Đêm trở về từ Virginia

tranhoaithu

Tôi học nơi này, xứ của đô la
Chữ tình có khi chữ buồn-muốn-khóc
Đôi khi đêm rằm rán tìm vầng trăng cố quốc
Mà ở đông bắc này, trăng bỏ trốn biệt tăm

Có khi chiếc xe trở về lạnh lẽo, căm căm
Đôi quạt nước kêu rêu hoài mệt lả
Mưa mùa mịt, tiếng ca người nức nở
Một bản nhạc buồn vào thuở mới vừa quen

Tối ở bên này và sáng ở bên kia
Nên chắc gì những vì sao có còn gặp gỡ
Chỉ có nỗi nhớ nhung thì vượt ngàn cách trở
Tôi nói thầm, phương ấy còn nhớ tôi không?

TRẦN HOÀI THƯ

NGƯỜI CON GÁI Ở NHÀ THỜ ĐỨC TIN

tranhoaithu

Như thế tôi đã có một hình ảnh để tạm gọi là nhớ nhung. Như thế tôi đã có một dòng suối tóc đen tuyền và một con mắt giấu trong bờ suối như bắt tôi phải cố tìm kiếm một cõi mê lộ. Như thế cái dáng người nữ, đôi bờ ngực phập phồng, để tôi phải mơ đến độ phải mộng tinh. Từ ngày thấy nàng tôi như chìm đắm trong nỗi mê muội tâm thần. Tôi muốn nàng là của riêng tôi, dù trong giấc mơ, trong nỗi tưởng tượng. Tôi đã bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt, về con heo và cánh hoa huệ lóng lánh hạt sương… Vâng, chính cô đơn là một căn bệnh khủng khiếp nhất.

Những ngày đầu của một mùa đông rét mướt, tôi đã chịu đựng không nổi cùng ngọn lửa cô đơn. Đó là cơn hồng thủy dẫn tôi dần đến một bến bờ tuyệt vọng. Tôi thèm những viên thuốc ngủ. Tôi thèm một sự nhắm mắt thật dịu dàng. Tôi ràn rụa cùng những ý nghĩ bi quan đen tối. Tôi chưa ý thức được hạnh phúc là nỗi đau khổ như một bài thơ nào đó trong The Prophet của Gibran. Tôi chẳng khác một đứa bé, bỗng nhiên bị giam cầm trong buồng tối, thèm được thấy biển, mặt trời, những ngọn sóng bạc đầu và những chú còng tinh nghịch trên cát. Vẫn căn gác trên lầu chuông của nhà thờ Đức Tin, xung quanh là vách đá, và chiếc nền xi măng ẩm ướt, cùng với tượng Chúa khổ nhục trên cây thánh giá, lẫn những song cửa sắt nhìn xuống biển, để tôi muốn thét gào cho vỡ cả cõi thinh không u uất ghê rợn, mà những giọt lệ đã làm chứng cho nỗi nhớ nhung chất ngất. Tôi chẳng khác là con hổ rừng sa vào bẫy, để đưa đôi mắt nhớ lại núi rừng. Ngọn lửa cô đơn thiêu đốt tôi bừng bừng trong những đêm tối, những ngày dài hiu quạnh, trong khi mùa đông xám và lạnh rét run ngoài hàng hoa giấy và hoa tigôn dưới nhà thờ.

Ngày đầu, người bạn xách xe mua cho tôi vài ký gạo, vài bó rau muống, một chai xì dầu, một lọ chao, và dăm trái ớt. Hắn hấp tấp để dưới nền, chưa kịp chào hỏi, rồi lại ra đi. Tôi phải cặm cụi nhen lửa, vo gạo, luộc rau. Tôi tự làm thui thủi. Tôi dọn chén ăn một mình. Tôi nấu cơm dành cho suốt ngày ăn. Đến ngày thứ hai, vô ý tôi làm nồi gạo văng tung toé trên nền, và tôi đã chán nản đến cực độ. Tôi đập vỡ chén, bẻ đũa. Sau đó, tôi liên tưởng đến cái chết.
Vị mục sư đã đi họp xa, và ngôi nhà thờ này chỉ còn lại Hải. Hải đã sống ở đây hai năm, chuyên phụ quét dọn nhà thờ, sắp xếp bàn ghế, hoặc tiếp vị mục sư trong việc truyền giáo. Hắn bảo tôi ông mục sư thật khó tính. Cậu gắng ở đây một thời gian rồi mình sẽ tìm cách khác giúp cậu. Hắn nhìn vào mắt tôi: “Sợ cậu không chịu nổi cô đơn thôi.” Tôi khinh mạn mỉm cười. Nhưng bây giờ tôi biết mình thất bại. Tôi đã chịu đựng không nỗi cùng cõi tha ma như ngôi nhà mồ của ngôi nhà thánh. Tôi không thể can đảm nhìn bóng tôi chập chờn trên vách khi ngọn sáp hiu hắt bên quan tài tôi. Tôi đã nghe rõ tiếng thở dài của tôi và cắn răng áp hai bàn tay vào tai, để khỏi nhớ, khỏi nghe bước chuyển động của thời gian. ánh đèn sáp mờ rọi vào bức tượng Chúa như hình ảnh khốn khổ tột cùng của thế gian. Cũng như tôi lúc này. Cái quan tài sống đang rên rỉ, gào thét, đang vùng lên trơ trọi giữa chốn thế gian.
Ngày chủ nhật. Người yêu ơi chủ nhật buồn. Nhìn qua song lá rụng rơi. Mà nơi đây không một người. Người yêu ơi sao chẳng đến. Ngày chủ nhật. Tiếng chuông nhà thờ đã bắt đầu ngân lên trong không gian lạnh. Tiếng chuông ngân thật dịu dàng. Như tiếng chuông gọi hồn trên nghĩa trang hay là hồi chuông cứu rỗi. Tôi áp mặt vào khung cửa kính. Buổi mai xám cả bầu trời. Những cánh tigôn li ti rụng phủ ngập sân. Và cánh cửa nhà thờ đã mở rộng từ lúc nào. Chắc Hải đã sửa soạn từ sớm. Hắn đã quét dọn nhà giảng, lau chùi các ô cửa kính. Lời hắn vẫn còn vang bên tai tôi. Tôi mong cậu mỗi ngày chủ nhật nên xuống xem lễ để lấy lòng ông mục sư. Biết đâu ông ta thương cho cậu trú ẩn. Tôi đã lặng thinh. Tôi muốn nói tôi là kẻ vô đạo. Tôi muốn nói thêm, Thượng Đế sẽ khóc khi nhìn một đứa con của Người là tôi. Giọng Hải trầm trầm: “Mình biết cậu phải khổ sở khi phải làm một việc mà cậu không ưa, nhưng cậu nên nhớ rằng, mình vẫn còn những năm dài chờ đợi trước mặt.” Tôi nói tôi đã hai mươi lăm tuổi, mà tôi không mong làm tướng. Tôi đang thấy mình già. Tuy nhiên tôi sẽ nghe lời cậu. Hải cười: Số tín đồ ở thành phố này chỉ có vài chục. Ông ta sẽ vui mừng khi có thêm một tín đồ mới. Cậu hãy can đảm chịu đựng. Biết đâu cậu sẽ tìm một niềm an ủi trong Chúa. Vâng thì tôi chịu đựng, và đã chịu đựng từ ba mươi năm nay rồi. Từ khi lọt lòng đã khóc thét trong bom đạn, và lớn lên đã tiếp tực chịu đựng cùng một số mệnh phi lý, không phải do mình tạo nên, mà do từ chủ nghĩa, từ đám lãnh tụ đâu đó… Và bây giờ, cũng vì muốn thoát khỏi định mệnh, tôi lại phải chịu đựng thêm một định mệnh khác…

