những chiếc bóng

Có đôi lần tôi thử cố nhớ lại mình đã thật sự lớn khi nào. Tôi muốn biết liệu có một thời điểm mong manh mà ở đó, phía bên này là sự ngây thơ, còn bên kia là tâm trí của một kẻ vừa mới nhận chân được gương mặt cuộc sống. Khi ấy, giống như anh chàng đứng ngắm bóng mình trong hồ nuôi cá cảnh và tưởng tượng những con cá đang bơi sau lớp kính là tuổi thơ của mình, còn đám rong rêu cùng hòn non bộ kia là khung trời mộng mơ mà anh ta đã đắm chìm vào và lầm tưởng đó là thế giới đích thực.

Nhưng có vẻ gì đó như một sự đốn ngộ, một ánh chớp loé lên và chẳng để lại gì. Một ánh chớp loé lên và cái thế giới cũ vụt tan biến. Không biết có bao người may mắn nhớ rõ được thời điểm toả sáng ấy trong cuộc đời. Phải chăng, trong phần lớn những cuộc đời khác, nó thường trôi qua lặng lẽ và không để lại một dấu ấn nào – đó là một cuộc chuyển hoá chậm, dày và chẳng thể nhớ gì về nó. Nhưng tôi lại mơ hồ cảm nhận rằng nếu có đủ thời gian và sự tĩnh tâm để rà xét, có khi ta sẽ lần ra khoảnh khắc ý nghĩa ấy. Nó giống như chuyện thuở nhỏ khi tôi lần mò trong đêm tối để tìm viên bi bị rơi, tôi biết chắc nó đang nằm ở một xó xỉnh nào đó, chỉ cần tay tôi vươn tới tôi sẽ bắt được…

Đó là một thời đói triền miên, đói từ làng trên đến xóm dưới. Mọi thứ đều trông tiêu điều, người sống lặng lẽ như những chiếc bóng lẩn khuất sau luỹ tre hay lang thang trên cánh đồng. Những năm ấy, tôi đâu khoảng hơn mười tuổi, cao lêu nghêu, da đen nhẻm và tóc xơ xác như rễ tre. Tôi hay lang thang một mình, lúc trên rừng, khi ngoài đống nhưng thường nhất là lặn dưới sông. Tôi không biết người lớn họ chịu đựng cái đói ra sao còn đối với tôi lúc ấy chẳng khi nào tôi để cho cái dạ dày của mình phải khốn khổ vì trống rỗng. Khi đói bụng tôi ăn đủ thứ, từ bắt ốc bươu luộc ăn, đến hái trộm dưa hay đào trộm khoai lang, rồi đi bắn chim trên rừng đem nướng lá chanh…A, mà bạn biết chim nướng lá chanh không, món thượng hạng, tôi sẽ kể rõ ngay sau đây: vặt sạch lông, mổ bỏ hết bộ lòng, rửa sạch, nhét lá chanh vào, quấn mười lớp lá chuối tươi rồi nướng cho đến khi cháy đến lớp lá cuối cùng là được. Sau đó chấm muối tiêu và nhai ngấu nghiến từ đầu đến thân, rồi 2 cẳng và sau cùng là linh hồn của nó…

Tôi khởi sự nhớ lại từ mùa đông năm ấy. Đó là một mùa đông khắc nghiệt, cái đói cùng với cái lạnh đã vùi dập hầu hết những ước mơ và dự định tốt đẹp tôi đang có trong đầu. Bởi mùa đông là khi tôi chẳng thể lang thang trên rừng hay xuống sông để tự kiếm miếng ăn. Tôi mặc bộ đồ may bằng bao cát ấp chiến lược và nằm co ro trong một góc nào đó để nghe tiếng mưa rả rích trên mái tôn. Mưa dầm dề từ ngày này qua ngày khác, có khi cả tuần chưa thấy mặt trời. Tôi nằm im lặng chịu đựng và lắng nghe cái đói cồn cào trong dạ dày. Tôi nhận thức rõ thời gian đang trôi đi từ buổi sáng qua buổi trưa rồi bò chậm chạp đến buổi tối, nhưng tôi biết chắng có gì đang được nấu dưới bếp. Cũng có khi tôi rời chỗ nằm và mò xuống bếp để nhìn. Tôi nghĩ trên đời sẽ chẳng có gì thê thảm hơn một cái bếp nguội lạnh trong mùa đông mưa dầm.

Sau này tôi mới hiểu tại sao thường mùa đông lại là mùa đói quay quắt như thế. Bởi đó là khoảng trống mùa vụ, chẳng có cây gì đang được trồng vào mùa đó ngoài ruộng. Cánh đồng lúc ấy chỉ trơ gốc rạ nằm thối rục trong mưa, một vài con chất thọc cắm mỏ vào những ổ trùn vừa mới đùn lên trên những mô đất cao.

Mùa đông còn là mùa tôi nhớ nhiều chuyện nhất. Có lẽ là do tâm trí được yên tịnh, chỉ có nằm, lắng nghe và chịu đựng. Hằng đêm tôi khó ngủ nằm trằn trọc và lắng nghe mọi thứ âm thanh. Ngoài tiếng mưa, tôi còn hay để ý đến tiếng chuột. Bọn chúng chạy và kêu rất náo nhiệt trên xà nhà làm như có điều gì vui lắm. Nhưng mẹ tôi lại nói khác, bà nói bọn chuột cũng đói và đang chạy đi tìm thức ăn, “càng đói chạy càng gấp”. Thỉnh thoảng mẹ tôi cũng đùa nói bọn chúng đang hát tập thể:

“Chút cha chút chít,
Ỉa không chùi đít,
Không sợ dính quần…”

Tôi được một trận cười no nê và ngủ lúc nào không hay…

Rồi mùa đông nào cũng kết thúc khi tết đến. Tết là những ngày được tôi chờ đợi nhất dù thường tôi chẳng có gì, từ quần áo mới hay tiền lì xì. Tết như một chút dấu ấn nhắc nhở những con người cùng quẫn rằng thời gian vẫn đang trôi và họ vẫn đang sống. Hồi ấy tôi tưởng tượng nếu không có tết chắc tôi chẳng biết chờ đợi gì trên đời này nữa.

Nhưng tết không chỉ là dấu ấn của thời gian, nó còn được mong đợi hơn vì đó là những ngày sẽ được ăn no và ăn ngon. Chuỗi ngày ăn giỗ no nê được bắt đầu từ rằm tháng chạp, kế đến là đưa ông Táo về trời, rôi cứ tiếp diễn đến đầu xuân với rất nhiều lễ cúng. Nhưng khi lễ đưa ông bà được cúng vào ngày mùng ba, đó là lúc lòng tôi chớm buồn, nỗi buồn cố hữu quay lại, u ám và dai dẳng.

Rồi thời gian trôi thật nhanh khi ký ức vụt kéo tôi đến những ngày cuối xuân năm ấy khi mùa lúa đông xuân vừa gặt xong. Đó là những hình ảnh câm lặng đau buồn chẳng khi nào phai trong tâm trí tôi nhưng phải rât lâu sau này, khi đã thật sự trưởng thành, tôi mới hiểu rõ ngọn nghành. Và khi đó, bóng dáng của những ngày cùng khốn ấy lại hiện ra, tròn vành vạnh không sót một chi tiết nào…

Mọi thứ đều dồn vào buổi sáng hôm ấy, trong một khoảnh khắc thật ngắn ngủi, khi nắng vàng chiếu rạng rỡ trên những ngọn tre.

Trước khi có khoảnh khắc chấn động ấy tôi không nghĩ mình đã biết rõ về ông – ông xã Chiên, một ông già lụ khụ. Tôi không nhớ năm đó ông bao nhiêu tuổi, nhưng tôi nhớ rõ ông đã rất già, theo cái nghĩa phải đếm từng mùa đông đến.

Mùa đông, với những cơn gió bấc lạnh buốt là nỗi ám ảnh của người già. Thường là họ sẽ chết vào một mùa đông nào đó. Cái đói và lạnh sẽ lần lượt kéo những người già cả ốm yếu về âm ty. Khi chim cú báo hiệu, sẽ có người già nào đó phải chết. Vào những đêm đông, khi tiếng chim cú mổ từng âm buồn thảm, ba tôi thường lắng nghe rất chăm chú. Sáng hôm sau ông lọc ra một danh sách những người khả dĩ nhất trong xóm có tiếng chim cú đêm qua rồi ngẫm nghĩ. Tôi thấy lần nào ba tôi cũng đoán trúng và đó là điều kỳ lạ mà cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào hiểu được.

Ông xã Chiên chỉ sống một mình trong căn nhà tranh nhỏ, nằm ở góc một khu vườn có tre phủ kín mít tứ phía. Vườn nhà ông nằm kế những khu vườn hoang nối liền nhau. Đó là vương quốc của chim chóc và rắn rít. Những buổi chiều, khi mặt trời ngã bóng, những khu vườn hoang chợt trở nên u tối đến rợn người. Rồi chim vịt, bìm bịp,…thi nhau rền vang những âm điệu buồn đến nao lòng. Tôi cũng thường lai vãng vào đó để bắn chim. Khu vườn râm mát suốt ngày vì rất hiếm khi nắng chiếu lọt được vào trong, trừ những buổi trưa đứng bóng. Trong cái không gian tĩnh mịch ấy, tôi hay đi thơ thẩn từ đầu này tới đầu kia khu vườn, và cuối cùng dừng bước trước ngôi nhà tranh cũ nát. Trong nhà chỉ có cái chõng tre, một cái ảng nước, 3 cục gạch kê làm bếp và mấy cái nồi móp méo đen sì…

Căn nhà của ông lúc nào cũng đong đưa như răng người già nhưng không hiểu sao nó vẫn chưa sập dù năm nào cũng có bão thổi qua vài bận. Cái bí quyết đứng vững của căn nhà ấy phải sau này tôi mới biết rõ…

Hồi ấy tôi đã từng thắc mắc không biết ông ấy ăn gì để sống vì suốt căn nhà không thấy có một thứ gì có thể cho vào miệng được. Tôi có đem điều thắc mắc ấy hỏi vài người lớn nhưng chẳng ai giải thích họ chỉ cười ruồi. Chắc họ nghĩ tôi chỉ là một đứa con nít, mà con nít thì không cần phải biết những chuyện đại loại như vậy. Nhưng người lớn họ hay nhầm lẫn giữa sự hiểu biết và lòng trắc ẩn. Họ không nghĩ rằng có chút lòng xót thương đang nảy nở trong tầm hồn tôi khi nhìn cảnh cô đơn bần cùng của một ông già ốm yếu. Có lẽ, hồi ấy, cái đói, cái cùng quẫn của nợ nần đã cầm tù tâm trí họ. Còn lòng tốt ư, nó phải vượt qua được cái dạ dày sôi réo, phải thắng được cái tâm trí bấn loạn, trước khi lọt ra ngoài qua vài câu xuýt xoa tội nghiệp.

Trở lại buổi sáng cuối xuân năm ấy. Đó là một buổi sáng hứa hẹn một ngày nắng nóng gay gắt. Bởi từ sáng, mặt trời đã lên chói chang. Nhưng đó không phải là thời điểm tâm trí của những người lớn còn có thể nghĩ về thời tiết, họ đang lo lắng tụ tập về sân đội với nỗi ám ảnh hằn lên trên từng gương mặt khốn quẫn.

Sáng hôm ấy đội truy thu nợ của công an huyện về làm việc với những hộ còn nợ lúa hợp tác xã.

Ba tôi từ sáng sớm đã lên sân đội. Khoảng 3 hay 4 người mặc đồng phục màu vàng đang ngồi ở dãy bàn phía trên. Tôi chẳng biết họ nói gì, nhưng bên dưới tất cả đều im thin thít.

Phải sau này tôi mới biết câu chuyện sáng hôm ấy. Đó là họ bắt những người thiếu nợ phải bằng mọi cách trả thuế cho hợp tác xã. Họ hăm doạ rât nhiều khiến ai cũng lo sợ thất thần. Sau này ba tôi kể họ đập bàn, quát vào mặt ông, họ đe sẽ bắt nhốt nếu không trả nợ.

Hồi đó hình như nhà ai cũng nợ lúa nhà nước. Ba tôi giải thích, một mảnh ruộng được nhà nước quy định năng suất và người dân khi sử dụng phải đóng thuế 70% trên cái năng suất lý thuyết ấy. Vì năng suất được quy định quá cao, gần như chẳng khi nào đạt đến trong thực tế nên mùa nào cũng chẳng đủ lúa để đóng thuế. Đâm ra ai cũng nợ nhà nước đầm đìa.

Chuyện nợ nần ấy luôn làm tôi liên tưởng đến những chuyện khác, khủng khiếp hơn, xảy ra thường xuyên nhưng chẳng ai đặt câu hỏi vì sao. Có lẽ do nó xảy ra thường quá nên nhàm chăng, còn bọn con nít coi chúng chỉ như những trò hấp dẫn. Đó là các vụ tự tử bằng thuốc rầy. Tôi còn nhớ, cứ dăm bữa nữa tháng lại nghe một vụ uống thuốc rầy tự tử. Thường những chuyện như vậy tôi sẽ chẳng khi nào bỏ qua. Khi nghe tiếng la khóc từ phía trạm xá vọng lại, tôi sẽ ba chân bốn cẳng phóng đi. Khi ra tới nơi tôi cố chen lấn để luồn vào trong. Trên nền xi măng, kẻ tự tử nằm quặt quẹo ở đó, từ người họ mùi thuốc trừ sâu bay ra nồng nặc làm ngộp thở cả căn phòng. Một người dùng ống đút vào miệng rồi đổ nước vào, còn một người khác sẽ leo lên bụng đạp. Họ đạp cho đến khi nước trào ra lại đằng miệng. Họ làm như vậy nhiều lần cho đến khi nước súc không còn mùi thuốc nữa mới thôi…

Có điều, tất cả những thứ kinh khiếp ấy chưa bao giờ khiến tôi sợ hãi. Hồi ấy tôi chỉ coi nó như những chuyện bình thường khác vẫn xảy ra hằng ngày xung quanh, đơn giản như cãi lộn hay chửi bới của mấy bà bán cá. Có lẽ đó là lý do tại sao người ta gọi là trẻ thơ. Cũng như thời gian, nhận thức là quá trình một chiều và không thể đảo ngược, một khi bạn đã “biết” rồi thì chẳng có cách nào để bạn trở lại “không biết”. Nghĩa là, khi bạn nhận ra sự khổ đau thì đó cũng là lúc bạn đã bước vào một thế giới khác – thế giới người lớn. Và nó cũng khởi đầu cho sự trượt dài không lối thoát trong cõi nhân sinh, cho đến khi bạn hoàn toàn biến mất.

Và đã có một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn tôi kể từ buổi sáng hôm ấy…

Đó là khi không khí của buổi họp được dồn đến căng thẳng tột độ, bất thình lình ông xã Chiên xuất hiện. Tôi nhớ mới hôm qua ông còn bịnh nằm liệt giường, sao hôm nay ông lại đến đây. Ông đi lừ đừ từ ngoài cổng vào. Lúc ấy nắng đã lên cao, chiếu bóng ông in hình đậm nét trên nền gạch. Chiếc bóng đen thẫm, nhấp nhô như trong phim hoạt hình, hết nghiêng bên này lại ngã bên kia và tiến về phía dãy bàn phía trên, nơi những vị mặc sắc phục màu vàng đang ngồi.

Tôi nhớ là cả sân người ngồi dưới và mấy vị quan chức đều im lặng dõi theo từng bước ông đi. Ông ngật ngưỡng đến đứng trước mặt họ. Hình như ông nói gì đó, và có vị đã cười. Tôi nghĩ họ đã nói chuyện không đến nỗi căng thẳng cho lắm. Nhưng bất ngờ, ông xã Chiên mở nắp cái chai mang theo và đưa lên miệng. Rồi tôi thấy ông ngã lăn ra sân. Chiếc bóng mất hút. Những tiếng la hét, gào thét bắt đầu vang lên cuồng loạn. Những người đang ngồi dưới bật đứng dậy và lao lên trước. Cho đến khi mùi thuốc rầy nồng nặc bắt đầu lan đến chỗ tôi đứng, tôi mới bừng tỉnh và hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Sau đó hình như người ta có đưa ông đi cấp cứu, nhưng chỉ được một quãng thì ông đã chết. Họ nói ông đã uống hết cả nửa chai thuốc rầy nên chẳng Trời Phật nào cứu nỗi…

Sau này ba tôi kể, trước hôm ấy vài ngày, ông xã Chiên được tuyên dương trước đội như một mẫu mực vì đã bán cây cột sơn để trả nợ. Đó là cây cột gỗ sơn lớn và đen bóng, nó là chỗ dựa duy nhất cho căn nhà tranh của ông.

Sau đó vài tháng, một cơn bão nhẹ thổi qua làm căn nhà đổ tan nát và vườn nhà ông trở thành vườn hoang. Chiều chiều, tiếng bìm bịp vọng ra từ đó nghe như tiếng gọi hồn buồn thảm. Thỉnh thoảng tôi có đi ngang qua, nhưng chẳng khi nào còn dám bước chân vào nơi ấy nữa.

TRÀ ĐÓA

Advertisement

Một cuộc chiến khác

Dành riêng để tặng những người lính VNCH vô danh

Tôi ra đời vào một ngày mùa hè năm 1975, thời điểm cuộc chiến Việt Nam vừa kết thúc. Khi đó ba tôi đang bị “cải tạo” ở Tiên Lãnh – một xã vùng núi thuộc huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Nghe mẹ tôi kể lại, đó là thời điểm mà mọi người đều tâm thần bấn loạn, đặc biệt là những gia đình có người tham gia chế độ cũ, chẳng ai còn đủ bĩnh tĩnh để nhận biết đầy đủ những náo loạn đang diến ra và cái gì sẽ tới. Tất cả đều đảo lộn, rối tung rối mù. Mẹ nói chỉ biết có chạy và chạy. Gần như mọi sự đều phó mặc cho số phận.

Giữa lúc khốn khó ấy, mẹ lại đang mang bầu tôi nên chỉ còn biết về quê. Trong tâm thức của người Việt, quê cha đất tổ là một cái gì đó, ngoài sự thiêng liêng, còn mang cả nỗi niềm tin tưởng, là nơi nương cậy lúc cùng đường. Quả vậy, mẹ, tay dẫn anh chị tôi, bụng mang dạ chửa, chân bước nặng nhọc trở về quê, tá túc trong ngôi nhà cũ của ông bà nội trong khu vườn được phủ kín tre xanh.

Chỉ hơn một tháng sau khi về quê, vào một đêm đầu tháng trời tối như mực, mẹ trở dạ…

Tôi ra đời trong tay một bà lang vườn. Mẹ tròn con vuông. Sau này mẹ thường nói: “hú hồn, nếu lúc đó xảy ra chuyện gì…chắc chỉ còn biết chết! Ơn Trời Phật!”.

Dĩ nhiên tôi không có bất kỳ ký ức nào về quảng thời gian đó. Đầu óc trẻ thơ là trạng thái nguyên sơ nhất của ý thức con người. Nó giống như một hồ nước tĩnh lặng trong veo mà hình ảnh những đám mây lần lượt in bóng rồi lần lượt trôi qua không để lại một chút dấu vết. Tôi lớn lên vì phải lớn lên, đó là xu hướng nguyên uỷ của một cơ thể sinh học.

Nhưng ký ức trẻ thơ cũng thật lạ lùng, nó không hoàn toàn vô cảm với tất cả những thứ diễn ra quanh nó. Đôi lúc, như một sự tình cờ, nó ghi lại một vài hình ảnh mà sau này, nhờ có nó, một người có thể nhớ lại một vài câu chuyện nào đó đã xảy ra trong một bối cảnh xưa cũ mà bây giờ đã hoàn toàn mờ nhạt.

Đó là hình ảnh ba tôi ngày trở về sầu não. Và những ngày sau đó là hình ảnh ông uống rượu triền miên rồi say nằm la mắng vang cả xóm… Rồi thỉnh thoảng, những lúc ngồi bên mâm cơm, câu chuyện của ba tôi luôn nói về những ký ức của một thời đã qua. Giọng ông lúc trầm lúc lắng, nhưng luôn đau đớn khi kể đến những thứ… mà nay đã không còn, hay như cách quả quyết của ba tôi, là mọi thứ đã bị tước đoạt, và kinh khủng hơn, đã bị chôn vùi vĩnh viễn vào đêm tối của căn bệnh chóng quên của người đời…

Sau này, khi đã đủ trí khôn, tôi cũng không thể hình dung ra nổi những bối cảnh trong các câu chuyện mà ba tôi đã kể. Tôi không biết một quả mìn bên vệ đường phát nổ là như thế nào? Hình ảnh một chiếc xe khách bị lật nhào cháy đen ra sao? Quá khó để tưởng tượng ra những thảm cảnh đã diễn ra hàng ngày trên con đường chỉ dài vài chục cây số mà giờ đây tôi hay đi đi về về…

Như một bằng chứng, vào ngày giẩy mả đầu xuân, ba tôi đã chỉ cho tôi ngôi mộ của một người xa lạ đã chết trẻ. Đó là anh chàng học trò trường Trần Cao Vân Tam Kỳ về nghỉ hè và đã chết trên một chiếc xe bị mìn ở vệ đường. Ba tôi nói anh ta chết vào tầm tuổi tôi bây giờ…

Nhưng quả thật, khi nói về cái chết cho một người trẻ tuổi cũng giống như việc phết một lớp sơn lên một bề mặt trơn bóng không ăn màu. Nó sẽ mau chóng phai đi và trả lại lớp trơn bóng cố hữu bên dưới một cách nguyên vẹn như chưa từng có gì xảy ra. Thậm chí cho đến lúc tôi chứng kiến cái hố chôn tập thể lên đến hàng ngàn bộ hài cốt mà người ta tình cờ phát hiện khi đào móng xây nhà, nó vẫn hoàn toàn không gây nên một niềm xúc động nào trong tôi. Khi thấy ba tôi xót xa nói đó có lẽ là hố chôn đồng bào tản cư bị chết trong trận chiến mậu thân 1968, tôi cũng muốn tỏ ra chút đồng cảm nhưng tuyệt nhiên trong tôi vẫn phẳng lặng như tờ.

