CƯỠI NGỌN SẤM 30

cuoingonsam

richardbotkin

Chương 25

Chính ngọ tại Đông Hà

Cho đến sáng sớm ngày Chủ Nhật lễ Phục Sinh thì cuộc tổng tấn công “Nguyễn Huệ” kéo dài gần bốn ngày đã lan rộng và lôi cuốn cả hai bên lâm trận: quân Bắc Việt trên đà thuận lợi trong khi phe VNCH bị thất thế hơn. Sự kiện Trung đoàn 57 rút lui và trở thành một cuộc thoát chạy tán loạn, đồng thời với sự hỗn loạn và sương mù bao trùm vùng địa hình đặc biệt đó của Vùng I Chiến Thuật đã để lại những hậu quả xấu càng lúc càng nhiều. Khi mất trật tự thì mất lòng tin, mà khi đã mất tự tin rồi thì các tin đồn, nhất là tin đồn thật xấu sẽ thay vào khoảng trống thiếu thông tin.

Không ai rõ là tin tức về việc quân Bắc Việt và đoàn chiến xa hộ tống đã vượt qua cầu và đang làm chủ tình hình một phần của Đông Hà có phải do binh sĩ và truyền tin của Trung đoàn 57 bị đánh tan rã loan truyền ra nhằm bào chữa cho sự tháo chạy hèn nhát của họ hay không. Ngoài ra bọn Bắc Việt lâu nay vẫn chứng tỏ sự quỷ quyệt trên nhiều mặt và có thể chính bọn chúng đã xâm nhập vào mạng lưới vô tuyến phe ta bằng cách sử dụng các thiết bị được bỏ lại để loan truyền tin thất thiệt nhằm có lợi cho chúng. Cường độ các loạt pháo kích gần đây cho thấy là cũng không khó tin lắm nếu cho rằng quân Bắc Việt đã thực sự đến Đông Hà rồi. Tuy nhiên điều đó không đúng sự thật hoặc ít nhất là chưa đúng.

Cả Bình và Ripley đều hiểu sự tác hại ngấm ngầm của các loại tin đồn đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến phe ta và dân còn bị kẹt lại, ngay cả ảnh hưởng dến các binh sĩ TQLC nữa. Chắc chắn trong lòng họ cũng hoang mang như các đơn vị QLVNCH đang tháo chạy một cách nhục nhã, tuy chưa hề có một chiến sĩ Sói Biển nào rời bỏ vị trí chiến đấu. Sự khác biệt ở đây là tinh thần kỷ luật tột bực, tính chuyên nghiệp và tài lãnh đạo chỉ huy. Hành động táo bạo, quyết liệt và lời nói rất cần để xoay chuyển tình thế, nhằm cổ động tinh thần các lực lượng VNCH, gieo niềm hi vọng và mục đích vào trong lòng họ và cho họ biết là cuộc chiến chưa chấm dứt.

Người Mỹ và người phương Tây nói chung có thể sẽ hiểu được tính cách và bản chất của những lời động viên, tuy có màu mè nhưng hết sức cần thiết cho tình hình mà Lê Bá Bình sắp sửa tuyên bố sau đây. Những ai am tường về lịch sử chắc hẳn sẽ nhớ lại kiểu diễn văn ngắn gọn của Winston Churchill “Đây là giờ phút ưu việt nhất của họ,” hay của John Paul Jones “Tôi chưa bắt đầu chiến đấu…”

Để dập tắt cơn bão, Bình ngỏ lời trước với John Ripley, nói là anh muốn người cố vấn này hãy loan báo cùng một thông điệp với anh cho cả “thế giới” được nghe. Mục đích của Bình là muốn cho phe Cộng sản lẫn phe ta đều nghe được nếu bắt trúng tần số truyền tin. Nếu địch nghe thì chúng sẽ hiểu là đã có một “cảnh sát trưởng” mới trong thị trấn rồi. Sẽ không còn dị nghị hay lập lờ gì nữa. Không rút lui, không nhường đất mà không buộc phải trả giá thật đắt. Từ thuở còn là một cậu bé ở Tân Định, Bình đã hết sức ngưỡng mộ Gary Cooper và đã xem các phim có anh đóng, mà hầu hết là xem nhiều lần. Ngày hôm nay chính là thời điểm “Chính Ngọ” của bản thân và anh sẽ cố thủ vị trí của mình với cơ may còn tồi tệ hơn của Cooper rất nhiều.

