NGÀY VĂN HỌC KHAI CHIẾN VỚI VĂN

tranhoaithu

Mặt trận xảy ra tại Saigon vào mùa hè năm 1966. Văn Học đứng đầu là nhà văn Duyên Anh (DA), đặt bản doanh là mục Chân Trời Văn Học. Tạp chí Văn với chủ soái là Mõ Làng Văn, đặt tổng hành dinh chỉ huy “Quét Sân Đình”.

Bản doanh của Mõ Làng Văn: Quét Sân Đình

Bản địa của Duyên Anh: Chân Trời Văn Học

Khi Duyên Anh làm sập tiệm “Quét Sân Đình” của Văn

“Mõ Làng Văn” là một bút danh xuất hiện trên tạp chí Văn trước năm 1975 từng gây sóng gió trên văn đàn, từ năm 1964 đến giữa năm 1966 (Văn số 8 đến Văn số 57) qua mục lấy tên là “Quét Sân Đình”. Đây là một bút hiệu “tập thể”. Người viết mượn tên, đội lốt. Và chỉ có một người biết. Dĩ nhiên là Thư k‎ý tòa soạn Trần Phong Giao.

Một ví dụ điển hình là ngay cả chuyện các nhà văn nổi tiếng bấy giờ tom góp các bài viết cũ rồi xuất bản thành tập bằng cách đánh số I, II, III như Võ Phiến với Tạp bút I, II…, Nguyễn văn Trung với Ca tụng thân xác I, II hay Thế Uyên với Thái Độ I, II… cũng bị Mõ Làng Văn xem là rác rưới để quét. Mõ ta cho rằng các vị ấy noi gương bắt chước theo hai ông J.P. Sartre, André Gide khi hai tác giả ngoại quốc này tom góp những bài viết của họ để xuất bản và đánh số I, II, III !. (Văn số 51 ngày 1-2-1966).

Trong số các nhà văn bị làm rác bởi Mõ Làng Văn, có Duyên Anh (DA). Ông bị chổi của thằng Mõ quét sau khi bài viết “Một tác phong văn nghệ” của ông khen ngợi dịch giả Vân Mồng xuất hiện trên Văn Học số 56 ngày 15-3-1966. (Toàn bài “Một tác phong văn nghệ” được chúng tôi đánh máy và đăng ở phần phụ lục)
Ông DA ấm ức lắm. Ông muốn biết ai là tác giả bài viết này. Ông không thể trả đũa một bút hiệu mà ông gọi là “bút hiệu tập thể”. Ông là vua chửi, nhưng nếu chửi mà chẳng có đối tượng thì chửi làm gì. Bởi vậy ông công khai xin hai người mà ông nghi là Nguyễn Minh Hoàng và Trần Phong Giao (TPG) trên một bài báo xuất hiện ở Văn Học số 57 ngày 1-5-1966:

“Xin hai anh một điều có chê nhau, đừng ký Mõ Làng Văn nữa.”
(Toàn bài chúng tôi đánh máy đăng lại ở phần phụ đính)

Điều này chứng tỏ về cái chiêu quét của Văn là độc địa như “Ao Thả Vịt” với Kha Trấn Ác trên báo Sống của Chu Tử. Muốn quét ai hoặc muốn “làm rác” ai thì cứ lấy thằng Mõ Làng Văn để mà đội lốt. Ai chửi lại thì có thằng Mõ nhận thế giùm. Khỏe ru. Khỏi mất lòng ai. Mà cũng chẳng ai biết mình là tác giả. Bởi nó là bút hiệu tập thể. Chả trách Duyên Anh phải “Xin hai anh một điều có chê nhau, đừng ký Mõ Làng Văn nữa.”
Nhưng lời xin (mang theo dọa dẫm) của nhà văn Duyên Anh không được Văn thỏa mãn. Ngay sau bài viết “Một tác phong văn nghệ” của ông đăng trên Văn Học được phổ biến thì trên Văn số 55, trên mục Quét Sân Đình đăng bài trả đũa nhan đề “Nhân một bài báo của nhà văn Duyên Anh” tác giả vẫn k‎ý tên là Mõ Làng Tân Nhuế.
Lập tức, Duyên Anh phản công. Trên Văn Học số 58, ông viết bài “Trả lời ông Nguyễn Minh Hoàng” mà ông nói là tác giả bài viết vì ông nghe chủ nhiệm tạp chí Văn Học tiết lộ:

“Tôi có thói quen, hễ cần viết hay nói một chuyện đứng đắn thuộc phạm vi văn nghệ với một người nào mà nhắc đích danh người đó, không bao giờ tôi dùng những bút hiệu khác ngoài bút hiệu Duyên Anh. Tôi cũng có thói quen, không thích nói chuyện với một người “nổi tiếng” như ông Nguyễn Minh Hoàng mà lại phải nói với bút hiệu “tập thể” của ông Mõ Làng Tân Nhuế. Sở dĩ, tôi biết người bảo tôi sai lầm trong bài báo của tôi đăng trong Văn Học số 56, là ông Nguyễn Minh Hoàng vì anh chủ nhiệm Văn Học tiết lộ rằng chính ông Trần Phong Giao nói nhỏ với anh mới đây tại quán Chùa.”
(Văn học số 58 ngày 15-5-66 – Toàn bài được đăng lại ở phần Phụ lục)

Để hỗ trợ cho bài phản công trên, ông cho đăng thêm một bản tin ngắn nhan đề “Phỏng vấn Dương Kiền” ngay dưới bài viết. Xin lưu ý‎ Dương Kiền nguyên là chủ bút của tạp chí Văn Học (1962-1963):

“Tạp chí Văn số 56, ở mục “Quét Sân Đình”, ông Mõ Làng Tân Nhuế viết bài “Nhân một bài báo của nhà văn Duyên Anh”, đã khéo léo “kều” Dương Kiền vào cuộc và mỉa mai bằng một giọng rất cay cú: “khi dịch văn, dịch cuốn l’Etranger của Albert Camus (Ngày Nay xuất bản, Saigon, 1965) thì ta thấy ông (Dương Kiền) thất bại hoàn toàn. Không cần đi sâu vào chi tiết, cứ nguyên cái việc ông Dương Kiền đem biến thiên truyện kể (récit) của Camus, bằng cách chặt câu xuống hàng lung tung, cũng đủ để cho, giá như Albert Camus có đội được mồ mà sống lại và giá như ông ta đọc được bản Việt dịch, cũng không tài nào nhận ra tác phẩm của ông nữa rồi!”
Kẻ ghi mục này có hỏi Dương Kiền:
– Cậu có trách tôi không? Họ không “đánh” tôi mà lại “cắn” cậu đau quá!
Dương Kiền không thèm trả lời nhưng Bùi Ngọc Dung nói:
– Ghen ăn đấy mà. Cùng dịch một cuốn, chậm chân mãi không vô đâm ra cay cú! Lại còn xúi ông Khai Trí đem bản dịch của Dương Kiền đốt đi để xuất bản bản dịch của mình.
Bèn trố mắt:
– Ai đó?
Đáp gọn:
– Đầy tớ của ông Khai Trí, chứ ai!
(Văn Học số 58 ngày 15-5-1966)

Sau khi bài phản công của Duyên Anh được phổ biến trên Văn học số 58, thì trên Văn cùng một số tức 58, lập tức có bài trả lời của ông Trần Phong Giao. Ông phủ nhận việc Duyên Anh bảo Trần Phong Giao gặp Phan Kim Thịnh ở quán Cái Chùa:

“Trước hết, đã hàng tháng nay tôi không ra quán Cái Chùa. Cũng đã một thời gian lâu rồi tôi không được gặp ông Phan Kim Thịnh. Phần khác, giá có gặp ông Thịnh, tôi cũng không có đủ thân tình để “nói nhỏ với ông về một điều mà tôi (cũng như ông Thịnh) bắt buộc phải giữ kín như một “bí mật thuộc về nghề nghiệp””.
Thứ đến là ông nói rõ thêm chuyện ông Bùi Ngọc Dung cáo buộc TPG là “ghen ăn” mà ông cho là DA “bịa đặt”:

“Khi cho tôi mượn Văn-Học số 58 (lúc tôi viết bài này chiều 10-5, báo Văn Học chưa có bán ngoài sạp) một anh bạn có cho biết là mới đây trong một bữa cơm thân mật tại nhà anh Phan-Kim-Thịnh anh Bùi Ngọc Dung đã phàn nàn (trước mặt anh em) là anh không hề nói những điều mà ông Duyên-Anh đã viết trong bài “Phỏng vấn Dương Kiền” … Tôi không có lý do gì để không tin lời anh bạn nọ. Vì vậy, tôi đành coi bài của ông Duyên-Anh như một sự bịa đặt.”
(Xin dọc ở phần phụ đính đăng toàn bài của Trần Phong Giao)

Tháng 5 dĩ nhiên là tháng nóng ở Saigon, nhưng chắc là không nóng sốt bằng cuộc chiến tranh tay đôi này.

Đến nỗi, nhà thơ trào lộng Tú Kếu đã làm bài thơ như sau:

TÚ KẾU
(Mục “chém treo ngành”)

ĐÙA HAI THẰNG MÕ

(Duyên Anh trong bài “ tác phong văn nghệ” ở Văn Học “kê” các dịch giả xứ ta. Thằng Mõ báo Văn ức sừng bèn “quét” lại trong mục “quét sân đình” kỳ trước…)

Một thằng mõ văn, thằng mõ báo (*)
Hai thằng cùng mõ, cùng nói láo,
Dài hơi, cả tiếng tưởng hay ho
Cãi nhau om sòm, điếc ráy lão!

Đôi co văn tàu, với văn ta
Lải nhải cứ như bọn đàn bà!
Văn dịch anh em mang mổ xẻ
Vạch vòi y hệt lúc chơi hоа!

Thằng Văn bới móc thằng Văn-Học
Hàng xóm mất ngủ vì bọn nhóc!
Bọn nhóc thừa giấy đem vẽ voi
Vẽ luôn giun dế, và nhái cóc!

“Tác phong văn nghệ”, khéo bày trò
Giống mõ nhà bay vốn miệng to
Danh giá bao nhiêu mà lớn họng?
Một mình một chiếu hẳn chưa no?

Cốc… cốc… ơ… ơ… giữ nghiệp nhà
Thôi đừng lí lắc kiểu bùn ma!
Nhắn hai thằng mõ: không siêng học
Làng tống ra ngoài chết bỏ cha!

“Vän nghệ văn ngỗng” nước non này
Ra quái gì đâu hở chúng bay!
Chọc cứt ngửi hoài sao chẳng chán
Riêng ông lợm giọng bấy lâu nay!

Mặc cha đứa dịch, đứa sáng tác
Đứa vồ, đứa thuổng, đứa ăn cắp!
Làng ông nó bẩn đã lâu rồi
Cần gì lũ mõ phải lắp bắp!
______
(*) Mõ Báo: bút hiệu của Duyên Anh ký trên Tin Báo trước đây.
_____

(Văn số 57)

Kết quả là Văn đại bại. Kể từ số 58, mục thường xuyên “Quét Sân Đình” bị dẹp bỏ sau hai năm tung hoành một mình một cõi. Bút hiệu Mõ Làng Văn không còn thấy xuất hiện, mãi đến một năm rưỡi sau, mới thấy tái hiện trên số 80, nhưng thay vì “Quét Sân Đình” nay sửa lại là “Chuyện Giải Buồn”. Người bị lên bàn mổ để giải buồn lần này là Vân Mồng (bút hiệu của Bùi Giáng) với bản dịch “Khung cửa hẹp” của tác giả André Gide mà trước đó, Duyên Anh ca ngợi hết mình trong bài “Một tác phong văn nghệ”.

Một âm mưu thâm độc ???

Bài viết của Duyên Anh đã là một cú “knock-out” vào Văn khiến TPG phải tá hỏa! Bằng chứng là TPG khẩn cấp viết bài trần tình. Khẩn cấp đến độ “lúc tôi viết bài này chiều 10-5, báo Văn Học chưa có bán ngoài sạp” (Văn số 58). Sau đó, là gỡ cái bảng “Quét Sân Đình” kia xuống, để từ đấy cái đình làng kia phải đóng cửa vĩnh viễn!

Chuyện này được chính Mõ Làng Văn thú nhận trên Văn số 80, sau một năm rưỡi kể từ khi cái bảng “Quét Sân Đình ” bị gỡ xuống:

… Đã từ lâu Mõ tôi vắng mặt trên Văn. Bà con cô bác có nhiều người lo lắng, thăm hỏi. Nhờ Trời, Mõ tôi vẫn mạnh: vẫn cơm hai bữa, cà phê hai cữ, thuốc lào thuốc lá hút lai rai. Sự vắng mặt của Mõ tôi, nói có tòa soạn Văn làm chứng, hoàn toàn ngoài ý muốn.
Số là, đã lâu rồi, trong một phiên họp thượng đỉnh, trước toàn ban biên tập và các cộng tác viên của Văn, thư ký tòa soạn có lên tiếng kêu rên là các bài do Mõ tôi viết đã gây cho hắn ta quá nhiều sự hiểu lầm oan ức, và do đó, quá nhiều phiền phức lôi thôi (…) Nghe hắn nói xong, anh em biểu quyết và truyền lệnh Mõ tôi phải treo chổi.

