mấy hôm nay nhà bận rộn vì phải tiếp nhận lễ hỏi cưới chị Thanh, do cha mẹ gả cho một ông bác sĩ lớn tuổi.”
Nhạc sĩ Y Vũ trưng bằng chứng “bản thảo”
Giữa tháng 11, 2017, trong một chương trình truyền hình Hát trên chuyện tình trong nước, nhạc sĩ Y Vũ phát biểu về nhạc phẩm Tôi đưa em sang sông:
“Tôi xin khẳng định một điều bài này của tôi viết có một mình tôi thôi. Anh Y Vân có dạy hai người học trò là Nhật Ngân và Anh Thy. Khi tôi thất tình tôi viết bài Tôi đưa em sang sông được mấy ngày sau, trình anh Y Vân duyệt, bài này được tốt rồi. Anh đề nghị ngay, bây giờ mày có thể để thêm tên Nhật Ngân vào bài này không để cho hai đứa cùng nổi tiếng với nhau, có chút tiếng, bài này hay, sẽ nổi đó. Kính thưa quý vị, tôi rất vô tư. Tôi không nghĩ cái chuyện mấy chục năm sau lại như thế. Tôi bảo anh muốn để thì em để vào. Bài đó ký tác quyền cho nhà xuất bản Diên Hồng và có thêm tên Nhật Ngân, và tôi có hứa trên báo chí là sẽ có một ngày tôi lục được cái bài gốc, gọi là bản thảo, tôi viết tay.”
Sau đó nhạc sĩ Y Vũ đưa bản viết tay cho người dẫn chương trình và cô đọc “Bản thảo ký ngày 5 tháng 6 năm 1962.”
Các báo trong nước phần lớn đồng ý với lời “khẳng định” của nhạc sĩ Y Vũ và báo Thanh Niên kết luận: “Lần đầu tiên, nhạc sĩ Y Vũ khẳng định ca khúc Tôi đưa em sang sông do chính ông tay ông viết mà không có bất kì một nhạc sĩ nào tham gia vào. Hơn nữa, nhạc sĩ còn đem theo bản gốc viết tay hơn 40 năm trước để làm bằng chứng chân thật nhất cho những lời kể của ông. “
Khoan, xin đừng quá vội.
– Bản gốc:
“Bản thảo” chép tay mà nhạc sĩ Y Vũ dùng làm bằng chứng không thể chứng minh đó bản gốc của nhạc phẩm Tôi đưa em sang sông. Ngoài nhạc sĩ Y Vũ, không có người nào hay cơ quan có thẩm quyền độc lập nào xác định đó là bản thảo. Cách đây hơn nửa thế kỷ, mọi sáng tác văn nghệ đều phải chép tay, dù do chính tác giả sáng tác hay chép lại nhạc của người khác.
Nhạc sĩ Nhật Ngân cũng có thể có một bản thảo chép tay như bản của nhạc sĩ Y Vũ nhưng còn đang thất lạc. Cuộc đời nhạc sĩ Nhật Ngân giống như âm nhạc của anh gắn liền với những chặng đường gian nan của đất nước. Rời Đà Nẵng, đi lính, gia nhập ban Tâm Lý Chiến của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, chịu đựng cực khổ sau 1975, vượt biên sang Thái Lan 1982. Mạng sống lo chưa xong nói gì là bản thảo.
– Thời điểm nhạc phẩm ra đời:
Khi còn sống, trong các buổi trả lời phỏng vấn trên báo chí, qua truyền hình, truyền thanh, nhạc sĩ Nhật Ngân đều khẳng định một cách chính xác nhạc phẩm đó anh viết lúc 18 tuổi từ năm 1960. Khẳng định này đã được phổ biến cùng khắp.
Nhạc sĩ Y Vũ, qua các lời kể, dù thừa nhận đã có biết, có nghe những tranh luận nhưng không phản đối về thời điểm 1960 do nhạc sĩ Nhật Ngân đưa ra.
Tạm cho là lúc đó nhạc sĩ Y Vũ chưa tìm ra “bản thảo” để chứng minh nhưng ít nhất ông phải nhớ năm nhạc phẩm ra đời và phản bác thời điểm 1960 của nhạc sĩ Nhật Ngân chứ. Chẳng lẽ ông nhớ những chi tiết nhỏ như “Thanh là con một gia đình khá giả, có cây xăng ở ngã bảy Lý Thái Tổ. Còn tôi hồi đó chỉ có chiếc “xế nổ” hiệu Roumie ngày ngày đi học” mà lại không nhớ mình sáng tác bản nhạc năm nào?