Trong bối cảnh lịch sử lâu dài của Việt Nam, những câu nói của Bình có thể được đem ra để so sánh với bất cứ lời tuyên cáo nào của các anh hùng hào kiệt nổi tiếng hơn trong lịch sử mà nam nữ học sinh Việt Nam đều biết. Và nếu như các Sói Biển có thể trụ lại được tại đây và bằng cách nào đó giúp xoay chuyển được tình thế thì phần đóng góp của họ trong lịch sử hai ngàn năm liên tục chống ngoại xâm và áp bức sẽ được ghi nhận.

Hiện tại thì Bình không có thời gian để nghĩ về vai trò của mình trong lịch sử vào buổi sáng ngày lễ Phục Sinh đó. Anh chỉ muốn tập trung vào việc tuân hành mệnh lệnh và ngăn chận Cộng sản; tức trấn giữ Đông Hà bằng mọi giá. Bình thấu hiểu mệnh lệnh như vậy sẽ có hậu quả như thế nào. Nhưng anh đã quyết chí và sẽ dốc lòng thi hành nhiệm vụ.

Liệu hành động của Bình và 700 binh sĩ Sói Biển anh chỉ huy để chống lại 20.000 quân xâm lược có thể sánh được với Hai Bà Trưng hai ngàn năm về trước hay của vua Lê Lợi vào thế kỷ 15 hay không thì còn phải chờ đó để xem xét lại. Chuyện này tùy thuộc vào điểm họ sẽ chiến đấu dũng mãnh như thế nào và nhất là có được ai ghi chép lại trận giao tranh sắp xảy ra mãnh liệt tại Đông Hà hay không?

Các binh sĩ Sói Biển mang cảm giác lẫn lộn, vừa đau đớn vừa động lòng trắc ẩn khi chứng kiến, từ các chiến hào mới đào sát bên cạnh cây cầu và dòng sông, nhóm binh sĩ mới vài tiếng đồng hồ trước đây còn là lính của Trung đoàn 57 nay đang tháo chạy toàn bộ lẫn lộn với các nạn nhân chiến cuộc đầy bất hạnh. Không có ai trong các binh sĩ của Bình mà không khinh bỉ bọn đào binh VNCH này. Họ đã chấp hành kỷ luật ở lại Đông Hà theo lệnh, nhưng đối với một số TQLC thì họ cần phải giữ vững tinh thần kỷ luật hơn để không phải quay súng bắn vào những kẻ cho đến giờ phút mới đây còn là đồng đội không tương xứng với mình trong việc chung vai gánh vác. Hành động phí phạm số đạn dược quý giá này chỉ làm hạn chế thêm khả năng chống cự lại bọn Bắc Việt đang tấn công vì công tác tiếp tế hiện gặp nhiều trở ngại. Đáng lẽ ra các binh sĩ Trung đoàn 57 đã có thể cáng đáng phần nào trách nhiệm phòng thủ cái khu vực này của tỉnh Quảng Trị mà then chốt là cây cầu Đông Hà thì nay nhiệm vụ này rơi xuống bốn Đại đội TQLC, tăng cường thêm một Tiểu đoàn Thiết Giáp chưa được thử lửa bao giờ.

Bình và Ripley leo lên một chiếc M-48 thuộc Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp, bất chấp nguy hiểm di chuyển về Đông Hà khi nghe tin đồn thất thiệt là quân Bắc Việt đã vượt qua sông. Bình ra lệnh cho chiến xa tạm ngừng lại và cả hai nhảy ra khỏi xe tăng để truyền tin. Bản tin được gởi đi qua hai hệ thống. Vẫn bằng một phong thái bình tĩnh cố hữu, Bình quay sang phía viên cố vấn mà anh rất tin tưởng, nói:

Đại úy Ripley, nếu anh đồng ý, tôi sẽ gởi một thông điệp qua mạng lưới chỉ huy của tôi và xin anh cũng làm như vậy qua hệ thống cố vấn của anh để không thể có một sự hiểu lầm nào hết.

Bản hiệu lệnh như sau:

Có tin đồn là Đông Hà đã thất thủ. TQLC vẫn còn ở Đông Hà. Lệnh của tôi là tử thủ Đông Hà. Chúng tôi sẽ chiến đấu tại Đông Hà và chúng tôi sẽ chết ở Đông Hà. Chúng tôi không bỏ nó. Khi nào còn một chiến sĩ TQLC, Đông Hà vẫn thuộc về chúng ta.