Tôi biết mình gần như vô cảm với những thứ ấy, những thứ giống như đã xảy ra từ một thời xa lơ nào đó trong tiền kiếp mà bây giờ thỉnh thoảng người ta kể lại như những câu chuyện dân gian. Tôi chưa bao giờ hình dung ra ba mẹ tôi cũng là những nhân vật đã ở trong những câu chuyện ấy. Tôi có cảm giác đó là những câu chuyện chỉ dành để nói về những kẻ xa lạ mà chẳng mảy may liên hệ gì đến tôi.

Có vẻ khi Đấng Tạo Hoá ban cho con người khả năng ghi nhớ, Người cũng đã thiết lập một luật lệ rằng, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về ký ức của mình mà không thể san sẻ cho ai khác. Phải chăng vì vậy mà cho dù rất thương ba mẹ, nhưng đầu óc tôi vẫn mãi trơ lì với những ký ức thân thiết của họ. Những bóng hình vẫn còn đó, nhưng đồng cảm thì hoàn toàn vắng bóng…

Tôi rời quê vào Sài Gòn học đại học. Đây là lần đầu tiên tôi xa nhà và đi xa đến vậy – cả ngàn cây số. Đối với những gã trẻ tuổi quê mùa như tôi, Sài Gòn gần như là thiên đường, là nơi chất chứa hy vọng thay đổi số mệnh. Trước khi tôi đi, ba tôi đã kể rất nhiều về Sài Gòn cho tôi nghe. Thực ra, ông chỉ ở đó được khoảng một hai tháng trong một chuyến tập huấn ngày trước. Ba tôi nói rất nhiều, tất cả những gì ông còn nhớ được về Sài Gòn. Sau này, khi đã ở Sài Gòn lâu ngày, tôi nhận ra là những ký ức của ba tôi về Sài Gòn cũng hoàn toàn xa lạ. Có lẽ, Sài Gòn bây giờ đã khác xa cái thời trước, cái thời mà chỉ còn trong ký ức của những người “muôn năm cũ”…

Trường tôi học nằm ở quận nhứt, nhưng tôi lại ở nhà một người quen ở khu Bảy Hiền. Đây là khu xóm dệt do những người Quảng Nam di cư lập nên từ thời năm 1954. Những ngày đầu vào ở đây, không có cách nào để chịu đựng nổi tiếng ầm ầm vang như sấm động suốt ngày từ những khung dệt vải. Nhưng dần dà mọi thứ lại trở nên dễ chịu. Tôi quen dần với những tiếng động ấy đến mức, nếu không có nó, tôi sẽ chẳng ngủ được. Những tiếng đập ầm ầm theo nhịp khung cửi không ngờ lại có tác động như một lời ru dị kỳ.

Những buổi chiều rảnh rỗi tôi thường tản bộ ra uống cà phê ở khu Bàu Cát. Đây là một khu rất mới mà nếu vào thời có trong ký ức của ba tôi, nó chỉ là những ao rau muống lầy lội chạy dài ngút ngàn. Khoảng đầu thập niên chín mươi, một tay lanh lẹ đã xây dựng nó thành những khu phố khang trang như bây giờ. Khu phố này rất đẹp và nhiều cây xanh, rất thuận tiện để mở quán cà phê. Vì vậy mà quán cà phê ở đây nhiều vô kể, cái này nối tiếp cái kia, san sát bên đường.

Nhưng số phận của kẻ đã xây dựng nên nó lại không được may mắn như vậy. Anh ta là một trong số những tay nổi đình nổi đám vào thời mới mở cửa. Đó là cái thời mà những kẻ quản trị nhà băng còn kém xa những bà chủ tiệm cầm đồ. Họ cho vay vô tội vạ bất chấp các nguyên tắc an toàn tài chính miễn có “lại quả” cho họ là được. Còn những công ty ma lanh thì được phép huy động tín dụng với lãi suất rất cao rồi dùng tiền để chơi bời xả láng hay hoang phí vào những thứ xa xỉ mới được du nhập vào. Và tay ấy, cái kẻ đã xây dựng Bầu Cát, là một trong số những tay chơi khét tiếng. Cuối cùng, với số nợ khổng lồ không có khả năng trả được, gã đã bị tử hình.

Bây giờ, chẳng còn mấy ai nhớ đến gã…

Tôi thường ngồi ở một quán cà phê có nhiều cây xanh trong sân. Đây xưa kia có lẽ là một khu vườn trồng cây ăn trái nhưng người chủ của nó đã nhìn xa trông rộng mà không bán đi vào thời mở cửa. Để giờ đây nó là một mặt tiền rộng rãi, với nhiều cây xanh còn giữ lại, che bóng mát rượi. Tôi thích ngồi ở đây vì chủ quán cũng là người Quảng. Những cô con gái của ông cũng nói giọng Quảng, tuy thỉnh thoảng có pha vài phát âm kiểu Sài Gòn. Ngồi ở đây tôi cảm thấy có gì đó gần gũi và đáng tin cậy. Người Quảng vốn nói năng nặng trịch và ít cảm tình, nhưng khi xa quê lại thường gắn bó với nhau hơn người ở những vùng khác.

Và vào một buổi chiều ở đó, tôi đã gặp một người lạ lùng…

Thực ra ban đầu tôi chẳng để ý gì đến ông, một người bán vé số như vô số những người bán vé số khác. Thường tôi sẽ khước từ những lời mời mua vé số. Tôi chẳng bao giờ tin vào vé số, vả lại nó cũng không rẻ. Theo cách tính kiểu sinh viên như tôi, một tờ vé số tương đương một bữa trưa, thường là một dĩa cơm đậu hủ. Chẳng gã nghèo túng nào lại mạo hiểm đánh đổi một bữa cơm trưa để mua lấy một niềm hy vọng có xác suất nhỏ đến một phần trăm ngàn cả.

Nhưng trái với những người bán vé khác, thường sẽ bỏ đi ngay sau cái phẩy tay, ông ấy hình như vẫn còn ở đó. Cho đến lúc tôi quay lại nhìn, thì đó là một ông trung niên bị cụt cả hai chân lên đến tận háng. Ông di chuyển bằng hai cái đòn gỗ trơn bóng vì bị bào mòn lâu ngày. Đôi mắt ông nhìn tôi lạ lùng và có phần sửng sốt. Và ông cứ nhìn chăm chăm như vậy một hồi lâu. Tôi không biết là bao lâu, vì chính tôi cũng sửng sốt không kém ông. Bởi tôi chưa từng gặp phải một tình huống lạ thường như vậy bao giờ. Một gã trai trẻ quê mùa như tôi chưa bao giờ học được thói quen phản ứng mau lẹ với xung quanh.

Rồi cuối cùng ông cũng giật mình tỉnh lại. Gương mặt ông lộ rõ vẻ bối rối như một đứa trẻ vừa phạm một lỗi nặng. Ông nhìn tôi vừa đau khổ, vừa như muốn xin lỗi về sự bất nhã vừa rồi. Nhưng tôi nhớ mình đã mỉm cười với ông, một nụ cười tự nhiên chẳng thoáng chút kỳ thị. Rồi như được cởi bỏ một gánh nặng, ông cũng mỉm cười theo. Cuối cùng ông cũng lên tiếng giải thích cho cái nhìn kỳ lạ của mình:

“Cậu giống như đúc một người bạn cũ của tui”

Rồi ông nhanh chóng trở lại với gương mặt rầu rĩ cố hữu.

Tôi lên tiếng:

“Chắc là một người bạn thời trẻ của chú?”

Ông gật đầu.

“Vậy chắc anh ta đã đi Mỹ rồi?” Tôi nói đùa.

“Anh ấy chết rồi”

Câu trả lời của ông làm tôi thoáng chút gợn. Tôi hơi sợ khi nghe từ chết, đặc biệt là một cái chết trẻ. Có lẽ, câu chuyện về cái chết của anh chàng học trò trường Trần Cao Vân đã ám ảnh tôi ít nhiều.

Tôi hỏi ông:

“Chắc là chết thời còn đi học chung với chú?”

“Không, anh ấy là lính Cộng Hoà chết trận.”

Nói đến đó, gương mặt của ông trở nên như vô hồn, nhưng trên mí mắt thâm quầng đang chảy xuống một giòng nước mắt. Lúc đó tôi không hiểu ông đang nghĩ gì. Một cái chết xa xôi như vậy của một người bạn cũ đâu thể gây nên một sự đau buồn lâu dài đến vài chục năm. Thực tế, con người là những động vật rất dễ thích nghi, kể cả với nỗi đau. Thường với một cái chết nào đó, nó chỉ gây ra tổn thương trong một thời gian nhất định mà thôi, tuỳ thuộc vào mối quan hệ của người sống với người đã chết, nhưng ít khi nó kéo dài quá vài năm. Có thể trong phút chốc một niềm xúc động đột ngột dâng lên từ một sự kiện đã gợi lại những kỷ niệm đau buồn trong quá khứ và khiến ông đau lòng. Nhưng nhiều lắm nó cũng chỉ đủ loé lên như một ánh lửa rồi lại chìm ngay vào trong đêm tối của ký ức xa xăm.

Nhưng lạ lùng thay, những dòng nước mắt của ông vẫn không ngưng chảy. Ông đang khóc như một cơn mưa dầm. Gương mặt già nua của ông trông đau khổ đến tột bực…

Tôi nói dối với ông rằng ba tôi cũng là lính cộng hoà. Thực ra, ba tôi làm bên chính quyền. Nhưng dù sao như vậy cũng đủ để tạo nên một chút đồng cảm hiếm hoi và làm lắng lại cõi lòng sâu kín nào đó trong ông.

Bởi vậy, tôi trông ông có vẻ hoạt bát hẳn lên. Rồi ông kể cho tôi nghe đôi chút về những ký ức đau buồn đó…

Ông và người bạn ấy – người đã chết, người mà ông nói có khuôn mặt giống tôi như đúc – là hai anh lính trẻ trong một đơn vị tác chiến đóng quân ở Tây Ninh. Trong thời chiến tranh Việt Nam, Tây Ninh là vùng tranh chấp ác liệt, bởi nó gần Sài Gòn lại gần biên giới Miên. Tây Ninh cũng là cửa ngõ để những cánh quân Bắc Việt thâm nhập xuống Sài Gòn.

Trong một trận đánh khốc liệt vào năm 1974, người bạn của ông đã bị chết mất xác do pháo kích. Còn ông thì bị mảnh đạn phạt mất hai chân.

Ông được đưa về quân y viện dưỡng thương. Cho đến tháng 4 năm 1975, khi những cánh quân CS Bắc Việt tiến chiếm quân y viện, ông bị đuổi ra khỏi nơi ấy. Và sau đó là những tháng ngày nhọc nhằn của cuộc đời ông…

Với tấm thân tàn phế, ông đồng ý chia tay với người vợ trẻ, mà như lời ông, là để giải thoát cho một số mệnh. Ông sống thui thủi một mình với cuộc mưu sinh nhọc nhằn bằng đủ mọi cách. Để rồi cuối cùng ông chọn cách lên Sài Gòn bán vé số cho đến bây giờ…

Đó là một buổi chiều buồn man mác trong thời hoa niên ít nghĩ suy của tôi. Nhưng câu chuyện của ông làm tôi nhớ đến một bức ảnh nổi tiếng của Nick Ut – một phóng viên ảnh của hãng thông tấn AP. Câu chuyện trong bức ảnh ấy cũng xảy ra ở Tây Ninh. Đó là hình ảnh một bé gái trần truồng, bị phỏng bởi bom napal, đang chạy hốt hoảng trên đường trong một buổi chiều đầy khói lửa. Một bức ảnh đã gây xúc động trên toàn thế giới về thảm cảnh của chiến tranh Việt Nam.

Cách đây vài năm, tôi lại được thấy trên báo chí hình ảnh của cô bé Kim Phúc năm nào mà giờ đây là một quý bà công dân Canada và là đại sứ hoà bình của UNESCO. Có lẽ cô ấy đã vượt qua được số phận đau thương nhờ tình nhân ái.

Thế còn số mệnh của những người lính, như người lính già tàn phế ấy, ai sẽ cứu vớt cuộc đời họ? Thậm chí, có bao nhiêu người còn nhớ đến họ không, những kẻ đã phải hy sinh một phần hay tất cả thể xác, để bảo vệ cho Tự Do, mà nay không còn nữa? Phải chăng họ chỉ là những kẻ bạc mệnh và vô phước, được sinh ra và lớn lên trong một thời cuộc không mong đợi?

Câu chuyện của ông rồi cũng mau chóng phai mờ trong tôi. Nhưng hình ảnh của ông lại có một sức sống kỳ lạ. Cứ mỗi khi đến quán cà phê ấy, tôi lại thấy bóng dáng của ông thấp thoáng đâu đó, đang lê lết trên hai đòn tay bằng gỗ, từ bàn nọ qua bàn kia để mời mua vé số. Hình bóng của ông như một thứ gì đó đã sắp tàn nhưng chưa chịu mất, nó vẫn còn bám víu vào cõi đời này như một sự khắc khoải kỳ bí của hiện hữu.

Rồi một buổi chiều khác, tôi lại được gặp ông. Lần này ông đến bên tôi rất nhẹ nhàng. Khi tôi thấy ông, cũng là lúc ông nở một nụ cười rất tươi đáp chào. Tôi thấy ông có ý muốn nói gì đó nhưng vẫn chưa mở lời được. Rồi sau một hồi ông cũng lên tiếng:

“Có chuyện này, nhờ cậu giúp cho không biết có được không?”

Tôi suy nghĩ mình thì có thể giúp được gì cho ông ấy. Trong khi cái ông cần tôi lại không có. Trông tôi có vẻ bảnh bao, nhưng độ nghèo chắc cũng chẳng thua kém ông. Tôi hỏi ông:

“Cháu thì có thể giúp được gì cho chú?”

Ông ngần ngừ giây lát rồi nói:

“Cậu có thể cho tui mượn một tấm hình được không?”

Tôi trố mắt ngạc nhiên nhìn ông:

“Chú cần hình của cháu để làm gì?”

Ông tỏ ra e ngại rồi phân minh: ông cần một cái hình để làm ảnh thờ cho người bạn đã chết mất xác năm xưa. Vì sau bảy lăm đồ đạc thất lạc hết nên ông chẳng còn giữ được tấm hình nào. Vì vậy trên bàn thờ anh ấy ông chỉ để cái bài vị. Ông sợ nếu không có cái hình, sau này sẽ chẳng còn ai hình dung ra gương mặt anh ấy nữa. Rồi ông kể anh ấy chỉ có một bà mẹ già, mà có lần về phép hai anh em xuống thăm, bà đã yếu lắm rồi. Sau bảy lăm ông không có điều kiện xuống lại quê anh ấy, nhưng chắc bà cụ đã chết rồi. Nên ông nghĩ, ngoài ông ra, chẳng còn ai thờ anh ấy nữa…

Tôi hốt hoảng thật sự:

“Kỳ lắm, cháu chưa chết mà đưa lên bàn thờ thì sợ lắm.”

Ông vội xua tay phân bua:

“Không, tui chỉ mượn tấm hình của cậu để vẽ truyền thần cho anh ấy một tấm hình thôi. Vì cậu rất giống, nên chỉ cần sửa đổi đôi chút là được.”

Tôi thở phào nhẹ cả người.

Khoảng vài tuần sau tôi lại gặp ông. Ông nói đã chờ tôi mấy hôm nay mà không thấy. Ông khoe đã vẽ xong và trả lại tôi tấm hình với lời cám ơn. Ông nói mấy hôm nữa là ngày giỗ anh ấy và ông mời tôi ghé nhà ông chơi. Tôi đồng ý.

Mấy hôm sau, tôi cọc cạch đạp xe xuống Thủ Đức mất cả tiếng đồng hồ. Ông đã ngồi đợi ở đầu con hẻm lớn để đưa tôi vào. Nhà ông là một túp lều mái tôn, vách được che bằng những tấm ny lon lớn. Nó được dựng dựa vào bức tường của một cái đình cổ. Trong lều, ngay chính giữa, có một cái bàn thờ Phật trên cao, bên dưới là tấm hình mà ông đã nhờ vẽ truyền thần. Nhìn hình, tôi cố không hình dung ra đó là mình. Dù sao thì môi trên hơi dày hơn và đặc biệt, có một nốt ruồi ngay dưới mí mắt phải. Đó là những chi tiết khác biệt rất dễ nhận thấy. Có thể còn những điểm khác nữa mà tôi chưa kịp nhận ra.

Ông mỉm cười nói với tôi:

“Hồi đó, tụi tui cũng tuổi như cậu bây giờ. Mà thật kỳ lạ, trông cậu chẳng khác gì anh ấy. Hôm đầu tiên trông thấy cậu, tui không tin vào mắt mình nữa. Trên đời sao lại có người giống nhau đến vậy…”

Ông ấy nói đúng. Sao tôi lại đi giống một người xa lạ mà tôi chưa từng gặp đến vậy. Đây chỉ là một sự ngẫu nhiên, một tình cờ của Tạo Hoá, hay là một bí hiểm nào đó mà tôi chưa ngộ ra?

Tôi không biết.

Đêm đó, trong giấc ngủ, tôi đã mơ một giấc mơ kỳ lạ. Tôi thấy mình đang băng qua một khu rừng trong bộ đồ chiến binh bết đầy bùn đất. Tiếng trực thăng quần thảo điên loạn trên đầu, rồi từng tràng đạn rít chói tai qua những khóm cây, làm những chiếc lá xanh rụng xuống lả tả như mưa. Và cứ thế, tôi miệt mài bước đi như bị thôi miên. Cuối cùng, tôi rơi vào một vùng sáng chói loà, rồi mất hút…

Trà Đoá

Dưới chân núi

tradoa

Khi còn nhỏ, có nhiều thứ vây quanh khiến tôi sợ hãi nhưng không thể gọi tên. Những ngày đầu đi học, tôi sợ nhất con chó lông xù nhà hàng xóm. Lũ chó thật tinh khôn, chúng biết phân biệt người lớn và trẻ con, người lớn thì chúng tránh xa, còn lũ con nít chúng tha hồ ăn hiếp. Đầu tiên, con lông xù lờn vờn xung quanh tôi, miệng liên hồi gầm gừ. Nếu tôi lùi một bước, nó lại tiến một bước với cặp mắt luôn mở to nhìn tôi không chớp (mà hình như lũ chó không biết chớp mắt). Khi thấy tôi tỏ ra sợ hãi, nó liền nhảy phót lên ngoạm vào lai quần đùi mà kéo. Tôi khóc ré lên, lúc ấy thường sẽ có người lớn nào đó nghe thấy chạy ra và con lông xù liền chạy biến, để lại tôi với cái ống quần dính đầy đất và nước dãi chó. Những ngày sau, mỗi lần đi học, mẹ phải dẫn tôi đí qua khỏi khu vườn đó rồi mới để tôi đi một mình. Ôi lũ chó, mà nhất là chó lông xù, thật đáng ghét.
Nhưng chó lông xù chỉ đáng ghét chứ không đáng sợ như bóng đêm. Đêm ở miền sơn cước thật khủng khiếp, nó tràn ngập mênh mông. Khi bóng cây mít trước cửa trở nên nhập nhoà, là lúc tôi chẳng dám bước ra sân một mình. Có cái gì đó ngoài kia, đen ngòm và to lớn, nuốt chửng mọi thứ. Thỉnh thoảng tôi nghe tiếng sủa gâu gâu của con lông xù. Tiếng nó nghe xa xôi và mất hút như hòn sỏi rơi xuống hồ. Mẹ tôi hay nói nó đang sủa ma.

Lớn lên một chút, cứ mỗi lần thấy tôi, con lông xù liền vẫy đuôi mừng rỡ. Nó đã thay đổi cách hành xử với tôi, vì lúc này “tương quan lực lượng” đã khác trước.
Còn nhớ, có một buổi sáng khi thức dậy, tôi cảm thấy tự tin hẳn lên và quyết định băng qua khu vườn một mình. Như có một ngọn lửa đang dâng cao trong lòng, tôi mặc vội quần áo, quơ lấy cặp sách và phóng đi. Cũng như mọi khi, con lông xù đang nhe răng gầm gừ đứng đợi tôi. Phốc một cái, tôi lao tới và quăng chiếc cặp về phía nó. Con lông xù quá bất ngờ với cách xử sự của tôi, tru lên một tiếng khá to rồi quay đầu phóng tuốt vào nhà trốn biệt. Từ đó, tôi thấy mình lớn hẳn.