Trời lại đổ một cơn mưa nhỏ. Một số người đã đến lễ. Những chiếc dù đen bên cạnh những chiếc dù màu. Những bộ quần áo mới và thật sậm hoà lẫn những tà áo hoa cà. Tiếng gõ của chiếc giày trên thềm xi măng, và những tiếng xì xào thăm hỏi rộn ràng. Một ngày chủ nhật đối với họ quả êm đềm, và hạnh phúc. Họ sẽ hát ngợi dâng, và sẽ miên man cầu nguyện để bình an về với họ. Và sau đó, họ sẽ trở về nhà, thỏa mãn, hy vọng.
Chỉ có tôi thì còn lại những gì ? Mắt tôi vô tình dán chặt vào ô kính nhòa nhạt nước mưa. Một khoảnh sáng nhỏ cũng đủ cho tôi nhìn rõ một hành lang đầy hoa cúc vàng và những chiếc dù, áo mưa giăng mắc la liệt ngoài cửa chính. Tôi chợt nhận ra một người nữ thật xinh đẹp. Cả người nàng toát ra một vẻ đẹp buồn thảm. Từ mái tóc đen tuyền phủ cả bờ vai, và phủ một nửa mặt. Từ chiếc áo dài đen, chiếc quần lụa đen… Nàng bước trên sân tràn ngập những cánh hoa tigôn hồng, dáng nhẹ nhàng và uyển chuyển làm sao. Tôi bàng hoàng đến độ ngây ngất. Tôi tự biết tim tôi vẫn còn bén nhậy. Hay là tại cái màu đen rờn rợn như cõi chết mà nàng đã sắp ban cho tôi. Như một lời mời gọi từ mái tóc phủ cả con mắt phải của nàng. Như chiếc đầu cúi xuống và bờ vai mềm mại cùng cái dáng mong manh của nàng. nàng bước vào cửa thánh như một làn gió.
Tôi vẫn lặng thiếp trong nỗi hôn mê kỳ lạ. Rồi sau đó, tôi nhắm mắt lại. Tiếng phong hồ cầm chợt vẳng từ nhà giảng lên căn gác. Đó là một bản thánh ca. Tôi còn nghe cả một giọng hát thật cao, cao và trong. Một vài chiếc lá muồng bay vèo xuống sân và yên nghỉ ở đó. Có gì lưu lại trong lòng tôi không? Có gì ngủ lại trong tâm hồn tôi không? Hay là một ngày chủ nhật trôi dần qua mà một người thanh niên đang nắm những song sắt để chờ đợi:
Người yêu ơi chủ nhật buồn
Lòng rưng rưng như lệ tuôn…
thời gian đi trong tủi hờn
người có hay sao chẳng tới ?
(nhạc Hoàng Thi Thơ)

Như thế tôi đã có một hình ảnh để tạm gọi là nhớ nhung. Như thế tôi đã có một dòng suối tóc đen tuyền và một con mắt giấu trong bờ suối như bắt tôi phải cố tìm kiếm một cõi mê lộ. Như thế cái dáng người nữ, đôi bờ ngực phập phồng, để tôi phải mơ đến độ phải mộng tinh. Từ ngày thấy nàng tôi như chìm đắm trong nỗi mê muội tâm thần. Tôi muốn nàng là của riêng tôi, dù trong giấc mơ, trong nỗi tưởng tượng. Tôi đã bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt, về con heo và cánh hoa huệ lóng lánh hạt sương… Vâng, chính cô đơn là một căn bệnh khủng khiếp nhất.