DAVID CHỐNG LẠI GOLIATH – PHONG CÁCH CỦA TQLC VIỆT NAM

Hạ sĩ Lượm là trưởng toán hỏa tiễn chống chiến xa cho toán A của Trung Đội Vũ Khí Nặng thuộc Đại Đội 1. Trước khi nắm quyền chỉ huy Tiểu đoàn 3 và trước khi làm Tiểu đoàn phó, Bình đã từng là Đại đội trưởng Đại đội 1. Bình biết Lượm rất rõ. Anh biết Lượm là một chiến sĩ TQLC giỏi, một người chỉ huy có bản lĩnh, nhanh nhẹn, cương quyết và dũng cảm. Phụ trách toán hỏa tiễn chống chiến xa không có ý nghĩa gì nhiều mà chỉ là thêm một trách nhiệm cho lính tác chiến. Hiện không có nhiều hỏa tiễn lắm, trong trường hợp này là súng phóng hỏa tiễn M-72 LAAW. Theo những điều mà người khác báo cáo lại cho Bình và Ripley thì trong thời điểm này của cuộc chiến chỉ có khoảng 10 khẩu trong toàn bộ Tiểu đoàn.

SÚNG PHÓNG HỎA TIỄN M-72

Được coi như là một loại vũ khí “đời mới” trang bị cho lính bộ binh nhằm thay thế cho khẩu Bazooka đáng nể nhưng không hiệu quả lắm trong thế chiến thứ II tuy có một vài lần nổi tiếng hữu hiệu trong chiến tranh Triều Tiên, súng phóng hỏa tiễn M-72 (Light Anti-Armor Weapon LAAW) – thường được gọi là “khẩu LAAW,” cũng không được ưa chuộng lắm để được binh lính tặng cho biệt danh. Được mang ra sử dụng vào giữa thập niên 1960 cho các đơn vị Hoa Kỳ và NATO, loại vũ khí mới này có một vài đặc tính phù hợp với thời đại 60: gọn nhẹ, xài xong một lần bỏ đi và có một đầu đạn đủ sức xuyên phá nhiều lớp sắt thép. Đối với các lực lượng NATO, đó là vũ khí của khối Liên Minh Bắc Đại Tây Dương đối chọi lại với khẩu phóng lựu B-40 (Rocket Propelled Grenade RPG) của khối Hiệp Ước Varsovie. Khẩu M-72 có thể được mang theo, giống như mọi thứ mà quân đội Hoa Kỳ vác theo – và họ có vẻ mang theo quá nhiều thứ trang thiết bị – vào chiến trường để sử dụng chống các loại thiết xa và vị trí phòng thủ kiên cố. Tại Việt Nam là một nơi hầu hết không phải là xứ dành cho chiến xa, khẩu LAAW được quan niệm để sử dụng chống lại các hầm hố ngụy trang khéo léo có khắp mọi nơi của bọn Bắc Việt và Việt Cộng quỷ quyệt.

Được mệnh danh là một loại vũ khí có thể “xuyên phá 12 inch thép nguyên chất,” các huấn luyện viên khắp xứ liên tục huênh hoang điều này làm như họ biết rõ “thép nguyên chất” là cái gì vậy. Có lẽ họ liên tưởng đến sữa tươi và lạnh. Cũng chẳng sao. Nếu sử dụng đúng cách, đầu đạn LAAW có thể, trên lý thuyết, xuyên thủng tất cả các loại chiến xa của khối Hiệp Ước Varsovie và thực hiện mỹ mãn công việc thiêu sống đám lính bên trong.

Cái trở ngại lớn nhất là tầm hoạt động của súng. Giống như cái Bazooka, tầm hiệu quả tối đa theo quảng cáo là trong khu vực từ 200 đến 250 mét. Bất cứ tay súng nào mà chịu nằm yên cho tới khi một chiếc chiến xa 40 – 60 tấn đến gần phải là một gã có hai “hòn dái” khổng lồ hoạt động tối đa nhằm đủ sức sản xuất ra lượng testoterone phụ trội cần thiết, hay đơn giản hơn phải là một thanh niên chỉ muốn đi tìm cái chết. Một người ôm một cái LAAW ở khoảng cách 250 mét tức là nằm trong tầm bắn của tất cả mọi thứ gắn trên chiến xa; khẩu cà-nông và tất cả các khẩu súng liên thanh kèm theo. Bộ nhắm dùng cho súng LAAW gồm từng nấc 25 mét ngụ ý cho xạ thủ là nếu biết khéo léo sử dụng sức gió cộng với “lời cầu nguyện” thì may ra có khả năng bắn trúng một mục tiêu đang đe dọa mình. Các ý tưởng và sự so sánh trong câu chuyện “David chống lại Goliath” quả là không ngoa chút nào.
Ngay cả sau khi đã bắn một quả LAAW trong lúc thực tập và