Nhưng cũng từ đó tôi lại bắt đầu biết sợ ma. Ma, đó là từ khiến tôi luôn sợ hãi và khó hiểu. Ma là những linh hồn lang bạt đâu đó ngoài kia – trong đêm đen tối tăm. Đối với tôi, bóng đêm và ma chỉ là một. Chúng hoà lẫn vào nhau, nương tựa vào nhau. Thức ăn của ma là hồn vía trẻ con. Đó là món ngon và tinh khiết. Khi hồn vía bị mất, đứa trẻ nằm bất động, cả người nóng sốt. Nếu không cúng đủ lễ, bọn ma sẽ không trả lại hồn cho đứa trẻ và nó sẽ trở nên ngớ ngẩn và dở hơi. Bọn trẻ con luôn được người lớn dặn dò không được đi đến những nơi hoang vắng vào giữa trưa hay lúc chạng vạng tối.
Dù sợ ma như vậy, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn luôn muốn được một lần… trông thấy ma. Có những khi phải đi qua nghĩa địa một mình (dĩ nhiên là giữa ban ngày), cảm giác về ma lại hiện lên chộn rộn. Tiếng gió lùa lên cỏ, len qua những nấm mộ tròn, nghe như lời đùa cợt của những linh hồn đang rong chơi. Tiếng bước chân tôi dội lại từ phía sau, tôi càng bước nhanh, cảm giác đó lại càng nổi lên rõ rệt, đến mức khi đã băng qua hết nghĩa địa tôi mới dám quay đầu nhìn lại: chỉ là những mộ bia cũ kỹ đứng yên lặng dưới nắng. Nghĩa địa nằm cạnh làng, trên một khu đất tương đối bằng phẳng. Đó là một nơi vừa lạ vừa quen: quen vì trong đó có mộ ông bà tôi và mộ của những người bà con hàng xóm, lạ vì họ là… ma.
Tôi thường hình dung ma chỉ loanh quanh dưới chân núi, còn trên đỉnh núi Chúa, đó là nơi ngự trị của thần núi. Tôi thường nghe người lớn kể về Thần với một sự tôn kính vô cùng. Đó là một người da đen trùi trũi, cao to sừng sững, một tay cầm cái búa lớn. Vào những buổi chiều mưa dông, Thần hay đứng trên đỉnh núi Chúa nhìn xuống làng. Ánh mắt của Thần rất dữ tợn, nhưng hình như chưa nghe Thần làm hại đến ai, ngoài những chuyện Thần luôn cứu người bị nạn. Chắc chắn Thần không phải là người làng. Thần tới từ phương trời nào không ai biết.
“Từ thời ông cố ông kỵ đã có Thần rồi. Để tỏ lòng tôn kính, người làng đã lập miếu thờ trên núi”- đó là lời kể của thầy Ba.

Thế đấy, thế giới mà tuổi thơ tôi cảm nhận được luôn có hai phần: một phần “dương” là gia đình tôi, thầy Ba, lão Tám thọt, bà Chín, mấy thằng bạn chăn bò,… và phần “âm” với bóng đêm, thần núi và ma.
*

Ma luôn gây cho tôi sự sợ hãi xen lẫn thích thú. Đó là một cảm giác hỗn tạp và lôi cuốn. Và người đem đến cảm giác ấy thường xuyên nhất là ông Tám thọt. Bọn trẻ con ngồi há hốc miệng yên lặng, trong lòng hồi hộp dõi theo từng cái nhấp môi của lão. Thường khi sắp đến những đoạn ly kỳ, ông lại ngừng kể để làm một việc gì đó như pha trà, vấn thuốc rê… Lão muốn kéo dài cái trạng thái sợ hãi của lũ trẻ càng lâu càng thích. Theo lời lão, mỗi gốc cây cục đá ở cái làng này đều có một sự tích nào đó và luôn liên quan đến một con ma. Lão nói là đã gặp hầu hết ma ở làng này. Như ở gốc cây lớn đầu làng, rễ phụ phủ xuống la liệt, lão nói đó là nơi ngày xưa có một người con gái chữa hoang đã thắt cổ tự tử. Vì cái chết oan khuất nên cô ấy hóa thành quỷ hoành hành khắp làng. Hồi ấy, cứ chạng vạng tối là chẳng có ai dám đi ngang đó. Bây giờ thỉnh thoảng vào những đêm trăng khuya khoắt, người ta vẫn thường trông thấy một cái xác màu trắng đung đưa dưới nhánh cây.
“Nếu khi sống mà bị oan khuất, thi khi chết luôn thành quỷ” – đó là một quy luật mà lão thọt kết lại.
“Mà chết do thắt cổ là linh nhất”
Thú thật, kể từ hôm ấy, khi đi ngang cái cây to đầu làng, tôi chẳng dám ngước mắt lên và bước như chạy.
“Ông xã Khiên có linh không?” – có một đứa buột miệng hỏi. Tôi biết thằng Tài thường phải đi học ngang qua cái nhà hoang đó nên nó đâm ra sợ.
“Ông ta là quỷ già, nên yếu lắm không làm gì được mi đâu mà sợ”.
Nói đến ông xã Khiên, tôi lại hình dung ra ngay căn nhà hoang trong khu vườn cây dại mọc đầy. Có một lần để chứng tỏ trước mặt mấy đứa kia, tôi đã vào đó một mình. Đó là một căn nhà tranh xiêu vẹo, xung quanh vách chỉ có vài cây cột tre đã bị mối ăn đứt gốc. Khi có một cơn gió nhẹ thoảng qua, nó lại rung lên như muốn ngã. Nhưng điều kỳ lạ là đã qua nhiều cơn bão nó vẫn còn nguyên ở đó kể từ ngày ông ấy uống thuốc chuột tự tử. Trong căn nhà chỉ có một cái giường tre cũ nát, đó là cái giường mà ông nằm ngủ. Khi ông chết, ông không nằm trên giường mà ở dưới đất. Ông chết vật vã vì đã uống hết cả nửa chai thuốc chuột. Khi người ta phát hiện ra thì xác ông đã trương phình lên và bay mùi khủng khiếp.
Tôi cứ nghĩ ông xã Khiên mà thành quỷ sao được, cái ông hiền khô suốt ngày cứ lụi cụi đi nhặt phân bò trên núi Chúa. Ừ mà sao có nhiều người muốn chết và chọn cách chết đau đớn như vậy. Nếu uống thuốc chuột chết mà thành quỷ thì làng Hèm có rất nhiều quỷ. Lão thọt cũng nói như thế. Lão gọi chung là “quỷ thuốc chuột”.
Nhưng có lần đột nhiên lão tuyên bố:
– Ma quỷ chẳng có gì đáng sợ cả.
Khi lũ trẻ tròn xoe mắt kinh ngạc, lão nói tiếp:
– Không tin hả? tối nay tao ra nghĩa địa ngủ cho mà xem. Tao từng chém chết mấy con ma ở đầu nghĩa địa, khi bọn chúng dám cản đường tao.
Lũ trẻ lao xao:
– Ma cũng bị chết hả?
– Chết chứ sao không. Chẳng có thứ gì không chết, thánh thần hay quỷ đều chết cả. Nếu không, chỗ nào mà chứa chúng.

Những câu chuyện của lão Tám thọt không bao giờ có kết thúc. Lão luôn chừa lại một phần nào đó cho những lần sau. Bởi vậy, ngôi nhà của lão luôn là nơi lui đến ưa thích của lũ con trai. Vâng, và chỉ của lũ con trai mà thôi. Không phải bọn con gái không thích nghe chuyện ma, nguyên do là từ lão. “Lão già mất nết” – thầy Ba thường nói về lão như thế.
Lão chỉ sống một mình. Nghe nói lão có một đứa con gái duy nhất đã lấy chồng ở xa, hình như xa lắm vì đã rất lâu không còn ai nhớ nữa. Lão lui cui với cái chân thọt một mình suốt ngày sấy thuốc, bốc thuốc. Theo thầy Ba, “Rất lạ, không biết lão học chữa bịnh khi nào mà hành nghề ngang nhiên ở làng”. Cũng theo lời thầy thì đời cha chú lão ta là dân ngụ cư từ đâu trôi dạt tới chẳng học hành hay nghề ngỗng gì cả. “Lão lang băm” – thầy Ba hay chửi như vậy.
Nhưng mặc, lão vẫn chữa bệnh đều đều. Nghe nói lão có phương thuốc cường dương thần diệu. Những ông lớn tuổi ở rất xa nghe tiếng tìm đến bốc thuốc rất đông. Cái làng này vì thế cũng hay có khách thập phương. “Trước đây làm gì có ai đến cái nơi khỉ ho cò gáy này” – lão Tám khẳng định tự hào như thế. Và cái câu hỏi đường quen thuộc của khách lạ khi đến làng Hèm là: “Nhà thầy Tám ở đâu?”. Những lần đầu, khi nghe hỏi thế, nhiều người làng đã cười nhạo khinh khỉnh. Nhưng sau khi cười, họ lại tỏ ra tức giận cho cái danh “thầy” của lão. Lâu dần rồi người ta cũng quen với cái danh xưng sang trọng ấy. Mà không quen sao được, vì tính ra lão vẫn có công với làng. Vào những ngày khách đông hay khi có khách ở lại để chữa trị dài ngày, là lúc những nhà hàng xóm được nhờ. Vì ít nhất cũng cho lão thuê sân để xe, hay nấu cơm cho khách. Lão tỏ ra rất hào phóng khi trả tiền rất hậu…
*

Làng Hèm như một miếng bánh khô queo nằm vắt theo chân núi. Dân trong làng sống nhờ mấy miếng ruộng một vụ trong thung lũng nhỏ. Ngoài ra, khi xưa còn có nhiều người sống bám vào núi Chúa. Có thời, núi có rất nhiều cây và củ quả. Nhưng bây giờ trông núi chẳng khác gì một quả đồi trọc với nhiều chỏm cây xanh nhỏ xen lẫn với đá trơ trọi. Nằm chếch về phía tây là ngôi miếu thờ Thần núi. Đã lâu, nơi đó vắng bóng hương khói của người làng.
Với đám con trai mới lớn như chúng tôi, những câu chuyện của lão thọt luôn hấp dẫn và cuốn hút dù thầy Ba vẫn luôn nhắc nhở đừng nên nghe lời lão ấy, cái thứ “già chẳng nên thân”. Nhưng mặc, tôi vẫn thích đến nhà lão. Ở cái xó xỉnh này chẳng có thứ gì giải trí cho lớp trẻ. Sự nghèo nàn đến cùng kiệt những trò vui, dù là những trò đơn giản nhất. Ở lão thọt, đám trai trẻ phát hiện ra nhiều điều lý thú. Từ những chuyện “đàn ông” đến những chuyện có vẻ nghiêm túc như là chuyện thánh thần, qua tay lão đều trở nên hấp dẫn và cà rỡn vô cùng.
Lão thọt luôn có những câu chuyện kỳ lạ để kể cho những người đến đây chữa bệnh. Và thường là những câu chuyện liên quan đến phương thuốc bí truyền của lão. Đó cũng là cách quảng cáo hữu hiệu của lão.
“Cái nhất dạ lục giao chẳng là gì đâu. Tôi phải đến thập giao đấy chứ mà vẫn còn thèm”. Rồi lão và khách cười hô hố.
“Đây là thứ bí truyền do cụ tổ nhà tôi truyền lại. Ông có thấy cái miếu thần trên núi Chúa không? Linh lắm! Thời ông cụ nhà tôi ban đêm nhìn lên đó còn thấy thần thánh đi lại như rươi, toả sáng cả núi. Có hôm mưa to gió lớn có con rồng xuất hiện bay vòng vòng quanh núi cả buổi ai cũng thấy”.
Thuốc cường dương, theo như lời giải thích của lão thọt, đó là thứ tinh tuý mà trời đất có được. Đất trời này được tạo nên từ sự giao hoà âm dương. Khi có một trong hai thứ bị tổn hại, cân bằng này sẽ bị mất và mọi thứ rối loạn cũng từ đó mà ra. Sở dĩ cụ tổ nhà lão có thuốc cường dương là vì, chiến tranh đã tàn phá và bao nhiêu người trai trẻ đã chết, âm khi nặng nề bao trùm lên khắp mọi nơi, dương khí đã bị tổn hại, thần thánh buộc phải trợ giúp con người để tái lập lại cân bằng này. Và cụ tổ nhà lão, chính là người đã được chọn để thần núi trao cho phương thuốc thần diệu ấy, nhằm tỏ rõ cái đức hiếu sinh của trời đất.
Lão thọt nói hay như hát, cái lưỡi của lão dẻo quẹo. Những câu chuyện của lão theo thời gian càng dài ra và lắt léo hơn rất nhiều. Theo lão, vị thần trên núi Chúa không chỉ cai quản một ngọn núi này không, ông ấy cai quản cả một vùng rộng lớn. Cái uy danh của ông vang động khắp nước vì thế triều đình đã sắc phong thần cho ngài. Những năm có dịch lớn, người chết như rạ, khi các quan thái y được triều đình cử đến đều bó tay thì cụ tổ nhà lão đã một mình lên núi dập đầu khấn vái ba ngày ba đêm để thần động lòng chỉ cho phương thuốc trị dịch. Và thần diệu thay, một người bệnh nằm quặt quẹo chờ chết, khi được cụ tổ cho thuốc “chỉ một thang thôi là khoẻ lại ngay lập tức, giống như trước đó chưa bị bịnh gì”.
Ừ mà lạ, cái gì lão thọt cũng đem cụ tổ ra khoe, mà cụ tổ nhà lão đâu thể ở cái làng này. “Làm như cụ tổ nhà lão là thánh không bằng” – thầy Ba nhiều lần bực dọc với cái khoác lác của lão thọt.
Theo lời thầy Ba, vào thời ông cụ kị thì lễ cúng miếu hằng năm rất lớn. Khách thập phương đến cầu phước rất đông. Lúc đó, làng Hèm như vào hội. Đó là cái thời núi Chúa rậm rạp, cây cối âm u. Còn miếu thần là dãy ba gian rộng lớn, lợp ngói âm dương. Có cả một ban tế tự của miếu chuyên tổ chức cúng tế hằng năm. Ở ngôi chính điện có hẳn một tờ sắc phong nghe nói là do vua nào đó ban cho đâu từ thời xa lắc.
Nhưng cái thời oanh liệt đó chắc xa xôi lắm thì phải. Bởi thầy Ba cũng chẳng biết gì nhiều, thời của thầy cũng chẳng thấy cái sự đông đúc nhộn nhịp ấy. Nhưng trong ký ức của thầy Ba có hẳn một hình ảnh như vậy từ khi thầy bắt đầu nhận biết được. Đó là lúc thầy còn nhỏ, hình như bốn năm tuổi gì đó, được ba thầy dẫn lên miếu vào dịp cúng xuân. Khi đó con đường lên núi Chúa ngoằn ngoèo cây to chắn lối âm u, nhiều đoạn phải được bế thầy mới qua được. Ngôi miếu ba gian khi ấy trông thâm trầm bí hiểm dưới tán những cây lớn toả bóng che kín ánh sáng mặt trời. Thầy Ba quả quyết khi ấy thầy còn trông thấy tờ sắc phong được treo trên bàn thờ của ngôi chính điện. Mùi hương khói, cộng với cái âm u của núi rừng làm thầy không thở nổi và cũng chẳng dám khóc. Cái đêm từ miếu về, thầy nói mình đã mơ thấy thần núi cao lớn da đen như than, tay cầm búa đứng trên đỉnh núi nhìn xuống làng. “Cái uy đức của thần núi đã bảo vệ cho làng”. Qua cả thời chiến tranh nhưng chưa bao giờ làng Hèm chịu một viên đạn nào, dù là đạn lạc.
“Ôi, uy đức gì, thần thánh gì. Ở cái nơi khỉ gió này ai thèm đến làm gì mà chiến tranh chiến triếc. Đạn bắn vào đây chỉ có phí tiền” – lão thọt trề môi giải thích cho tôi. Mà cái lão này luôn không ưa thầy Ba, lão luôn nói ngược lại những gì thầy Ba khẳng định.
“Tụi bây có biết tại sao làng mình có tên làng Hèm không?”
“Tại vì làng giống cái… của đàn bà, nhưng là của một mụ già sắp ngoẻo”
Lão dừng lại cười hô hố. Lũ chúng tôi cũng khoái chí cười theo.
“Tụi bây biết mụ Chín khùng không? Mụ ấy mà chết thi linh lắm đấy”
Tại sao là mụ Chín nhỉ? Cái bà già cười nói toang toác khi gặp đàn ông ấy thì làm sao mà linh thiêng được chứ.
“Thần núi này hồi trước linh lắm đấy, nhưng tại mụ Chín mà hết phép, nên hết linh”. Lão lại cười hô hố.
Tôi đoán chắc lão thọt sắp kể một câu chuyện nào đó, lại một thứ bịa đặt cà rỡn nữa nhưng vẫn thu hút lũ trai trẻ vểnh tai lên mà nghe.
Bà Chín không chồng mà ba con. Nghe nói hồi trẻ bà ta đẹp và hấp dẫn lũ đàn ông ở làng lắm.
“Hồi trẻ hai ngực của mụ ấy như vầy nè…”, lão đưa tay làm một vòng trước ngực rồi cười khoái trá.
Cái thời của bà Chín là thời trai gái còn e lệ khép nép khi gặp nhau. Thế mà bà ấy vơ hết ông này đến ông khác. Cái đám đàn ông có vai vế trong làng ban đêm lượn qua lượn lại trước nhà bà như mắc cửi. Các bà vợ thấy bà ấy như thấy bệnh dịch. Nghe nói đầu tiên bà cũng có chồng, được một đứa con rồi không hiểu sao người chồng này tự dưng lăn đùng ra chết bất đắc kỳ tử. Đến hai đứa con sau là của hai người từ nơi khác đến, được một thời gian rồi cũng bỏ đi.
Nghe nói lão thọt cũng có một thời dang díu nhân tình với bà Chín khắng khít lắm. Mà sao tránh được nhỉ. Họ là một đôi “Thần chê quỷ hờn” – như lời thầy Ba.
“Moá! cái bọn đạo đức giả, ngoài miệng thì chửi mắng mụ ta dâm dật, nhưng tao biết trong lòng bọn chúng thèm lắm, nhưng chẳng biết làm thế nào để chiếm được”.
“Cái lão hương Tôn ấy, có lần có người bắt gặp lão rình nhìn trộm mụ Chín tắm. Mà cái mụ lạ lắm, luôn cởi truồng tắm vào ban đêm, lại để đèn sáng cho người ta dòm chứ. Đúng là mụ dâm dật” – lão lại cười hô hố.
“Lão nhìn trộm thế mà khi cúng miếu hay hội làng lão ta lại mang mụ Chín ra mắng nhiếc thậm tệ. Lão ta như vậy, đẻ ra thằng con cũng chẳng khác gì – cái thằng thầy Ba dạy i tờ ấy mà cũng lên mặt trí thức đạo đức với tao, đúng là khổ”. Lão nói một hơi tức tối, mặt lão đỏ bừng bừng.
“Mà mụ Chín hồi trẻ đã lắm. Tụi bây không tưởng tượng được đâu. Mụ như con cọp cái đói khát, lao lên vật xuống mãnh liệt. Tao hồi trước mà không có thuốc làm sao mà chịu nỗi mụ”.
“Trời sinh ra mụ, cho mụ cái thân hình hấp dẫn nhưng lại lấy mất của mụ cái thần kinh để mụ ta ương ương dở dở mới kỳ làm sao. Tính ra trời cũng công bằng ấy chứ nhỉ”.

Lúc nào cũng thế, lão thọt luôn bắt đầu câu chuyện một cách đều đặn và từ từ. Lão nói như cuốn người nghe, vì thế chẳng khó hiểu khi khách chữa bịnh rất thích nghe lão kể chuyện.
“Cái người chồng thứ ba của mụ Chín là ai tụi mày biết không? Là thần núi Chúa đấy.”
Bọn tôi mở mắt tròn xoe nhìn lão ngơ ngác chờ đợi.
“Cái gã cao lớn, da đen như cột nhà cháy từ đâu đến làng và được mụ Chín chộp ngay. Mụ rất thích đàn ông to lớn mạnh khoẻ”.
“Tao nói rồi mà, mụ Chín hồi trẻ hấp dẫn lắm, đến thần thánh còn không chịu nổi nữa là lão hương Tôn”. Lão lại cười hô hố.
“Có lần mụ ta lên núi làm gì đấy, gặp trời mưa nên vào miếu thần núp. Mà cái mụ này có kiêng ai bao giờ, có ai đời ở nơi linh thiêng mà mụ cởi hết quần áo ướt ra vắt nước, rồi nằm ểnh ra đấy đợi trời tạnh. Mụ Chín mà cởi truồng thì… chẳng có thần thánh nào chịu nổi đâu”. Lão lại cười thích thú. Lão ta kể những chuyện như thế chẳng khi nào ngượng, đó là đặc điểm của lão. Bởi vậy mà đàn bà phụ nữ ở làng chẳng ai dám sang nhà lão.
“Sau cái hôm ấy, thần núi phải hoá thân thành người xuống làng để ở với mụ. Thần cũng hết phép từ đó.”
“Thế sao thần núi lại bỏ mụ Chín mà đi?”
“Chịu sao nổi mụ mà không bỏ đi”.
Theo lão giải thích thì cái miếu từ khi thần núi bỏ đi bắt đầu hoang phế và chằng còn ai lên đó làm gì.
“Thần không thiêng thì người cũng hết cúng hết tế”- Cuối cùng lão kết luận như thế.
Ừ mà thần cũng hết thiêng thật. Vì bọn chăn bò thường vào đó phóng uế bừa bãi, đôi khi chúng còn vẽ bậy viết bạ lên tường nhưng đâu thấy thần làm gì tụi nó. Mà thần còn thiêng sao được khi cái miếu thờ ngài chỉ còn là một cái chòi xây tạm bằng gạch không tô lồi lõm xấu xí. Ban thờ chỉ là một tấm đanh nhỏ chỉ đù để lư hương và đôi chân đèn. Cũng có khi thường vào ngày rằm hay tết nguyên đán, thầy Ba lên quét dọn miếu sạch sẽ và bày một mâm trái cây để cúng. Nhưng cũng chỉ được vài ngày rồi đâu lại vào đấy, bọn chăn bò lại phá phách như cũ. Miếu lại hoang tàn và dơ dáy trông thật tội nghiệp…

Khi tôi kể lại câu chuyện thần núi và mụ Chín, thầy Ba nói thầy đã nghe cả trăm lần rồi.
“Cái miệng của lão già mất nết ấy chẳng biết kiêng cử ai. Lão phịa ra đủ thứ, lão ghét ai là người đó khó sống với lão. Bà Chín làm mât lòng lão nên mới bị lão phịa chuyện nói xấu ấy mà”.