Bạn tôi, thỉnh thoảng lại về rồi đi. Nhà thờ đạo đóng cửa suốt tuần và chỉ mở vào ngày chủ nhật. Bởi thế tôi ít khi bị làm rộn. Tôi tự giam mình trong nỗi khổ hạnh với xì dầu, rau muống, tương chao cả tháng. Rõ ràng muốn đổi lại cái sống, tôi phải trả bằng một cái giá quá đắt. Hải cười nói tôi còn hơn thầy tu nữa. Chừng nào sắp đắc đạo nhớ mang hắn theo. Tôi cười không trả lời. Hắn làm sao biết lúc này là tôi muốn sống, muốn sống mãi, muốn mỗi ngày là chủ nhật. Trời ơi, sáu ngày đã làm tôi muốn điên khùng lên đây.

Tôi bắt đầu làm quen với vị mục sư trẻ. Vị mục sư này đang tập sự để thừa kế vị mục sư già khe khắt. Ông thật trẻ trung và có tư tưởng tiến bộ. Ông chấp nhận cho tôi được trú ẩn trên căn gác chuông với điều kiện luôn luôn ở trong nhà thờ. Ông sợ nếu tôi ra ngoài, hàng xóm láng giềng sẽ nghi ngờ và tố giác. Ông không muốn nhà thờ ông mang tiếng chứa chấp tên đào thoát. Tôi hứa với ông, nhưng tôi phải khổ tâm để phải hứa với lòng, hãy cố lên, hãy đầy đủ nghị lực để khỏi sa vào sự cám dỗ mê muội.

Một ngày chủ nhật nữa lại đến. Cánh cổng nhà thờ đóng kín cửa suốt cả tuần bây giờ lại được mở ra. Tiếng chuông lại ngân vang hòa cùng nỗi náo nức của lòng tôi. Những tiếng chuông ngày nào khiến tôi cứ liên tưởng đến sự cứu rỗi, thì bây giờ như những tiếng gọi của mùa hạnh phúc. Bởi lát nữa, người nữ có mái tóc phủ hẳn con mắt phải, đẹp não nùng sẽ hiện ra, và cái dáng người mềm mại, uyển chuyển kia sẽ bước vào trong cửa thánh như một làn gió… Bởi lát nữa, hai gót chân nàng sẽ dẫm trên những cánh hoa li ti hồng nhạt. Và tôi đã chờ đợi trong nỗi nôn nao vô cớ. Dưới sân, tiếng lao xao bắt đầu vang lên. Đám tín đồ thưa thớt bước lên hành lang. Và nàng, người tín đồ cuối cùng hiện đến. Vẫn bộ quần áo màu đen tuyền. Vẫn gương mặt bị mái tóc che phủ một phần. Vẫn những bước chân nhỏ và mềm. Vẫn dáng uyển chuyển. Tôi như nín thở khi áp mặt vào khung cửa trên lầu chuông. Tôi muốn lột trần nàng, phà hơi lên da thịt của nàng. Tôi muốn thoả mãn nỗi cô đơn như cả một núi tảng đã hành hạ tôi từng đêm, từng ngày từng giờ từng phút.
Nàng bước lên bực thềm nhà giảng. Tiếng phong hồ cầm lại vang lên réo rắt. Tôi vội vàng mặc quần áo nhè nhẹ bước xuống thang lầu. Tôi đứng sát vào cửa hông. Nhạc thánh ca vẫn trỗi. Những bài thánh kinh vang lên. Giọng hát cao và trong như cuốn lốc. Tôi quì gối xuống cố nhìn rõ nàng hát qua lỗ khóa. Dù cánh cửa gỗ trắc ngăn chia, nhưng tôi vẫn ngỡ nàng đang ngồi sát bên tôi, và chúng tôi cùng ca lên lời ngợi khen dâng cùng Chúa. Tôi ngây ngất nhìn gương mặt ngoan đạo của nàng, dưới ánh điện mờ ảo.
Có nên nói một điều này không. Vì khi nàng quay mặt vào cửa ngăn, nàng đã vén lên mái tóc phủ con mắt phải của nàng, một cách sợ sệt. Thì tôi đã nhận ra một con mắt sâu hoắm. Một con mắt mù thật tức tưởi, bên cạnh một vết sẹo dài láng bóng như sáp ong. Gương mặt nàng bây giờ như một gương mặt xấu nhất thế gian.

TRẦN HOÀI THƯ

(nguồn: tạp chí Vấn Đề trước 1975)

Ngày tàn của một ông Tướng

tranhoaithu

Ông nói gái Hà nội đẹp tự nhiên bởi vì mỗi ngày họ đều ăn một quả trứng ngỗng, còn gái Sài Gòn vì thiếu ăn đói rách nên da mặt xanh xao, phải ngụy trang bằng đánh phấn má hồng. Bài nói chuyện của ông khiến sinh viên, công nhân viên miền Nam phải nín thở, phải hít hà. Thì ra thiên đàng đâu cần tìm ở đâu xa, mà ngay tại Hà Nội này. Họ vỗ tay. Họ hoan hô cách mạng. Ít ra, cách mạng phải mang những điều tốt đẹp hơn trước, nếu không, thì cách mạng cái quái gì. Họ làm sao biết khi ông nói về những điều này lòng ông cảm thấy bất an. Ông phải chứng tỏ ông là một đứa con trung kiên của Đảng, để đám cán bộ xung quanh không thể có chứng cớ nào để buộc tội được ông. Ông cũng đã viết thư qua Mỹ, dạy hai đứa em của ông, phải sống như người lương thiện. Thằng em nhận thư, đọc xong, nổi giận viết thư trả lời: Anh ở trong hàng ngũ bất lương mà lại dạy tôi phải sống như người lương thiện.