thấy rõ ràng sức phá hoại được gây ra cũng chưa chắc đã tạo đủ niềm tin rằng cái khẩu mình đang mang theo sẽ làm được trò trống gì. Với cái vỏ làm bằng một loại nhựa và sợi thủy tinh, khẩu M-72 cũng vô dụng nếu phải cận chiến và sẽ vỡ vụn ngay nếu muốn dùng nó như là một cái gậy bóng chày nhằm đập vào đầu địch. Cái trọng lượng nhẹ – nặng vào khoảng hơn năm cân Anh một chút kể cả đầu đạn bên trong – tạo ra cái cảm giác không tương ứng với sức công phá theo như trong tài liệu. Nếu được sử dụng như một vũ khí phá hầm hố và công sự phòng thủ khi không có các loại vũ khí hỏa lực trực tiếp nào khác thì xài khẩu LAAW cũng tạm được. Tuy nhiên để hoàn thành thành tích đáng kể diệt nổi một chiếc chiến xa đòi hỏi rất nhiều thứ; trong đó tất cả các quân bài phải được chia tuyệt đẹp và các tinh tú tử vi phải được nằm đúng ngay cung đã định!

Hạ sĩ Lượm và một TQLC trong toán hỏa tiễn đã áp sát đầu Nam của cầu Đông Hà trong tư thế vừa lom khom vừa bò tới. Trong lúc bò, vẫn còn một số người tỵ nạn đang chạy băng qua cầu mặc dầu số lượng nay đã giảm đi rất nhiều. Bọn Bắc Việt đã đến phía bờ Bắc của sông Cam Lộ-Cửa Việt cùng cây cầu thành thử lượng giao thông đã giảm hẳn. Không còn lính tráng nữa, hay ít nhất là không còn lính đào ngũ của cái Trung đoàn 57 đáng xấu hổ chạy lẫn trong đám người thất thểu nữa.

Hầu để tự bảo vệ, mà có lẽ do tâm lý nhiều hơn là những gì khác, Hạ sĩ Lượm và anh bạn đồng đội trẻ đẩy ra phía trước hai chiếc thùng đạn chứa đầy cát trong lúc đang trườn tới vị trí tác xạ tại phía Nam của cây cầu nhằm có một tầm bắn trực xạ qua đầu cầu phía Bắc nếu địch tràn qua. Dân chúng vẫn còn tiếp tục vượt qua cầu mặc dù số lượng có giảm đi nhiều trước khi bọn Bắc Việt xuất hiện. Hai chiến sĩ TQLC chậm rãi bò vào vị trí tác xạ khoảng 200 mét trước một chiếc T-54 lẻ loi màu lục của Bắc Việt đang chuẩn bị tiến lên cầu từ bờ Bắc của dòng sông.

Trong lúc hai người đang làm chuyện này thì giao tranh bùng nổ khắp nơi. Bình đã đưa Đại đội 1 vào vị trí sát cạnh dòng sông phía Đông của cây cầu với trách nhiệm phòng thủ cho cả cây cầu. Đại đội 4 thì được giao trách nhiệm chiến thuật bảo vệ phía Tây cây cầu. Cánh chỉ huy Alpha có Ripley, các nhân viên truyền tin gồm cả Nhã và toán cận vệ của Bình cùng với thành phần bộ chỉ huy Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp VNCH thì lui xuống khoảng 50 mét từ chỗ giao tranh nhằm kiểm soát và quan sát dễ hơn. Từ vị trí thuận lợi đó, Bình, Ripley, Smock và ông xếp Việt Nam có thể theo dõi trọn vẹn từ trên xuống dưới được cả hai bờ của dòng sông.