(Văn số 80 ngày 15-4-1967)

Bạn thấy cái bài viết của Duyên Anh là thâm độc ghê gớm chưa? Chỉ việc phao tin ông Khai Trí xúi, và bảo Trần Phong Giao tỉ tê với Phan Kim Thịnh tại Quán Chùa về tác giả bài viết là Nguyễn Minh Hoàng là xong ngay. Nó tạo nên sự ly gián trong nội bộ của Văn hay của nhóm Mõ Làng Văn. Nó cũng gây phiền phức lôi thôi trong việc làm ăn với ông Khai Trí…
Lẽ ra, với thẩm quyền của một chủ nhiệm kiêm chủ bút, ông Phan Kim Thịnh phải ngưng không cho đăng hay có đôi lời đính chánh để tránh ngộ nhận nhưng ông ta vẫn để cho bài có DA xuất hiện. Nếu quả thật như vậy, thì đó là sự “đồng lõa ngầm” còn gì danh dự của một chủ nhiệm, chủ bút và tạp chí của mình?
Nhưng mà, đâu cần danh dự, miễn là mục đích đạt là được. Bài học lịch sử cuộc chiến miền nam rành rành ra đó.

Vậy Mõ Làng Văn là ai?

Trên Văn số 80, ở mục mới là “Chuyện Giải Sầu”, Mõ Làng Văn cho biết thư ký Tòa Soạn Văn kêu rên các bài do Mõ Làng Văn viết đã gây cho ông “nhiều sự hiểu lầm oan ức”, “phiền phức lôi thôi”. Vậy thì, ngoài Trần Phong Giao ra, còn có ai đội lốt Mõ Làng Văn khiến TPG lại kêu rên như vậy?

Trước 1975, chúng ta không biết. Bởi lẽ ông TPG giấu, bảo là “bắt buộc phải giữ kín” vì nó là “bí mật của nghề nghiệp”. (chữ đậm là lời của TPG)

Nhưng sau 1975, chúng ta mới vỡ lẽ, do việc tự khai của chính người trong cuộc. Đó là dịch giả Trần Thiện Đạo.

Lời tự khai này được tìm thấy trong phần tiểu sử của TTĐ ở trên Mạng.
Ví dụ trong bài “Nói chuyện với dịch giả Trần Thiện Đạo” của Thụy Khuê, tác giả có viết vài dòng về tiểu sử TTĐ như sau:

Trần Thiện Ðạo (còn có bút hiệu khác là Trần Mai Lan, Mõ Làng Văn – tên chung với nhiều nhà văn khác) là một trong những cây bút chính của Tạp chí Văn.

Đây là một chuyện lạ trong văn học. Bởi vì “ job” chửi, bươi, quét có gì thích thú đâu để phải hãnh diện mà khoe chứ ?

Rõ ràng, ở lĩnh vực nào của văn học, ông TTĐ cũng là số một, không ai có thể theo hay sánh kịp.
Từ việc giấu tông tích mượn lốt đội mũ Mõ Làng Văn đến việc nghĩa tử không là nghĩa tận!
Tuy nhiên, trong cuộc nói chuyện với một thân hữu đặc phái viên TQBT tại SG vào cuối tháng 9-2016 vừa qua, thì dịch giả Nguyễn Minh Hoàng – người bị DA tố đích danh là tác giả bài viết – khẳng định ông Trần Thiện Đạo không phải là thành viên. của Mõ Làng Văn ( 1)


● Khi Mõ Làng Văn tái xuất giang hồ trả thù lại Duyên Anh

Mãi đến một năm rưỡi sau từ ngày “Quét Đình Làng” treo chổi, Mõ Làng Văn vẫn còn ấm ức với kẻ đã đánh mình nên thằng Mõ thẳng tay phê bình Vân Mồng vì Duyên Anh ca tụng hết lời Vân Mồng. Lần này “Quét Đình Làng” được thay bằng “Chuyện Giải Buồn”. Bài phê bình Vân Mồng (một bút hiệu của Bùi Giáng) được đăng trên Văn số 80 :

Hai chữ “nhứt là” đã giúp tôi biết ngay tác giả bài viết ký tên Mõ Làng Văn này không thể là Trần Phong Giao (TPG) được. Bởi lẽ TPG là người Bắc. Mà người Bắc chỉ nói “nhất là” chứ không “nhứt là” . Nói có sách mách có chứng. Đây là một đoạn dịch của Trần Phong Giao từ vở kịch Les justes của Albert Camus, ông dùng “nhất là” để dịch:

KALIAYEV, vẻ nhớn nhác – Tôi không thể đoán trước… Mấy đứa nhỏ, nhất là mấy đứa nhỏ…

(TPG: Những người trung thực dịch từ Les justes, abert camus, kịch, Giao Điểm 1965 )

Nay ông Trần Thiện Đạo tự khai ông còn sử dụng bút hiệu Mõ Làng Văn. Mà ông TTĐ là dân Nam Kỳ rặt! Vậy thì ai trồng khoai đất này?

Chỉ tội cho ông Trần Phong Giao. Ai đó làm nhưng ông nhận tội. Ai đó đánh nhưng ông đưa lưng ra để đỡ giùm. Hết Duyên Anh dùng Văn Học bắt ông phải khẩn cấp viết bài trần tình , rồi đến Nguyên Sa dùng báo Sống của Chu Tử ký tên Hư Trúc (2) đánh liên tiếp cả tháng , hay hai bà Nhã Ca, Túy Hồng mượn báo Khởi Hành (3) làm dữ với ông thề sẽ không bao giờ viết cho Văn, bắt ông phải viết hết trần tình này đến trần tình khác.
Và có lẽ cũng tội cho ông Nguyễn Minh Hoàng nữa. Không biết ông NMH có lấy bút hiệu chung này không, sao lại được ông Duyên Anh chiếu cố, chứ tôi chưa hề đọc một bài nào của NMH chê bai, hay phê bình ai . Ngay cả tiểu sử của ông NMH cũng không thấy, thật khó mà biết gốc gác của ông. Từ đó tôi nghĩ ông NMH thích sống thầm lặng, không muốn mắc vào những chuyện đánh đấm hay phê bình chỉ trích nhau. (4)

Chiến tranh nóng ở ngoài vòng đai. Chiến tranh lạnh ở Saigon Giữa cuộc nội chiến ác liệt như vậy mà ông Trần Phong Giao vẫn gồng mình để lèo lái tạp chí Văn khiến nó trở thành một tạp chí văn học có tầm vóc lớn của miền Nam… Thương ông, phục ông là ở chỗ đó.

Có phải vậy không ?

TRẦN HOÀI THƯ
____
(1) Sau khi báo “lên khuôn”, giờ chót chúng tôi nhận được bài nói chuyện với dịch giả Nguyễn Minh Hoàng của Ngọc Bút vào ngày 26-9-2016 tại SG, theo đó, Mõ Làng Văn chỉ có hai người là Trần Phong Giao và Nguyễn Minh Hoàng, không có Trần Thiện Đạo. Và dịch giả NMH khẳng định ông không viết bài mà nhà văn DA nghi là tác giả. Mời đọc bài “Chuyện Muôn Năm Cũ” của Ngọc Bút trong phần Sống và Viết. (xin đọc TQBT số 72 tháng 10-2016)
(2) Trần Phong Giao: “Bông hồng hay bông cứt lợn” Văn số 92 ngày 15-10-67
(3) Xin đọc TQBT số 61 chủ đề hiện tượng nhà văn nữ.
(4) xin xem chú thích (1)

(nguồn: tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 72 tháng 10-2016)

Một ngày tháng chín

tranhoaithu

Thôi cũng tạ từ nhau tháng chín
Tạ từ. Người có nhớ gì không?
Một lần sum họp rồi hai ngả
Hai nhánh sông xa đến não nùng

Tháng chín. Trời ơi là tháng chín
Để đồi vàng lá ở bên sông
Để sông hun hút bờ vô tận
Để nhớ nhung nhung nhớ chập chùng

Mênh mông. Còn lại đây lòng lạnh
Dường như có những dấu chân êm
Dường như có cả mồ phong diệp
Trên bãi lòng ta đang ngủ yên

Tháng chín. Ừ. tháng này tháng chín
Ngày này như ngày khác. Thời gian !
Sao ta thì khác, ta thì khác
Mùa thu về ai tặng vết thương !

Tặng ta ánh nắng hoàng hôn lụa
Bờ vai gầy, đôi mắt nọ, bờ môi…
Tặng ta cái bóng thời si dại
Tràn ngập lòng xe ấm chỗ ngồi

Giờ đây, tháng chín vàng bên ấy
Bên này, có kẻ lại bậng khuâng
Cầu xưa mấy nhịp dài sông nước
Có nối dùm ta nỗi nhớ mong…

Trần Hoài Thư

Đọc bài thơ “Giấc Mơ Nhỏ Của Tôi” (thơ Trần Trung Đạo)

tranhoaithu

Tôi xa ngôi trường ấy đã lâu. Lâu đến bốn mươi năm. Hôm nay, được đọc một bài thơ của Trần Trung Đạo, tôi mới hiểu là nỗi yêu mến quê hương vẫn còn bàng bạc khắp những người con Việt xa hương. Từ nơi nầy, trong cõi sang giàu, thịnh vượng, trong một xã hội mà trí thức được ưu đãi, Trần Trung Đạo lại mơ ước:

Tôi mơ ước mai nầy khi thức dậy
Bỗng thấy mình đang đứng giữa quê hương
Con chim nhỏ hót mừng tôi trở lại
Quảng đường quen rực sáng nắng sân trường

Đó, nỗi mơ ước đôn hậu, tình người. Chỉ có tiếng chim hót, nắng sân trường và con đường quen. Niềm lạc quan sáng ngời qua những linh hồn chữ nghĩa. Bởi vì ai lại không cho phép nhà thơ trãi cỏi thật thà vào từng kỷ niệm. Rực sáng, hót, hai động từ của niềm vui, làm đậm thêm những gì trong cuộc. Hót mừng tôi trở lại. Rực sáng nắng sân trường. Chao ơi, ngất ngây làm sao, và lịm mê làm sao cho một lần trở lại.

Thế hệ Trần Trung Đạo, thuộc lớp tuổi 30 đến 40. Khi chiến tranh khốc liệt có lẽ nhà thơ đang ở dưới mái trường. Nhà thơ cũng đã sống dưới bóng đêm của cuộc chiến, của quê hương, không ít thì nhiều. Tuy nhiên nhà thơ đã không bi quan, than thở, oán trách, đổ thừa, giận dỗi. Nhà thơ đã tìm hướng tới, với yêu thương nhân hậu là khí giới hàn gắn lại đổ vỡ.

Đẹp vô cùng khi con tim của nhà thơ phải xào xạc:

Chào cô gái học trò đang tới lớp
Cho tôi làm viên sỏi dưới chân em
Để xào xạc hồn tôi khi mới lớn
Chút men tình năm tháng ấy chưa quên

Sự bao dung độ lượng của thi ca đã hòa nhập vào viên sỏi trên lối đi. Tâm hồn Trần Trung Đạo đã xào xạc, nhè nhẹ bâng khuâng cùng kỷ niệm ban đầu, khác với Nghiêu Minh:”Em chân suối tung tăng tiếng hót, hồn tôi cũng sỏi vụn hao mòn” (Tháng Tư Dương Đào, Dấu Xưa, nhà xb Sông Thu). Sự khác biệt về cảm nghĩ của hai thế hệ là đấy. Một thế hệ thua cuộc và một thế hệ nhìn vào tương lai. Một thế hệ quay lại phía sau và một thế hệ ngẩng cao đầu về trước mặt. Một thế hệ mà sự mơ ước là kết quả của những phân lìa, tang tác:

Ngôi trường ấy có bao nhiêu ô cửa
Để tôi về đếm những đám mây
Tôi sẽ gọi một bầy chim sẻ nhỏ
Những cánh chim từ xa vắng lạc bầy.

(Ô Cửa, Trần Hoài Thư)

Cũng là chú chim nho nhỏ của một thời, nhưng rõ ràng tôi và Đạo có hai mơ ước khác nhau. Thế hệ tôi giờ đây đa số đã bước qua số tuổi năm mươi, một thời trực tiếp tham dự vào cuộc chiến, và cũng đã trực tiếp gánh chịu những hậu quả của phân ly, thù hận, đổ vở và cả một sự phá sản của tâm linh.

Riêng thế hệ của nhà thơ Trần Trung Đạo thì khác. Trẻ. Anh rất trẻ. Lửa vẫn cháy ngùn ngụt. Lửa nhân ái:

Chào chị gánh hàng rong qua trước ngõ
Cho tôi làm một chút gió heo mây
Để thổi nhẹ lên vai gầy cực khổ
Đời cần lao nước mắt đã đong đầy.