Thầy Ba chưa già hẳn, và vẫn còn đi dạy học. Trong nhà thầy có rất nhiều sách chữ nho. “Của ba thầy đó”. Thầy nói sách quý lắm, nhưng thầy không biết chữ nho, nên chỉ giữ làm của gia bảo. Thầy kể, hồi trước ở làng này bất kỳ nhà nào khi có chuyện hiếu hỷ đều đến nhờ ba thầy – tức cụ hương Tôn – để coi ngày giờ.
“Ông cụ coi gì cũng được, từ ngày giờ tốt đế khởi công làm nhà, đến ma chay, đám cưới, coi đất huyệt, hướng nhà…”
“Ông cụ là trưởng ban tế tự của miếu thần. Mọi nghi lễ cúng tế đều một tay ông cụ lo cả”.
“Hồi cái miếu bị đập, ông cụ ngăn không được nên sinh bịnh nặng. Từ đó cụ bỏ hẳn việc coi ngày giờ nữa”.
“Mà con biết ai đập miếu thần không? Lão thọt đấy. Hồi năm bảy lăm lão ghê gớm lắm. Lão nói lão có công đủ thứ, lão hăm doạ nhà thầy liên tục. Lão hăng hái lắm, một mình vác búa lên đập miếu thần. Khi đập đến gian chính điện, lão bị lọt mái ngói, rơi xuống đất mà bị thọt đến bây giờ. Chuyện này ít người biết. Nhưng từ đó lão cũng bớt hống hách đi.”
“Có phải bà Chín lấy thần núi không thầy?”
“Nhảm nhí. Cái lão thọt khốn nạn này…” . Tôi phát hoảng vì chưa thấy thầy chửi thế bao giờ. Sau đó, biết mình lỡ lời, thầy im lặng hồi lâu rồi bắt đầu kể tiếp chuyện về lão thọt.
“Cái thứ như lão trước sau rồi cũng bị thần đoạ thánh vật cho mà xem, như cái lần bị thần núi hất rơi xuống miếu cho thọt chân. Trời trả báo mà.
Mà thần thánh không vật thì cũng có nhiều thứ hành hạ lão cho hết đời. Có đứa con gái cũng bỏ đi mất xứ, đến bây giờ cũng chẳng biết ở đâu…”
“Chứ không phải cô ấy lấy chồng ở xa?”
“Làm gì có, nó bỏ nhà đi chứ chồng con gì. Mà chuyện của cô Thoa dài lắm. Vì cô ấy chỉ nhỏ hơn thầy vài tuổi và thường chơi chung với nhau nên thầy biết rõ mọi chuyện. Nhưng mà thôi vậy. Cô ấy sẽ không bao giờ về làng này nữa đâu. Làm con gái lão thọt, đúng là bạc mệnh. Những gì lão gây ra, không những lão phải chịu mà đến con gái lão phải khốn khổ theo. Đúng là lão già khốn nạn.”
“Còn chuyện lão với bà Chín là sao hả thầy?”
“Lão hại cả đời bà Chín. Bà ấy ương ương dở dở nên chẳng biết gì. Hồi trẻ lão hiếp bà Chín trên núi Chúa. Rồi sau đó vì gia đình bà Chín không đồng ý cho lấy lão nên lão mới đi tung tin nói xấu tùm lum, khiến bà Chín chẳng lấy nổi tấm chồng cho đàng hoàng”.
“Nghe nói đứa con đầu là con của lão?”
“Thầy cũng không biết chắc. Nhưng lão có bao giờ nhận con mình đâu. Anh ấy trước bảy lăm đi biệt động quân rồi chết đâu ở Quảng Trị không tìm thấy xác”.
Bà Chín có đến ba đứa con trai nhưng bây giờ cũng chỉ sống một mình. Bà sống âm thầm trong hẻm núi. Bọn chăn bò hay rình xem bà Chín nói nhảm một mình. Bọn nó hay nói bà ấy biết niệm thần chú. Mà bà dở hơi thật, cứ tự dưng lại nổi lên cười nói một mình.
Có lần tôi hỏi mẹ tôi: “bà Chín bị khùng hả mẹ?”
Mẹ tôi la cho một trận:”con cứ nghe lão thọt nói bậy bạ không. Trông vậy chứ bả tội lắm, chẳng toan tính tranh giành gì với ai”.
“Thế con của bà đâu mà bà sống có một mình?”
“Người đầu thì đã chết, hai người sau đi kinh tế mới đâu tuốt trong Đắc Lắc, cả mười năm rồi không có tin tức gì”.
“Thế sao cô Thoa lại bỏ đi hả mẹ?”
“Chắc thầy Ba nói phải không, ừ cô ấy chắc sẽ không bao giờ về làng nữa đâu.”
“Con cũng nghe thầy Ba nói vậy. Mà tại sao cô ấy lại không bao giờ về thăm lão thọt?”
“Thôi chuyện khổ lắm con đừng nghe làm chi. Tội nghiệp cô ấy”.

*

Tôi lớn dần lên dưới chân núi Chúa, nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ trông thấy ma, quỷ hay thần núi. Họ vẫn ở lẫn khuất đâu đó ngoài kia, trong nghĩa địa, trên cây to đầu làng hay phiêu bạt theo gió men theo từng tảng đá lớn trên triền núi. Họ nắm giữ hết những bí mật của làng Hèm. Những cơn mưa dông vẫn đến vào mùa hè, và tôi luôn đón đợi để được trông thấy thần núi hai mắt sáng quắt, tay cầm búa lớn đứng trên đỉnh núi nhìn xuống làng.
Rồi tôi rời làng lên phố…
Năm năm rồi mười năm, thời gian trôi vùn vụt nhanh như sự hối hả của người thành thị. Lâu rồi tôi không còn nhớ đến ma quỷ thần thánh gì nữa, bởi nếu có họ cũng không tìm được nơi cư ngụ trong cái thành phố chật chội này.
Hàng năm tôi lại về làng một lần vào dịp tết nguyên đán. Lão thọt đã chết. Khắp làng không còn một cái vườn hoang nào. Làng đã trở nên chật chội vì người đã đông hơn rất nhiều. Khi đi ngang vườn ông xã Khiên, tôi thấy có đến ba ngôi nhà chen chúc nhau trong cái vườn cũ. Cái nhà tranh xiêu vẹo đã đi theo ông rồi, nó chống lại nổi những cơn bão nhưng đành nhường chỗ cho người mới. Cái cây to đầu làng cũng không còn nữa.
Khi sang thăm thầy Ba, thầy hỏi tôi thấy làng có khác không. Tôi nói, cứ mỗi lần về lại thấy khang khác làm sao ấy, có vẻ như nó đã hết làm cho bọn trẻ con phải sợ hãi. Thầy nói:
“Ừ, còn sợ gì nữa chứ, cái miếu thần trên núi không còn nữa con ạ, dân đào vàng đã đào nó hổng móng và lăn xuống hố rồi”.

Tôi cứ nghĩ bâng quơ không biết những ma quỷ thần thánh mà tôi từng biết có còn nơi nào để trú ngụ nữa không. Thần núi chắc phải leo lên tận các núi cao hơn. Cô gái chữa hoang không biết đã đi về đâu…
Rồi thời gian lại phải làm cái công việc khắc nghiệt nhưng cần thiết của nó: đem đến cái chết.
Vài năm sau, lần lượt thầy Ba rồi mẹ tôi cũng mất. Hôm nghe tin mẹ mất tôi thất thần. Ở cái thành phố này chỉ có những tin như thế mới có thể làm con người ta phải dừng lại.
Tôi bương bả về làng Hèm chịu tang mẹ. Tôi lại ra nghĩa địa để thắp hương. Tôi ngồi lặng lẽ ở đó vào buổi chiều. Những mộ bia cũ mới đủ kiểu chen chúc nhau chiếm chỗ. Nghĩa địa vẫn là nơi yên lặng nhất. Ở đó, tôi còn nghe những cơn gió thổi nhè nhẹ qua từng phiến đá như lời của những linh hồn phiêu bạt…
Nhưng chúng không còn làm tôi sợ nữa. Hay có khi chẳng còn gì, vì tất cả chúng đã chết thật rồi, chết thêm một lần nữa – như lời lão thọt năm xưa?

TRÀ ĐÓA

Sài Gòn, đầu xuân Đinh Hợi 2007

Những ngày xa xưa

tradoa

Những ngày xa xưa như đám mây ám ảnh truyền kiếp. Đó là thuở tôi còn là một vị chủ tịch khả kính, hằng đêm thường vi hành quanh Hà Nội. Nguyên do của những cơn hưng phấn về đêm này, dĩ nhiên, sẽ được các sử gia ca tụng như là biểu tượng tận tuỵ của kẻ đứng đầu nhà nước, nhưng thật ra, lý do duy nhất khiến tôi hay làm chuyện đó chỉ là vì mất ngủ. Làm chủ tịch rất khó ngủ, đây là sự thật mà có rất nhiều người không được biết. Bởi lẽ, họ chưa từng làm chủ tịch bao giờ.
Những câu chuyện vi hành của tôi, trước kia, vào cái thời xa xưa ấy, thuộc về bí mật quốc gia. Có vài người thân cận xung quanh biết chuyện nhưng tôi cam đoan họ sẽ mang nó xuống mồ. Ngoài ra, còn một vài kẻ đặc biệt nữa cũng biết việc này nhưng ở những góc độ khác nhau và tôi cũng tin họ sẽ câm nín và mang nó xuống mồ. Họ là những yếu tố quan trọng làm nên những đêm vi hành thú vị mà tôi sẽ kể ra đây. Sẽ có nhiều người thắc mắc tại sao tôi lại đi phơi bày những chuyện thuộc về bí mật quốc gia ra giữa bàn dân thiên hạ. Nhưng bạn biết đấy, đó chỉ là những câu chuyện của thời xa xưa, nó chẳng còn có thể gây ảnh hưởng gì đến thời cuộc nữa. Vả lại, tôi biết phải làm gì đây, trong những ngày tháng già úa chán chường, nếu không kể ra chuyện đời mình? Nhưng nói thật lòng, nếu tôi không kể, bạn cũng đã nghe phong phanh ít nhiều về chúng rồi: những giai thoại mờ mờ ảo ảo, vừa hài hước vừa nghiêm trọng. Và tôi tin, bất kể là ai trong cái quốc gia này, đều đang dỏng tai nhướng mắt để đợi nghe câu chuyện được kể từ chính miệng của kẻ đã tạo ra nó…
*
Tôi thường bắt đầu một đêm vi hành vào lúc nửa đêm, khi Hà Nội đã ngủ say. Tôi cùng một người cận vệ, lẻn ra cửa sau của dinh chủ tịch và lên đường. Thường là tôi chọn hướng. Tôi hay đi về phía có ít ánh sáng. Đó là những khu dân cư nghèo nhất thành phố. Chúng tôi đi quanh quẩn trên những con phố tối tăm và chủ yếu để quan sát mọi sự. Thỉnh thoảng bắt gặp một vài kẻ say xỉn nằm vất vưởng trên vỉa hè hoặc một vài cô gái bán hoa ế khách đang gắng gượng ngồi đợi một con cá muộn màng nào đó. Những ngày đầu vi hành trôi qua buồn tẻ đến không ngờ. Hình như chẳng có gì đặc biệt ngoài đó, phía sau màn đêm. Nó làm tôi phát chán. Nhận ra điều này, vào một đêm nọ, anh chàng cận vệ xin phép được chọn hướng và tôi liền đồng ý. Bởi tôi hy vọng may ra có điều gì khác biệt chăng.
Anh chàng dẫn tôi đi về hướng khác mọi khi. Cũng băng qua những khu phố chật hẹp và nghèo nàn, nhưng điều khác biệt là ở đó có cả một thế giới sinh động về đêm. Và anh chàng cận vệ nói là có những loại người chỉ sống về đêm. Và quả thực như vậy, có những cách sống mà nhà nước sẽ không bao giờ thu được một đồng thuế nào. Chúng tôi hoà lẫn vào dòng người lố nhố đa dạng trên những vỉa hè tù mù với những bóng đèn vừa đủ sáng. Đó là một quán cóc cháo vịt, còn kia là một gánh chè khuya. Những cô gái mặt đầy son phấn, quần áo hở hang đang ngồi chồm hổm hì hụp ngốn từng muỗng đầy, bỗng dưng ngẩng đầu lên, đưa mắt liếc tình khi thấy khách lạ đi ngang. Rồi chúng tôi đến gần một sòng bài. Theo anh chàng cận vệ, đây là trò giải trí của những tay ma cô lúc rảnh rỗi. Bọn chúng sẽ chẳng có việc gì làm cho đến khi các cô gái đi khách trở về. Và kế bên là một bàn coi bói hơi mờ tối. Một bà già mặc đồ dân tộc ngồi bên một ngọn đèn cầy hiu hắt, ngước lên nhìn tôi như mời gọi. Có điều gì thật bí ẩn lôi cuốn trong ánh mắt u tối của bà ấy, và tôi đã quyết định ngồi xuống.
Bà già đưa tôi một cái bát và nói: “Hãy nôn một chút…”
Tôi sửng người nhưng rồi cũng ngoan ngoãn làm theo, và dù đã cố oẹ vài lần mà chẳng được gì. Bà già nhìn tôi rồi nói nhắm mắt lại và hả miệng ra. Tôi cảm thấy một thứ gì đó vừa nhầy vừa có mùi hăng hăng khó chịu được bà bỏ vào miệng mình. Và chỉ vài giây sau đã có hiệu nghiệm: tôi nôn thốc nôn tháo ra cái bát. Bà bưng cái bát kê ra sát ngọn đèn cầy ngắm nghía hồi lâu rồi bỗng nhiên bà đặt cái bát xuống, ghé sát vào tai tôi thì thầm có vẻ hoảng hốt:
“Ông chủ tịch, sao ông lại đến cái nơi dơ bẩn này. Xin ông đi mau cho…”
Tôi giật nảy người và vội vàng đứng dậy kéo anh chàng cận vệ bỏ đi như ma đuổi… Đó là câu chuyện lạ lùng đầu tiên mà tôi có được sau nhiều đêm vi hành. Những ngày sau đó, đầu óc tôi bận bịu liên tục xung quanh các câu hỏi của bà già coi bói bí hiểm kia. Bà ta đã thật sự thấy gì trong cái bát gớm ghiếc ấy? Và dù mang nhiều thắc mắc trong đầu, tôi vẫn bỏ hẳn ý định quay lại đó, nơi mà tôi tin họ đã biết việc tôi từng lang thang quan sát họ. Nhưng ít ra câu chuyện đó gợi cho tôi một suy nghĩ: xã hội này kỳ bí hơn rất nhiều so với sự hiểu biết mà một vị chủ tịch có thể có. Những ngày tiếp theo, câu chuyện của bà già coi bói vẫn còn ám ảnh tôi nặng nề. Rồi tôi bỏ hẳn chuyện vi hành một thời gian dài. Tôi sợ những kẻ lang thang trên vỉa hè hằng đêm ấy sẽ dễ dàng nhận ra tôi cho dù có hoá trang cách nào đi nữa. Sẽ chẳng còn gì thú vị, mà đôi lúc còn là sự phá quấy, và đôi khi ẩn chứa ít nhiều rủi ro nếu họ biết rằng có một gã đầy quyền lực đang giả danh đi vào thế giới của họ. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây, hẳn bây giờ cả thiên hạ này làm sao có được những câu chuyện huyền hoặc để mà bàn tán.
Một thời gian khá dài đã trôi qua kể từ ngày gặp gỡ bà thầy bói lạ lùng, tôi đã quên dần những tưởng tượng nguy hiểm từ những con đường đầy ám muội. Và vào một đêm nọ, chẳng cầm nổi lòng, tôi một mình lẻn ra cổng sau và bước ra phố… Lần này tôi đi về phía Hồ Gươm đầy ánh sáng. Ở ven hồ, vào giữa khuya, thanh vắng như một thế giới khác. Tháp rùa đứng mờ mờ trong thứ ánh sáng hắt lên từ mặt nước. Tôi rảo bước đi quanh hồ. Chẳng có gì ở đây vào giữa khuya mùa đông giá lạnh. Khi tôi đi ngang công viên, có bóng một phụ nữ xuất hiện bên lề như đang đón đợi. Và cô ấy đã chào tôi bằng cái giọng lả lơi quen thuộc mà tôi đã từng được nghe nhiều lần trên những con phố lem luốc của những lần vi hành trước đó. Có lẽ cô gái tưởng tôi là con cá ăn đêm. Và lúc này có thể cô nghĩ tôi như là cơ hội cuối cùng của một đêm ế ẩm:
“Vui vẻ không anh?” Cô gái lên tiếng.
“Chẳng có gì tệ hại hơn là đi từ chối một cô gái điếm đói khát” Tôi nghĩ vậy và dừng lại.
“Vui vẻ ở đâu?”
“Ngay đây” Cô gái nói.
“Ngay đây, cô không sợ sao?”
“Sợ gì chứ… đâu có ai nữa mà sợ” Cô gái đáp lại.
“Nhưng nếu anh sợ thì chỉ… nhẹ nhàng thôi, nhanh lắm” cô gái trơ trẽn nói tiếp.
“À, là ra cô định làm… như vậy ngay trong công viên này. Cô táo tợn thật” Tôi mỉa mai.
“Có gì đâu mà anh nói thế, công viên mà, nếu không có tụi em thì làm sao thành công viên được” – cô cười giòn tan.
Cô dẫn tôi đến một chiếc ghế đá nằm dưới bóng che tối om của một lùm cây xanh tốt. Thật xấu hổ khi tôi chẳng có hành động ngăn cản nào khi cô gái xấn vào mở thắt lưng rồi dây kéo quần… Tôi để yên cho cô làm những việc ấy với một niềm hứng khởi lạ lùng và quên hẳn đi thân phận của mình. Và khi cô bắt đầu những thao tác mạnh mẽ bên dưới cũng là lúc tôi mơ màng nhớ lại những câu chuyện tình ái dâm loạn trong cung cấm ngày xưa. Ở đẳng cấp của mình, tôi thường được những gã xun xoe tự xưng là sử gia kể cho nghe những câu chuyện bí hiểm đầy khoái cảm của những ông hoàng bà chúa ngày xưa. Cái bọn sử gia hay săm soi ấy làm như chỉ có bọn họ mới nắm được những bí ẩn của lịch sử. Họ thường trịnh trọng nhíu mày, hay cúi thấp đầu xuống rồi hạ giọng khi muốn nôn ra một câu chuyện thối tha nào đó. Tôi không biết những câu chuyện đó xác thực đến mức nào, nhưng nó hàm ý rằng, nếu có làm như vậy thì cũng là chuyện thường tình ở cái nơi đầy quyền lực này và thậm chí, theo cái ẩn ý mà họ cố tình nửa úp nửa mở, là một kẻ vua chúa hay tương đương thì nên hưởng thụ những trò ấy – những trò mà chỉ vua chúa mới có diễm phúc được hưởng trên cõi đời này. Trong những câu chuyện mà họ kể, kinh thành Thăng Long hiện ra như một thế giới khác. Chẳng có luật lệ nào tác động được đến nó. Cung cấm là nơi bảo vệ và che đậy cho những bản năng nguyên sơ chảy rần rật trong mạch máu của những kẻ sổ lồng tuyệt đối. Đó là những kẻ được ngụp lặn thoả thích trong chốn hoan lạc đến tận cùng của kiếp người ngắn ngủi. Trong cái vẻ bề ngoài của những câu chuyện, hình ảnh ông hoàng bà chúa rặt là những kẻ dâm dật thâu đêm suốt sáng, ca hát, ăn chơi và thác loạn… Nhưng tôi biết, qua từng cái nuốt nước bọt của kẻ kể chuyện, những ông hoàng bà chúa dơ bẩn ấy là nỗi khát khao và ngưỡng vọng của những kẻ đang nói về họ. Tất cả những trò ấy lại diễn ra xung quanh cái nơi mà tôi sinh hoạt hằng ngày. Nói cho đúng, khắp cái kinh thành Thăng Long này đâu cũng có thể là cung cấm cho những tầng lớp như tôi. Những thứ xấu xa hay được cho là xấu xa đáng mơ ước ấy xảy ra hằng ngày hằng giờ, sau những bức tường làm ra vẻ uy nghiêm, nhưng chẳng ai được biết. Còn ở bên ngoài bức tường, vẫn luôn luôn có khối kẻ thèm khát ngóng đợi dù là chút cơm thừa canh cặn đổ đi.
Thuở ấy, thỉnh thoảng, từ cõi lòng thầm kín, tôi ước gì mình sinh ra sớm hơn vài thế kỷ để được ngồi tự do trong cung, và vây quanh là vô vàn cung tần mỹ nữ thơm tho, sẵn sàng dâng hiến tấm thân ngọc ngà để đổi lấy chút lòng sủng ái. Đối với một quyền lực tối cao, nó cần được cung phụng và nuôi dưỡng từ những hoan lạc tột đỉnh tương ứng. Đó có khi là lẽ tự nhiên… Người đời thường nhầm lẫn khi áp đặt ước mơ tốt đẹp của họ cho những kẻ đang ở trên trần quyền lực. Họ đâu biết rằng, ước mơ của một kẻ khi đã ở trên đỉnh cao quyền lực tuyệt đối là được trở lại sống trong cái bản năng nguyên sơ của tự nhiên. Họ muốn được xoá bỏ cái thành quả văn minh mấy ngàn năm của giống người để được toàn quyền đi ngược dòng tiến hoá trở lại thời kỳ hoang dã nhất của giống loài. Chẳng có con người đạo đức nào ở đó. Đạo đức chỉ dành cho những kẻ hạ lưu, bởi họ cần được vỗ về cho yên phận.
Bỗng có tiếng cô gái cắt ngang: “Trời, anh đang nghĩ ngợi gì thế… sao lâu ra quá”- Cô có vẻ bực bội.
“Tôi đang nghĩ tôi là vua” – tôi buột miệng nửa đùa nửa thật.
Cô gái bật cười: “Tập trung vào đi ông vua, khổ em quá”
Ừ, mà khổ thân cô ấy thật, đã hùng hục hơn nửa tiếng mà chẳng ăn thua gì. Rồi để giúp cô ấy, tôi cố tưởng tượng mình như một đấng quân vương thực thụ, đang trần truồng nằm trên một long sàng sực nức hương thơm và bên cạnh là những cung nữ xinh như mộng đang thay nhau chiều chuộng. Nghĩ đến đó, tinh thần tôi có phần phấn chấn. Và bên dưới, cô gái đang ra sức tăng tốc. Rồi bất thần tôi trân người, từng dòng tinh dịch phóng thẳng ra phía trước. Tiếng cô gái la lớn:
“Ra rồi, ra rồi. Trời ơi của anh nhiều khủng khiếp, nó bắn xa có khi đến hơn chục thước…”, rồi cô phá lên cười hả hê.
“Này, cô bé bé cái mồm lại, không sợ người khác nghe thấy sao. Mà cô phải giữ bí mật chuyện này đó nghe”
Cô gái càm ràm: “Sợ cái gì chứ, giờ này có ma nào đâu. Mà có gì phải giữ bí mật, bộ anh là vua thật à?”
“Ừ”- tôi trả lời
Cô gái lại nổi lên cười khoái chí:
“Thôi đi ông vua, đối với em vua cũng như ăn mày thôi, em cũng chỉ làm như vậy rồi… lấy tiền. Nhưng nói thật, đất này cũng linh thiêng đấy, có quỷ thần chứng giám cả”
Rồi cô chỉ tay ra phía sau lưng tôi. Lúc này mặt hồ khuya hoàn toàn tĩnh lặng trong ánh sáng nhờ nhờ của những ngọn đèn cao áp không đủ sức chiếu sáng toàn bộ.
“Có cái gì ở đó chứ?” – tôi hỏi
“Cụ rùa, cụ ấy biết tất” – Cô gái trả lời với một nụ cười bí hiểm.
Tôi rút tiền trả cho cô gái và phóng mắt về phía tháp rùa. Nó trông cũ kỹ và có vẻ lạc lõng trong một đêm khuya buốt lạnh. Bỗng tôi nghĩ ngợi: những cái mà cụ rùa biết đương nhiên sẽ trở thành sự kiện lịch sử. Liệu cụ ấy có biết tôi là chủ tịch không nhỉ? Nhưng có sao đâu, vì chẳng có mấy người tin câu chuyện đêm nay là sự thật. Cũng như cô gái điếm kia, làm sao cô ấy có thể tin là vừa hành nghề với một gã gần giống như vua? Nhưng vào một thời nào đó sau này, sẽ không thiếu những sử gia xun xoe biết cách thêu dệt nó thành một câu chuyện ly kỳ bí hiểm đủ để mua vui cho chủ nhân của họ trong những bữa tiệc ăn chơi bất tận của đất kinh thành…