Ripley quan sát Hạ sĩ Lượm mà anh mới gặp với tất cả sự say mê. Lượm và tay TQLC cố ý chậm rãi vào vị trí trong khi vừa đẩy vừa kéo hai cái thùng đạn với hai khẩu LAAW chưa mở khóa an toàn. Không cần phải thông minh lắm cũng hiểu được chuyện gì sắp xảy ra. Nếu Lượm và người kia mỗi người nặng 100 cân khi ướt sũng thì chắc Ripley phải nặng như ông già Nô-en. Không biết là Bình có thấy hay không nhưng Ripley cũng gọi với qua: “Thiếu tá!” và đưa ngón tay chỉ chỏ. Bình nào có sót điều gì. Anh rất rành kinh Cựu Ước tuy là Phật tử nên câu trả lời của anh cho viên cố vấn bằng Anh ngữ thật chuẩn không làm Ripley ngạc nhiên. “Ripp-lee. David chống Goliath!” Bình mỉm cười, thật sự là mỉm cười thậm chí đến độ gần như bật cười khi tuyên bố như vậy. Ripley chưa hề thấy Thiếu tá Bình cười bao giờ kể từ lúc họ đến Đông Hà vào khuya ngày 30.

Lê Bá Bình đã dành trọn cuộc đời binh nghiệp của mình với cương vị sĩ quan TQLC của Tiểu đoàn 3; một quãng đời dài gần bằng hai lần rưỡi thời gian tham chiến của Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ II, và dài hơn bốn lần thời gian phát sóng của chương trình “Batman” trên băng tần chính đài truyền hình Mỹ. Như vậy ngoại trừ non một năm được thụ huấn tại trường căn bản quân sự ở Quantico với tư cách sĩ quan của Tiểu đoàn 3, Bình đã phục vụ và chiến đấu trong hàng ngũ Sói Biển trong suốt thời gian còn lại.

Để hình dung sự việc theo quan điểm của người Mỹ, Bình đã gia nhập Tiểu đoàn 3 cùng lúc với chương trình Beverly Hillbillies xuất hiện trong sinh hoạt hằng ngày của người Mỹ. Cho đến buổi sáng lễ Phục Sinh 1972 thì chương trình Jed, Grannie, Ellie Mae, và Jethro đã được chiếu đi chiếu lại một năm rồi. Mà Bình vẫn còn chiến đấu như thường lệ.

Đến nay, Bình đã tám lần bị thương nếu dựa vào tiêu chuẩn để được tặng thưởng Chiến Thương Bội Tinh mà anh bạn John Ripley đã áp dụng khi còn làm Đại đội trưởng Lima Company từ hồi 1967: “bị ngã gục,” tức phải bị trúng đạn và vết thương phải là hậu quả trực tiếp lúc giao tranh với địch quân. Nếu áp dụng tiêu chuẩn thấp hơn, mà trên thực tế không ít binh sĩ Mỹ đã sử dụng để đòi thưởng Chiến Thương Bội Tinh thì các vết thương của Bình quá nhiều không thể nào đếm xiết.

Các huy chương cá nhân của Bình bao gồm hầu hết tất cả các loại dành cho lòng dũng cảm và tài chỉ huy xuất chúng hiện có của cái đất nước còn non trẻ, trong đó có nhiều chiếc được tặng thưởng nhiều lần. Giờ đây thì Ripley đã quá quen thuộc với các loại huy chương của các chiến sĩ QLVNCH, chẳng hạn khi họ xuống Sài Gòn tham dự những buổi lễ như đám cưới của Bình, cho nên anh đã có khả năng – giống như anh vẫn thường quan sát các binh sĩ Hoa Kỳ – nhìn một người mặc quân phục, dựa vào số huy chương đeo trên ngực để “đọc” và hiểu rõ cuộc đời binh nghiệp và chiến đấu của người đó như thế nào. Ngoài ra Bình cũng đã từng được tặng thưởng bốn Ngôi Sao Đồng của Hoa Kỳ trong những lần hành quân hỗn hợp với quân đội Hoa Kỳ trước kia. Điều này hiển nhiên đã chứng tỏ cho mọi người thấy, chỉ riêng trên khía cạnh hạn hẹp này, là ít có người sánh nổi với Bình trong cái “nghề nghiệp” chiến đấu của anh.