Buổi trưa nóng như lò lửa. Ngồi trong nhà, ông Ba Thi có thể nhận ra những những tàn cây bông sứ im lìm không lay động, con đường bên ngoài hàng rào như chảy nhựa, và những mảng nắng lay động trên chiếc hồ nuôi cá đặt trong vườn đến nhức mắt. Mặc dù chiếc quạt máy đã mở tối đa, nhưng hơi nóng như theo gió táp vào da thịt ông. Tự nhiên, ông nhớ lại hơi mát lạnh tỏa ra từ chiếc máy điều hòa không khí chạy suốt đêm ngày trong văn phòng ông đã làm việc suốt gần hai năm, kể từ sau khi bộ đội ông tiếp thu thị xã. Ông nhớ đến chiếc bàn làm việc bằng gỗ láng bóng, khung cửa kính có treo màn, và căn phòng phía sau cánh cửa, với chiếc giường nệm êm ả để ông tìm đến khi cần một chỗ đặt lưng. Ông nhớ đến nỗi êm ái thật dịu dàng khi ông ngồi trên chiếc ghế nệm, trước mặt là điện thoại, và lá cờ quân đội nhân dân, trên vách treo tấm hình của Bác, thêm những tấm hình chụp chung với anh Văn, người mà ông xem như người anh đỡ đầu của ông trong suốt quãng đời binh nghiệp. Ông nhớ đến những người lính phục vụ, buổi sáng không quên mang vào bình trà, và buổi trưa mùa hè, không quên mang vào những chai bia ngoại, cùng chiếc cốc đầy nước đá…Họ bước vào khúm núm, rời phòng khúm núm. Có khi họ biết ý ông, lại mang vào gói thuốc ngoại như Camel, Craven A, hoặc 555. Không biết họ lấy ở đâu loại thuốc quí hiếm như thế này. Mặc kệ. Ông không bao giờ thắc mắc. Ông chỉ biết tận hưởng, như cả Đảng ông, từ trung ương xuống hạ tầng đang điên cuồng tận hưởng. Mà tại sao lại không. Những biệt thự nguy nga sang trọng mà Mỹ ngụy để lại, với bao nhiêu đồ đạc tiện nghi, những ngôi nhà vắng mà chủ của chúng đã bỏ chạy ra nước ngoài, những chiếc xe bóng loáng, những tủ lạnh, máy truyền hình, những thảm, bàn ghế, máy may…ê hề, dư dật, no nê, sẵn sàng chờ tiếp thu….Không chụp thì dại. Ông biết điều ấy, nhưng ông không thể nhanh tay hơn đám trung ương ngoài Bắc. Họ đã đánh hơi trước ông. Họ đã chặn đầu ông bằng cách cho người mau mắn vào Nam kiểm kê vơ vét tất cả để chở mang ra Bắc. Ông đã bó tay. May mà ông giành được một ngôi nhà bên con phố chính của thành phố. Nếu không, giờ này ông đâu còn được ngồi trong căn phòng với điện nước xài thả dàn, quạt máy quạt tối đa, tủ lạnh cũng chạy suốt cả đêm lẫn ngày để sản xuất những bịch đá cục mà ông bám vào để sống trong lúc: Đầu đường đại tá vá xe. Cuối đường thiếu tá bán chè đậu đen… như số phận của hầu hết những anh hùng Điện Biên bị về vườn khác…

Ông nhớ lại những ngày tháng đầu tiên sau giải phóng. Ông đã trở lại thành phố nơi ông đã ra đời, và đã trải qua những năm tuổi thơ đến tuổi trưởng thành. Ông trở về, bộ quân hàm tướng trên cổ áo, ngồi xe díp Mỹ, có lính hầu, lính phục vụ, và cả một đại đơn vị dưới quyền. Ông trở về như một người hùng. Ông đã ngồi lại chỗ ngồi của viên tướng ngụy tự sát, nhìn lại cái bản đồ còn sót lại trước khi Mỹ cút ngụy nhào, để cám ơn Bác, Đảng, cám ơn đại tướng đã tiến cử ông,… Rõ ràng ông đã sống như cơn mơ. Ông bấy giờ chẳng khác bậc lãnh chúa.. Ông còn hơn cả những người đảng viên tập kết khác. Như lão Sáu Bồng, giữ chức viện trưởng Viện Đại Học, lão Tám Minh, giữ chức Bí Thư Tỉnh ủy. Ông nắm quyền số một của ủy ban Quân Quản, là người muốn tha ai là tha, và bắt ai là bắt. Ông thi hành nghiêm chỉnh chính sách của Đảng, lùa sĩ quan ngụy vào rọ, đập tư sản mại bản, đổi tiền, đốt hủy văn hoá đế quốc, truy kích tàn dư. Họ gọi ông là anh Ba, tâng bốc ông lên tận mây xanh. Họ đọc tên ông đầu tiên trong các bài diễn văn, trong các buổi họp…Ông ngồi ở hàng ghế danh dự, ban huấn thị. Họ xem ông là một tấm gương cho một người lính công bộc trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Nhưng ông có nỗi lo buồn không ai có thể hiểu nổi. Cả gia đình ông, trừ ông, đều là đại phản động. Một thằng em của ông nguyên là trung tá, hiện đang nằm trong trại cải tạo. Và hai đứa em khác đã chạy qua Mỹ vào tháng 4 năm 1975. Tàn tích Mỹ ngụy rõ ràng quá sâu đậm trong dòng họ ông mà những người thèm chức vụ của ông thì quá nhiều và những kẻ ganh tị với ông thì cũng không ít. Bọn họ đang chờ chực cơ hội để giành lấy chức vụ béo bở… Bởi vậy, ông càng chứng tỏ là một người không có dính líu gì đến cái huyết thống giai cấp đầy nợ máu. Mặc mẹ ông đã từng khóc lóc khi nói về thằng em đang cơ cực trong trại cải tạo… Hãy để cách mạng giáo dục dạy dỗ nó nên người. Ông luôn luôn nói với bà như thế. Nó đã phạm quá nhiều tội ác đối với nhân dân. Mặc bà luôn luôn kể về những năm huy hoàng cũ, chưa bao giờ bà biết cơm độn khoai độn sắn, với những bữa cơm lúc nào cũng thịt, cá ê hề. Ông nghe bà than thở, chỉ biết nói: “Đất nước mình còn nghèo, mới thoát ra từ chiến tranh, má à. Không bao lâu, Nhật bò ta chạy, nhà nhà đều có tủ lạnh, có đài.” Ông đã lặp lại những lời của tổng bí thư Lê Duẩn, để động viên bà. Nhưng ông đã bị bà mỉa mai bằng một câu quá đau: “Chờ đến ngày ấy, người dân đói quá làm sao mà chạy được hả con ?”.