Anh xin được làm một chút gió heo mây. Gió sẽ lau phần nào cần lao nước mắt. Nhà thơ đã nhìn rõ trách nhiệm của mình. Anh là nhà trí thức trẻ. Và cái trí thức ấy, không phải là những hô hào không tưởng, những mộng ấp núi sông, những đạp thành xẻ lủy, mà trái lại, chính là nỗi yêu thương. Nhà thơ đã nhìn thấy một sân trường mất đi con chim cũ, và bây giờ là tấm vai gầy của chị gánh hàng rong. Thi ca ở đây là thi ca phục vụ con người, là thoa dịu giọt lệ u uất, câm nín tủi nhục của con người, là hương lúa trổ mầm yêu thương, là bụi cỏ quê hương không bao giờ mất trong tim người xa xứ:

Chào bác nông phu ra đồng tát nước
Cho tôi làm bụi cỏ mọc ven đê
Để mỗi sáng thở mùi hương lúa chín
Lỡ mai xa tôi nhớ lối quay về.

Phải, bụi cỏ nào của đời ta. Nó quá tầm thường giữa muôn hoa ngàn tía, giữa trời xanh mây trắng thu đông nảo nùng. Nó quả mộc mạc, khiêm nhường, nhưng nó đã từng là một nơi ẩn dấu, và tích lũy quê hương. Nó sẽ nhắc nhở và cũng còn là dấu tích để người xa hương trở lại cội nguồn. Nhà thơ quá tha thiết với núi sông, từ bất cứ vật gì cũng được nhà thơ đặt vào một niềm trìu mến. Cả máu và lệ. Cả nhịp thở. Cả ước mơ.

Chào anh công nhân dệt từng tấm vải
Cho tôi làm con thoi nhỏ trên tay
Để tôi nối hai bờ sông Bến Hải
Nối lòng người vời vợi cách xa nhau

Và:

Chào chú bé mục đông nghêu ngao hát
Cho tôi làm tiếng sáo thổi vi vu
Để được sống thời hồn nhiên đã mất
Của đời tôi trong tuổi ấu thơ buồn

Viên sỏi, gió heo mây, con thoi nhỏ, tiếng sáo…Những ước mơ không phải cho riêng cá nhân nhà thơ, vơi đi nỗi khổ lụy trong kiếp đời xa hương mà chúng ta hằng đọc hầu hết các bài thơ xa xứ, mà trái lại những thứ ấy, nhà thơ đã dùng nó để xoa dịu nỗi đau khổ của đồng bào anh, của dân tộc anh. Từ đoạn đầu, anh mơ trở về đứng trên sân trường, nghe lại tiếng chim nhỏ hót, rồi tiếp đến là những nỗi ước ao chập chùng. Về sự hồn nhiên của tuổi học trò. Về một đời cần lao d­ thở. Về cánh đồng hương lúa chín. Về sự cảm thông thay vì nỗi cách ly của con người, về tuổi thơ. Và cuối cùng nhà thơ choàng tỉnh dậy, nhìn sự thật, dứt khoát, gọi lớn như đoạn cuối cùng của bài Giấc Mơ Nhỏ Của Tôi:

Ôi quê hương, bao giờ tôi trở lại
Đi giữa ngày không sợ bóng đêm đen
Trong giấc ngủ không xích xiềng réo gọi
Câu thơ tình chỉ viết để yêu em

Viết về một bài thơ tiêu biểu của Trần Trung Đạo quả thật khó. Bởi vì mỗi bài thơ của anh đều có những cảm xúc, tiêu biểu riêng. Từ những câu hỏi về nỗi buồn chiến thắng rưng rức tâm tư người đọc: Anh bước đi giữa trời đất Bắc. Hà Nội mưa phùn lạnh kẻ xương. Chiếc nạng gỗ khua từng tiếng nấc. Gõ nhịp thương đau xuống mặt đường” đến cuộc chiến tiếp tục sau 1975: Em đừng hỏi quê hương ta có đẹp, khi hận thù còn nhuộm đỏ giang san. Ai mới đạp trái mìn chưa nỗ kịp. Bao nhiêu năm cuộc chiến vẫn chưa tàn” hay những thao thức của một đứa con xa hương, mà dường như cả con tim nhà thơ, luôn luôn mang theo. Đó là món nợ phải trả:

Tôi vẫn nợ em một lời xin lỗi
Nợ quê hương một chỗ đất chôn nhau
Nợ cha mẹ những nhọc nhằn khuya sớm
Tôi nợ tôi mộng ước thuở ban đầu.

(Tôi Vẫn Nợ Em Một Lời Xin Lỗi)

Tôi không dám bình thơ. Tôi chỉ xin phép được viết những rung cảm chủ quan của tôi mà tôi yêu và chia xẻ cùng mọi người. Tôi được biết nhà thơ đã xuất bản (1000 tập), và được nghe một vài người bạn nói về hiện tượng Trần Trung Đạo. Chỉ trong vài ngày rao tin trên mạng lưới Internet, đã có 300 cuốn được bán. Và tập thơ thứ hai sắp xuất bản, Thao Thức, tôi được biết số lượng định in lên sẽ đến 2 ngàn tập. Trên Web, anh em trí thức trẻ đã ngưỡng mộ anh, và đã dành cho anh một chỗ đứng bên cạnh những tác giả: Chế Lan Viên, Huy Cận, Nguyễn Bính, Nguyễn Tất Nhiên. Quí vị nào cần kiểm chứng xin lên Internet va vào Web, homepages mục thơ văn Việt Nam. Điều nầy là một bằng chứng về thơ quê hương, chuyên chở tình nhân ái, thương yêu sẽ tồn tại mãi mãi. Và chúng ta có thể tin tưởng mãnh liệt là hàng ngũ trí thức trẻ cùng thế hệ với nhà thơ, vẫn còn lửa, nhiệt huyết và con tim của họ vẫn còn nồng nàn một nơi mà nhà thơ đã ca ngợi, khắc khoải, thiết tha:Quê hương.

Trần Hoài Thư

Vui ơi là vui

tranhoaithu

Tôi gặp lão Mỹ đen
đội chiếc nón có thêu Vietnam Vet
tại Wall Green
khi chúng tôi đứng đợi trước quầy pharmacy
Tôi hỏi: Are You VN vet ?
Yes I am
Tôi giới thiệu tôi, tôi cũng là lính miền Nam đây,
Ồ, vui quá
Tôi hỏi lão đơn vị nào
Lão bảo là sư đoàn 1 kỵ binh Hoa Kỳ
Tao ở năm năm ở Việt Nam, đi tour ba lần
Trời ơi, tao cũng nhiều lần hành quân chung với đơn vị mày
Bình Định, Pleiku, Kontum…
Tao là highland scout ranger.
Hôm nay Obama thăm nước chúng tao
Không, ông ta đâu có thăm
Ông đi để nói dùm cuộc chiến đấu của chúng ta đấy

Chúng tôi cùng ôm nhau cười đến nỗi nước mắt ràn rụa…

Trần Hoài Thư

Thơ Của Văn

tranhoaithu

I.

Ngày hôm ấy tôi lênh đênh vô định. Gọi thầm sương và khói mông mênh. Lòng cảm động mờ trên từng lá nhỏ. Xanh và xanh yêu dấu vô lường. Tôi chẳng giấu lòng tôi hờn dỗi. Theo lăn hoài ngày một ngày hai. Kìa con sóc xám băng đường chẳng sợ. Kìa hàng cây trắc bá ôm tay. Hai và bốn lũy thừa hai mười sáu. Kiếp đời thành vô tận âm dương. Tôi nhắm mắt hôn thì thầm bụi cỏ. Xanh mùa xuân vô lượng vô chung. Triền diễm mộng kiều nga nhụy thảo. Mắt lạnh lùng. Sâu thẳm một hồ gương. Tôi không dám run tay buông chấm phẩy. Sợ giòng sông hụt hẫng không trôi. Ai đã đẩy khối sầu lên thạch nhũ. Và ai cứ gọi mãi, không thôi. Ai đã đứng mong manh rừng lau: Tội! Tóc rũ dài gió lộng bến tang côi. Ai không xót sao tôi đây phải tủi. Ơi ơn đời lệ ai nhỏ giùm tôi. Tôi bỏ mẹ nên theo phường du thủ. Tôi bỏ cha nên ngạo mạn du côn. Tôi bỏ hết lên trần xe tinh đẩu. Bạn vầng trăng cô độc bến An Đông. Sao lại nóng như cay cay trời hỡi. Sao lại chùng lại chạnh. Vì sao. Ân vô lượng tôi trả bài học thuộc. Ân lượng ơi. Ân lượng sao không trao. Tôi sẽ nén nuốt thêm ba trái khổ. Em biết không quả đắng mà ngon. Ngon ghê gớm khi hột qua tân khổ. Khi thịt mềm đắng chát héo hon.

II.
Ngày hôm ấy tôi lên xe bỏ lớp. Theo vầng trăng cô độc mênh mông. Nhòa nhạt lạnh chòm Đại Hùng hun hút. Vì sao nào trở lại miền Nam. Tôi cũng muốn người chăn cừu cô lữ. Tôi cũng thèm em ngủ trên vai. Yêu dấu hỡi. Sao vẽ vời để dỗ. Đời lênh đênh núi lạ sông dài. Trăng dài bãi
hằng hà tinh hệ. Một ngụm trăng còn lại đọng trên tay. Tôi già mục. Lòng xanh như bậc đá. Rêu phong đầy Đại Nội. Ồ hay. Thì ô hay trăng là trăng miên viễn. Xe thì lăn. Đèn đóm lập loè. Khi sum họp là khởi đầu ly biệt. Chắc tôi phải về xin chút bao che.

III.

Ngày hôm ấy tôi lên xe về phố. Bạn bè đâu tìm một chút tình thân. Lầu vách dựng che một trời cổ độ. Mái tình ai đã phủ rêu rong. Con đường ngược mà hồn tôi trải thẳng. Lòng ô hay gợn một chút bâng khuâng. Thương khu Sáu mấy thằng ra sông tiễn. Người em về nơi bến lạ Tầm Dương. Tôi thèm lại cùng chiếc bàn quạnh quẽ. Cốc xây chừng un sợi khói thanh xuân. Thì phố lạ. Sao lòng tôi giận dữ. Đi. Đi đâu cho một cuộc hành trình. Đừng quyến rũ tôi trở về tội nghiệp. Mắt môi người. Tôi bỏ lại xa xôi.

IV.

(tặng Nguyên)

Ngày hôm ấy tôi lên xe về núi. Núi có buồn kéo tận Trường Sơn. Có hòn đá xưa bỗng thành thiên cổ. Chinh phụ ơi thương người hay thương con. Chinh phụ ơi đừng nghe lời huyễn mị. Vai người mềm sao gánh hết cô đơn. Tôi bỗng giận những phường sách vở. Dẹp quăng đi những dụ dỗ thiên đường. Vâng thưa chị thưa em thưa mẹ. Hai thúng tròn đã đổ bóng Triệu Phong. Bên đầu gánh. Con thơ tròn một tuổi. Bên đầu kia là gánh nhớ nhung. Gánh nhớ nhung ấp đầy động cát. Ấp đầy sông Thạch Hãn Cửu Long. Ai đã cất bài ru con Nam Bộ. Nghe đất trời nhỏ lệ Việt Nam.

V.

Ngày hôm ấy tôi lên xe về biển. Sương mù sương tôi run rẩy đèn pha. Tôi rất sợ khi qua rừng qua núi. Em biết không rừng núi cũng bơ vơ. Thì bơ vơ tôi phải về bản thổ. Thì bơ vơ tôi đã gọi bên trời. Ai ở đó, dịu mềm như liễu rũ. Sao bạo tàn đóng phập cả đời tôi. Ai ở đó, không! ai ở đó. Trời đã đêm đã sáng đã ngày. Màu lục thủy cũng là màu hồng thủy. Thái Bình Dương thì cũng nghĩa trang dương. Ai ở đó, ngàn năm đôi mắt tội. Một trăm năm tôi ra biển gọi thầm.