Các huy chương mà Bình được thưởng, giống như đối với các chiến sĩ thực sự khác, cũng không đo lường được hết lòng dũng cảm, sự tận tụy cho quê hương hay chiều sâu của lòng hi sinh của anh. Điều quan trọng hơn cả là uy tín của Bình trong cái tập hợp nhỏ các sĩ quan TQLC Việt Nam đang chung sức gánh vác quá nhiều cái gánh nặng bảo vệ quê hương điêu linh. Trong nhóm các nhân vật quyết tâm và tin cậy này thì Bình được coi là “người nhà” và được tất cả công nhận là một trong những người xuất sắc nhất. Khả năng chỉ huy của anh xuất chúng. Các ý kiến của anh đáng tin cậy và được đánh giá cao. Anh là người đã tạo ra sự khác biệt cho binh chủng TQLC nói riêng và cho đất nước VNCH nói chung.

Đối với người Mỹ, cái khái niệm đi chiến đấu gian khổ trong suốt 10 năm trời có vẻ như là một thiên thu. Nhưng trong suốt chiều dài lịch sử hai ngàn năm của Việt Nam được điểm tô bằng quá nhiều cuộc đấu tranh và xung đột, xâm lược và chinh phục, thì hơn ba ngàn ngày chiến đấu của Bình và xương máu mà bản thân anh đã đổ ra cũng không có gì là ghê gớm lắm; và cũng khó tạo thành một cái đốm nhỏ trên bất kỳ sơ đồ nào nếu có ai đó thử vẽ lại lượng thời gian dài như vậy trong cái tổng thể của sự vật.

Phục vụ trong Tiểu đoàn 3, Bình đã liên tiếp nắm các chức vụ Trung đội trưởng, Đại đội trưởng, Tiểu đoàn phó và bây giờ là Tiểu đoàn trưởng. Nếu nói ai có đủ tư cách để đại diện cho tổ chức thì Bình chính là biểu tượng của Tiểu đoàn 3 vậy. Khi xét về bản chất và các đặc thù về truyền thống của quân đội VNCH, đặc biệt là binh chủng TQLC trong đó đơn vị trưởng có thẩm quyền uốn nắn thuộc cấp phù hợp theo cá tính của mình thì không có gì ngạc nhiên là các Sói Biển đã phản ánh phong cách chiến đấu lì lợm của vị chỉ huy mà họ thờ kính.

Khi một người chỉ huy có khả năng truyền đạt được tinh thần chiến đấu với những nguyên tắc mà anh cho là có giá trị nhất thì Tiểu đoàn 3 đúng là đã đáp ứng được các nguyên tắc đó. Trong một quân đội mà tinh thần “sùng bái lãnh đạo” là một điều bình thường thì thật may mắn cho đất nước Việt Nam Cộng Hòa là ảnh hưởng của Bình đã tác động được nhiều như vậy trên uy thế của quân đội tại Đông Hà.

Mặc dù ở vị trí không đầy 100 mét từ cây cầu Đông Hà và không thể nói là an toàn được nhưng Ripley vẫn cảm thấy anh đang đứng ngoài những sự kiện sắp xảy ra. Hiếm khi nào trong kinh nghiệm của bản thân, từng là Đại đội trưởng tác chiến và bây giờ là cố vấn, anh lại có cảm giác mình chỉ là một khán giả trong trận đánh này. Tuy vậy ngay trong thời điểm này, anh, Bình, Smock, Nhã và tất cả những người khác, toàn bộ cánh Alpha lại đứng bên ngoài theo dõi Hạ sĩ Lượm và bạn đồng đội, giống như trong một trận đấu thể thao kỳ lạ, đang lao vào đường đi của chiếc T-54 dẫn đầu sắp sửa bò qua cầu. Các binh sĩ TQLC và hai người cố vấn gần như là bị mê hoặc bởi sự điềm tĩnh của Lượm, gần như là thản nhiên khi anh sửa soạn cho hai, chỉ có hai phát đạn LAAW.