TRÀ ĐÓA

cái chết của một người bạn cũ

tradoa

Một hôm, bỗng dưng tôi lại thấy nhớ một người bạn cũ và quyết định đi thăm anh ta.
Tôi đến khu phố cũ, nơi tôi đã gặp anh ta lần cuối cách nay đã lâu. Ông hàng xóm, người có cục u trên trán, đã ngẩn người ra khi nghe tôi hỏi về hắn:
“Thằng X à, nó bán nhà lâu lắm rồi. Hình như đến địa chỉ …ở quận…Cậu đến đó thử xem”
Tôi lò dò lần đến cái địa chỉ mới ấy. Nhưng lần này lại tệ hơn, chẳng ai nhớ có một gã X nào đó, cao khoảng thước bảy, da ngăm đen, nói giọng…Tôi phải gặng hỏi nhiều lần, cuối cùng bà mập đang ngồi đánh tứ sắc chợt nhớ ra:
“Cậu vào hỏi con M trong hẻm này xem sao, hình như là bồ của nó đấy.”
Tôi vào hẻm hỏi thăm M. Đó là một cô ả làm điếm đã qua thời xuân sắc. Cô ả chỉ vào thằng nhóc đang bò dưới nền nhà và hỏi tôi:
“Giống không?” Rồi cô ả nổi lên cười thích thú.
Tôi nhìn thằng nhóc, nhìn vào đôi mắt đen nhánh tròn xoe của nó và loáng thoáng nhớ lại…Có lẽ là con của X thật, đôi mắt giống quá.
Nhưng rồi cô ả cũng chẳng cho tôi biết thêm gì nhiều về X. Và theo như cách cô ả kể, có lẽ X cũng không biết có thằng nhóc – người thừa hưởng đôi mắt của hắn – tồn tại trên đời này…
“Anh đến công an phường…để hỏi thăm thử xem. Có lần em đã đến đó và hình như họ cũng đang tìm X”. Cuối cùng ả cũng cho tôi một tin tức có giá trị.
Tôi đến công an phường…để hỏi thăm. Gã công an viên tiếp tôi gằn giọng hỏi:
“Anh là gì của X?”
“Tôi là bạn”
“Anh tên gì?”
“Tôi tên Y”
“À, ra anh là Y. Chúng tôi cũng định tìm anh để hỏi thăm tin tức về anh ta”
Thế đấy, cuối cùng cũng chẳng được gì. Tôi để lại địa chỉ và điện thoại liên lạc rồi ra về.
Tôi về trằn trọc mất vài đêm. Tôi vẫn không hiểu sự biến mất kỳ lạ của X. Vả lại, công an còn đang truy tìm anh ta và họ cũng chẳng cho tôi biết lý do của việc truy tìm này là gì. Rồi còn cô điếm M và thằng nhóc. Có lẽ khi lớn lên, thằng nhóc sẽ chẳng thể nào tưởng tượng ra mình là phiên bản của một gã tên X nào đó. Và thậm chí, nó còn có thể nghi ngờ liệu có một gã X như vậy đã từng tồn tại trên cõi đời này hay không?
Chuyện của anh ta còn khiến tôi mất ngủ thêm một thời gian nữa, để sau đó tôi đi đến quyết định cuối cùng…

Tôi đến khu phố cũ gặp lại ông hàng xóm …

Tôi mở đầu câu chuyện với ông bằng cách gợi lại những thứ mà ông còn nhớ được về X. Ông hào hứng kể huyên thuyên. Nhưng xâu chuỗi hết lại thì chẳng có gì rõ nét. Tôi bằng kể cho ông nghe một câu chuyện hoàn hảo về X, một câu chuyện mà tôi đã phải mất mấy đêm liền để nhớ lại và hoàn thiện.
Trong câu chuyện đó, X hiện ra như một con người rất tốt bụng, anh là một khối thiện không hề bị sứt mẻ qua thời cuộc. Những tháng năm hận thù khốc liệt nhất cũng không thể hạ gục được anh…Nói chung, anh là một thanh niên Sài Gòn mẫu mực: vừa trí thức vừa thiện tính.
Tôi chào ông ra về và còn nghe ông dặn theo “nếu có tin gì của X phải nói cho ông biết với…”
Tôi đến chỗ M. Tôi nghĩ mình có trách nhiệm phải cho M biết con người X là như thế nào, để sau này cô đem cái điều ấy để kể lại cho đứa con của cô. Một đứa trẻ luôn cần biết những điều tốt đẹp về cha mình.
Rồi tôi cũng bắt đầu kể lại toàn bộ câu chuyện về X theo một trình tự thời gian cho đến khi X gặp M. Trong câu chuyện đó, X hiện lên như một gã trai lãng mạn và tốt bụng.

Đó là X của một thời thanh niên đẹp trai và lãng mạn. Đôi mắt của anh trong veo chẳng thoáng chút gợn. Anh thích hát những bài tình ca của thời trước, và thích đọc truyện kiếp hiệp Kim Dung, thỉnh thoảng đọc các tiểu thuyết cổ điển của Pháp. Và anh còn có nhiều tài vặt gì đó nữa tôi không nhớ rõ lắm. Có thể anh ta cắt chữ rất nhanh và đẹp, hay vẽ áo dài cũng rất tài hoa. Tôi đã ít nhất một lần chứng kiến cái cảnh anh ấy chăm chút từng đường nét trên mảnh vải trắng tinh mà thán phục cho tính kiên nhẫn của anh…
M ngồi nghe say mê, thỉnh thoảng cô ấy hỏi vài câu. Tôi nhận ra là cô hoàn toàn chẳng biết gì về X. Có lẽ họ chỉ là “người tình một đêm” của nhau mà thôi. Nhưng dù thế nào, đứa trẻ vẫn đang hiện diện ở đó. Bản thân nó chẳng chịu trách nhiệm gì về câu chuyện của hai kẻ đã sinh ra nó.
Một gã đàn ông chẳng thể nhớ hết những lần xuất tinh trong đời mình, và cũng chẳng thể biết được đã có bao nhiêu con tinh trùng có đuôi của mình đã ngắc ngoải sống trong vòng 24 tiếng đồng hồ, trước khi vĩnh viễn bị tiêu huỷ. Những mầm sống ấy là một cấu trúc kỳ diệu của tạo hoá, nó có thể bắt đầu cho một sự sống mới hay có khi chỉ gây được khoái cảm trong vài phút cho một người.
Trong một lần may mắn ngẫu nhiên nào đó, một con tình trùng của X đã lần mò trong âm đạo đã nhão nhoẹt của ả gái điếm hết thời để đến được tử cung. Và chính ở đó, trong cái tử cung âm u của ả, con tinh trùng can trường ấy đã phải chạy đua trong cuộc chiến giành quyền chiếm hữu quả trứng chín vừa rụng xuống. Và kẻ chiến thắng trong cuộc đua ấy đã được tưởng thưởng xứng đáng: một thằng nhóc ra đời…
Đứa trẻ ấy chỉ là kết quả ngẫu nhiên của một trò chơi tình dục.
Rồi tôi chào từ biệt cô ra về. Cô còn dặn tôi nếu có cái hình nào của X gửi tặng cô một cái. Tôi hứa sẽ tìm và đem đến cho…
Và tôi đi đến nơi cuối cùng còn quan tâm đến X.

Gã công an viên ngồi lơ đễnh nghe tôi kể câu chuyện về X. Hồi lâu, gã bực bội cắt ngang lời tôi:
“Tôi cần nghe những điều đó làm gì, hắn tốt hay xấu liên quan gì đến tôi, tôi cần biết là hắn đang ở đâu, làm gì? Nếu anh biết mà giấu thì coi chừng…”
Anh ta nạt tôi một hơi dài. Có lẽ câu chuyện của tôi về X chẳng có ý nghĩa gì với anh ta. Tôi đang bối rối, bỗng dưng một ý nghĩ nảy lên trong đầu, tôi bèn nói:
“X chết rồi, nhảy cầu,…không tìm thấy xác.”
Đôi mắt gã ánh lên mừng rỡ. Rồi gã cười lớn:
“Thật chớ? Tôi xếp hồ sơ anh ta được rồi”
Vậy là xong việc, tôi yên tâm về nhà tắm rửa rồi ngủ một giấc thẳng cẳng.

Từ hôm đó, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến X, có quá nhiều thứ gợi nhớ đến anh, nhưng tôi nghĩ không cần phải đi tìm anh ấy nữa.
Bởi giờ đây, X đã thực sự hiện diện trên cõi đời này theo những hình mẫu mà những kẻ đã từng có quan hệ với anh theo một cách nào đó, muốn biết.

TRÀ ĐÓA

Một kẻ thiện tâm

tradoa

Anh là người chỉ được trời phú cho một trí não tầm tầm dưới mức trung bình, nhưng chưa khi nào anh than thân trách phận vì điều đó, cũng như chưa bao giờ anh nghĩ chính cái tầm tầm ấy lại kéo theo những thứ khác tệ hơn, như cái tính nhút nhát đến đớn hèn chẳng hạn. Luật nhân quả thường lắt léo mà một bộ óc tầm tầm chẳng đời nào có thể nhìn thấu ra đường dây mối nhợ.
Nhưng, nhờ luật bù trừ, cái óc bã đậu ấy lại giúp anh hiểu về bản thân theo một cách có lợi nhất cho cuộc sống của mình. Chẳng hạn, anh thích cái nhút nhát đến thảm hại của mình chẳng phải vì nó giúp anh trú ẩn an toàn mà vì, anh cảm thấy đó là thứ hợp lý. Anh chẳng cần phải đưa ý kiến ra trước người khác, như trong các cuộc họp chẳng hạn, và điều này – một cách mặc nhiên – giúp anh tránh được những va chạm có khi rất khốc liệt. Còn khi có chuyện phải đối diện đám đông, cả người anh gần như lạnh toát, hai vai run bần bật, miệng líu lại còn não thì trống không, và đó là khi anh không cần phải nói ra một lời nào cả.
Chẳng phải hoạ tòng khẩu xuất hay sao?
Nhưng khi bước vào tuổi trung niên, đột nhiên một buổi sáng thức dậy, anh lại cảm thấy mình chẳng ra gì. Rồi từ cái buổi sáng định mệnh ấy, có thứ gì đó vừa mở toang khiến anh có cơ hội nhìn lại chính con người mình. Nhờ vậy mà đến một thời điểm anh chợt mơ hồ nhận ra những dây mơ rễ má kéo lê từ cái óc bùn lầy đến những thứ mà anh cứ ngỡ là hợp lý của mình.
Từ đó trong con người anh luôn có một sự thôi thúc không yên và càng ngày càng mãnh liệt. Mỗi khi nhìn thấy một người ăn xin đi ngang qua, tự nhiên trong anh lại cảm thấy bứt rứt kỳ lạ. Một tin trẻ lạc trên báo cũng có thể khiến anh bất an cả ngày… Và chúng, những khổ đau mà anh chưa bao giờ biết gọi tên, như những chiếc bóng đen hằng đêm vẫn đè lên giấc ngủ của anh. Và anh trở nên khó ngủ. Hằng đêm, nằm bên vợ, anh cứ trằn trọc mãi không thôi. Vợ anh lấy làm khó chịu và ra sức cật vấn. Cuối cùng, bằng cách nào đó, anh cũng đã thú nhận cho vợ hiểu được những bất an trong lòng mình. A, mà vợ anh cũng là một người biết điều, và không chỉ biết điều, cô ấy còn là một người thiện tâm. Chỉ có điều, chuyện cơm áo gạo tiền đã làm cho cô ấy càng ngày càng dễ cáu kỉnh hơn thôi. Vì lời nói của anh nhỏ nhẹ, tự đáy lòng, nên vợ anh, trái với thường lệ, tỏ ra thông cảm ngay. Cô ấy quàng tay ôm ngang lưng anh và an ủi nhẹ nhàng. Cuối cùng cô ấy nghĩ ra một cách:
“Hay anh làm từ thiện đi… Sáng chủ nhật anh vào công viên tập thể dục… rồi bố thí luôn, ở đó có nhiều người ăn xin lắm”
Rồi cô ấy giải thích lòng vòng mà anh hiểu được rằng, làm từ thiện phải đúng nơi đúng chỗ và có giới hạn (vì nếu không sẽ biến chính mình thành những kẻ xứng đáng nhận từ thiện). Và cô ấy nghiêm khắc khuyên anh chỉ nên mỗi tuần một lần, và mỗi lần không quá mười ngàn,..v…v…
Anh chẳng cần suy nghĩ mà đồng ý ngay.
*
Cuối tuần, anh vận chiếc quần ngắn cùng đôi giày vải rồi đi vào công viên. Dĩ nhiên là anh không quên nhét túi mười ngàn trước khi ra cửa.
Anh chạy một vòng chậm rãi quanh bãi cỏ rồi ngồi nghỉ trên một chiếc ghế đá. Không khi im ắng dễ chịu. Và đúng như vợ anh nói, những kẻ ăn xin luôn chực chờ sẵn ở đây. Một anh chàng da trắng bạc nhạc, cao lêu nghêu như cây sậy, vai mang bao lượm ve chai, xuất hiện ngay lập tức. Anh ta hỏi xin điếu thuốc, nhưng anh nói mình không hút thuốc. Hắn ta toan bỏ đi, nhưng anh nhột lòng bèn hỏi:
“Anh có muốn lấy tiền không?”
Anh ta hơi sững người nhưng nhanh chóng gật đầu lia lịa. Anh rút trong túi ra tờ mười ngàn và đưa cho hắn. Anh chàng lêu nghêu nhận tiền rồi phóng đi mất dạng…
Chủ nhật đến anh lại vào công viên. Anh chạy lấy lệ vài vòng rồi ngồi nghỉ trên ghế đá. Anh chàng ve chai lần trước như từ dưới đất chui lên, đứng trước mặt anh tự bao giờ. Nhưng hôm nay phía sau anh ta còn có thêm một anh chàng đen đúa và gầy trơ xương. Cả hai cùng nhe răng cười chờ đợi.
Anh rút ra tờ mười ngàn đưa cho anh chàng da trắng và nói:
“Chia cho anh kia năm ngàn”
Và hai anh chàng biến đi gần như lập tức.
Rồi chủ nhật lại đến…
Những ngày chủ nhật luôn đến đều đặn, nhưng tự dưng anh cảm thấy quá lâu. Chưa bao giờ anh lại mong đợi ngày chủ nhật đến thế. Mỗi lần rút ra tờ mười ngàn để cho, anh có cảm giác như vừa giải thoát một điều ẩn ức nào đó trong lòng, và nó khiến anh vô cùng thoải mái. Có lẽ, anh đã nghiện cái cảm giác đó mất rồi. Suốt tuần anh chỉ mong đến sáng chủ nhật để được bước vào công viên, để lại được nhìn thấy ánh mắt sáng rực niềm vui trên những gương mặt đen bẩn…
Bây giờ anh lại đang ngồi trên ghế đá. Xung quanh vẫn im ắng như thường lệ, nhưng hai anh chàng ăn xin vẫn chưa thấy xuất hiện. Và rồi anh chàng bạc nhạc cũng đến. Hắn ta bước thong thả về phía anh, đến đứng trước mặt. Anh hỏi anh da đen đâu. Anh chàng trắng cười nói hôm nay tay da đen sẽ không đến. Anh lưỡng lự một lúc rồi rút tờ mười ngàn đưa cho anh ta. Hắn nở nụ cười mãn nguyện và huýt gió bỏ đi.
Anh bước ra về mà vẫn còn chút áy náy. Dù sao anh chàng da đen vẫn đáng thương hơn, vì trông có vẻ đau khổ và thực thà hơn.
Khi anh bước ra đến cổng công viên, bỗng anh chàng da đen xuất hiện đột ngột với gương mặt sưng húp bầm tím. Trông anh ta thật thảm thương. Anh ta nói là do gã trắng đánh và thậm chí, hắn còn cấm anh ta không được bén mảng đến công viên vào ngày chủ nhật.
Anh nhìn anh ta ái ngại và cảm thấy xót thương vô cùng.
“Nhưng… hôm nay đã đủ rồi, vả lại mình chẳng còn tiền” – Anh tự nhủ. Cuối cùng anh cũng nghĩ ra được một cách:
“Tuần sau tôi sẽ đến vào ngày thứ bảy, anh đến ghế đá đợi tôi!”
Anh chàng tội nghiệp vâng dạ rối rít.
Tuần sau, vào sáng thứ bảy, anh bước vào công viên. Lần này anh chẳng tập tành gì mà đến thẳng chỗ ghế đá. Anh chàng đen đúa đã đứng ở đó tự khi nào. Hôm nay trông anh ta tươi tỉnh hơn lần trước. Anh hỏi có còn bị tên trắng đánh nữa không. Anh ta cười e thẹn nói không. Khi anh chuẩn bị rút tiền ra thì bất ngờ, gã trắng xuất hiện. Trông hắn hớt hơ hớt hải và thở gấp, anh đoán hắn đã phải chạy rất nhanh đến đây. Anh đưa ánh mắt bực tức nhìn hắn rồi quay ngoắt đi chẳng thèm để ý nữa. Anh cầm tờ mười ngàn ấn vào tay anh chàng da đen và cố ý nói lớn:
“Cho anh hết đó”
Anh chàng gầy trơ xương nhận tiền rồi lấm la lấm lét chạy đi. Anh cũng đứng dậy ra về mặc cho gã trắng đứng chưng hửng phía sau…
Anh nghĩ, chỉ hôm nay mình mới làm được việc từ tâm đích thực. Anh mường tượng ra niềm hạnh phúc mà anh chàng da đen có được từ đồng bạc anh đã cho. Có lẽ anh ta sẽ nhớ anh mãi, nhớ cái đặc ân mà anh đã dành cho anh ta khi tước đi cái quyền được nhận của gã đồng nghiệp xấu tính kia.
Thứ bảy lại đến, anh háo hức bước vào công viên. Hôm nay anh cũng quyết định dành hết tiền cho anh chàng da đen đáng thương đó. Lòng anh rộn lên niềm vui khi nghĩ mình đã tìm ra đúng nơi để gởi gắm những đồng tiền từ thiện.
Khi anh mới đến cổng công viên, bỗng anh chàng da đen xuất hiện. Trông anh ta tiều tụy và thảm hại kinh khủng. Với gương mặt sưng vù với nhiều vết rạch ngang dọc, anh ta lết từng bước chậm chạp đến gần. Anh đã loáng thoáng đoán ra sự việc.
“Hắn lại đánh anh?”
Anh ta đau khổ gật đầu và nói:
“Hắn còn cấm tôi không được đến công viên vào ngày thứ bảy nữa!”
Lòng anh trào lên một sự tức giận ghê gớm. Anh ước nếu gã lêu nghêu ấy có ở đây, anh sẽ nện cho gã một trận tơi bời.
Anh rút tờ mười ngàn chìa ra trước mặt nhưng anh chàng đen đúa tội nghiệp chẳng buồn đưa tay ra nhận. Một hồi, anh ta cất tiếng mệt mỏi nói:
“Anh cất tiền đi, tôi không dám lấy đâu. Chỉ cầu xin anh một việc”
Anh hỏi việc gì, anh ta rên rỉ:
“Xin anh đừng đến đây nữa. Nếu không, hắn sẽ cấm tôi không bao giờ được vào công viên này nữa”
Ôi, cái quái gì thế này. Anh không thể tưởng tượng ra cái tình thế mà mình vừa dính vào. Nhưng nhìn ánh mắt cầu khẩn của anh chàng tội nghiệp, anh biết anh ta đang nói thật lòng. Dù sao đối với anh, đây cũng là việc kỳ quặc nhất mà anh phải trải qua. Đầu óc anh đang suy nghĩ lung tung thì anh ta đã lên tiếng tiếp. Lần này anh chàng tội nghiệp quỳ xuống, chắp hai tay trước ngực như vái thành hoàng:
“Trăm lạy anh, làm ơn làm phước…”
Nói đến đó nước mắt, nước mũi anh ta trào ra như mưa, rồi nấc lên từng cơn thảm khốc.
Đợi cho anh chàng thảm hại bớt xúc động, anh kéo hắn đứng lên. Cuối cùng, sau một hồi đắn đo, anh nói:
“Được, tôi sẽ không đến đây nữa, tôi hứa”
Chỉ đợi có vậy, anh chàng ngưng khóc ngay lập tức, ánh mắt sáng rực niềm vui và quay lưng nhảy chân sáo khập khiểng bước đi, miệng huýt gió một bài hát gì đó…
Khi cái bóng đen như que củi khô ấy khuất dạng sau hàng cây, anh cũng quay gót chậm rãi bước về. Lòng anh trống không như chẳng có chút cảm xúc gì. Nhưng khi về đến nhà, anh lại nghĩ ra được một lý do để tự an ủi mình, và thực sự, nó đã giúp anh vui vẻ trở lại:
“Có khi, đây là việc thiện nhất mà mình làm được cũng nên…”