TRẦN HOÀI THƯ

(Trích Ô Cửa thi phẩm toàn tập)

GẶP HAI ÔNG TƯỚNG TẠI NEW YORK

tranhoaithu

…Như vậy tôi không có một nơi để đốt lại những sợi khói hoài niệm. Nhưng tôi vẫn về cùng Nữu Ước vào những ngày cuối tuần, dù đôi lần, xe tôi phải bị kẹt hàng giờ trên khúc đường Canal dẫn vào khu Phố Tàu, hình như không còn một lối thoát. Tôi đã tự nhủ lòng đừng đi Nữu Ước nữa. Tôi không đủ kiên nhẫn nhích xe từng bước, giữa muôn ngàn âm thanh hỗn độn từ còi xe đến còi hụ, từ chiếc xe sang lane này, đến chiếc xe sang lane khác. Còn nữa. Còn cả đám người đi băng qua đường như lao vào đầu xe, hay những anh chàng lái tắc xi vàng chạy ẩu. Có một điều gì kỳ bí thôi thúc tôi trở lại. Về lại tiệm sách, bước lại vỉa hè, hòa nhập vào cùng cuộc vui khiêu vũ…

Cho đến một ngày tôi không còn dám bỏ xe đậu đại tại khu Tòa Án nữa. Tấm giấy phạt đậu trái phép để nằm trên kính xe. Chiếu luật 45, hay 46 gì đó, tiền nộp phạt 60 đô la. Muốn khiếu nại thì điền đơn gởi về địa chỉ… Tôi chửi thề. Phạt gì mà phạt tàn bạo. Ở quận tôi ở, tiền phạt chỉ tối đa 10 đồng là cùng. Có lẽ chỉ có một nơi trên quả đất này Nữu Ước cái gì cũng nhất. Từ những building chọc trời, những con đường không bao giờ ngớt xe, những bảo tàng viện nghệ thuật, những vở nhạc kịch được trình diễn từ năm này qua năm khác, đến tội ác và cả tiền phạt…

Thằng bạn làm chung một nhóm đã cười khi nghe tôi kể lại cái số tiền khủng khiếp mà tôi phải trả. Hắn giải thích dùm tôi: ” Ông biết tại sao không? Tụi đám phạt là đám thầu, chẳng phải cảnh sát như ông tưởng. Chúng nó phạt càng nhiều thì lấy hoa hồng càng nhiều. Nhiều khi không lỗi chúng cũng gắn lên cái windshield cái vé phạt. Ông khiếu nại à? Thì giờ đâu ông đi khiếu nại. Muốn ra toà ông phải bỏ một ngày làm việc. Ðó là không kể tiền ông phải trả cho luật sư…”
Lời giải thích đã làm một tay bất cần như tôi phải chùng lòng.

Tôi kêu Oanh đi cùng. Và chúng tôi thay phiên nhau canh chừng mấy ông mấy bà tuần cảnh. Tôi để nàng đi mua sắm. Sau đó, đợi nàng về, tôi bắt đầu lê la. Dù không còn được dịp ngồi lại đốt thuốc hàng giờ trong quán cà phê mà mơ mộng nữa. Một ngày, tôi gặp hai người đàn ông ở một công viên bên Tòa Án. Một người dáng thấp và nặng nề. Người kia cao hơn với thân hình cân đối. Hai chiếc áo quân đội bạc màu dơ bẩn đủ cho tôi biết họ là những người homeless thường thấy tại các nơi công cộng như bến xe lửa hoặc công viên. Có điều khác biệt với những người tôi hằng gặp – da trắng hoặc da đen- họ là người Á Châu. Có lẽ họ là người Tàu cũng nên. Nhưng còn hai chiếc áo nhà binh ở trên mình họ ? Hai chiếc áo 4 túi của một thời nào mà tôi đã từng khoác gần suốt tám năm trời làm tôi hơi phân vân. Có lẽ họ xin ở đâu đó, từ một cơ quan từ thiện, hoặc cũng có lẽ là những người cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam nay bị ruồng bỏ. Hoặc cũng có lẽ họ là những tay nghiện rượu và mấy cái túi áo rộng thùng thình là chỗ chứa lý tưởng nhất tránh những cặp mắt của các thầy cảnh sát. Sau đó tôi chẳng còn để ý gì đến hai người ấy nữa. Mắt tôi còn phải láo liên nhìn trước nhìn sau. Cái giấy phạt 60 đô la vẫn còn là ám ảnh.
Chợt một lúc nào đó, tôi thấy hai người đàn ông đứng dậy. Họ cúi đầu cùng đi chung quanh cột cờ giữa công viên. Họ đi thật bình thản, và quá ung dung. Tôi không thể tìm một dấu hiệu gì của một con người không nhà không cửa mà tôi hằng gặp. Tôi lại nhận đôi mắt sưng húp của hai người. Và có cả dấu hiệu quân đoàn IV đen mờ trên cánh tay áo. Có ngọn gió nào làm da thịt tôi phải nổi gai ốc. Hình như tôi đã có lần thấy họ, cũng từng đi cạnh nhau như thế.

…Căn phòng chỉ còn lại một màu tối thẫm bao trùm. Nếu không có tiếng kêu rè rè của những chiếc máy truyền tin, và những ánh đèn chớp xanh đỏ liên hồi cùng chút nắng chiều hắt vào cửa sổ, thì nó chẳng khác gì ngôi nhà mồ. Những tín hiệu cứ tiếp tục đánh về. Những bức công điện màu vàng thi nhau nhả xuống thềm dồn dập những lời kêu cứu, những chờ-lệnh, những tuyệt vọng, những chiến thắng… “Xin thêm máy bay yểm trợ. Xin pháo binh tầm đạn xa… Báo cáo tiểu đoàn đã chiếm được mục tiêu… Báo cáo tịch thu súng phòng không…” Bao ngày nay, tôi đã lắng nghe những tín hiệu, mà rưng nước mắt. Là một phóng viên chiến trường tôi đã có dịp gặp nhiều phóng viên ngọai quốc. Họ đều cảnh cáo tôi về những ngày sắp đến. Quốc hội Mỹ đã giảm viện trợ tối đa. Dân chúng Mỹ theo những cuộc trưng cầu dân ý đã bắt đầu không tin chính quyền Mỹ về chiến tranh VN. Mỹ trước sau cũng bỏ rơi Việt Nam. Họ khuyên tôi nên tìm cách mang cả gia đình lên Saigòn hay ra Phú Quốc, để có cơ hội lên máy bay. Lúc ấy cao nguyên đã bị thất thủ. Dù vậy, miền Tây vẫn yên tĩnh, chẳng có dấu hiệu gì cho một cuộc chuyển quân cấp binh đoàn từ bên kia biên giới. Ông Tư Lệnh vẫn bay thị sát mặt trận suốt ngày trên trực thăng. Ðài phát thanh và truyền hình vẫn tiếp tục loan đi những tin tức từ mặt trận, bằng những trận đụng độ lẻ tẻ tại vùng Ðồng Tháp Mười, hay biên giới Miên Việt. Quốc lộ 4, quốc lộ huyết mạch mang lúa gạo cung cấp cho Saigòn vẫn an toàn. Sư Ðoàn 7 đã tăng viện thêm một trung đoàn về Cái Bè Cai Lậy. Không ai biết được nỗi yên tĩnh này bao lâu. Qua những tín hiệu buồn thảm từ các quân khu khác, người ta nghĩ đến một con bệnh đang hấp hối.

Ngày 20 tháng tư, 1975,

Văn phòng Tư Lệnh gọi qua phòng thông tin và báo chí cho biết ông Tư Lệnh cần gặp các sĩ quan của phòng. Ðiều này làm mọi người kinh ngạc. Bởi vì từ trước đến nay ông chưa bao giờ nhắc nhở gì đến báo chí. Ông cũng chưa bao giờ tiếp kiến bất cứ một phóng viên ngoại quốc nào. Nhiều người cho rằng ông có cái mặc cảm về khoa ăn nói. Nhiều người nghĩ tại ông là một vị tướng lãnh hơn là nhà chính trị. Không ai biết một ngày họ được đứng trước lá cờ hai ngôi sao trắng. Bên cạnh ông là ông Tư Lệnh Phó. Và ông Tư Lệnh nói. Giọng Huế nặng và khó nghe. Ông muốn những người đang ở trước mặt ông phải tìm mọi cách nói lên một miền Tây an toàn. Một miền Tây của niềm hy vọng chớ không phải tuyệt vọng, hấp hối. Nỗi chua xót đã thấy rõ ở trong đôi mắt. Thì ra ông đã hiểu về cái khốc hại khi người ta mất niềm tin. Ông đặt tin cậy lên chúng tôi, may ra mang niềm tin về lại triệu triệu người tuyệt vọng, trong khi những bản tin bi quan cứ tiếp tục phát thanh từ các đài ngoại quốc. Trong khi vợ con sĩ quan không quân, hải quân được bí mật chuyển đến các khu an toàn. “Các em phải tìm mọi cách để mang niềm tin về lại đồng bào.” Ông nói chậm và giọng quá buồn. “Các em cứ vào trung tâm hành quân. Tin tức ở đấy trung thực nhất.”

Nhưng con bệnh đã hết thuốc chữa. Dù lời phê bắn bỏ của ông tư lệnh phó trên tấm công điện đánh về trung tâm hành quân quân đoàn báo cáo có một tàu hải quân bỏ chạy ra hướng cửa biển, mà sau này người ta được biết trên tàu gồm tướng Tham mưu trưởng, cũng như Ðại Tá Tỉnh Trưởng. Những báo cáo bị át bởi tiếng thở hổn hển từ người lính truyền tin phải làm việc quá nhiều: Máy bay lạ xuất hiện ở Phong Ðiền, Phụng Hiệp. Máy bay gì, ai cũng hiểu về những chiếc phi cơ hốt hoảng rời khỏi phi đạo. Nhưng cũng giữa muôn ngàn âm thanh ảm đạm ấy, là tin một chiếc phản lực bị bắn rơi trên vùng giáp ranh Ðịnh Tường, Mỹ Tho và những khẩn cầu tiếp viện hay những tin chiến thắng.

30 tháng Tư, 75. Buổi trưa, 3 giờ.
Văn phòng thông tin quân đoàn nhận lệnh đọc thông cáo đầu hàng.

30 Tháng Tư, 75. Buổi chiều.

Ông Tư lệnh lên xe Jeep chạy về quân y viện Phan thanh Giản. Ðằng sau xe chỉ có một người lính gốc Miên đen đúa cầm khẩu M16. Ông đi đến từng giường thăm hỏi thương binh. Người lính cụt một chân, còn băng khúc đùi, ráng đưa tay chào ông. Ông dừng lại. Cặp kính đen che đôi mắt, không hiểu ông có khóc hay không.

30 tháng Tư, 75. Hoàng hôn.

Trời vẫn còn đủ sáng để thấy ông Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó chắp hai tay sau đít, đi bách bộ quanh cột cờ. Hai vai cúi xuống. Lần này ông Tư Lệnh không còn mang cặp kính đen quen thuộc nữa. Ðôi mắt hai người sưng húp. Tuy nhiên, họ vẫn cười, dáng bình thản lạ lùng.
Cả bộ chỉ huy quân đoàn vắng hoe. Thông cáo đầu hàng đã được đọc trên đài phát thanh và đài truyền hiình. Ngoài đại lộ Hoà Bình, thỉnh thoảng vài chiếc xe quân đội chạy vút qua trên mặt lộ vắng tanh. Người lính Quân cảnh vẫn còn đứng gác ngoài cổng. Người tài xế già và người lính hộ vệ đen đúa vẫn còn ngồi trên bực tam cấp hút thuốc.

…Tôi muốn bỏ xe chạy lại công viên. Rõ ràng tôi gặp lại hai ông Tướng cũ. Nhưng con mẹ tuần cảnh đã hiện ở đầu đường, cắm cúi ghi ghi chép chép. Tôi rồ lại máy. Ðường lại một chiều. Tôi chỉ biết nối đuôi theo giòng xe cộ. Ðến đầu đường Canal cả đoàn xe bị kẹt. Trăm ngàn xe thi nhau bóp còi. Không còn ai nhường nhịn ai. Rồi chửi thề. Rồi văng tục. Ðầu óc tôi muốn nổ bùng. Từ hình ảnh hai ông tướng cũ. Từ đoàn xe hình như bám cứng không chịu nhúc nhích.
Khi trở lại công viên, thì đèn đường đã sáng. Oanh chờ bên một lô thực phẩm. Tôi thì bỏ mặc nàng nhảy ra khỏi xe, chạy mau vào công viên. Nhưng hai người đàn ông ấy đã không còn ở đấy nữa. Tôi trở lại xe. Oanh hỏi: “Anh có chuyện gì xảy ra mà chạy như ma rượt?” Tôi nói: “Anh vừa thấy hai ông Tướng Tư Lệnh và Tư Lệnh phó. Rõ ràng là hai ổng. Mắt hai ổng sưng vù. Có cả huy hiệu Quân Ðoàn 4.” Và tôi lấy bàn tay quơ quơ trước mặt tôi. “Anh bị ai nhập rồi.”