Khi ban huấn thị hay nói về những đề tài liên quan đến chính trị, ông thao thao bất tuyệt, ca ngợi chế độ, ca ngợi Bác, Đảng lên tận mây xanh. Ông say sưa kể về một thủ đô Hà Nội không có một cô gái điếm, nhân dân được tự do đến nỗi chuông nhà thờ Hà Nội còn đổ sớm hơn chuông nhà thờ Rô Ma. Ông không quên nói về người con gái Hà Nội xinh đẹp, má khỏi cần đánh phấn hồng như cô gái miền Nam. Ông nói gái Hà nội đẹp tự nhiên bởi vì mỗi ngày họ đều ăn một quả trứng ngỗng, còn gái Sài Gòn vì thiếu ăn đói rách nên da mặt xanh xao, phải ngụy trang bằng đánh phấn má hồng. Bài nói chuyện của ông khiến sinh viên, công nhân viên miền Nam phải nín thở, phải hít hà. Thì ra thiên đàng đâu cần tìm ở đâu xa, mà ngay tại Hà Nội này. Họ vỗ tay. Họ hoan hô cách mạng. Ít ra, cách mạng phải mang những điều tốt đẹp hơn trước, nếu không, thì cách mạng cái quái gì. Họ làm sao biết khi ông nói về những điều này lòng ông cảm thấy bất an. Ông phải chứng tỏ ông là một đứa con trung kiên của Đảng, để đám cán bộ xung quanh không thể có chứng cớ nào để buộc tội được ông. Ông cũng đã viết thư qua Mỹ, dạy hai đứa em của ông, phải sống như người lương thiện. Thằng em nhận thư, đọc xong, nổi giận viết thư trả lời: Anh ở trong hàng ngũ bất lương mà lại dạy tôi phải sống như người lương thiện. Rồi đến cả lời chúc Tết của nó trên đài Hoa Kỳ nhân danh một nhân sĩ hải ngoại đúng vào nửa đêm giao thừa. Nó mạt sát chế độ. Nó lại còn hẹn một ngày về trong vinh quang… Đúng là thằng ngoan cố phản động. Trời ơi, ông rủa thầm. Giữa lúc cuộc đời của ông lên như diều gặp gió thì tiếng nói của nó trên đài nước ngoài như một cái điềm tai ách. Tay chân ông rụng rời. Vợ ông, người đàn bà mà ông cưới ngoài Bắc, thì đau khổ không ít. Bà linh cảm được cái tương lai u ám trước mặt. Sẽ không còn cái mộng làm một bà tướng của quân đội nhân dân. Sẽ hết cái mộng tậu thêm một căn nhà có vườn ăn trái, có cả một cây đàn dương cầm cho con gái hay cho con cái bà qua Mỹ du học như đám con của các cán bộ cao cấp khác…

Và cái ngày ấy đã đến. Trước hết, vai trò của Đại tướng bị hạ bệ từ chức tổng trưởng quốc phòng xuống chức ngồi chơi xơi nước. Dù sao người anh nuôi của ông vẫn còn được may mắn. Còn ông và đám bạn bè cùng lứa thì từng người một ôm khăn gói về vườn. Mà vườn thì chẳng có để mà an hưởng tuổi già. Thôi thì cả bọn chỉ biết tụ họp tại câu lạc bộ kháng chiến để ngồi lại mà nhớ thời dĩ vãng vàng son. Nhưng cuối cùng Đảng cũng không chịu buông tha. Câu lạc bộ cũng bị đóng cửa dẹp tiệm nốt.