TRÀ ĐÓA

Kẻ vô danh

tradoa

Lời giới thiệu: đây là một trong những truyện đầu tay, được viết cách đây 10 năm. Có một câu chuyện vui vui liên quan đến truyện này. Đó là khi truyện đăng được một thời gian, có lần tôi search google và thấy nó được đăng lại trên một diễn đàn của… GAY. Tò mò đọc hết mấy trang “bình lựng” mới thấy họ phân tách hay hơn gấp mấy lần cái truyện của mình. Họ cho rằng hai nhân vật nam trong truyện này là gay và yêu nhau. Lý giải của họ như vầy: khi một kẻ là đàn ông lại đi ganh ghét, tị hiềm “rát rạt” với một kẻ đàn ông khác, thì đó là “triệu chứng” của tình yêu đồng giới. Tôi nghĩ cũng có lý, vì đó cũng là mặt trái của thứ mà ta hay gọi là tình yêu.
Những chàng gay, những kẻ vì một lý do gì đó lại có lượng estrogen cao hơn mức bình thường, và nhờ vậy họ thường sở hữu một sự tinh tế và nhạy cảm hơn hẳn những đàn ông thuần khác. Và tôi đã học được ở họ một khía cạnh tâm lý sâu sắc mà tôi chưa bao giờ nghĩ tới.

Đến lúc sức chịu đựng của tôi cạn kiệt. Tôi không thể tưởng tượng mình có thể tiếp tục ngồi chung phòng với hắn ta được nữa. Mỗi buổi sáng cứ trông thấy gương mặt tươi cười của hắn, một cảm giác khó chịu dai dẳng chạy dọc từ dạ dày lên tận óc, gây ra một thứ triệu chứng vừa tưng tức vừa muốn tống khứ một cái gì đó ra khỏi người. Từ cái dáng đi điệu đàng, đến cách ăn nói nhỏ nhẹ, hay mọi thứ của hắn,… đều khiến người tôi như nổi gai ốc khắp nơi.
Và tôi bắt đầu nghĩ đến việc phải chơi hắn vài vố cho bỏ tức…
Nhưng tôi hiểu những cách chơi khăm lặt vặt sẽ chẳng khi nào xoá nổi nụ cười trên môi hắn chứ đừng nói đến chuyện triệt hạ được hắn. Dù sao cũng phải thừa nhận hắn là kẻ sở hữu một nội tâm vững vàng. Những thứ khen chê thói thường chẳng khi nào có thể làm hắn xao động. Tâm hồn hắn là một cõi kỳ bí mà tôi chẳng thể nào mường tượng ra.
Tôi biết để làm được cái việc triệt hạ hắn, tôi phải nghĩ ra một phương án hoàn hảo, một tầm nhìn dài hơi, phải chậm rãi và chắc chắn mới hy vọng dụ được hắn vào bẫy. Mục đích tối hậu mà tôi luôn nhủ thầm trong đầu là phải làm cho hắn ta không còn hiện diện nơi công sở ấy nữa, nếu biến mất thì càng tốt. Có khi nào hắn sẽ biến mất như chưa hề tồn tại? Cái ý nghĩ “biến mất như chưa hề tồn tại” nó ám ảnh tôi từ lúc xuất hiện. Nếu một kẻ tự dưng biến mất sẽ để lại những gì? Một gia đình, một vài người quen, một vài câu hỏi và một bộ hồ sơ nghi vấn ở trụ sở cơ quan điều tra. Nếu hắn vẫn cứ biến mất không tăm tích lâu ngày, những người quen cũ sẽ mau chóng quên hắn đi. Còn gia đình, qua thời gian lâu hơn cũng sẽ bắt đầu quen dần với sự vắng mặt của hắn và lấy ngày hắn mất tích để làm ngày giỗ. Còn bên cơ quan điều tra, họ sẽ xếp hồ sơ, vì chẳng hơi đâu phải theo dõi một kẻ tầm thường và chẳng có tăm hơi gì.
Lâu dần, sẽ chẳng còn ai mường tượng ra nụ cười của hắn nữa. Cái tên xưa kia của hắn cũng sẽ nhạt nhoà vào trong vô số những cái tên đến sau, hay ngập chìm trong mớ bòng bong thông tin mà một người phải tiếp nhận hằng ngày. Và hắn tan biến vào hư vô…
Tôi phải làm được điều này.
Từ đó, ngày đêm tôi lên kế hoạch và bắt đầu theo dõi hắn chặt chẽ để tìm cơ hội. Tôi tin rằng bất kỳ kẻ nào cũng có những thói quen xấu, hay những sơ hở cố hữu nào đó trong cách sống.
Điểm đầu tiên tôi nghĩ đến đó là đàn bà. Một kẻ dễ coi và hào hoa như hắn chắc sẽ có lắm đàn bà. Và để có thể ăn vụng hẳn phải lén lút. Vâng, tôi muốn được thấy hắn lén lút. Đó là khi tôi dễ hành động nhất. Và quả nhiên, có rất nhiều đàn bà bao quanh hắn (dĩ nhiên… không kể vợ hắn). Hắn hay đến quán karaoke nhỏ ở gần bờ kênh đen. Đây là vùng tụ tập gái làng chơi mạt hạng từ khắp nơi đổ về. Một vài giờ hát hò, cợt nhã bên một ả gái điếm hết thời nào đó sẽ không quá tốn kém. Nếu mức độ “ăn chơi” của hắn chỉ dừng lại ở đây thì quả là khó cho tôi. Nhưng thật may, đúng như tôi nghĩ, hắn rất hám gái. Cứ khoảng hơn 11 giờ khuya hắn lại chở một cô ả từ đó về. Tôi lặng lẽ bám theo. Họ vào một khu nhà trọ tồi tàn cách đó khoảng vài cây số. Cái khu ổ chuột này vô cùng chật chội. Con hẻm đi vào có đoạn chỉ dành cho một chiều xe máy. Tôi đành đứng ở một góc khuất bên ngoài để đợi hắn ra. Và khoảng nửa tiếng sau, hắn xuất hiện ra về một mình.
“Chỉ có vậy, có khi chỉ phí công” – tôi bực bội vì chẳng tìm thấy tí cơ may nào trong cái trò gái gú mạt hạng này của hắn.
Nhưng, một ý nghĩ chợt loé lên trong đầu tôi “tại sao không…?”. Chẳng hạn như bí mật báo cho vợ hắn biết, sau đó gia đình hắn sẽ tan nát vì ghen tuông. Rồi sau khi ly dị, hắn sẽ chuyển đến ở với ả gái bán bia ấy, và được một thời gian cái cặp kì quặc này chắc phải chia tay. Sau đó, điều tôi chờ đợi phải tới: hắn đâm ra chán đời, rượu chè bê tha và bắt đầu trượt dài. Đây chính là thời điểm mà tôi mong đợi…
Vào những đêm sau, tôi mang theo một máy chụp hình. Rồi những tấm hình ả đó đang ngồi ép sát phía sau và ôm eo hắn rất tình tứ, đã được tôi phóng to lên và gửi kèm một lá thư hướng dẫn chi tiết những điều tôi đã theo dõi được, dưới dạng nặc danh, đến địa chỉ mà nó phải đến.
Những ngày sau đó, tôi luôn đến chỗ làm thật sớm và ngồi đợi. Một lát, như thường lệ, hắn xuất hiện. Nhưng không như tôi mường tượng, hắn vẫn tươi cười chào hỏi mọi người. Cuối cùng hắn về chỗ của mình và nở nụ cười chào tôi. Và không như mọi khi, tôi không còn giữ bộ mặt lầm lì cố hữu nữa, mà ngước lên nhìn hắn và chào lại. “Sao hắn vẫn cười được nhỉ?”. Tôi cố phát hiện một điểm khả nghi nào đó trên gương mặt kia, nhưng chịu, nó vẫn như mọi khi, chẳng có biểu hiện gì khác lạ.
Được một thời gian, bỗng một hôm hắn không đi làm. Tôi bán tín bán nghi. Buổi tối, tôi phóng xe đến theo dõi ở quán karaoke đến nửa đêm, nhưng vẫn không thấy hắn đâu. Rồi liên tiếp nhiều hôm hắn không đi làm. Sau đó tôi mới được biết hắn đã làm đơn xin thôi việc. “Hay cái kế hoạch của mình đã thành công rồi?”. Cái ý nghĩ này nó làm tôi sướng rơn người.
Nhưng từ ngày hắn bỏ việc, tôi cũng đâm ra chán làm việc. Chỗ của hắn vẫn chưa có ai thay thế. Hàng ngày, tôi vẫn hay nhìn sang đấy vài lần. Tôi vẫn còn hay hình dung ra cái dáng ngồi ưỡn người của hắn trên cái ghế có trục xoay. Hắn vẫn còn ngồi đó, hay cười và luôn chào mọi người. Hắn thích nhìn sang phía tôi, và tôi có cảm giác hắn rất muốn làm thân. Nhưng mỗi lần hắn định có ý tiến tới, tôi lại càng cố tỏ ra khó chịu hơn nên hắn đành phải rút lui nhưng vẫn không mất nụ cười trên môi.
Hắn đã biến mất thật rồi, mọi người đã bắt đầu quên sự hiện diện trước đây của hắn. Công sở đôi lúc giống cái chùa, và người ra vào nơi này giống như đi viếng. Một vài nụ cười gượng, một câu nói hài hước,… rồi thôi. Gương mặt là thứ khó nhớ nhất. Thật khó để hình dung ra một gương mặt sau vài tuần không gặp. Cái gương mặt của hắn, một gương mặt mà tôi gọi là “đại chúng”, nó vừa mập vừa trắng trẻo dễ nhìn. Nó hay cười và rạng ngời khi đến công sở. Đây là điều khiến tôi khó chịu nhất. Tại sao có thể lúc nào cũng rạng ngời? Trước vô số cái nhàm chán, gương mặt nên lầm lì và khó coi. Điều này khiến bạn mất đi thiện cảm của một vài kẻ, nhưng bù lại nó thông báo cho những kẻ xung quanh một thông điêp rõ ràng rằng “Này, mọi thứ đang bốc mùi, đừng tỏ ra đạo đức giả như thế”.
Một buổi sáng nọ, khi tôi đến công sở, trên chiếc ghế của hắn đã có một thằng oắt trẻ tuổi đang ngồi. Nó nở nụ cười hơi ngượng ngùng chào tôi. Thằng oắt ngồi thẳng, mắt chăm chú vào màn hình máy tính. “Nó ta đang làm gì thế nhỉ?”. Có lẽ là một sự háo hức ban đầu, nơi công sở mới. Có thể nó đang sợ tôi theo dõi để đánh giá. Hay có khi nó đang cố tỏ ra một phong cách chuyên nghiệp khi làm việc? Thế đấy, lại một tên nữa lao vào. Những tay trẻ tuổi lại khiến tôi mau chán hơn. Bởi bọn chúng không cần hiểu, không cần biết, không cần đam mê. Nói quách ra là bọn trẻ bây giờ không biết mình cần gì. Nhưng sự xuất hiện của thằng oắt ấy là sự xoá sổ những dấu vết cuối cùng nơi đây của gã đại chúng.
Nhưng tôi biết, anh ta vẫn còn tồn tại cho đến khi nào tôi còn hiện diện ở đó…
Liên tiếp nhiều đêm, tôi ẩn mình theo dõi ở đầu con hẻm nơi khu ổ chuột phía tây. Rồi một đêm khuya, nhờ trời, hắn đã xuất hiện. Ôi, trước mặt tôi bây giờ là một tên say khướt đi đứng xiêu vẹo với quần áo dơ dáy lếch thếch. Gương mặt “đại chúng” của hắn trông gớm ghiếc và dị dạng. Hắn lần mò đi vào con hẻm nhỏ tăm tối. Tôi bám theo đến tận nơi. Một ả đen đúa gầy trơ xương ngồi trước căn gác gỗ tồi tàn rít lên một tràng ngôn ngữ lạ lùng với hắn.
Tôi nhủ thầm “hắn đã rơi xuống tận đáy thật rồi”. Chắc vợ con hắn đã từ hắn. Có ai lại có thể chấp nhận một tên bê tha như thế làm chồng làm cha. Tôi không ngờ hắn lại rơi xuống nhanh đến vậy. Cái kế hoạch “rơi xuống” của hắn mà tôi đã dày công mường tượng ra trước đó, và đã góp phần thúc đẩy, lại có thể thành công dễ dàng vậy sao? Và tôi biết, đây là thời điểm vàng mà tôi đã chờ đợi. Nó đã đến ấn tượng hơn tôi có thể tưởng. Nó đang hiện diện thật sự ở đó, nơi căn gác gỗ tồi tàn trong con hẻm tăm tối ở khu ổ chuột phía tây. Hắn đang nằm sẵn ở đó như cá trên thớt đợi tôi xuống tay những nhát chém cuối cùng.
Cho dù mọi thứ có vẻ đã sẵn sàng, nhưng tôi vẫn chưa nghĩ ra được ý tưởng khả dĩ để kết thúc cuộc chơi tăm tối này.
Hằng đêm, hắn vẫn cứ lếch thếch lê từng bước xiêu vẹo vào trong con hẻm nhỏ như để trêu ngươi tôi…
*
Rồi một đêm khuya, hắn xuất hiện trên chiếc xe máy chạy từ trong hẻm ra. Vẫn với bộ dạng gớm ghiếc thường ngày, hắn đang phóng xe chạy về phía tây, ra xa thành phố. Tôi bám theo. Đến những đoạn có ngả rẽ, hắn như cố ý chạy chậm lại chờ tôi. Hắn làm như sợ tôi bị lạc mất dấu vết hắn. Hắn vẫn cứ chạy mãi miết. Tôi kiên nhẫn bám theo. Bây giờ trời đã rất khuya. Màn đêm đen kịt bao phủ xuống con đường. Hắn vẫn cứ chạy.
Hắn đi đâu thế nhỉ?
Đã ra khá xa thành phố, xung quanh bây giờ là những khối núi cao dày đen kịt. Con đường mấp mô lên xuống với nhiều đèo dốc. Hắn định dẫn tôi đi đâu? Tôi hoàn toàn mù mờ nhưng khó cưỡng lại cái ý định bám theo. Phía trước là hắn, xung quanh là đồi núi và những hố sâu, tôi như đang trôi theo cái ý định điên khùng nào đó của hắn. Tôi không còn biết phải làm gì, ngoài việc phải bám theo hắn như ma lực. Bây giờ, trò chơi không còn do tôi điều khiển nữa. Hắn đã thực sự làm chủ, hắn đang là kẻ lèo lái cuộc chơi. Chiếc xe của hắn vẫn lao với tốc độ vừa phải. Cái ánh sáng nhỏ nhoi phía đuôi xe luôn nhấp nhô nhưng vừa đủ để cho tôi nhận thấy mà bám theo. Nhưng không lẽ hắn không dừng lại, hay hắn đang chạy vô mục đích? Có thể lắm chứ, một kẻ đã rơi xuống tận cùng như hắn thì làm gì còn có mục đích.
Bấy giờ trăng khuya đã lên cao, phủ xuống vùng núi hoang vắng một thứ ánh sáng mờ ảo ma quái. Chúng tôi đã lên đến đỉnh đèo. Bên phải là đỉnh núi đá cao vút, bên trái là vực sâu đen hun hút. Hắn dừng xe lại bên bờ vực, bước ra và đứng nhìn xuống. Cái bóng của hắn không còn xiêu vẹo nữa mà thẳng người và im lìm như bóng núi. Hắn hơi nghiêng người nhìn xuống vực sâu. Hắn đang tính chuyện điên khùng gì đây? Tôi thoáng nghi hoặc. Rồi bất ngờ hắn đẩy chiếc xe xuống hố. Tiếng nó va vào đá nghe khô khốc và sâu thẳm. Hắn vẫn đứng im. Tim tôi đập mạnh. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì. Mà tôi có thể làm được gì? Chạy lại khuyên can hắn ư? Không đời nào. Hay ít nhất cũng kéo hắn ra xa miệng vực? Tôi không thể làm những điều đó với hắn, bởi một lý do đơn giản: hắn đang thực hiện theo đúng bài bản kế hoạch mà tôi đã mường tượng ra, trừ những chi tiết cuối cùng này. Hắn là diễn viên, còn tôi vừa là tác giả kịch bản vừa là đạo diễn. Nhưng giờ đây, hắn đang làm hết thảy, vừa đạo diễn vừa diễn xuất. Có thể hắn sẽ diễn cảnh cuối cùng này cho được hoành tráng và bi thương. Người như hắn thì có thể làm được gì trong cuộc đời, ngoài cái kiểu luôn làm vừa lòng người khác. Cho nên giờ đây, hắn có cơ hội để diễn thật bi thương cái thân phận người mà hắn đã trót mang, cái số phận run rủi đã khiến cho hắn rơi xuống tận cùng đáy. Và tôi biết hắn đang ý thức đầy đủ về điều đó. Hãy để yên cho hắn tự kết thúc. Và tôi sẽ làm người theo dõi tận tuỵ.
Nhưng hắn vẫn đứng im lìm như đá núi. Hắn còn tiếc nuối điều gì chăng? Hắn đang nhớ vợ con mình? Hay hắn vẫn chưa thỏa cơn thích xác thịt với ả gái hết thời kia? Hay tất cả những điều ấy?
Càng lúc hắn càng tiến sát miệng vực hơn. Hắn nhích từng chút một về nơi mà hắn đã chọn. Bây giờ thì tôi tin chắc rằng hắn đang muốn xoá dấu tích cuối cùng của mình trên thế gian. Sau hành động này, hắn sẽ hoàn toàn biết mất như chưa hề tồn tại.
Bây giờ hắn đã đứng sát miệng vực như không thể gần hơn. Một cơn gió nhẹ cũng đủ đẩy hắn xuống đó. Vâng, thật kỳ diệu như định mệnh, một cơn gió khuya lạnh lẽo chợt thổi đến. Nó ngang qua chỗ tôi, sau đó bay sang bên kia đường tới nơi hắn đang đứng. Hắn chao đảo liên hồi, hai tay chới với. Rồi một tiếng “soạt” nghe gọn gàng: hắn rơi xuống hố. Đất đá rơi theo va vào lá cây nghe lạo xạo. Hắn đã rơi xuống đó, nhẹ tênh, và gây ra tiếng động không đủ làm thức bọn côn trùng đang ngủ.
Tôi tiến qua đường và nhìn xuống. Đó là một vực sâu thăm thẳm tối đen. Bây giờ thi tôi tin không có cách nào để hắn quay trở lại được nữa.
Hắn đã thực sự biến mất không để lại dấu vết…
Tôi quay về nhà với lòng trống không. Một vài hôm sau tôi đi làm lại. Thằng trai trẻ vẫn đang ngồi đó, đọc đọc viết viết ra vẻ rất miệt mài. Chỉ có điểu kỳ lạ là chẳng ai buồn nhìn tôi hay hỏi vì sao tôi nghỉ làm lâu thế. Những gì tôi đã trải qua và những gì tôi đã chứng kiến, thật sự rất khốc liệt. Thỉnh thoảng tôi lại nhìn sang anh chàng trai trẻ. Hắn vẫn chẳng để ý gì đến tôi. Mà hắn trẻ thật, gương mặt còn đầy những nét ngây ngô của môt thằng học trò. Tôi đang ước ao được hắn nhìn sang tôi dù chỉ một lần. Được như thế, tôi sẽ nở nụ cười với hắn ngay lập tức…
Buổi chiều hôm ấy, khi trở về nhà, tôi nhận được một bưu kiện không đề tên người gửi. Khi mở ra, tôi thật sự bị sốc khi đó là những tấm hình mà tôi đã chụp lén gã “đại chúng”. Những tấm hình tôi đã gởi đi cùng với lá thư hướng dẫn chi tiết, bây giờ nó quay về đầy đủ cùng với một lá thư khác.
Tôi mở vội thư ra: đó là thư của hắn. Hắn đã viết thư này để gởi tôi ư?
“Chào anh,
Cám ơn anh vì đã kiên nhẫn chứng kiến những giây phút cuối cùng của đời tôi. Bây giờ chắc anh đã mãn nguyện rồi chứ? Tôi đã hoàn toàn biến mất không để lại dấu vết như anh mong muốn. Nhưng tôi vẫn chưa phải là kẻ vô danh, bởi vẫn còn ít nhất một người đã biết ít nhiều về cuộc đời tôi. Người đó là anh.
Một kẻ vô danh, theo như tôi nghĩ, phải là kẻ biến mất mà chỉ có trời biết, đất biết. Trong trò chơi của chúng ta, tôi chỉ trở nên vô danh nếu anh cũng là kẻ vô danh. Anh có dám làm cái điều mà tôi đã làm hay không?
Cái hố sâu ấy vẫn còn đủ chỗ cho nhiều người, và tôi đang đợi anh đến vào một ngày nào đó.
Nhân tiện đây, tôi xin gởi trả lại anh mấy tấm hình vì không còn ai giữ chúng nữa. Và anh cũng nên biết một điều: tôi chưa lập gia đình.
Chào anh, chúc anh khoẻ. Tôi vẫn luôn đợi anh đến”
Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu làm cách nào hắn lại thực hiện trọn vẹn cái kế hoạch mà tôi chỉ mới tưởng tượng ra trong đầu.