Hôm ấy là ngày thứ bảy. Tôi lại lái xe về Chinatown. Vẫn một chỗ ngồi trong xe để nhìn những con bồ câu rạp cánh trên công viên, những đứa bé nô đùa cùng những người đàn ông đang ngồi bu quanh bàn cờ tướng. Ngoài hàng rào sắt sơn đen là vài người đàn bà Tàu đang ngồi xem bói. Buổi chiều 30 tháng tư, tôi vẫn còn nhớ. Thì hai người cũ lại hiện ra, vẫn cái dáng đi hơi khom xuống đất, vẫn hai chiếc áo cũ màu xanh ô liu, trên vai là huy hiệu QÐ 4. Tôi bỏ xe chạy vào công viên, miệng lập cập nói: “Thưa thiếu tướng, thưa chuẩn tướng. Tôi là sĩ quan báo chí của quân đoàn 4.” Mắt tôi nhòa nhạt. Ông Tư Lệnh lặng yên nhìn tôi. Gương mặt ông vẫn còn trầm mặc như lúc ông ngồi trên trực thăng, nhìn xuống chiến trường, hay những lần ông ngồi yên lặng trên chiếc ghế bành trong dinh tỉnh trưởng bên chiếc dĩa đựng những trái bắp luộc.
Ông Tư lệnh phó nói:
– Ta nhớ chú em rồi. Ngày xưa chú em cũng đã từng bay chung với ta mà.
– Thưa chuẩn tướng, ở mặt trận Mộc Hóa Kiến Tường. Tôi cũng đã từng bay với Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi nhớ buổi trưa Thiếu Tướng ghé dinh Tỉnh Trưởng ăn trưa với những trái bắp luộc… Thưa Thiếu Tướng, tôi nhớ chiếc trực thăng Mỹ bay cả buổi trên dinh Tư lệnh.
Bây giờ ông Tư lệnh mới nói:
– Viên lãnh sự Mỹ đã chờ ta. Ông ta dù sao cũng là người tốt. Ông không bỏ ta vào giờ phút cuối. Nhưng ta làm sao mà can đảm bỏ đi. Ta nhắc lại cho chú em. Con người phải sống cho đúng đạo làm người. Ta ở trong quân đội ta phải tuân phục quân đội, nghĩa là thượng cấp. Ta là tướng ta phải làm tròn bổn phận tướng. Ta là tín đồ ta phải làm tròn những điều răn dạy dành cho tín đồ.
– Buổi chiều cuối cùng, tôi thấy thiếu tướng lên xe về quân y viện Phan thanh Giản.
– Phải. Cả cuộc đời ta vui buồn với họ, chết sống với họ, làm sao ta quên được. Ta không biết sau khi ta bỏ họ đi, họ còn nơi nương tựa nữa không. Ta đã đến bên giường họ, họ đã nắm tay ta, khóc với ta. Họ không thể đi được. Nếu họ có thể đi, thì họ đã đi rồi. Chân họ bị cưa chưa lành. Bụng họ bị mổ, vết thương chưa khô. Có người bị mù cả hai mắt không nhận ra ta. Có người vừa nhìn ta vừa mếu máo. Nếu tôi biết Thiếu Tướng kêu gọi đầu hàng, tôi chẳng cần đánh giặc làm gì. Bao nhiêu điều ta gặp, ta nghe trong buổi chiều hôm ấy. Công lao và sự hy sinh của họ, và gia đình họ đã bị phản bội. Chú em không biết, khi trở lại văn phòng, ta nghe lời khẩn cầu của viên lãnh sự trên trực thăng: Chúng tôi chỉ còn 5 phút nữa là bay ra hạm đội. Ta và tướng Tư lệnh Phó nhìn nhau. Ta muốn chú Hưng đi. Chú Hưng muốn ta đi. Cuối cùng ta và tướng Hưng đi ra ngoài sân cờ.

Lần đầu tiên ông Tư Lệnh nói chuyện nhiều với tôi như thế. Tôi chợt nhìn chiếc áo lính cũ của ông. Chiếc áo sờn hai vai. Lưng áo thì vá chùm vá đụp. Nhưng tôi không dám nói lên ý định mua tặng ông một chiếc. Ðôi mắt ông vẫn còn sưng.
– Thiếu tướng, đôi mắt thiếu tướng…
– Ta hiểu điều chú em hỏi ta. Ta không thể nào không đau khổ khi nhớ đến cả một tập thể quân đội bị bội phản. Ta không thể nào không đau khi những người nguyên là cựu quân nhân trở về quê nhà, ung dung hưởng thụ trong khi đồng đội của họ, lính tráng của họ, người bị thương tật, người sống đầu đường xó chợ đang cần năm mười đô la. Bây giờ ta không nhà không cửa, bởi vì miền Nam mất, ta đâu còn nhà còn cửa. Chỉ tội những người như những thương binh ta thăm chiều ngày 30 tháng tư 75…
Ông Tư lệnh phó nói thêm:
– Ta có đọc bài chú em viết về ta. Chú em thắc mắc về chữ Bắn bỏ mà ta phê trên tờ công điện năm xưa phải không?
– Tôi có đọc tờ công điện và lời phê của chuẩn tướng.
– Chúng ta đã đi một nước cờ sai. Chúng ta vẫn tin tưởng mọi người chung một lòng một dạ với đất nước. Chú em hẳn biết trận An Lộc ghê gớm đến như vậy mà ta còn chịu nổi huống gì quân khu 4, chưa thấy một bóng dáng xe tăng đại pháo của địch ở đâu. Ta không ngờ những người mà ta trông cậy nhất cũng bỏ chạy. Chẳng những họ chạy, họ lại còn gọi máy về đơn vị kêu gọi đồng đội họ tử thủ để họ bình yên chạy. Ta đã ra lệnh bắn bỏ nhưng cũng vô ích. Không thể thay đổi được thế cờ. Ta tiếc là tiếc cái vùng đồng bằng màu mỡ, cái quốc lộ bốn đến ngày cuối cùng vẫn yên tĩnh. Ta thương những người lính đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng. Ta biết họ giận chúng ta. Họ đã nằm xuống ngay vào giờ thứ 25. Có người còn hy sinh sau ngày 30 tháng 4 như Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn…
Bây giờ, ông tư lệnh phó cầm lấy vai tôi. Ông nhìn tôi bằng đôi mắt đầy vẻ uy quyền:
– Bây giờ ta và thiếu tướng phải đi. Chúng ta sẽ trở lại quê nhà, dù sao tình ở đó cũng ấm áp hơn tình xứ Mỹ này. Anh em ở bên đó rất đông, khiến chúng ta đỡ cô độc hơn. Chú em nhớ hứa đừng cho ai biết có ta và thiếu tướng ở Nữu Uớc này. Thôi chúng ta đi.
Tôi cúi đầu khóc như đứa con nít.
– Tôi xin hứa với thiếu tướng và chuẩn tướng.

…Bây giờ, Oanh đã chạy đến bên tôi. Nàng hớt hải:
– Anh làm gì mà như bị ma nhập. Em từ xa thấy anh cứ làm bộ tịch như thể nói chuyện với ai. Coi kìa, anh lại khóc. có sao không anh? Coi chừng đất đai thổ thần linh hiển…

TRẦN HOÀI THƯ
NJ, Tháng 7, 1995

(trong “Ra Biển Gọi Thầm”, xuất bản 1995)

Sài Gòn Trong Trí Nhớ

tranhoaithu

Sài Gòn có mùa hạ dài hơn mùa đông
Nên Sài Gòn có mắt em xanh như da trời tháng sáu
Sài Gòn có thật nhiều quán cà phê quán cóc
Nên bàn ghế Sài Gòn đầy ắp tình thân

Sài Gòn có ngày cuối tuần Thủ Đức về thăm
Để những xe lam dập dìu Bến Thành Chợ Cũ
Để anh trở về thăm em, người em gái nhỏ
Khi ngọn đèn Sài Gòn đã thắp sáng Bùng Binh

Sài Gòn buổi chiều trời hay nổi giông
Nên những hiên nhà là những hiên tình hò hẹn
Sài Gòn có những con bồ câu cúc cù trên hàng dây điện
Nên Sài Gòn vẫn là nơi hò hẹn của hai kẻ yêu nhau

Sài Gòn ít khi thấy được ánh hoả châu
Nên đêm đêm Sài Gòn bình yên giấc ngủ
Để em đến trường như con sáo nhỏ
Để người lính trở về, có chỗ dừng chân
Để mãi mãi Sài Gòn là những bâng khuâng
Trong con tim của những người viễn xứ…

Trần Hoài Thư

BÁN NGUYỆT SAN MAI (1960-1966)

tranhoaithu

bia truoc

Mai là tạp chí phát hành mỗi tháng 2 kỳ, ra ngày 1 và 15. Chủ nhiệm: Hoàng Minh Tuynh. Giám đốc chính trị: Huỳnh Văn Lang. Tòa soạn 80 Hồng Thập Tự SG. Báo có mặt 6 năm từ 1960 đến 1966. Từ tháng 7-1962 đến tháng 11- 1966, Mai bắt đầu đánh số trở lại, gọi là Mai bộ mới. Chủ nhiệm vẫn là Hoàng Minh Tuynh.
Báo khổ nửa giấy báo nhật trình, dày 40 trang, có 4 trang quảng cáo. Chỉ bắt đầu từ tháng 12-1964,khổ giấy được đổi lại nhỏ hơn như khổ của tạp chí Văn, và cũng được đánh số trở lại. .. Số 16-17 phát hành ngày 1-8-1966 là số cuối cùng, với các bài của Lê văn Hảo, Vũ Đình Lưu, Hoàng Minh Tuynh, Père Jean Subra..

Có thể nói Mai là một Bách Khoa thứ hai. Chủ nhiệm Hoàng Minh Tuynh và giám đốc chính trị Huỳnh văn Lang là hai rường cột của tạp chí Bách Khoa. Tuy nhiên Bách Khoa là một tạp chí chỉ phổ biến tư tưởng, văn hóa, khoa học, chính trị, hầu giúp độc giả mở mang kiến thức, mở rộng tầm nhìn về những vấn đề quan trọng của thời đại, còn chủ trương của Mai thì dấn thân tích cực, chú trọng vào việc xây dựng xã hội, nhắm vào thành phần thanh niên sinh viên.

Riêng phần văn nghệ, có thể nói, Mai là tờ báo rất trân trọng với tác giả, dù người viết mới hay cũ. quen tên hay không quen tên. Ở Mai, tác giả được xem như bình đẳng, có nhiều cây bút trẻ, đặc biệt là từ miền Trung đóng góp. Một phần là nhờ dịch giả Bửu Ý – người chăm sóc về bài vở từ năm 1963, và một phần là do tánh tình cởi mở của chủ nhiệm Hoàng Minh Tuynh, mặc dù ông đã ở vào gần tuổi ngũ tuần. Ông luôn luôn đứng vào hàng ngũ thanh niên sinh viên, thay mặt nói giùm họ:
Đám thanh niên và sinh viên kêu gào thảm thiết đòi quyền sống, quyền làm người, họ nóng lòng muốn được đem toàn tâm toàn lực để cứu vãn một tình thế hầu như không còn cơ cứu vãn.
Song họ đã vấp, cái vấp đau khổ trước sự thiếu sáng kiến, thiếu cản đảm của lớp đàn anh muốn che giấu sự bất lực của mình dưới hình thức chẳng che giấu được ai: khiếp nhược mà bảo là thận trọng, hèn nhát mà bảo là khôn ngoan, lười làm lười nghĩ mà bảo chẳng nên hấp tấp vội vàng.
(Mai số 36 &37)

Nhà nhận định văn học Đặng Tiến nhớ lại thời gian ông và bè bạn làm báo Mai như sau:

….Khoảng 1962-1963 gì đó, anh Hoàng Minh Tuynh làm chủ báo Mai, Sàigòn, bán nguyệt san. Anh Tuynh là người công giáo tiến bộ, có uy thế lúc ấy, và ưa giao thiệp với các bạn trẻ mà anh tin cậy, chung quanh Nguyễn Hữu Thái là sinh viên kiến trúc. Thái kéo bè với đám bạn trẻ như Phạm Công Thiện, Quỳnh Tân, Lê Hiếu Đằng, Bửu Ý và tôi. Có lúc anh Tuynh sang Đức vài tháng, giao phó tờ báo cho chúng tôi “muốn làm gì thì làm”. Thái và Thiện viết vung vít sao đó, tòa Tổng giám Mục có lưu ý và anh Tuynh kiểm soát lại tòa soạn.
(Đặng Tiến: Nhớ thương Phạm Công Thiện – nguồn: Internet)

Riêng nhà văn và dịch giả Bửu Ý xem thời gian làm cho báo Mai là những ngày tháng khó quên nhất của đời ông;

Năm 1963 ở Sài Gòn không đủ ăn. Nhiều khi hai, ba ngày không có ăn, không có tiền đi xe buýt, phải đi bộ bốn cây số đến nhà in. Những đồng xu lẻ không đủ ăn 2 bữa/ngày. Sống cơ cực song bù lại đó là thời gian hào hùng của tôi, tôi được thỏa sự mê viết văn, mê viết báo, tôi thấy tôi sinh ra mình trên từng con chữ. Muốn viết được, phải sống thiếu đi một chút. Tôi không viết nhanh. Hồi đó sống thuê căn gác gỗ cùng với hai người con trai chủ nhà ở đầu cầu Trương Minh Giảng, kêu thêm bạn về ở chung để bạn khỏi trả tiền: đó là Sao Trên Rừng Nguyễn Đức Sơn. Sơn là một người viết rất nhanh. Bù lại, tôi viết rất khổ sở, như rặn đẻ, có khi cả tuần mới được một trang. Không nên viết đùa, đem giá trị ra mà bỡn cợt. Tôi viết không dám đùa bỡn bất cứ ai”.
(Bửu Ý – hồi ký Ngày tháng thênh thang)