Không phản biện về thời điểm có nghĩa ông đồng ý bản nhạc ra đời vào năm 1960 chứ không phải 1962 và như vậy bản của nhạc sĩ Nhật Ngân dù còn đang bị thất lạc mới thật sự là bản gốc.
Thời điểm tìm ra “bản thảo”
Trên báo Thanh Niên ngày 17 tháng 11, 2017, Nhạc sĩ Y Vũ tiết lộ thời gian tìm ra “bản thảo”: “Bản gốc của ca khúc này do bà cụ cất giữ. Bà rất quý sáng tác của hai anh em tôi và giữ mỗi người một bản gốc mà bà yêu thích nhất. Bà kẹp bản gốc ca khúc Lòng mẹ của Y Vân và bản gốc Tôi đưa em sang sông trong ngăn tủ của mình cùng với giấy khai sinh của tôi và một vài giấy tờ quan trọng khác. Mãi đến khi bà mất, tôi mới kiếm được những tư liệu này.”
Người viết xin lỗi phải nhắc đến bà cụ nhưng vì nhạc sĩ Y Vũ nhắc trước.
Mẹ của hai nhạc sĩ Y Vân và Y Vũ không phải qua đời năm ngoái, năm kia hay thậm chí không phải mười năm trước mà qua đời cách đây 24 năm. Báo chí trong nước viết về ngày cụ qua đời: “ngày 28/11/1992, nhạc sĩ Y Vân giã từ cõi người khi vừa bước vào tuổi 60 và mười tháng sau, mẹ của ông, (cũng là mẹ của nhạc sĩ Y Vũ) qua đời.”
Theo lời kể của chính nhạc sĩ Y Vũ, bà cụ cũng chẳng chôn giấu “bản thảo” ở một góc nhà nào kín đáo hay gởi cho ai mà để ngay trong phòng của cụ cùng với các giấy tờ quan trọng khác. Do đó, “bản thảo” trong xấp giấy tờ quan trọng phải được tìm ra ngay sau khi bà cụ qua đời.
Nhưng cứ tạm cho rằng ông không tìm ra “bản thảo” ngay mà 10 năm sau mới tìm ra thì tại sao 14 năm rồi ông không công bố “bản thảo” dù ông có rất nhiều cơ hội và tại sao ông không công bố khi nhạc sĩ Nhật Ngân còn sống để hai mặt một lời cho dứt khoát? Điều gì khiến ông dè dặt?
– Vai trò của nhạc sĩ Y Vân:
Người có thẩm quyền nhất và có tính xác định cao nhất ai là tác giả của nhạc phẩm Tôi đưa em sang sông chính là nhạc sĩ Y Vân vì cả nhạc sĩ Y Vũ và Nhật Ngân đều đồng ý là nhạc sĩ Y Vân đã ghép chung hai nhạc sĩ vào nhạc phẩm.
Nhạc phẩm này không phải bây giờ mới nổi tiếng mà nổi tiếng ngay sau khi được Lệ Thu hát cho tới nay. Nhạc sĩ Y Vân qua đời năm 1992. Tuy lâu nhưng không phải quá lâu. Nhạc sĩ Nhật Ngân không có ở trong nước nhưng nhạc sĩ Y Vũ ở bên cạnh anh mình cho đến ngày cuối nhưng tại sao ông không yêu cầu nhạc sĩ Y Vân xác định giùm ông những bí mật, những khuất tất chung quanh nhạc phẩm này nếu ông là “tác giả duy nhất”?
Người viết không dám phê bình nhạc sĩ Y Vân nhưng khách quan mà nhận xét lý luận cho rằng nhạc sĩ Y Vân thêm tên em mình vào một nhạc phẩm mà ông biết sẽ nổi tiếng có lẽ dễ thuyết phục hơn là thêm một tên còn đang học nhạc 18 tuổi vô danh ở ngoài Đà Nẵng vào nhạc phẩm của em mình.
– Lời nhạc
Nhạc sĩ Nhật Ngân có hơn 200 nhạc phẩm, không tính nhạc ngoại quốc lời Việt, và nhiều trong số đó đã gắn liền với tâm sự với những người xa quê hương như Xuân này con không về, Một mai giã từ vũ khí nhưng khi được yêu cầu anh thường hát Tôi đưa em sang sông.