TRÀ ĐÓA

DỊCH VỤ HÓA KIẾP.

tradoa

Có cô nàng làm nghề mát xa đã thủ thỉ với tôi về một “dịch vụ hoá kiếp” lạ lùng bên quận Tư. Theo lời cô thì người ta đổ xô đến đó rất đông chỉ để hy vọng kiếp sau sẽ tốt đẹp hơn. Cô nói đó là điều cô nghe được từ miệng của một cô bạn khác hiện đang bán bia tại một quán nhậu bên ấy. Cô hứa sẽ giới thiệu tôi với cô nàng bán bia vào một dịp thuận tiện.
Rồi một buổi sáng cuối tuần tôi nhận được một cuộc điện thoại với một dãy số lạ. Đầu dây bên kia là giọng của một cô gái nghe rất ướt át. Cô tự giới thiệu mình được cô bạn mát xa cho số điện thoại này và rất muốn được làm quen. Khi tôi hỏi về dịch vụ hoá kiếp gì đó, cô nói sẽ gặp tôi để nói rõ hơn. Và thế là một cuộc hẹn được lên lịch…
Cái quán bia mà cô nàng hướng dẫn cho tôi rất khó tìm. Có lẽ, cũng như những quán đặc biệt khác, nó chỉ dành cho khách quen. Tôi phải mất thêm hai cuộc điện thoại nữa với cô ả mới tìm được đường vào. Quán nằm sâu hun hút trong một con hẻm vắng. Khi tôi đến, cô nàng đã đứng đợi sẵn ngay cổng. Cô tươi cười giới thiệu tôi là khách quen, sau đó dẫn tôi vào một phòng nhỏ rồi sà ngay vào lòng và bắt đầu huyên thuyên đủ thứ chuyện.
Tóc cô nàng nhuộm vàng hoe, móng tay móng chân đều dài và nhọn hoắc lại được sơn màu đỏ chói. Môi cô nàng mọng ướt. Từ người cô toả ra một thứ mùi lạ lùng, có vẻ là kết quả của một cuộc hôn phối tập thể giữa các loại nước hoa, dầu gội, son môi… và cả mùi mồ hôi.
Khi tôi hỏi về cái dịch vụ kia, cô nàng cứ gạt phắt đi và nói cần gì phải vội.
Cô nàng tự động gọi bia, rồi rất tự nhiên, cô nàng tiếp tục làm các công việc mà tôi nghĩ cô đã quá thành thục. Cô khui bia, rót đầy ly cho tôi. Cô lại nâng ly mời. Chúng tôi cùng uống. Thỉnh thoảng cô ả lại ghé môi hôn chụt lên má tôi.
Sau một lúc chếch choáng, hai má cô đỏ hồng. Mắt cô bây giờ nhìn thật hoang dại. Rồi cô nàng đứng dậy, tự động cởi váy bước lên bàn và bắt đầu uốn éo cặp mông, bộ ngực. Thỉnh thoảng cô nhìn tôi mỉm cười. Rồi cô hỏi:
“Em biết múa bụng, anh có thích không?”
Tôi gật đầu.
Vậy là cô nàng chuyển xuống uốn éo nơi vùng bụng…
Tôi nghĩ cô nàng đã làm tất cả những gì mình biết. Cô đã nhảy và uốn éo gần một giờ đồng hồ. Mồ hôi rịn ra trên trán, cô mệt nhoài ngồi phịch xuống cạnh tôi thở dốc.
Bây giờ trông gương mặt cô nhợt nhạt và héo úa. Vẻ tươi tắn ban đầu đã biến đi đâu cả rồi. Cô mỏi mệt nói với tôi rằng liệu tôi có bị sao không, sao cứ ngồi trơ mắt ếch ra như vậy khi cô nhảy múa. Xưa nay chưa có ai như vậy cả, it nhất họ cũng phải chồm tới trước, xoa vào đùi, mò vào chỗ kín, bóp nắn vú… Cô nàng nói đã chờ đợi tôi làm những việc đó. Vì đối với một cô gái làm nghề như cô, không có gì hạnh phúc bằng khi thấy lũ đàn ông như điên dại, mắt hau háu nhìn vào ngực vào đùi như muốn ăn tươi nuốt sống. Cô nhận xét, khi đó mới là bộ mặt thật của họ. Thường ngày họ đạo mạo, ăn nói văn hoa và luôn làm ra vẻ trí thức, nhưng ẩn sau bộ mặt giả tạo ấy là một thế giới nội tâm nhơ nhớp và tầm thường. Cô muốn bọn người ấy phải phô bày bản chất thật của họ ra, để những lúc như vậy, cô có cảm giác của một đấng tạo hoá đang ban phát ân huệ cho lũ con chiên cuồng tín…
Cô nàng nói nhiều, rất nhiều, rồi khóc thút thít…
Cuối cùng cô nàng ướt át cũng nói cho tôi biết cái dịch vụ đó. Cô nói mình cũng chưa đến đó bao giờ, nhưng được một ông thầy thuốc giới thiệu và nói tôi hãy đến chỗ tay thầy thuốc bắc này.
Tuần sau tôi lần mò tới chỗ cô chỉ. Đó là một tiệm thuốc bắc nhỏ với một gã ba tàu mắt hí, bụng phệ. Khi tôi nói mình được cô nàng bán bia giới thiệu, gã đã phá lên cười chẳng cần ý tứ.
“Ờ, ờ, ngộ biết rồi vì đã nghe kể… Bây giờ nhìều người bị lắm. Cứ lấy thuốc uống vài tháng là khoẻ như voi ngay, lúc đó cứ đòi suốt ngày rồi chạy nhông nhông đi tìm cho mà xem…”
Gã cứ nói huyên thuyên và tôi chẳng hiểu mô tê gì. Gã sai một thằng nhỏ lấy ra cả một bao thuốc lớn, có lẽ cũng đến vài chục thang gói sẵn.
Thấy tôi trố mắt ngạc nhiên, gã dặn dò thêm là cố uống cho mau khoẻ để mà làm ăn. Gã nói xong lại nổi cười hô hố. Tôi như muốn phát điên:
“Nè, bớt cười đi! tôi chỉ muốn hỏi về dịch vụ hoá kiếp, hoá kiếc gì đó thôi”
“Ngộ biết, nhưng phải uống thuốc đi đã rồi mới đến chỗ đó được…”
Tôi đành ôm bao thuốc ra về với lời hứa khi nào hết thuốc quay lại đây gã sẽ chỉ cho…
Khoảng vài tuần sau, tôi trở lại. Tôi nói đã uống hết thuốc và thuốc rất công hiệu, cảm thấy người khoẻ hẳn ra. Gã ba tàu nghe khen chắc sướng ran người nên mau chóng tiết lộ địa chỉ. Gã còn cẩn thận vẽ lên một tờ giấy để hướng dẫn cho tôi đường vào…
Tôi lần lượt vượt qua không biết bao nhiêu là hẻm. Chúng đều ngoằn ngoèo và nhỏ hẹp, cứ như đi vào trong hang. Cuối cùng tôi cũng đến được nơi cần đến.
Một bà già mập mạp ăn mặc diêm dúa ngồi giữa chiếc chiếu hoa trải trên nền gạch bông. Phía sau là một bàn thờ Phật khói hương nghi ngút, xung quanh không biết cơ man nào là tượng và bùa chú. Tất cả đều màu đỏ.
Bà ra hiệu cho tôi ngồi xuống trước mặt, ngắm tôi một hồi rồi thở dài lắc đầu.
“Kiếp nạn, kiếp nạn…” – Bà nói chán ngán.
Rồi bất ngờ bà hỏi tôi kiếp sau muốn thành loại nào. Tôi bối rối chẳng biết trả lời ra sao.
“Là cậu muốn thành tỉ phú, giáo sư hay nhà tu hành… Hay lại thích như kiếp này?”
Tôi nghĩ thầm “như kiếp này thì tệ quá,… phải cái gì kha khá một chút chứ”. Nhưng tôi vẫn chưa biết mình muốn thành cái gì…
Bỗng bà vẫy người phụ nữ trẻ đứng cạnh đó ra hiệu. Lát sau, người này mang ra một cuốn sổ lớn và đặt trước mặt tôi. Bà nói:
“Cậu nên đọc trong này, có đầy đủ mọi thứ, thượng vàng hạ cám…”
Tôi lật cuốn sổ ra, chữ viết chi chít đọc hoa cả mắt. Tôi chọn những ngày gần đây và đọc thử.
Đa số là những người làm nghề mạt hạng như đạp xích lô, lượm ve chai, làm gái… Tất cả họ đều có mơ ước giông giống nhau, đều muốn kiếp sau được giàu có, gia đình hạnh phúc và nhất là không phải đi làm mấy cái nghề hạ đẳng như thế này nữa.
Bà nhắc tôi đừng đọc mấy người đó, vì đâu có khó khăn gì để đoán biết ước mơ của họ. Hãy đọc những kẻ thành đạt ấy.
Ừ, lạ thật, những kẻ thành đạt vẫn đến đây. Họ mong gì ở kiếp sau nhỉ? Giàu có, quyền lực,…? Họ đang sở hữu những thứ ấy và mong muốn nó theo cùng họ bước qua kiếp sau?
Có ai lại chả mong đạt được những điều tốt đẹp. Nhưng liệu cái bà loè loẹt này sẽ làm cho hết thảy những người đến đây đều có được những thứ mà họ mơ ước?
Tôi nói với bà rằng chắc mọi người ai cũng chỉ mơ ước giống nhau thôi, đó là một cuộc sống giàu có và quyền thế.
Bà mỉm cười không nói gì rồi chỉ cho tôi một chỗ. Bà nói đó là của một người mới đến sáng nay. Một ông mập, bụng to, làm quan lớn, rất giàu có. Ông ta cũng được tay thầy thuốc bắc giới thiệu đến. Ông ấy chẳng mơ ước gì lớn lao, chỉ mơ kiếp sau có được một dương vật dài, to và không bị bệnh bất lực như bây giờ.
“Cậu nên mơ những gì mà cậu ao ước bấy lâu mà không có, và sẽ khó đạt được vào kiếp này…” – Bà nói nhỏ nhẹ với tôi.
“Nếu cậu ngại nói thì hãy chép vào trong cuốn sổ đó”
Tôi ngồi trầm ngâm một hồi rồi bắt đầu hí hoáy viết.
Xong, tôi đẩy cuốn sổ về phía bà. Tôi thấy bà cúi xuống đọc chăm chú. Bỗng dưng gương mặt bà tái dần, tay bà hơi run, mồ hôi rỉ ra trên trán…
Tôi đứng dậy ra về. Khi bước ra đến cửa, tôi còn nghe tiếng tờ giấy bị xé toạc phía sau.
Thế là xong, mơ ước kiếp sau của tôi coi như tiêu ma.

TRÀ ĐÓA

NHỮNG NGỌN NẾN TRONG ĐÊM.

tradoa

Buổi tối hôm ấy, một cách tình cờ, tôi ngồi đối diện với một ông trung niên có gương mặt u buồn pha chút bí ẩn. Ông ngồi thâm trầm chẳng tỏ ra chút dấu hiệu nào để tôi có thể, ít ra, cũng nở một nụ cười xã giao.
Ông có cách cầm ly khá đặc biệt: chỉ cầm bằng hai đầu ngón tay cái và trỏ, không để cho lòng bàn tay chạm vào ly. Ông khoan thai đưa ly lên ngang mũi, nghiêng nhẹ cho đủ chạm vào môi, rồi uống từng chút một, nhẹ nhàng như vũ điệu của những vũ công lành nghề.
“Chú em mới đến đây lần đầu?” – Bất thần ông ấy hỏi tôi.
“Dạ, lần đầu…” – Tôi hơi giật mình.
Tôi chợt nhận ra mình đã hơi khiếm nhã khi nhìn ông quá chăm chú. Có lẽ ông cũng biết điều đó nhưng giọng nói vẫn không có gì gay gắt.
“Chú em quen với bọn nào ở đây?” – Ông lại hỏi tôi.
“Dạ, em có một người bạn ở hẻm này”
Thực ra, tôi đến hẻm này đã được vài lần nhưng lần nào cũng có cảm giác bất an. Đó là sự ngoằn ngoèo đến khó lường, một âm khí nặng nề bao phủ lấy từng ngóc ngách, thêm mùi xú ế đậm đặc từ dòng kinh nước đen như mực.
“Này, chú mày làm với anh một ly” – Bỗng nhiên ông mời tôi với gương mặt đã dễ cảm hơn.
“Dạ…”
Rồi tôi nâng ly cùng ông.
“Bạn của chú mày đâu?” – Ông lại hỏi tôi.
“Dạ, hắn chưa ra” – Tôi trả lời.
“Sao chú mày không vào nhà?”
“Dạ, em không nhớ nhà…” – tôi cười cười để xác nhận cho cái trí nhớ kém cỏi của mình – “Hắn có dẫn em đến nhà một lần, sau đó em đến lại một mình nhưng không cách nào tìm được. Cho nên tụi em thoả thuận mỗi lần đến thì hẹn gặp nhau ở đây”
Ông phá lên cười sảng khoái:
“Cái độc nhất vô nhị của con hẻm này là ở chỗ đó. Chú mày có vẻ được đấy, uống tiếp với anh chứ?”
“Dạ…”
Tôi lại nâng ly, chạm nhẹ vào ly của ông. Rồi tôi nhận ra một chút bất thường nơi ông:
“Anh chỉ uống có một mình à?”
“Ờ, một mình, anh chỉ uống với bạn bè khi ở nhà thôi”
“Sao anh không mời bạn bè ra đây có phải vui hơn không?” – tôi nói đùa.
“Đây không phải là nơi thích hợp…”
Ông khựng lại và thở dài:
“Anh quen nhiều người ở đây nhưng chẳng chơi được với ai. Bọn này ăn uống như phàm phu tục tử, nốc rượu như nước lã. Bọn chúng cần say chớ đâu cần bạn… Mà thôi, kệ họ, uống tiếp nhé?”
Ông lại nâng ly lên ngang mũi rồi nghiêng cho đủ chạm vào môi. Tôi tưởng tượng, nếu cần cổ ông được làm bằng thuỷ tinh, tôi sẽ thấy được từng giọt rượu mỏng bò chậm chạp qua cái ống dài ấy. Có thể ở những gã phàm phu tục tử kia rượu sẽ tuôn xồng xộc qua ống, dồn dập đến mức họ không kịp thở, mắt trợn trừng lên làm cho gương mặt họ đỏ như gấc…
Tôi lại nâng ly và cố uống chậm chạp. Bên cạnh, bọn phàm phu tục tử vẫn đang nốc như điên loạn. Đã đến cao trào của đêm. Lần lượt những gã lắc lư thay nhau bước ra phía sau để bài tiết. Gương mặt của họ bây giờ trông lờ đờ như ma ám. Những giọng nói lè nhè kể những câu chuyện không đầu không đuôi…
Nhưng ông trung niên vẫn còn tỉnh queo ngồi im lặng, thỉnh thoảng nói vài câu. Có lẽ ông đang ngắm tôi, ngắm cái cách tôi nâng ly và uống. Không biết ông có nhận ra được điều gì đặc biệt hay không. Có lẽ là không. Bởi tôi cũng chẳng có gì đặc biệt, có khi tôi cũng chỉ là hạng phàm phu tục tử. Trước khi nâng ly rượu cùng ông vào tối nay, suốt nhiều năm qua tôi chưa từng nghĩ ngợi gì về cách uống rượu. Đối với tôi, nó chẳng đáng để phải chú tâm.
Đêm đã dần khuya. Có lẽ tôi đã bắt đầu say. Nhưng ông đã lên tiếng nhắc nhở:
“Bạn chú mày chắc không đến đâu nhỉ?”
À, tôi lại quên béng chuyện đó. Lạ thật, sao tôi lại có thể quên chuyện hẹn thằng bạn.
“Dạ, chắc hắn bận chuyện gì đó”
“Chú mày tính sao, uống tiếp hay về?”
“Chắc có lẽ em về”
Ông hơi gật gù một chút rồi nói:
“Hay chú mày đến nhà anh uống tiếp cho vui?”
Tôi lờ mờ nhận ra đó là một lời mời, từ một người đặc biệt và chỉ mới quen.
“Dạ, anh mời em à? Vâng, cũng được, nếu anh không chê thì em xin tới…” – Tôi trả lời như nói từ vô thức.
Và ngay lập tức tôi mơ hồ nhận ra sự nông nỗi của mình. Nhưng có lẽ đã có thứ gì đó toả ra từ giọng nói của ông tựa như sức hút vô hình, hay chỉ là sự phá vỡ điểm tới hạn của trí khôn thường ngày để trí não tôi bước vào vùng kích động không thể cưỡng lại của những tò mò. Tôi không còn khả năng, hay không còn ý muốn chống lại một cám dỗ nhẹ nhàng như vậy.
Ông dẫn tôi qua nhiều ngõ rẽ, chui vào từng góc tối, rồi đến một căn nhà thấp nằm đối diện với con kênh đen.
Ông loay hoay mở cửa và sau đó tôi bước vào căn nhà tối om sặc mùi ẩm mốc.
Ông bật quẹt thắp cây nến. Lạ nhỉ, ông chẳng bật điện. Hay ở đây chẳng có điện. Tôi ngại ngùng bước vào sâu hơn nhưng chẳng dám hỏi. Mà hỏi làm gì, trước sau gì chẳng biết.
Thực ra đã có mọi thứ bày biện sẵn ở căn phòng phía sau. Nơi đó yên tĩnh hơn vì cách xa đường.
Ông bước quanh căn phòng và thắp tất cả những cây nến đã được dựng sẵn ở đó. Rồi khi tất cả chúng cùng sáng lên thì mọi thứ trong phòng đều được soi tỏ. Trước mỗi cây nến đều có một cái ly nhỏ. Tất cả chúng quây quần thành một vòng tròn.
Ông bước tới và ngồi vào đầu cái vòng tròn ấy, còn tôi ngồi kế bên.
Đến bây giờ ông mới lên tiếng:
“Nào các bạn, hôm nay chúng ta có một khách mời. Một chú em tôi mới quen… Không có ai phản đối chứ?”
Những ngọn nến cùng dao động, chao qua chao lại…
Nhìn gương mặt như ngây ra của tôi, ông chỉ mỉm cười mà chẳng giải thích gì.
Rồi làm theo ông, tôi cũng nâng ly, cụng vào bụng ly. Lần này tôi cố học theo cách của ông: nâng ly lên ngang mũi, hơi nghiêng cho chạm nhẹ vào môi, rồi uống từng giọt.
Khi tôi đặt ly xuống, ông nhắc tôi:
“Bây giờ cậu đi rót rượu nhé!” – Ông chỉ tay vào những cái ly trước những cây nến.
Tôi cầm chai rượu lần lượt rót vào từng ly. Khi tôi rót vào ly của mình và cũng là ly cuối cùng, ông đằng hắng vài tiếng rồi nói:
“Từ từ chú mày sẽ hiểu… Đó là những người bạn của anh, họ đang ngồi đó, xung quanh căn phòng, cũng như anh với chú mày đây thôi”
Ông trỏ tay vào những ngọn nến đang lắc lư:
“Họ đang lên tiếng đó, họ đang cười chào cậu…”
Những ngọn nến lại lắc lư mạnh hơn, nghiêng ngả…
“Anh sống có một mình à?” – Bây giờ tôi mới tìm ra lý do để có thể lên tiếng.
“Ừ, một mình. Mà cậu có vợ chưa nhỉ?”
“Dạ có rồi…”
“Trước đây rất lâu anh cũng đã từng có vợ nhưng cô ấy chỉ chịu được có 48 tiếng đồng hồ là bỏ chạy mất dép…”
Ông phá lên cười. Những ngọn nến hình như cũng cười bởi chúng vẹo qua vẹo lại liên hồi.
“… Đâm ra bây giờ anh chỉ sống có một mình cùng những người bạn này”
Tôi nhìn ông, định mở môi nói, thì đã bị ông chặn lại:
“Cậu định hỏi về những người bạn này của tôi?” – Ông chỉ vào những ngọn nến.
Rồi chẳng đợi tôi trả lời, ông giải thích tiếp:
“Thực ra họ đã ở đây từ lâu rồi, ngay dưới lớp đất này. Họ đông lắm, có đến hàng ngàn, hàng vạn,… phải không các bạn?”
Ông quay qua hỏi những ngọn nến. Thật lạ, những ngọn nến cùng gập ngọn lại như gật đầu…
Bây giờ thì dù muốn dù không tôi cũng phải cố hình dung ra những bóng người đang ngồi quây quần thành vòng tròn ngay trước mắt mình. Có thể họ chỉ là sản phẩm tưởng tượng của một kẻ đồng bóng, hay tệ hơn, của một gã tâm thần – kẻ luôn bị ám ảnh bởi những bóng ma. Tôi lần hồi kết nối lại những dữ kiện xung quanh con người đặc biệt này: một kẻ trung niên nhưng cô độc, sống âm thầm không bạn bè trong một căn nhà ẩm thấp, nằm sâu trong một con hẻm dài hun hút như mê cung. Tôi đã từng nhiều lần đến con hẻm này và lần nào cũng có cảm giác nó giống như một cái hang sâu đầy ma lực, nó sẽ hút người ta vào đấy, vào tận nơi tăm tối nhất và mãi mãi không thể trở ra. Không có con đường trở lại cho những người như ông ấy. Có lẽ ông ấy đã lún quá sâu vào cái hang này rồi…
Chúng tôi lại nâng ly. Tôi uống một hơi cạn hết ly rượu rồi cầm chai đi rót. Tôi tưởng mình chỉ làm vậy cho ông hài lòng. Nhưng không,… Tôi giật thót người khi thấy những ly rượu trước những ngọn nến cũng đã cạn khô.
“Bây giờ cậu đã tin chưa?” – Ông mỉm cười ý nhị.
Tôi gật đầu xác nhận rồi im lặng uống tiếp những ly rượu do ông rót. Một lúc sau, khi tinh thần bình thường trở lại, tôi hỏi ông:
“Nhưng họ từ đâu đến vậy?”
“Làm sao biết được hết, họ đến từ khắp nơi. Nhiều lắm, kể sao xuể, bao nhiêu thế hệ với bấy nhiêu nguyên nhân. Từ thời nhà Nguyễn, sang thời Pháp, rồi tới sáu tám, bảy lăm,… Họ nằm chất chồng ở đó nhưng chẳng siêu thoát được. Những kẻ phàm phu tục tử hàng ngày đang ngồi trên lưng, trên đầu họ, hát hò ăn uống, nhậu nhẹt, làm tình, thậm chí phóng uế… Nhưng có ai đoái hoài đến họ đâu. Chẳng ai biết họ tồn tại ở đó. Họ cũng có vui buồn hờn dỗi và chờ đợi trong nỗi niềm tuyệt vọng…”
Những ngọn nến đột nhiên nhỏ lại, hiu hắt như sắp tắt.
“Họ đang buồn đó, có người đang khóc vì mình đã nhắc lại chuyện cũ. Mà thôi buồn làm chi, dù gì thì cũng đã ngủm hết rồi, làm gì có công lý cho những oan hồn, đúng không?”
Ông lại phá lên cười. Những ngọn nến chắc cũng đang cười theo, chúng vụt cháy bùng lên, nổ tanh tách náo nhiệt.
Tôi cũng thấy vui lây…
Chúng tôi lại tiếp tục uống. Rồi ông gõ tay xuống nền nhà hát ê a một bài gì đó. Những ngọn nến cũng lắc lư theo…
*
Tôi say bí tỉ và ngủ lúc nào không hay. Khi tỉnh dậy thì trời đã sắp trưa. Đợi tôi rửa mặt mũi xong, ông bưng đến một tô phở nóng và bảo tôi ăn đi. Tôi ăn xong thấy người khoẻ lại và chuẩn bị ra về.
Ông đưa tôi ra đến tận đầu hẻm. Trước lúc tôi lên xe, ông nói thêm một câu:
“Cậu đã làm được một việc tốt đó…”
Tôi ngớ người chưa hiểu thì ông đã nói tiếp:
“Khi tôi mời được một người thiện tâm đến nhà thì sẽ có một linh hồn được siêu thoát. Đêm qua cậu đã giải thoát cho một oan hồn tội nghiệp ở đó…”
Giọng ông nghe tựa hồ như âm vọng của hơi gió, cứ bám theo tôi không dứt cho đến khi tôi đã rời xa nơi ấy…