DSC_5826-5

Nhìn tờ báo, dù không lòe loẹt như Nghệ Thuật nhưng chúng ta cảm thấy cả một sự trân trọng của Tòa soạn đối với người viết. Không có trang “dạy viết văn làm thơ”, không có trang cây bút mới cây bút cũ.. Lần đầu tiên chúng tôi mới đọc được kịch của Bửu Ý (lấy bút danh là Nguyễn Phước), truyện Bửu Ý (bút danh là Bửu Uyên) trong khi tôi chỉ biết Bửu Ý là dịch giả. Tôi cũng được đọc những bài của Nguyễn Đức Sơn viết nghiêm túc về tuổi trẻ, về tạp chí Sáng Tạo… và Nguyễn Xuân Hoàng trong những vở kịch vô tuyến truyền thanh, những bài viết nhận định về âm nhạc của Phạm Thế Mỹ hay hội họa của Đinh văn Cường (tức họa sĩ Đinh Cường), Lâm Triết, Nguyễn văn Liểu (tức họa sĩ Trịnh Cung), xen kẻ với những cây viết rất quen thuộc trên Bách Khoa về triết học như Cô Liêu, Vũ Đình Lưu, Phạm Công Thiện…
Đọc Mai, tôi tìm thấy những tiếng kêu trầm thống của tuổi trẻ trí thức miền Nam trước viễn ảnh đen tối của đất nước. Nó không phải là tờ báo khuynh tả như Trình Bày. Nó không phải là tờ báo thuần văn chương như Văn. Nó cũng không phải nghiêm túc không ồn ào như Bách Khoa. Nó là tổng hợp của ba tờ báo vừa kể. Vai trò của Hoàng Minh Tuynh với những cây viết cùng lứa của ông cọng vào vai trò của Nguyễn Hữu Thái là thanh niên sinh viên, và Bửu Ý là thành phần trẻ trí thức đặc biệt miền Trung.

Tháng 12-1964, báo đổi khổ. Việc đổi khổ này cũng mang theo sự thay đổi về nội dung bài vở. Rất ít sáng tác văn chương, không thấy sự xuất hiện của những cây bút trẻ từng cộng tác thường xuyên với MAI như Bửu Ý, Nguyễn Hữu Thái, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn , không còn mục Thanh niên sinh viên, hay Sổ Tay trái lại là nhiều bài khảo luận liên quan đến chính trị, tôn giáo, văn hóa…

Điều này Mai đặt nặng phần thời sự chính trị lên hàng đầu, như tiêu đề trên bìa: tạp chí Xây dựng Xã Hội Văn Nghệ.

VỀ CHỦ NHIỆM HOÀNG MINH TUYNH

Trong văn học miền Nam hiện đại, chúng ta ít thấy có cảnh những nhà văn, triết gia hay nhà thơ nổi tiếng lại chịu ơn ai. Nhà thơ Bùi Giáng chỉ ca ngợi Ni cô Trí Hải qua cái nhìn chiếc áo tu hành khoác lên một người nữ, Phạm Công Thiện thì khỏi nói, bởi thần tượng của ông là Nietzsche, còn Nguyễn Đức Sơn thì càng khủng khiếp:

“Anh tin rằng tất cả những đứa làm thơ từ đây trở về sau đã vang danh thi sỹ từ bao kiếp trước nếu không đọc thuộc lòng ít nhiều bài Du Sỹ Ca này đều chẳng phải là thi sỹ nữa… (Du Sỹ Ca – An Tiêm xuất bản).

Vậy mà cả ba đều một mực dành cho một người một sự nể vì và trân trọng. Người đó là Hoàng Minh Tuynh.
Bùi Giáng, trong phần mở đầu một chương của cuốn Tư tưởng hiện đại, viết:
“Bài này trước kia chúng tôi đăng ở tạp chí MAI, ký tên chung với ông Hoàng Minh Tuynh. Ông Tuynh đã có nhã ý muốn bày tỏ niềm thông cảm đối với tôi là một kẻ xưa nay vốn chịu nhiều những hững hờ của độc giả. Bùi Giáng, đó là một danh từ có âm hưởng lăng nhăng, không gây được tin tưởng. Ông Tuynh đã chịu khó bỏ giúp tôi những đoạn nào tôi viết quá trớn theo điệu du côn của Sartre và loại hẳn những tiếng bê bối lai rai là những tiếng tôi quen dùng”.

hay Phạm Công Thiện:

…Tôi và ông Hoàng Minh Tuynh khác nhau như Thiên đàng và Địa ngục. Ông Hoàng Minh Tuynh không có gì khả dĩ là tương hợp với tôi cả. Nhưng một điều lạ là nếu tôi không gặp ông Hoàng Minh Tuynh thì có lẽ tôi không bao giờ viết quyển này (*). Hình như có những người sinh ra trên đời để làm đất cho cỏ mọc lên.
____
(*)“Hình ảnh thanh niên thời đại trong tác phẩm Henry Miller”

Riêng Nguyễn Đức Sơn đã dùng nhận xét của Hoàng Minh Tuynh về truyện ngắn Cái Chuồng Khỉ của ông đăng trên Mai số 31 & 32 để đăng lại trên trang bìa sau của tập truyện cùng tên do An Tiêm xuất bản vào năm 1969:
“Đây là truyện của một bạn trẻ thuộc thế hệ mới. Lời văn trẻ, hơi văn mạnh, cốt truyện bố trí chặt chẽ một cách tài tình, tư tưởng nhiều khi táo bạo đến nỗi làm cho người đọc bất bình […]. Một dấu hiệu của thời đại! Thảm thay! Mà cũng ghê thay!” (Hoàng Minh Tuynh viết riêng cho truyện ngắn “Cái chuồng khỉ” đăng trên Tạp chí Mai số 31 và 32 năm 1963)
Và nhà thơ Du Tử Lê xem Mai là trạm đầu cho cuộc hành trình thi ca của ông, khi ông nhắc đến cái bút hiệu Du Tử Lê được chính thức khai sinh bằng bài Bến Tâm Hồn được đăng trên tạp chí Mai vào năm 1958. (Sự thật là tạp chí Mai chỉ bắt đầu có mặt vào năm 1960 – chú thích của THT)
Riêng họa sĩ Đinh Cường, thời sinh tiền, luôn luôn nhắc đến tạp chí này như là nơi mà người bạn thiết của anh là Bửu Ý đã hợp tác trong một thời gian dài.

Sau 1975, Ông Hoàng Minh Tuynh về sống tại Bảo Lộc. Không hiểu sao ông lại về đây? Vì tự chọn hay vì ẩn tránh? Hai năm sau ông chết. Thọ 61 tuổi. Cái chết của ông được cuốn Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử VN của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế ghi là: Dư luận hồi đó cho rằng ông bị đầu độc.Tuy nhiên, rất ngạc nhiên là trong những ấn bản được tái bản sau này , chúng tôi không còn thấy phần tiểu sử của Hoàng Minh Tuynh nữa.
Hiện nay, chúng tôi có trong tay những chứng từ của thân nhân của học giả Nguyễn Bá Thế về sự mờ ám khi cuốn tự điển đồ sộ này được thực hiện. Khi có dịp chúng tôi sẽ phổ biến.
Đây là tiểu sử HMT được tìm thấy trên trang nhà http://vansu.vn trích từ ấn bản xuất bản đầu tiên:
Chuyên viên ngân hàng, nhà báo, sinh năm 1916 tại Nam Định, con ông Hoàng Văn Tuân và bà Lê Thị An (bà là nguời sinh ở Long An Nam Bộ), từ năm 1948-1950 định cư ở Sài Gòn.
Thuở nhỏ ông học tại Hà Nội, đậu Tú tài rồi vào học Trường Đại học luật khoa Hà Nội, tốt nghiệp cử nhân luật chuyên về kinh tế, tài chính.Sau năm 1945 ông làm công chức trong ngành kinh tế ngân hàng, thường đi tu nghiệp ở các nước Tây phương (Pháp, Mĩ), sau năm 1950 định cư ở Sài Gòn, Bảo Lộc cho đến cuối đời
Sau hiệp định Genève, ông giữ chức Phó Tổng giám đốc Viện Hối đoái Sài Gòn (Tổng giám đốc là ông Huỳnh Văn Lang).
Năm 1957 ông là một trong 3 người (Huỳnh Văn Lang, Lê Ngộ Châu và ông) sáng lập tạp chíBách khoa ở Sài Gòn (1957-1975) giữ chức chủ bút tạp chí (1957-1963) rồi đến năm 1960 ông sáng lập tạp chí Mai giữ chân chủ nhiệm tạp chí này…..
Sau năm 1963, ông từ bỏ đời sống công chức, sống với nghề tự do, đến năm 1977 ông mất tại Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng) thọ 61 tuổi.
Dư luận hồi đó cho rằng ông bị đầu độc.
(Nguồn : Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam – Nguyễn Quang (*) Thắng, Nguyễn Bá Thế)
___
(*) sự thật là Quyết chứ không phải là Quang (TQBT)

Riêng tạp chí Mai, sau 1975, dù toàn bộ của tạp chí này được lưu giữ tại thư viện tổng hợp TP HCM, nhưng muốn đọc nó phải có người hộ tống, không được phép copy, không được chụp hình (Xin mời đọc hồi ức của nhà văn Lữ Quỳnh trong số này)

Có thể nói, đây là tạp chí quý hiếm và giá trị nhất cho những ai muốn tìm hiểu về lịch sử miền Nam trong thời chiến (để chứng minh chúng tôi đăng lại Sổ tay – Nhật ký tháng 8-1964 ở phần sau) cũng như lý do tại sao những tác giả có tầm vóc như Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn , Du Tử Lê, Bửu Ý, Đinh Cường… đã nhắc đến nó với tất cả sự trân trọng và tự hào.
Hiện tại thư viện đại học Michigan có lưu trữ Mai năm 1962, 1963, 1964, 1965, 1966 (thiếu năm 1960, 1961).
Riêng Thư viện đại học Cornell thì giữ ba năm: 1964, 1965 và 1966.
Riêng chủ nhiệm Hoàng Minh Tuynh, theo sự sưu tầm của chúng tôi, trong thời gian 1957 đến 1962, trên Bách Khoa có đến 109 bài viết của ông mà hầu hết thuộc đề tài chính trị biên khảo . Trên Mai chỉ thấy bài viết của ông xuất hiện nhiều vào hai năm 1965, 1966.

TRẦN HOÀI THƯ
(sưu tập và tổng hơp)

Nguyễn Bắc Sơn và nỗi kiêu mạn của tuổi trẻ thời chiến

tranhoaithu

Có lẽ so với Cao Bá Quát, cái cao ngạo của Nguyễn Đức Sơn còn trội hơn một bậc. Xin đọc lá thư gởi vợ viết từ nhà lao Bảo Lộc ngày 25 tháng 8 năm 1972, được dùng làm tựa trong thi phẩm Du Sỹ Ca, mới thấy cái mức độ cao ngạo này:

“Anh tin rằng tất cả những đứa làm thơ từ đây trở về sau đã vang danh thi sỹ từ bao kiếp trước nếu không đọc thuộc lòng ít nhiều bài Du Sỹ Ca này đều chẳng phải là thi sỹ nữa… (Du Sỹ Ca – An Tiêm xuất bản).