Người viết nghe chính nhạc sĩ Nhật Ngân hát Tôi đưa em sang sông lần đầu 14 năm trước tại Dallas, rồi sau đó những lần khác trong các đại hội Quảng Đà, họp mặt Liên Trường ở Nam California. Anh hát với tất cả xúc động chân thành toát ra từ ánh mắt, từ lời ca, từ niềm hoài vọng về một thành phố cảng thân yêu nơi có bến đò ngang và dòng sông đẹp.
Ai đã từng sống ở Đà Nẵng hay sống cả hai thành phố Đà Nẵng và Sài Gòn, và lắng lòng ngồi nghe anh Nhật Ngân hát, chắc hẳn sẽ đồng ý chính anh là tác giả của Tôi đưa em sang sông bởi vì “sông” trong Tôi đưa em sang sông là dòng sông thật chứ không phải “đưa người ta không đưa qua sông” theo cách ví trừu tượng của Thâm Tâm.
Chuyện tình của nhạc sĩ Y Vũ không có tình tiết nào được phản ảnh trong lời nhạc Tôi đưa em sang sông. Theo lời kể của ông phần lớn chỉ diễn ra bên cây xăng ở Ngã Bảy Lý Thái Tổ và thậm chí “ chưa một lần nắm tay nhau” thì làm gì có “bàn tay nâng niu ân cần” như trong Tôi đưa em sang sông.
Chuyện tình của nhạc sĩ Nhật Ngân không đánh dấu bằng những “cây dài bóng mát”, “vòm lá me xanh”, “thương xá sắp đóng cửa” hay “muôn tà áo tung bay” ở Sài Gòn mà bằng “đường vắng”, “bến đất”, “bến gió”, “lối mòn” thường gặp trong các thành phố xa thủ đô. Nói chung, không một động từ, một danh từ, một tĩnh từ nào trong Tôi đưa em sang sông làm người nghe liên tưởng đến Sài Gòn.
– Tôi đưa em sang sông so sánh với Ngày cưới em
Nhạc sĩ Y Vũ, trong dịp khẳng định tác quyền Tôi đưa em sang sông có nhắc đến ca khúc Ngày cưới em.
Lẽ ra không cần phải bàn đến nhạc phẩm không liên hệ nhưng vì nhạc sĩ Y Vũ “tâm đắc” và nhấn mạnh nhạc phẩm này cũng đã “thành công vang dội” nên người viết mời độc giả vào Youtube nghe hai nhạc phẩm rồi đọc kỹ lời của hai nhạc phẩm để thấy sự khác nhau trong cách diễn tả và ngôn ngữ được dùng.
Những câu hát trong Tôi đưa em sang sông là những câu thơ, có trách móc, có chút đắng cay nhưng rất nhẹ nhàng và bóng gió:
Tôi đưa em sang sông, chiều xưa mưa rơi âm thầm Để thấm ướt chiếc áo xanh, và đẫm ướt mái tóc em Nếu xưa trời không mưa, đường vắng đâu cần tôi đưa Chẳng lẽ chung một lối về mà nỡ quay mặt bước đi
Tôi đưa em sang sông, bàn tay nâng niu ân cần Sợ bến đất lấm gót chân, sợ bến gió buốt trái tim Nếu tôi đừng đưa em, thì chắc đôi mình không quen Đừng bước chung một lối mòn, có đâu chiều nay tôi buồn …
Trong lúc đó, lời của Ngày cưới em:
Hôm nay ngày cưới em Nào men nồng nào hoa thơm Nào môi hồng nào giá phấn Khăn áo muôn sắc đua chen Mắt biếc ngời ánh đêm Làn tóc nụ cười ngát hương Từng bước dập dìu bước êm Chỉ mình lòng tôi hoang vắng
Hôm nay ngày cưới em Mừng vui họ hàng đôi bên Vì đâu nàng mời tôi đến Tuy có đây cũng như không Chiếc áo tình chóng phai Một sớm một chiều đã thay Thì nhớ đừng vì có tôi Mà nàng giấu vui không cười …
Lời của Ngày cưới em không bóng gió như thơ mà là những đoạn văn xuôi tả rất cụ thể, rõ ràng với “men”, “môi”, “phấn”, “mắt”, “khăn áo”, “họ hàng đôi bên”.