TRÀ ĐÓA

Quê ngoại

tradoa

Về quê ngoại là ao ước cháy bỏng khi tôi còn nhỏ. Hồi ấy, hằng năm mẹ đều về vào ngày chạp mả, đâu chừng đầu tháng mười hai âm lịch. Trước khi đi ít ngày, mẹ đã chuẩn bị vài thứ để đem về cúng ông bà. Thường thì chẳng có gì nhiều, vài lon nếp, mấy nải chuối, khá hơn thì có một con gà, nhưng rất hiếm. Ngày ấy, cái nghèo kiệt đeo đuổi hầu hết mọi nhà, đến tận hang cùng ngõ hẻm. Đó là thời đọng lại trong ký ức tôi sâu sắc, không phải vì điều gì lớn lao mà vì nỗi thèm khát được ăn những bữa cơm không độn sắn.
Từ rất khuya, lúc tôi đang ngủ say, mẹ đã dậy đi rồi. Khi tôi quờ tay không thấy mẹ thì khóc thét lên không ai dỗ nín được. Hồi đó, tôi vẫn thắc mắc mãi với câu hỏi:”Tại sao mẹ không dẫn tôi cùng về quê ngoại, dù chỉ một lần?”…
Thường vào những buổi chiều, lúc đứng chơi với lũ bạn, tôi hay chỉ tay về phía dãy núi xa xa lẫn trong mây mù mà nói rằng: “Quê ngoại tau ở phía kia kìa!”. Tôi luôn cố hình dung quê hương của mẹ: “Có giống như rừng không mẹ?” – ý tôi muốn nói đến rừng cát thấp lè tè với cây bụi ở gần nhà. Nhưng mẹ nói: “Không, ở đó núi cao lắm, ngọn này tiếp ngọn kia không biết đâu mà dừng”. Từ đó, quê ngoại đối với tôi là núi cao trùng điệp và xa thẳm…
Khi về nhà chồng, mẹ chỉ mang theo một tấm hình ông ngoại. Mẹ thường lấy hình cho tôi xem, rồi nói: “Ông mất rồi, vào năm 67”. Tôi hỏi: “Thế bà ngoại đâu?”, mẹ nói: “Bà mất trước năm năm mươi, lúc mẹ chỉ mới ba tuổi”. Từ đó, tôi biết rằng mình sẽ không bao giờ được sà vào lòng ông bà ngoại như bao đứa trẻ khác nữa.
Vì bà ngoại mất sớm, nên trong ký ức của mẹ chỉ có hình ảnh ông ngoại. Mẹ nói ông hát rất hay, hồi còn trẻ ông theo nhóm hát “nhân ngãi” đi hát nhiều nơi ở vùng miền núi. Mẹ còn nói, trước mẹ đã có hơn ba lần bà ngoại sẩy thai vì vậy mẹ là con một, ông ngoại rất cưng chiều. Sau khi bà ngoại mất, ông có thêm một đời vợ nữa và nghe nói được một đứa con trai. Nhưng mẹ con bà ngoại kế đã dẫn nhau về vùng biển quê bà, hình như ở Kỳ Hà, mẹ nhớ không chính xác…
Từ Quán Rường đi lên, qua Eo Gió, lội thêm mấy ki lô mét đường núi nữa là đến quê mẹ. Hồi ấy, đường đi trơn trượt, núi đá nhấp nhô, chỉ mấy chục cây số mà như xa vạn dặm.
Quê ngoại như tiếng gọi từ núi ngàn xa xôi, tôi ao ước ngày đêm, lẫn vào trong những giấc mơ, ngày trở về nơi mà lẽ ra tôi đã quen thuộc như bao đứa trẻ khác, từ thuở mới lọt lòng.
Tôi đã mang một nửa dòng máu xuất phát từ nơi mà tôi chỉ mới nghe nói đến. Dòng máu của tôi ngày đêm chảy trong huyết quản, nóng rực, cuồn cuộn. Nó thôi thúc, giận hờn không lúc nào nguôi. Tôi phải trở về nơi ấy, nhất định như thế. Trở về để thắp nhang lên mộ ông bà ngoại, thăm lại ngôi nhà cũ trong một khu vườn rộng với nhiều cây mít già cỗi. Tôi đã khóc bao đêm, xót xa cho mẹ, cho tôi, cho quê ngoại tít mù. Tôi tự hứa với lòng một ngày nào đó sẽ tìm về, dù cho nơi đó chỉ còn là một nấm đất hoang sơ, hay khu vườn cũ đã trở thành vườn hoang mặc cho cây dại mọc đầy…
Tôi sẽ trở về để thực hiện di chúc của sự tưởng tượng – di chúc của mẹ – dù mẹ không nói gì và nhắm mắt khi tôi đang ở rất xa…

*

Tôi vẫn hay tưởng tượng ra những vách núi đá cheo leo. Tôi cố bám vào để leo lên. Tôi vô vọng nhìn lên đỉnh xa vời, và phía dưới là hố sâu thăm thẳm. Con đường mòn xuyên qua núi đầy những đá tai mèo. Những bước đi cẩn trọng, những con vắt sẵn sàng xông ra bám đầy vào những vùng da màu mỡ để hút máu. Tôi đang cố, người tôi toát mồ hôi, thần kinh căng thẳng. Tôi không dám ngước mắt nhìn lên trên, bởi những mỏm đá nhọn hoắc đâm ra trơ trọi như một lời hăm doạ lạnh người.
Mẹ thường gánh hai đầu đầy mắm cá cơm. Mỗi lần đi, mẹ chuẩn bị mắm cá cơm để lên bán kiếm lời. Đòn gánh trĩu nặng, bước chân mẹ nặng nhọc lê từng bước trên con đường núi. Mẹ cố từng bước một qua Eo Gió. Cứ vậy, hằng năm, mẹ trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình một cách nặng nhọc. Gió núi hú trên vách đá, mây ngàn giăng mù đón mẹ về.

*

Khu vườn nằm trên nách đồi, mặt hướng ra một thung lũng hẹp. Trong vườn âm u, hàng chục cây mít già cỗi ra trái trĩu nặng. Không ai đủ sức để hái nên chúng chín rục trên cây rồi rụng xuống, vỡ ra nhòe nhoẹt trên mặt đất cứng làm mồi cho lũ ruồi xanh bâu đen kịt. Ở phía trên cùng của khu vườn, một ngôi nhà năm gian vách gỗ mít, mái tranh thấp khuất dưới lùm cây.
Một buổi sáng không biết là vào mùa nào, mây mù sà xuống che kín cả thung lũng, hơi núi hắt ra lạnh ngắt: mẹ đã được ra đời. Vào buổi sáng mà không có một chút ánh sáng nào đón mẹ ; lúc đó, ông ngoại vẫn còn đang đi hát “nhân ngãi” ở tận đâu chưa về. Rồi cùng với gió núi, với tiếng vọng của đại ngàn, mẹ hiện diện như một phần của sự âm u nơi này.
Rồi tuần sau, ông ngoại về. Ông bế mẹ lên ngắm nghía, rồi đi ra khu vườn. Ông đi thong thả qua từng gốc mít, cuối cùng ông dừng ở triền đồi. Đôi mắt tròn xoe của mẹ nhìn ra phía trước, nơi thung lũng hiu hắt vàng vọt những ruộng lúa bậc thang nhỏ bé xen kẽ nhau không theo một trật tự nào. Từ ngày ấy, ông ngoại bỏ luôn chuyện đi hát để ở nhà trông mẹ. Ông chăm sóc mẹ từng chút một. Đôi bàn tay thô ráp của ông tắm cho mẹ hàng ngày. Bà ngoại từ lúc sinh xong thì bịnh liên miên. Bà chỉ nằm yên một chỗ, nên mọi chuyện trong nhà một tay ông ngoại lo liệu.
Ngày tháng chậm chạp trôi qua như những đám mây xám nặng nề trên đỉnh núi Chúa…
*

Vào một ngày nào đó không có trong ký ức của mẹ, một ngày đặc biệt, trời mưa tầm tã, nước từ trên núi đổ xuống thung lũng như thác lũ. Lúa và hoa màu bị nước cuốn trôi đi. Những người không kịp chạy lên đồi cũng bỏ mạng theo dòng nước dữ. Cái tang tóc khủng khiếp phủ lên khắp làng. Hàng đêm, ngoài tiếng gió hú vọng về từ đại ngàn, lại thêm tiếng than khóc ai oán của những người mất người thân. Những tiếng khóc theo gió dội vào vách đá, lao xuống vực sâu, men theo triền núi, lẩn vào từng tán lá rậm rạp hay phiêu diêu qua những cánh đồng bậc thang…rồi chảy về xuôi.
Và vào những ngày tang tóc ấy, bà ngoại lên cơn bệnh nặng. Trước lúc lâm chung, ông ngoại bế mẹ đến trước mặt bà, đôi mắt khô khốc của bà nhìn mẹ tuyệt vọng. Mẹ chưa đủ lớn để nhận ra được điều khủng khiếp sắp xảy đến. Mẹ vẫn mở đôi mắt tròn to đen láy nhìn hồn nhiên ra xung quanh.
Đám tang bà ngoại được tổ chức rất đơn sơ. Mộ bà ngoại nằm ở chân núi Chúa, hướng ra thung lũng. Ngày ấy mẹ vẫn chưa đủ lớn để cảm nhận đau thương…
Nhưng đau thương có bao giờ mất đi, nó ngưng đọng lại bên rìa dòng thời gian, lẩn trốn vào đời thường, và theo từng bước chân mẹ. Để một ngày, nó hằn lên trán mẹ thành những nếp nhăn hay lẫn vào nỗi buồn thành những giọt lệ nhỏ long lanh, mỗi khi nhớ về chuyện cũ. Những lúc đó, tiếng mẹ thở dài nghe thật sầu não. Còn đôi mắt của mẹ, nó vẫn tròn và to đen láy như khi còn trẻ, nhìn ra xa xăm. Những lúc như thế, tôi liền phóng ra sân và nhìn về phía tây, nơi có những dãy núi trập trùng lẫn khuất trong mây mù…

*

Trước khi những cơn mưa dầm dai dẳng mùa đông đổ về, bầu trời đen kịt những mây. Ngoài đồng mọi người đang hối hả gặt nốt những thửa lúa cuối cùng trước khi bị dìm trong nước lụt.
Mùa đông đến…
Mẹ thường ngồi trong bếp một mình, ít khi mẹ lên nhà trên, nơi có gian thờ chính. Mẹ ngồi im lặng hàng giờ, tay thỉnh thoảng thêm củi vào bếp. Những lúc như thế, tôi hay sà vào ngồi bên cạnh. Lúc đó tôi cũng chẳng hiểu được gì, nhưng nhìn ánh mắt buồn của mẹ, tôi biết mình phải yên lặng.
Bây giờ đã sắp đến ngày ấy, nhưng tôi thấy mẹ chẳng có ý gì là chuẩn bị hay sửa soạn. Tôi vội hỏi: “Bữa mô mẹ về ngoại”. Mẹ chỉ lắc đầu: “Năm nay chắc chẳng còn ai nữa mà về. Mồ mả để dòng họ lo”.
Năm ngoái khi lên ngoại về, mẹ nói rằng ông ngoại Mười – người cuối cùng của gia đình ông cố ngoại đã mất. Ông ngoại Mười, cũng giống như ông ngoại của tôi, chỉ có được một người con gái và cũng đã về theo quê chồng.
Rồi mẹ bắt đầu rủ rỉ kể chuyện dòng họ của mẹ cho tôi nghe.
…Dòng họ lê của mẹ cũng đông đúc và chia làm nhiều phe. Có người bỏ vào núi theo Việt cộng, và cũng có người là sĩ quan, công chức của Miền Nam. Còn lại đa số đều là dân nông. Mẹ kể, vào những ngày cúng tộc, thường họ chẳng nhìn mặt nhau. Ai làm phận nấy rồi về.
Riêng gia đình ông cố ngoại có cả thảy 10 người con, vừa trai vừa gái. Những người con gái (tôi gọi bằng bà ngoại cô) đã lấy chồng. Có đến năm người con trai, nhưng đến lớn chỉ còn 3 người. Và chỉ duy nhất ông ngoại thứ ba có một người con trai.
Mộ ông cố ngoại nằm trên một sườn đồi đầy đá. Mẹ nghe kể lại rằng, có một ông thầy địa lý đi ngang qua đã nói: “Mộ này chôn ở đất tuyệt tự, phải mau dời đi”. Nhưng không hiểu sao, cả ba người con trai không ai chịu nghe theo.
Những người con gái lần lượt lấy chồng xa. Những ông ngoại đều lần lượt theo tổ tiên. Lời ông thầy địa lý năm xưa đã thành sự thật…
Người con trai duy nhất của ông ngoại thứ ba (tôi gọi bằng cậu) trước bảy lăm là trung uý hải quân, sau bảy lăm cũng bỏ đi đâu mất dạng. Nghe đồn cậu đã đi Mỹ, nhưng chẳng có tin tức gì.
Đôi mắt mẹ trở nên u sầu hơn. Càng ngày mẹ càng ít cười.
Rồi cũng từ đó, rất ít khi tôi được nghe mẹ kể về quê ngoại nữa. Tôi cũng thôi không còn giữ thói quen nhìn về dãy núi xa xa phía tây mỗi khi chiều xuống. Và dần dần, tôi cũng quên lãng quê ngoại và nỗi ước ao cháy bỏng được về nơi đó…

*
Ngày mẹ mất, tôi đang học ở Sài Gòn. Tin đến như một vết dao đâm ngang ngực. Tôi ngồi oà khóc ngay hành lang giảng đường…Thế là hết. Tôi nghĩ mọi thứ đã gần hết rồi, khi mẹ tôi ra đi.
Nhưng đó cũng là lúc, một lần nữa, và cũng là lần sau cùng, những ước ao cháy bỏng của thời thơ dại lại hiện về thôi thúc dữ dội. Để sau đó, trong nỗi đau nhớ mẹ, những ký ức cóp nhặt về quê ngoại lại hiện lên trong tôi.
Nhưng ngay khi cơn xúc động vừa lắng xuống, một vực thẳm cũng kịp hình thành, xé tan bức màn đen của nỗi buồn chất chứa bao lâu, để tôi chợt nhận ra rằng, nơi mà tôi gọi là quê ngoại ấy cũng chẳng còn gì. Chưa bao giờ tôi được chạm tay vào đó, không bóng dáng người, không niềm an ủi và mãi mãi không có chút ký ức nào.
Mẹ tôi đã mang theo vĩnh viễn.

Sau này, thỉnh thoảng khi đi xe ngang Tam Kỳ, tôi vẫn thường cảm thấy bồi hồi mỗi khi nhìn về hướng núi. Ở đâu đó, lẫn trong trùng điệp xanh thẳm của dãy Trường Sơn, là quê ngoại của tôi, hiện diện như là một huyễn tượng buồn đau của một kiếp người.

TRÀ ĐÓA