images (8)
Nguyễn Đức Sơn
dinhcuong

Nhưng có một người thơ khác, cũng kiêu ngạo không kém.
Người ấy là Nguyễn Bắc Sơn. Trong một lá thư gởi đi từ Phan Thiết đăng trên tạp chí văn nghệ “Sóng” do những người viết trẻ chủ trương, và chỉ sống được vài số, ông xem những người đàn anh mà ông cho là những lý thuyết gia khuyến hành ngây thơ, những kẻ chưa giác ngộ về mục đích đời sống.
Ông viết:
” Khi anh chưa biết ”Sống để làm gì”, anh không thể khuyên bảo người khác nên sống như thế này hay nên sống như thế kia, nên tranh đấu cho lý tưởng này hay tranh đấu cho lý tưởng kia.
Các bậc đàn anh tôi kể tên (Kim Định, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn) giống như những kẻ chỉ đường sốt sắng trong câu chuyện sau đây:
Có một người khách lạ đi ngang qua một thị trấn. Trong thị trấn ấy có ba người sốt sắng. Ba anh chàng này chặn ông khách lại. Anh chàng thứ nhất bảo ông khách : “Anh nên đi đường này”, trong khi anh chàng thứ hai bảo: ” Không, đi đường kia mới đúng”. Nhưng anh chàng thứ ba lại bảo con đường anh ta chỉ cho ông khách mới thật là “con đường đúng nhất”. Ba người thi nhau vẽ bản đồ tỉ mỉ trình bày con đường mình đề nghị cho đến khi ông khách chậm rãi hỏi: ” Các anh có biết tôi định đi đến đâu không mà các anh sốt sắng chỉ đường thế ?”
Và chắc chắn cũng có rất nhiều người khác nữa như Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Bắc Sơn. Không phải họ theo cái mốt thời thượng như buồn nôn, nổi lọan, hay tuổi trẻ phản kháng… Đừng buộc tội họ như vậy, trong khi tuổi trẻ của họ như thế này:
…Bức thư đến đây tưởng có thể chấm dứt được nhưng tư nhiên tôi thấy hứng thú mời anh rời bỏ thế giới tư tưởng để đi vào cõi thế giới thi ca. Vì anh cũng là một kẻ làm thơ. Tôi muốn đọc những bài thơ tôi viết sau những giờ thiền định. Tôi cũng sẽ kể cho anh nghe một vài quãng đời của một người tuổi trẻ tại thành phố Phan Thiết trong đó y đã say mê tình yêu, say mê bạo động, say mê thi ca, say mê triết học, say mê câu cá. Y đã từng mang theo chiếc lưởi lam leo lên ngọn đồi nghĩa địa để cắt đứt mạch máu vì triết lý. Y đã từng đọc sách cả tháng không bước ra khỏi nhà. Y đã từng bán ”sôn” tất cả sách quí để say sưa cùng bằng hữu. Y đã đi làm thông dịch viên Lực Lượng Đặc Biệt để nhìn tận mắt chiến tranh Việt Nam. Y đã thiền định. Y đã ăn gạo lức muối mè…
(Thư Nguyễn Bắc Sơn gởi Nhất Hạnh, tạp chí Sóng, năm 1972, trang 38-39)

NBS
Nguyễn Bắc Sơn
dinhcuong

Xét cho cùng, chúng ta cũng nên thông cảm ở nỗi bất mãn của họ. Khi mà chiến tranh cận kề, khi mà miệng lưỡi họ câm, khi “phần chết thì dành cho thanh niên còn phần sống thì dành cho những ngài hàn lâm áo thụng”, khi mà văn học chỉ được nhắc nhở ở Sài Gòn, qua những chiếu trên chíêu dưới,thì dĩ nhiên, tiếng kêu cần phải thoát ra cổ họng, phải tuôn trên giấy, cho dù tiếng kêu của loài ễnh ương đi nữa.
Có thể những nỗi kiêu mạn này gây dị ứng cho một số người. Tuy nhiên, chúng phản ánh những suy nghĩ thầm kín nhất của một thế hệ bị thiệt thòi về mọi phương diện trong chiến tranh và ngay cả sau khi hết chiến tranh. Chúng cũng phản ánh một nền văn học tự do ” yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét…” trái ngược với văn học miền Bắc, giả dối, tuyên truyền, một chiều, dựa và đơn đặt hàng, triệt tiêu cảm xúc.

Trần Hoài Thư
August 7, 2015
Source: http://www.pd4pic.com

ĐÔI MẮT

tranhoaithu

Thêm một mùa thu trở lại. Thêm một bầu trời trắng xám như mang theo một nỗi buồn, cúi đầu đưa ti­n những ngọn lá trở vàng. Và với tôi, thêm một khóa học nữa lại trở về.

Tôi bắt đầu mang lại chiếc áo len mỏng, bỏ lại tập vở, cuốn sách vào school bag để tiếp tục cuộc hành trình. Kiến thức hay là cơm áo. Có lẽ là cơm áo cũng nên. Cái giấc mơ hôm qua của một tên đàn ông da vàng, đến từ một đất nước nghèo khó, lạc hậu, tai ương, trước một thế giới văn minh kỹ thuật, bao bọc bởi computer, điện thoại, fax, bây giờ đã trở nên buồn nản. Hay tại số tuổi của tôi, chẳng khác những chiếc lá vàng đầu tiên rụng xuống trên thềm cỏ. Mùa thì lúc nào cũng về đúng hẹn. Nhưng trong tâm hồn tôi, mùa đang thay đổi theo từng bánh nhịp của thời gian. Hôm qua, bao nhiêu phấn kích khiến tôi đêm ngày tìm tòi học hỏi, như một tên vô sản được chia một gia tài giàu có. Hôm qua, tôi đến trường, tai căng, mắt miệt mài, hồn đắm chìm trên trang sách vở. Hôm qua, tôi cứ nao nao đợi chờ ngọn gió chuyển mùa. Nhưng bây giờ, mệt và cô đơn. Mười hai năm làm việc với chừng ấy thứ. Cobol thì cũng như Fortran, thì cũng như C++. Unix thì cũng như IBM. Perform thì cũng như Do. Object thì cũng như không Object. Tất cả thì cũng là những bit 1 bit 0 trùng trùng điệp điệp luân lưu bằng tốc độ sấm sét. Nhưng chao ơi, trong tôi, trên da thịt tôi, những sợi tóc của tôi, não bộ của tôi, còn trăm ngàn bit đời sống tiếp tục bỏ đi theo từng sát na. Để lại nỗi u hoài, hụt hơi, đuối sức.

Nhưng dù muốn dù không, tôi vẫn lái chiếc xe gần hai tiếng đồng hồ từ nơi tôi làm việc đến trường. Khóa học này là khóa cuối. Có nghĩa là sau đó, tôi sẽ được cái bằng để treo, được viết thêm trên tờ Resumé thêm một bằng cấp và được tăng lương. Cứu cánh cuối cùng cũng vẫn là chừng nấy.

Như vậy, tôi đã trở lại cùng những dãy lầu gạch màu hỏa hoàng, vươn lên bên dòng sông Hudson. Như vậy, gã trung niên đang trở về, để bước lại trên hành lang xôn xao tuổi trẻ. Tôi lại bắt đầu hòa nhập vào cõi rộn ràng của sân trường. Những hàng sồi cổ thụ. Đám sinh viên trai gái đang ngồi tụm năm tụm ba trên bãi cỏ. Những con chim bồ câu đang đậu trên bức tượng đồng đen to lớn giữa sân. Tự nhiên tôi nhớ đến Như Hạ. Nhớ nàng đến thê thiết. Hình như con người chỉ có một thời tươi đẹp để ấp ủ nâng niu. Tôi cũng có một thời tươi đẹp như thế. Thời mà những gót chân người con gái nào để hoài, in hoài bãi vườn lòng tôi. Tôi đang chứng tỏ một tay phản động đĩ điếm sắp lấy một cái bằng xứ Mỹ, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị thua lỗ một lần. Một lần quá đau, quá nặng. Đau bởi vì nàng thì xa vòng tay của tôi một cách tàn nhẫn. Nặng như nỗi buồn tôi mang theo suốt cuộc hành trình luân lạc này.

Em yêu dấu. Tôi lại thấy em. Như đêm nào quanh lửa trại, trên bờ biển Thuận An. Như đôi mắt em sâu thẳm âm u, và mái tóc mun đen chảy dài cả bờ lưng em mềm mại. Ngày xưa, mà như hôm qua. Tiếng sóng đêm nào, rì rào bất tận. Ngọn lửa bạt bởi gió làm gương mặt em khi ẩn khi hiện. Tôi giấu đôi mắt cuồng đắm, nhưng lòng tôi reo lên tiếng reo từ những khúc củi bốc cháy giữa vòng người. Em được tiếng là người con gái có giọng hát hay nhất trường. Vì thế lũ bạn không chịu buông tha em. Tôi vốc một nắm cát thả xuống, để giấu con tim. Tôi muốn ghen tức. Tôi muốn tiếng hát kia là riêng. Tôi muốn tôi là một người độc nhất để chiêm ngưỡng em, và em chỉ biết có mỗi mình tôi mà cống hiến. Đêm ấy, trăng và sao lung linh khắp bầu trời Thuận An. Đêm ấy, những vì sao Đại Hùng Tiểu Hùng ở đâu để tôi còn ước ao trở thành người chăn cừu trên thảo ngàn, để cô bé ngủ quên trên vai. Đêm ấy em ngồi yên trên bãi cát, vầng trăng sáng vằng vặc, chảy lai láng trên mái tóc dài đen mượt như một dòng suối trăng. Tôi đến bên em. Như Hạ chưa ngủ hay sao? Không, em chưa buồn ngủ. Đêm ni trăng sáng quá anh Minh hỉ. Tôi nói Như Hạ hát hay quá đi. Em làm khối chàng trai si em. Em mà ai si. Anh nói thật tình. Trong số đó có cả anh… Thật vậy sao, em mừng quá đi. Nàng nói thật lòng hay chỉ là lời đầu môi chót lưỡi. Dù vậy tôi cũng cảm thấy thật vui. Đêm càng về khuya, gió càng lạnh. Bầu trời dường như càng thấp hơn. Và ánh trăng thẳm vàng một bãi biển chảy dài. Những đôi nam nữ đã dẫn nhau tìm chỗ trò chuyện. Lúc này, bếp lửa trại đã tàn, chỉ còn những miếng than hồng sót lại, cháy dang dở. Tôi muốn ngồi sát vào nàng hơn nhưng tôi không dám. Nhưng tôi nghe lòng ấm áp lạ kỳ. Được ngồi bên một người con gái xinh đẹp, được trò chuyện vu vơ, được nghe những lời thỏ thẻ, được nhìn cả một suối tóc lai láng ánh trăng, như vậy cũng đủ cho một tên thanh niên cảm thấy hạnh phúc lắm rồi. Một đôi bạn gái của Như Hạ đã đến bên chúng tôi lúc nào. ” Thì ra con Như Hạ ở nơi ni. Mi bắt bọn tau phải chạy đi tìm trối chết. Cứ tưởng là mi đã nằm biệt tích dưới đáy biển mò trai…” Như Hạ chống chế tội tình: ” Giữa tau và anh Minh chỉ là bạn…” ” Ô hay, tau đâu có nói gì cái chuyện giữa mi và anh Minh. Thôi bọn tau xin lỗi phá mi…” Sau đó hai cô bạn cười khúc khích và chạy đi chỗ khác. Còn lại Như Hạ lầm bầm: ” Mấy con nhỏ ni suốt ngày chỉ biết chọc phá người khác.” Đó là một đêm xứ Huế lúc chiến tranh chỉ còn ở một nơi nào rất xa, hình như chẳng bao giờ làm bận tâm những đứa con trai con gái. Trường đại học chỉ bao gồm hai ngôi lầu dọc theo bờ sông Hương, và một thư viện, nguyên là kho bạc cũ. Người sinh viên quá d­ễ dàng quen biết nhau, tìm đến nhau, và sau có dễ­ dàng trở thành liên hệ với nhau. Tôi và Như Hạ cũng vậy. Chúng tôi cùng học chung Khoa Học. Chúng tôi cùng chung hàng xóm. Chúng tôi cùng chung kỷ niệm thơ ấu. Chúng tôi cùng chung những ngày đạp xe đạp trên Ngự Bình ăn bánh bèo hay về Cồn Hến ăn chè. Chúng tôi an ổn trong sương muối buổi sáng tháng Giêng và dưới hàng phượng vĩ đỏ ối cả con đường Lê Lợi trong mùa hạ rộn ràng tiếng ve sầu. Chúng tôi bình yên nhìn về phía trước. Không thao thức. Không bâng khuâng.

Nhưng nỗi bình yên kia đã bị bức tử. Một Huế của êm đềm đã không còn êm đềm như xưa nữa. Đêm lửa trại ở Thuận An, với những đôi nam nữ tìm đến với nhau, dưới muôn ngàn tinh tú sáng lung linh đã trở thành một hoài niệm. Tôi thì về biển. Bạn tôi thì lên rừng. Và đau đớn hơn nữa, Như Hạ cũng theo tiếng gọi từ xa. Tất cả trở thành đổ vỡ, phân ly. Không biết tôi oán trách ai đây. Chủ nghĩa hay bạn bè tôi và cả một người tôi si dại mê đắm một thời. Tôi đã đặt câu hỏi và nghe câu trả lời buồn thảm. Bao nhiêu lần tôi trở về cùng biển. Bao nhiêu lần tôi vốc nắm cát và thả xuống từ từ để nhớ về một người nào. Rồi cay đắng. Rồi muốn rưng rưng nước mắt. Ngày còn thơ ấu mỗi lần Như Hạ thấy trái ổi trái xoài chín trên cây thì nàng vẫn nhờ tôi trèo lên để hái dùm. Nàng quá bé bỏng để tôi phải sững sờ khi nghe người dân thành phố kể lại một người con gái lạnh lùng tàn bạo, ngồi sau chiếc bàn dài, với khối quyền uy ghê gớm, kết quả bao nhiêu người đã bị chôn sống tập thể. Có cái gì khiến con người đã trở thành một loài ác thú. Tôi run sợ để nghĩ đến điều đó. Đảng lúc nào cũng khoan hồng. Nhưng vì nhân dân quá nổi giận. Ai đã phát biểu một câu nói để bào chữa cho một tội ác man rợ. Tôi đã đọc bài phỏng vấn về những chiếc huyệt chôn người tập thể từ người của một thời sách vở, và giảng đường trên một tờ báo ngoại quốc. Mười mấy năm sau chiến tranh, ai ai cũng hiểu nhân dân là ai rồi. Thế mà bây giờ người sát nhân chưa một lần thấy lương tâm bị cắn rứt, lại đòi làm người thầy tu. Còn Như Hạ của một đêm trên bờ biển Thuận An, chắc bây giờ cũng trở thành một nữ Bồ Tát.