Điều khó hiểu hơn nữa là cách đối phó của tay chỉ huy chiến xa trên chiếc T-54 dẫn đầu đối với cái mối hăm dọa tuy là nhỏ nhoi này. Dù không cần thiết lắm nhưng Ripley vẫn sử dụng ống nhòm để nhìn chiếc xe tăng. Chiến xa Bắc Việt được sơn bằng một màu lục nhạt xấu xí, ghê tởm và màu mè. Bọn Cộng sản rõ ràng là không có một chút phong thái nào về mỹ thuật cả. Đại úy Ripley có thể trông thấy cái đầu và phần ngực của tên chỉ huy chiến xa lộ ra trên nóc pháo tháp của chiếc T-54. Anh để ý thấy cái mũ da theo kiểu phi hành gia Liên Xô lỗi thời của tay lính thiết giáp địch. Trong một thoáng kỳ lạ anh liên tưởng đến huấn luyện viên Knute Rocke (cũng đội một cái nón như vậy) và đội football Notre Dame thời xa xưa. Sự tương đồng duy nhất cho ý tưởng đó là anh và Smock có lẽ sắp sửa phải hô lên “Làm một trái cho Gipper đi!”

Nhìn qua ống nhòm, chắc chắn là John Ripley thấy được ánh mắt dửng dưng, thậm chí pha một chút ghê tởm trên mặt tên chỉ huy chiến xa. Tại sao hắn không chỉ đơn giản bóp cò một loạt ngắn từ khẩu súng liên thanh trên nóc pháo tháp thanh toán cho xong cái toán hỏa tiễn này rồi vượt qua cầu ủi nát cái đám TQLC vô phương chống lại chiến xa là một điều bí mật đối với tất cả mọi người, đặc biệt là Ripley.

Phát LAAW đầu tiên của Hạ sĩ Lượm bắn trật mục tiêu xa lắc; bay cầu vồng trên cao và phát nổ vô hại đàng sau chiếc T-54, lại còn không may là rớt xuống đất mà cũng chẳng có tên Cộng sản nào chung quanh. Không mảy may suy suyển, Lượm sửa soạn phát thứ hai. Chiếc xe tăng đậu yên một chỗ, do đó Lượm điều chỉnh dễ hơn cho phát đạn cuối cùng. Ripley, Bình và tất cả các TQLC khác đang theo dõi sự kiện đều không ngờ là chiếc chiến xa địch vẫn không nhúc nhích. Họ đều chờ đợi cho loạt liên thanh tất yếu sẽ chấm dứt tất cả mọi chuyện. Điều đó đã không xảy ra.

Phát thứ hai của Lượm đã được chỉnh lại thật đúng. Quả đạn trúng chiếc T-54 ngay tại chỗ tiếp giáp của pháo tháp với thân xe. Không hề có tiếng nổ dữ dội như trong phim ảnh mà chỉ có làn khói bốc lên từ nóc pháo tháp của tên chỉ huy và có lẽ cả từ chỗ bị trúng đạn nữa. Từ vị trí quan sát Ripley không thể biết đám lính trong xe có bị giết hoặc bị thương tích gì không. Tên chỉ huy chiến xa có vẻ bị bàng hoàng nhưng hắn không hề hấn gì, mà lại còn tỏ ra bực mình hơn là gặp phải chuyện gì đó.

Những gì mà hắn làm tiếp đã cho Ripley và mọi người hiểu là y không phải là người đủ bản lĩnh để dẫn dắt đoàn thiết xa tiên phong của Bắc Việt vượt qua cầu Đông Hà. Hắn lùi chiếc xe tăng ra khỏi mặt cầu một vài thước rồi đậu lại trong cái ống cống cạn. Một lúc sau thì có vẻ như là phát LAAW đã làm hỏng chiếc chiến xa khiến nó không thể xoay trọn vẹn pháo tháp được nữa. Và thế là xong, ít nhất là ngay lúc này. Thời gian như đứng lại một lần nữa. Nhưng cũng đủ để cả Ripley và Smock, cùng với Nhã vác lủng lẳng cái máy truyền tin rượt theo phía sau, phóng như điên cuồng về phía Nam của cây cầu Đông Hà.