Nhục. Hèn. Ông nhắm mắt nhìn tuổi già trôi qua hiu hắt. Đời của một ông tướng cuối cùng như vậy sao?
oOo
-Ông Ba, còn nước đá cục không ông Ba !
Giọng của thằng bé hàng xóm như hét ngoài cổng, khiến ông phải bỏ dở giòng ý tưởng đang tuôn trào trên ngòi viết. Ông tháo cặp kính lão bỏ xuống bàn viết rồi mở tủ lạnh nhìn vào. Còn khoảng ba bịch đá. Ông mở cửa, nói vọng ra:
– Còn, mua mấy bịch ?
– Dạ, mười bịch, ông Ba.
Ông nhìn thằng nhỏ. Nó là một khách hàng quen thuộc với ông. Nó lại hỏi, giọng có vẻ xấc xược:
– Tôi kêu mấy lần mà ông không nghe. Bộ ông ngủ hở?
– Ừ thì tao ngủ.
Ông trả lời, lòng tê tái. Ông hỏi thằng bé:
– Hôm nay nhà mày có khách hay đình đám mà mày mua nhiều thế?
– Dạ, có khách Việt kiều. Cô Năm của tôi, thêm con trai của cổ. Ảnh là bác sĩ.
– Từ Mỹ về ?
– Dạ. Cô về mang nhiều quà. Cổ cho tôi chiếc quần cao bồi…
– Nhà cô Năm chắc gần đây?
– Cổ là con ông Tám Lợi.
– Tao biết rồi.
– Ông vào nhà lấy nước đá đi ông. Kẽo người ta chờ…Tiệc lớn lắm ông Ba.
– Tao biết…
Ông nói.. Phải ông đã biết. Biết thế nào là một sự phũ phàng của lịch sử. Ông đã trả cái giá quá đắt cho cả đời của ông, tuổi trẻ của ông, hoài bão của ông, và lý tưởng của ông nữa.
– Ông biết cô Năm của tôi không?
– Không. Nhưng tao biết ông Tám Lợi.
Thằng bé nhận lấy ba bịch nước đá rồi vụt chạy. Ông trở vào nhà, ngồi lại trước bàn. Bản thảo về bộ quân sử mà đại tướng nhờ ông viết nằm trước mặt. Đó là niềm vui trong những ngày còn lại của ông, và của đại tướng. Đó là bát tro tàn của quá khứ làm của tự hào. Nhưng hôm nay ông cảm thấy bất an. Danh dự của ông đã bị tổn thương. Ngay một đứa con nít vẫn còn sai ông chạy. Nó đâu cần biết quá khứ của ông. Nó chỉ biết cô nó, một Việt kiều trở về để nó có quyền hãnh diện cùng bạn bè, hàng xóm, và cả ông nữa.

oOo

Buổi chiều, ông Ba Thi đạp xe đạp trở về nhà mẹ ông. Ông cần lấy vài cuốn sách trong tủ sách gia đình của thằng em ở Mỹ để lại. Vừa bước vào nhà, bà Năm, mẹ của ông đã nói:
– Con Năm con của chú Tám Lợi ở Mỹ về, mới ghé nhà. Nó có mang ít quà của thằng Sáu gởi về má.
– Bộ con Năm có quen biết thằng Sáu?
– Nó nói gặp thằng Sáu hoài.
Rồi bà lại khóc tấm tức.
– Dù sao em con vẫn còn biết thương má. Tuy ở xa, nó vẫn còn biết má ho mà gởi về hộp thuốc ho…
Bà không nói hết, nhưng ông Ba biết là bà đang gián tiếp trách ông.
Ông nói với bà:
– Má có thể nói giùm cho con được gặp cô Năm được không?
– Để má sẽ nói cho. Gia đình mình và gia đình chú Tám Lợi thân thiết từ xưa nay. Ngày xưa ba con và chú Tám vẫn hay đánh tứ sắc chung…
– Con nhớ.

oOo

Buổi tối ông Ba đạp xe đến nhà chú Tám. Ông nhớ lại căn nhà mà thời tuổi trẻ, trước khi ông ra Hà Nội học, ông vẫn thường ghé qua. Ông cũng có thể nhớ lại đứa con gái mà ngày xưa vẫn hay rụt rè, với đôi mắt to đen như hai hòn bi. Bây giờ cô bé ấy đã trở thành quá lạ. Cô ta không rụt rè như trước nữa, mà trái lại đã nói huyên thuyên khi ông mới bước vô nhà:
– Anh Hai, anh còn nhớ em không. Em là Thương đây.
Cô líu lo nói, mừng rỡ như thể gặp lại một người thân xa cách từ lâu:
– Em nhớ có lần anh Hai đến nhà học bài chung với anh Hai Minh của em… Má em sai em nấu nước pha cà phê cho hai anh uống…
Lòng ông Ba Thi ấm lại. Ông ngậm ngùi nói, lòng dâng lên xúc động:
– Anh nhớ. Anh nhớ hết em Năm. Anh làm sao quên được. Anh cũng nhớ đến bên kia đường, tên mật thám Tây bị bọn anh bắn nằm trước cổng nhà.
– Bộ anh bắn sao?
– Anh ở trong toán công tác nội thành mà.
– Sao ngày ấy em thấy anh hiền khô không à.
Ông Ba cười. Rồi ông hỏi tiếp:
– Em có thường liên lạc với thằng Sáu em của anh không?
– Dạ, thỉnh thoảng anh Ba.
– Gia đình nó thế nào ?
– Dạ thưa khá lắm. Con cái ảnh đều thành tài hết.
– Năm à. Cho anh tâm sự với em điều này.
Ông ngưng lại, như lấy can đảm. Mắt ông đỏ, ngấn lệ:
– Anh vẫn nhớ ngày nó còn nhỏ anh vẫn hay cõng nó đi chơi. Chiều chiều, anh hay dẫn nó ra bờ sông, anh em cùng tắm lội…Có lần anh tập nó chạy xe đạp, anh phải chạy theo nó kẻo sợ nó té. Tại sao nó vẫn không hiểu anh.
Giọng của ông trở nên tha thiết hơn:
– Anh mong em nếu trở lại Mỹ gặp nó thì nói lại là anh lúc nào cũng thương cũng nhớ nó. Nói với nó anh bây giờ anh khổ lắm. Anh cần nó gởi cho anh một ít quà hay thuốc men. Anh bây giờ là một ông tướng bán nước đá…Nhục lắm. Nhục lắm…
Đôi vai ông bật run lên và giọng nói của nghẹn trong cổ họng. Chừng như ông đã mất hết bình tĩnh. Cái bình tĩnh cố hữu của một ông tướng ngoài mặt trận.