Ngôn ngữ bao la nhưng mỗi nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ chỉ có một cuốn tự điển để sử dụng cho riêng mình và dù có viết trăm bài thì những chữ tác giả dùng cũng giới hạn trong tự điển đó thôi.
– Tiền bản quyền
Nhạc sĩ Y Vũ than trên báo Thanh Niên: “Nghe nói tiền bản quyền ca khúc bên Mỹ cao lắm, mà hàng chục năm qua tôi không được một đồng.” Đây là điểm thuộc về pháp lý và sẽ do các luật sư chuyên về bản quyền giải thích nhưng trong quan điểm phổ quát, tiền bản quyền thuộc về ai tùy thuộc vào ai giữ bản quyền. Người viết cũng đã từng nộp bản quyền và biết cơ quan bản quyền không dựa vào bản chép tay dù cũ bao lâu của ai đó để xác định bản quyền.
Việt Nam và Mỹ đều là thành viên của Berne Convention cho nên nếu nhạc sĩ Nhật Ngân nộp bản quyền nhạc của ông sau khi định cư ở Mỹ năm 1982 và gia đình nhạc sĩ Nhật Ngân giữ quyền thừa kế bản quyền của Tôi đưa em sang sông thì họ có thể kiện những ai dùng nhạc phẩm vào mục đích thương mại ngay cả đã sử dụng tại Việt Nam trước đây, đang sử dụng hiện nay và cả sẽ sử dụng sau này.
Nhạc sĩ Y Vũ có nhiều điều kiện, nhiều thời gian, nhiều cơ hội và nhiều người để giúp chứng minh ông là tác giả của nhạc phẩm Tôi đưa em sang sông nhưng đã không làm. Hôm nay, nhạc sĩ Nhật Ngân không còn sống để biện hộ cho anh nên dù nói gì nhạc sĩ Y Vũ cũng chỉ vẽ nên nhiều nhất là một nửa cái bánh mà thôi.
Trong lúc một số người dễ tin có thể cho những bằng chứng nhạc sĩ Y Vũ đưa ra là thật nhưng những người khác thận trọng, suy nghĩ chín chắn hơn sẽ nghĩ khác. Ngay cả những khán giả vỗ tay khi nhạc sĩ Y Vũ trưng ra bản chép tay mà ông viết là “bản thảo” trên đường về cũng có thể tự trách mình đã vội vàng vì không có gì chứng minh đó là bản đầu tiên của nhạc phẩm Tôi đưa em sang sông.
Bản chép tay mà nhạc sĩ Y Vũ đưa ra không phải lấy từ hồ sơ lưu trữ của Bộ Thông Tin Việt Nam Cộng Hòa, không phải do gia đình cố nhạc sĩ Y Vân công bố, không phải do một người thứ ba nào khám phá mà chỉ từ nhạc sĩ Y Vũ.
Mười hai năm trước khi qua đời, nhạc sĩ Nhật Ngân kể lại với nhạc sĩ Trường Kỳ: “Tôi không bao giờ than vãn cuộc đời. Tôi vẫn mang trái tim của tôi, mang sự yêu mến cuộc đời của mình để bước vào cuộc đời.”
Lúc 10 giờ sáng ngày Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012, tác giả Xuân này con không về đã bước ra khỏi cuộc đời cũng bằng trái tim đầy yêu thương như thế.
Vì nhạc sĩ Y Vũ khẳng định ông là tác giả duy nhất của Tôi đưa em sang sông nên người viết muốn phân tích để chứng minh những gì dễ cho là thật và tưởng là thật nhiều khi lại không hẳn là thật.
Sự kiện Tôi đưa em sang sông là một biến cố đáng tiếc trong âm nhạc Việt Nam nhưng suy cho cùng cũng chẳng làm nhạc sĩ nào thiệt hại hoàn toàn. Cả hai nhạc sĩ cùng với nhạc sĩ Y Vân qua nhân duyên văn hóa đã góp phần tạo nên nhạc phẩm tuyệt vời này.
Nhạc sĩ Nhật Ngân đã qua đời và nhạc sĩ Y Vũ sắp bước vào tuổi tám mươi, nên mỉm cười đón nhận nhân duyên. Tôi đưa em sang sông sẽ mãi mãi là một phần của văn hóa Việt Nam và các thế hệ Việt Nam mai sau cũng sẽ mỉm cười kính mến và trân trọng khi nhắc đến tên hai vị.