Một nơi nào để tôi còn ngồi lại. Vẫn phòng học ở cạnh dòng Hudson, để mắt tôi phải choáng ngợp bởi một thành phố Nữu Ước vào đêm. Thêm vào gương mặt mới. Một người nữ sinh viên từ Thổ Nhĩ Kỳ. Hai người sinh viên nam nữ Trung Hoa. Và thêm một người con gái Việt Nam. Tôi biết rõ quốc tịch của nàng qua tên họ nàng viết trên tờ giấy điểm danh. Ngo Nhu Hien. Tôi thầm lén nhìn nàng, như thể nói lên lời chào hỏi bằng ánh mắt. Sau đó, vị giáo sư quen thuộc của khóa học trước, một tiến sĩ Toán học, tốt nghiệp cách đây đến ba mươi năm, bắt đầu ngay vào bài giảng. Ông nói và nói. Đầu tiên, ông nói ông không bằng lòng khi người ta coi môn Math Statistic này được coi là toán học. Toán học là một cái gì rõ ràng phân minh và dứt khoát. Nó như một cộng một là hai. Còn Thống kê học chỉ là một ngành khảo sát về cái không dứt khoát. Nó chẳng khác Hóa học, Vật lý. Nó dùng những kết quả để tìm những lời giải. Ông cười, nếu là toán thì chắc ai cũng trúng số độc đắc hết…

Ông ngồi trên ghế, trước chiếc bàn vuông, nhìn đám sinh viên, nói liên tu bất tận. Chỉ tội nghiệp người con gái Việt Nam ngồi bên cạnh tôi. Đôi mắt của em sao lại làm tôi chết điếng. Như đôi mắt người xưa. Và cả dáng dấp của em, như dáng dấp của một người bên trời Cửa Thuận. Tội tình cho em trong những giờ đầu bỡ ngỡ. Lời giảng của vị giáo sư quá mau, tiếng Anh, tiếng Mỹ chắc làm em phải khó khăn đuổi theo ghi chép. Tôi thấy em chới với cùng trang giấy. Ông thầy thì vô tâm. Không viết gì trên bảng. Chỉ nói, chỉ giảng, chỉ lật trang sách này qua trang khác. Rồi những bài \f3homework.\f2 Ông đọc thật nhanh. Bài 1, 2, 4, 15, 17, 18, 20. Em vô vọng nhìn qua tập vở của tôi, không dám hỏi. Tôi đưa note cho em. Em vừa nhìn vừa viết lại đến tội tình. Sau đó em gật đầu, nói thật ngượng ngùng:
” Thank you.”

Mười phút nghỉ. Bây giờ tôi mới có dịp làm quen. Tôi hỏi bằng tiếng Việt:
” Xin lỗi cháu là người Việt Nam.”
” Thưa Bác, dạ.”
” Cháu mới đến trường này lần đầu tiên?”
” Dạ.”
” Cháu chắc mới qua Mỹ?”
” Dạ. Cháu mới qua vài tháng…”
Tôi biết rồi. Thì ra người thiếu nữ này là sinh viên Việt Nam du học. Tôi biết được điều đó qua nội san của trường về chương trình trao đổi sinh viên quốc tế. Tôi hỏi thêm:
” Quê cháu ở đâu?”
” Thưa Bác, cháu ở Huế.”
Tôi bắt đầu đổi giọng Huế của tôi:
” Bác cũng ở Huế đây. Cháu ở Huế nhưng ở mô?”
” Thưa Bác, cháu ở Đập Đá.”
” Đập Đá, nhưng mà ở khúc mô?”
” Khúc giữa, chỗ có nhà thật xưa…”

Tôi bàng hoàng run rẩy. Như Hạ ơi, hay là giọt máu của em, kết tinh từ da thịt em, dáng dấp của em, đôi mắt của em. Một thời xa xưa mà như thể một giấc mơ. Mấy mươi năm, khu vườn xưa ngỡ đã tàn lụi, giờ đây, một đóa hoa lại nở, hương xưa lại trở về. Cay đắng hay là nỗi vui mừng tràn đầy nước mắt. Những gì hôm qua ngỡ đã mất biệt bởi hận thù, chủ nghĩa, đêm nay, đột nhiên sống lại như bão cuồng. Tôi cố nhìn cô bạn học nhỏ. Tôi cố gắng tìm hiểu, đánh giá về một người con gái, con của một cán bộ bên kia hàng ngũ, người đã từng ngồi ở cái bàn oan nghiệt một thời vào năm Mậu Thân. Nhưng tôi chỉ thấy một cõi cô độc đến tội nghiệp. Gương mặt kia, hay là gương mặt ngời sáng dưới ánh lửa trại, để từ bên này, lòng tôi đã nẩy nở bao nhiêu niềm rung động. Và cả đôi mắt kia, như đôi mắt lung linh dưới ánh trăng trên bãi biển, và cả bờ vai kia nữa, mềm mại, dựa vào người tôi. Gió từ sông thổi vào lạnh như cắt, khiến người con gái phải run. Tôi bảo:
” Cháu ơi vào lớp đi, kẻo lạnh. Về sau, có gì cần ở bác, bác sẵn sàng giúp. Dù sao bác cũng ở Mỹ mười năm.”
Cô gái nói:
” Cháu cám ơn bác. Cháu mới qua không giỏi sinh ngữ nên không ghi chép kịp. Bác có thể cho cháu mượn bài ghi của bác được không?”
” Dĩ nhiên, và hai bác cháu mình sẽ cùng làm homework chung nghen cháu? Cháu hẳn biết ông giáo sư này chú trọng homework hơn cả thi final nữa.”
” Cám ơn bác. Cháu sợ không theo kịp. Cháu lo quá.”
” Cháu đừng lo. Riết rồi cái gì cũng quen. Cháu có học thêm sinh ngữ không?”
” Dạ họ yêu cầu.”
” Này, nếu cháu muốn, bác sẽ mang con gái bác về làm bạn với cháu. Nó sẽ hướng dẫn cháu về Anh văn, nhất là cách phát âm. Nó rất thích bạn.”
” Cháu rất cám ơn bác.”

Từ buổi học đó, tôi có thêm một cô bạn nhỏ, Như Hiền. Tôi biết rõ về nỗi cô đơn lạc loài của người con gái xa nhà này. Con tôi làm sao hiểu những gì ở tận bề sâu thẳm của con tim cha nó. Nó vui được giúp đỡ một người bạn gái đồng hương. Những ngày cuối tuần hai đứa chở nhau đi shopping, hay tham dự các party bạn hữu. Nó luôn luôn khen Hiền đẹp, hiền và ít nói. Hiền thì khẩn cầu con tôi đừng nói nàng là du học sinh. Hiền vẫn còn sợ cái mặc cảm con cán bộ. Riêng tôi, tôi không bao giờ nhắc đến những ngày hôm qua. Những ngày mà hàng ngũ tôi bị hàng ngũ Như Hạ trả thù hèn hạ. Những ngày mà những kẻ chiến th¡ng kiêu ngạo có thể chiến thắng cả Ông Trời. Hãy để Như Hiền chứng kiến và phán đoán lịch sử.
Một ngày sau buổi học, Như Hiền đột nhiên hỏi tôi:
” Thưa bác, có phải bác viết văn lấy tên là Hạ Trường?”
Tôi biết có chuyện gì sắp xảy đến rồi.
” Phải.”
” Cháu nhớ lần đầu, bác đã hỏi cháu về căn nhà cổ xưa ở Đập Đá. Hôm qua, Nga có đưa cháu xem một bài văn của bác. Bác nhắc lại khu vườn xưa, ngay cả cái lầu mà bác từng một thời trọ học. Cháu đọc, cháu khóc. Cháu biết bác là người yêu của mẹ cháu.”
Tôi cúi đầu xuống. Lòng tôi chau lạnh. Cả khu vườn tôi muốn quên nay lại sống dậy rồi. Cả cõi quan tài kỷ niệm giờ đã mở bung rồi. Bên tôi, người con gái vẫn tiếp tục kể về khu vườn cũ.
” Ba mẹ cháu và những người mà bác nhắc bây giờ họ vẫn tìm đến ngôi nhà cổ xưa của mẹ cháu, nhưng không phải để họp hành sôi nổi như ngày xưa… Hầu hết các bác và các chú mà bác nhắc đều trả lại thẻ đảng, sau khi tờ báo bị đóng cửa. Thỉnh thoảng họ có nhắc đến tên bác. Họ có nói đọc văn bác ở trên một vài tờ báo hải ngoại được lén lút phổ biến. Bác có đọc những bài thơ của chú Trần Vàng Sao?”
” Có. Bác có đọc. Nhưng cháu hãy nói về ba mẹ cháu đi. Bác muốn nghe.”
” Ba cháu vẫn còn trong tổ chức. Lúc này, ai cũng cố bám vào đấy để hưởng ít nhiều ân huệ. Và cũng chính nhờ vậy, cháu mới được cơ hội đi du học như hôm nay.”
” Còn mẹ cháu?”
” Mẹ cháu bây giờ sống bằng thuốc ngủ và những lá bùa.”

Mắt nàng mờ lệ. Tôi nhìn lên gương mặt. Tôi khóc cho một dĩ vãng. Dòng Hudson hay là dòng sông Hương, để tôi phải đau như một lời thơ của cụ Trần Tế xương Chợt nghe tiếng ếch bên tai. Giật mình cứ ngỡ tiếng ai gọi đò. Ở đây làm gì có tiếng ếch, nhưng là tiếng đắng cay sông núi. Như Hạ ơi, anh đang thấy lại em, đôi mắt vòi vĩnh anh hái dùm trái ổi, trái khế. Anh thấy lại em, giữa khu vườn rậm đầy bưởi, thanh trà, và em mang áo ấm đỏ khi Huế vào đông, khi con nước sông Đập Đá chảy cuồn cuộn mang theo những thân củi, khúc cây từ rừng xuống sông Hương… Cay đắng này chỉ có một mình anh chôn cất. Còn nữa, còn một đêm đầy sao trên bãi biển Thuận An, để sau này anh phải mang hoài hai vì sao nhỏ từ đôi mắt của em. Để anh mỗi lần cầm viết, cứ nghĩ đến một đôi mắt…

Đến đây, Như Hiền nói như nghẹn ngào:
” Đọc văn bác, cháu biết bác vẫn còn căm hận mẹ cháu. Tự nhiên cháu lại tủi thân bởi vì cháu là con của một người trong cuộc. Bác không biết, đến lúc này, cháu chưa hề biết chủ nghĩa Cộng Sản là chủ nghĩa gì. Cháu đâu là Cộng Sản. Cháu cũng như Nga, như những người bạn mà cháu đã gặp, đều nói tiếng Việt, đều thích vui đùa. Bác không biết trước khi qua Mỹ, ba mẹ cháu đã dặn cháu hãy câm và điếc đừng tiết lộ cho ai biết cháu là con của cán bộ. Bác ơi, làm con của cán bộ đâu phải có tội…”
” Vâng, cháu nói đúng. Nhưng ít ra mẹ ba cháu là những người từng trực tiếp hay gián tiếp chôn sống hàng vạn người vô tội ở Bãi Dâu phải tỏ ra một chút gì liêm sỉ, đừng nên nhân danh này nọ để biện hộ cho tội ác.”
” Cháu không dám bào chữa cho mẹ, nhưng thưa bác, trong một tổ chức, tiếng nói là tiếng nói của bí thư. Và mọi người chỉ biết cúi đầu lập lại tiếng nói ấy. Ai cũng biết cái vụ thảm sát tàn bạo nhất trong cuộc chiến tranh, nhưng ai cũng không dám nói lên lương tâm của mình.
Riêng mẹ cháu thì từ bệnh mất ngủ đã biến thành bệnh tâm thần. Mẹ nhìn đâu cũng chỉ thấy những oan hồn về đòi mạng. Mẹ đã kêu thầy bùa để yếm từ cổng nhà đến phòng ngủ, nhưng cũng đành chịu thua. Đôi mắt mẹ, mà bác đã từng viết trên bài văn, là đẹp như hai vì sao nhỏ, bây giờ chỉ là hai võng mô đục, không một chút gì sinh khí.”

Trần Hoài Thư