TRẦN HOÀI THƯ
(đã đăng ký bản quyền tại US library of Congress)

Ô Cửa

tranhoaithu

Ngôi trường cũ có bao nhiêu ô cửa
Để tôi về đếm những đám mây
Tôi sẽ gọi một bầy chim sẻ nhỏ
Những con chim từ xa vắng lạc bầy

Tôi sẽ đứng như một người thiên cổ
Lớp học buồn, như từ cõi cô đơn
Thầy ngồi đó, đôi vai gầy tóc bạc
Chút ngậm ngùi, cơn nắng đọng hòang hôn

Tôi sẽ về để biết mình bé dại
Hôm nào đây, chạy đuổi cuộc hành trình
Sông núi ấy, hai bên bờ cách trở
Đứa nào còn, nào mất giữa đao binh

Tôi sẽ nhớ một người tôi yêu dấu
Người nào đâu, về lại buổi hôm qua
Dấu chân nhỏ như vết hài vạn cổ
Đôi mắt nào theo dõi cuộc đời ta

Tôi sẽ nghe những hồi chuông lễ sớm
Đứng bên cầu tôi sẽ đợi chờ ai
Trong sương muối, người còn mang áo trắng
Trắng cả vùng trời, trắng cả đời trai

Tôi cũng hiểu rồi cuối cùng thua lỗ
Khi bỏ trường tôi ra đứng bờ sông
Người bên ấy đang đợi thuyền ghé bến
Tôi bên này, mưa bấc lạnh căm căm

Dù dối lòng như cuộc đời chàng Dũng
Vì đám mây bên ô cửa gọi mời
Tôi bỏ xứ lao đầu vào binh lửa
Coi cuộc đời như một chuyện rong chơi

Và người ấy qua dòng sông sương muối
Tôi lên rừng theo dòng thác binh đao
Và người ấy theo sông về biển lớn
Tôi tội tù trả nợ kiếp bò trâu

Giờ thiếu phụ đã nằm trong lòng biển
Tôi về Đông, về Bắc, biết về đâu
Trăng thiếu phụ tôi mang vào song cửa
Cho một lần, cho vô tận thiên thu

Trần Hoài Thư

GỐC NHỚ

tranhoaithu

 

Sân nhà ta cỏ mọc hoang vu
Những gốc dại cứ kiên trì bám đất
Như nỗi nhớ cứ bám vào trí óc
Muốn nhổ hoài càng nhảy ngọn xanh um
Mà vườn nhà thì quá đỗi mênh mông
Bầu trời xám, quạ gọi bầy đi ngủ
Cầm chiếc cuốc, cuốc hoài gốc cỏ
Làm sao bứng hoài gốc nhớ trong ta ?

TRẦN HOÀI THƯ

XA LẠ

tranhoaithu

Cô bạn chờ ai , chiều đã lặn
Chờ ai , đêm đã xuống khi nào
Xe tôi đậu sẵn … mà tôi vẫn
Đợi mãi , đợi hoài … như chiêm bao.

Cô bạn lạnh lùng như gỗ , cây
Hồn tôi đây : mưa lạnh giăng đầy
Trời ơi, hai kẻ nhìn mưa , đợi
Cô đợi người , tôi biết đợi ai ?

TRẦN HOÀI THƯ

ĐÊM RA BIỂN

tranhoaithu

Đêm ra biển, đêm dậy đàn. Đêm tuyệt mộ
Đêm lạy Trời lạy Phật lạy Ba Ngôi
Đêm lên thiên đàng hay địa ngục, đêm ơi
Đêm chới với lằn ranh miền sống chết
Đêm rất lặng mà đêm tru thảm thiết
Đêm hiền từ mà đêm nổ lòng ghe
Đêm sóng gào mà đêm lại nín khe
Đêm gió dữ mà bình an nhắm mắt
Đêm nước mặn mà ngọt ngào nỗi chết
Đêm quá dài mà ngắn chớp tử sinh
Đêm ơi đêm, một cõi u minh
Đêm bật khóc nhìn chúng tôi tự sát…

TRẦN HOÀI THƯ

NGÀY GẶP BẠN CŨ

tranhoaithu

Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận
Thoắt giờ đây: tóc đã điểm hoa râm
Khi gặp lại từ phương này quả đất
Chợt nhìn lên: giờ vầng trán đã nhăn

Trong đôi mắt mỏi mê cùng cơm áo
Có chút gì phảng phất của quê hương
Mây Đèo Cả như hôm nào dừng lại
Chiều Pleiku như buổi nọ mù sương

Thấy như thể trời Bồng Sơn mưa đổ
Chiều cuối năm quân chuyển xuống Đèo Nhông
Đường xe lửa ai ngồi châm điếu thuốc
Áo tơi dầu che khuất dãy Cù Mông

Thấy như thể lon Guigoz cam khổ
Chút đồ ăn còn trộn với tử sinh
Nhai hối hả kịp xuống đồi đột kích
Mưa xóa dầm dề khu trại gia binh

Thấy như thể đêm qua về quận lỵ
Vài ba thằng trải chiếu dưới đêm trăng
Dăm trái ổi và bi đông rượu đế
Con cá khô thiều chia chút tình thân

Thấy như thể mồ hôi và nước mắt
Mặn và đau từ núi nọ rừng kia
Qua An Lão mày tao còn gọi máy
Về Phù Ly hai đứa lại xa lìa

Thấy trở lại những chuyện đời dâu bể
Hôm nào đây miệng hò hét xung phong
Trong chớp mắt, cả cơ đồ sụp đổ
Buồn gì không hỡi thế hệ long đong

Thằng ra Bắc, kêu thầy, thầy bỏ xứ
Thằng vào Nam, gọi bạn, bạn lưu vong
Sông núi ấy bao hồn ma trở dậy
Kéo nhau về, kêu thảm một mùa xuân

Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận
Thoắt giờ đây, tóc đã điểm hoa râm
Khi gặp lại từ phương trời viễn khách
Chợt nhìn nhau, sao nước mắt lưng tròng.

TRẦN HOÀI THƯ

TA LÀ LÍNH MIỀN NAM

tranhoaithu

Ta trở về, giáp mặt chiến tranh
Ðồi cháy lửa mặt trời nhuộm đỏ
Thau rượu đế mừng ta thằng lính sữa
Dzô ông thầy ! hữu sự có thằng em
Trung đội ta về, hai mươi mấy thằng con
Thằng trai miền Nam hề , sinh thời ly loạn
Ðứa gốc Kinh, đứa Nùng, đứa Thượng
Ðứa độc thân, đứa con vợ đề đùm
Ðứa gốc nhảy dù , đứa gốc đào binh
Ðứa ăn chay trường , đứa thèm thịt chó
Ta ra trường núi sông nghiêng ngửa
Tập chửi thề, gái , rượu, xung phong
Hàng trang ta là lựu đạn dao găm
Thêm tuổi trẻ ta già như quả đất
Thêm một trái tim ngự đầy Chúa Phật
Thêm một cõi lòng tràn ngập quê hương
Khi đánh nhau, thắng bại lẽ thường
Chỉ mong đàn con bình an vô sự
Chỉ mong trở về gặp nhau đụng rượu
Lỡ chết rồi hồn cũng thoát thành men
Ta cần gì giáp sắt che thân
Gánh gì đồ chiến tranh cho nặng
Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm
Mấy năm trời giày da vẹt gót
Ngày lãnh lương về chợ dưỡng quân
Cám ơn những nàng má phấn môi son
Yêu ta vội vàng trước khi tiếp Mỹ
Con gái tiểu thư mơ toàn hoàng tử
Còn ai chia giùm ta con rận hành quân ?
Ta lính miền Nam hề, gốc nho phong
Không chiến tranh cũng thành đốc tờ,đốc tiếc
Thời thế đẩy đưa ta làm lính chiến
Mang nỗi buồn như rừng lá khai quang
Ta đứng giữa trời bốn phía rưng rưng
Em mười lăm đi làm đĩ Mỹ
Thằng nhỏ mười ba học đòi sát ngụy
Ma quỉ phương ngoài học xẻ Trường Sơn
Ðất nước ta , cường quốc bán buôn
Hậu phương ăn chơi biểu tình đảo chánh
Lúc đồng đội ta sống lên chết xuống
Một đám ở nhà nhảy nhót thâu đêm
Lãnh chúa ta thì ăn trước ngồi trên
Hùng hổ lắm nhưng mạt hèn cũng lắm …
Khóa của ta
Trên mấy trăm thằng tình nguyện
Ði nhảy dù, thủy bộ, thám báo ” ác ôn ”
Ðứng đợi cả ngày để bốc lá thăm
Toàn thứ dữ mà vui như chợ tết
Có đứa mang bằng kỹ sư về nước
Chọn cọp ba đầu rằn làm lính tiền phong
Ta lính miền Nam hề,vận nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?

TRẦN HOÀI THƯ

VÀO GIÊNG

Tôi ở bên ni trời viễn biệt
Em xa. Xa ngái tận phương trời
Ở đây tuyết trắng giăng mờ ngõ
Tháng giêng em và tôi hai nơi

Nơi quê nhà trời đã vào xuân
Em nơi nào, Sài Gòn, Qui Nhơn?
Tôi qua Nữu Ước trời không độ
Khuấy cốc cà phê đặc nỗi buồn

Em nơi nào, nắng có vàng không?
Cho tôi về thăm lại Ban Đông
Những đồi hoa tím, đồi sim tím
Tím theo từng cây số nhớ nhung

Em nơi nào, chim én về không?
Trời quê hương lúa trổ đòng đòng
Cho tôi nhớ lại mùa xuân cũ
Em đã theo đời tôi ruổi rong

Em nơi nào, hương sứ còn vương?
Tôi có người yêu đẹp lạ thường
Đêm tối miền cao trời thấp lại
Muôn sao trời cũng chụm yêu thương

Em nơi nào, rừng có lao xao?
Trời mù sương, bóng em gầy hao
Tôi đi để lại người em nhỏ
Giữa rừng hoa quì vàng chiêm bao

Xin em hãy lại căn nhà cũ
Giúp mẹ tôi lau màng nhện giăng
Cố thử xem giùm trong một xó
Đôi giày há mõm thuở thanh xuân

Xem thử trong giày còn hạt cát
Của những ngày tôi lội thăm em
Xem thử đế giày còn bẹt gót
Của những ngày gian khổ lênh đênh

Em nơi nào, ở nơi nào nhỉ
Trời đã giêng rồi, em biết không
Tôi qua Nữu Ước ngày không độ
Gọi cốc cà phê, lạnh nỗi lòng

Lạnh thêm nỗi nhớ trùng trùng
Tìm đâu hương cũ giữa dòng viễn khơi

TRẦN HOÀI THƯ