Quyết định phá nổ cầu Đông Hà của Turley gần như là biện pháp kinh điển theo sách giáo khoa. Trên phương diện chỉ huy, nếu bất chấp những vấn đề sẽ xảy ra cho anh – chẳng hạn như bị mọi người suốt dọc các cấp theo hệ thống quân giai ở Đà Nẵng và Sài Gòn xa lánh trong một tương lai gần nào đó nếu anh còn sống sót sau cuộc chiến; hoặc là họ sẽ hoan hỉ đưa anh tới giá treo cổ nếu anh thất bại – thì việc ra lệnh phá hủy cầu là phần việc dễ nhất. Cái khó là trong thực tế sẽ phá hủy cây cầu như thế nào lại là một chuyện hoàn toàn khác hẳn. Lúc đó vào khoảng giữa hay xế trưa ngày Chủ Nhật lễ Phục Sinh. Gerry Turley gọi qua máy truyền tin cho Ripley với lệnh “bằng cách nào đó phá hủy cây cầu.” Khi ra lệnh cho Ripley giật sập cầu, Gerry biết chắc là anh đã ký cho Ripley cái bản án tử hình. Với tư cách chỉ huy tổng quát, Turley phải đối đầu với những xác xuất tồi tệ; giống như nếu lá bài ngửa thì quân Bắc Việt thắng, mà sấp thì phe ta cũng thua. Không ai ở Las Vegas có thể sáng suốt mà đặt cược theo quyết định của Turley để thắng nổi, cho dù lớn hay nhỏ. Turley cũng biết điều đó, vì vậy anh lập tức thực hiện một kế hoạch dự phòng trong trường hợp Ripley thất bại.

Sự cố gắng của John Ripley cho nổ tung cầu Đông Hà là “kế hoạch A” của Gerry Turley. Là một sĩ quan quân đội dày dạn kinh

nghiệm và chuyên nghiệp, anh biết là cần có kế hoạch dự phòng. Trong lúc thời tiết chưa thay đổi thì Không quân yểm trợ chiến thuật coi như không có, hải pháo và không kích B-52 cũng vậy. Ý tưởng tốt nhất của Turley cho “kế hoạch B” là gọi Đại úy John Thiesen, TQLC Hoa Kỳ đang cùng anh trong hầm trú ẩn và mới qua Việt Nam được hai tuần lễ tròn. “John, tôi muốn anh đi tìm một chiếc sáu bánh và một tài xế (chiếc xe quân sự sáu bánh thông dụng là chiếc vận tải dùng để chuyên chở lực lượng Hoa Kỳ và VNCH và có thể chở được khoảng một chục binh lính cùng hai tấn rưỡi hành hóa – và vì khả năng chở hàng đó mà chiếc này cũng thường được gọi là chiếc “xe hai tấn rưỡi.”). Sau đó tìm chất lên xe càng nhiều chất nổ càng tốt, sửa soạn lái đến cầu Đông Hà và cho nó nổ khi cần thiết.”

Giống như mọi sĩ quan TQLC gương mẫu khác, Đại úy Thiesen đáp: “Tuân lệnh, thưa Trung tá.” Sau đó anh đi thực hiện mệnh lệnh mới.
Nếu cho là xác xuất đối với lệnh của Turley không sáng sủa mấy thì cơ may Ripley thực sự thành công lại càng tối tăm hơn nhiều. Đơn giản là không có cách nào, hoàn toàn không có cách gì để John Walter Ripley có thể đích thân phá hủy cây cầu Đông Hà kịp thời để ngăn chận bước tiến tất yếu của đoàn thiết giáp Bắc Việt được.

CƯỠI NGỌN SẤM 29

cuoingonsam

richardbotkin

Chương 24

Buổi Sáng Lễ Phục Sinh tại Sài Gòn

Sài Gòn
Buổi sáng Lễ Phục Sinh
Nhà ông Lê Bá Sách – Cha mẹ của Bình

Khi Cầm Bành kết hôn với Lê Bá Bình vào ba tháng trước, nàng phải bỏ công việc đã làm khá lâu ở thương xá của Hải Quân Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Sau đó, đời sống của nàng như được chia thành hai mảng. Khi chồng không hành quân tận tuyến đầu phía Bắc để chiến đấu chống bọn Cộng sản đáng ghét thì Cầm đến ở với anh tại căn cứ Sóng Thần, hậu cứ của TQLC tại Sài Gòn và cũng là nơi mà họ đã thành hôn với nhau. Trong thời gian này, nàng cũng hoàn thành hết mọi trách nhiệm trong vai trò là vợ của một sĩ quan chỉ huy Sói Biển.

Khi Bình đi hành quân xa, mà đó là gần như suốt thời gian, Cầm về ở với cha mẹ chồng ở Tân Định trong vai trò con dâu trưởng của gia đình. Thật may mắn là nàng và mẹ chồng (mẹ kế của Bình, nhưng người phụ nữ này đã thương yêu và nuôi dạy anh ta như là mẹ ruột) rất hòa hợp với nhau. Cầm phụ giúp công việc nhà và chăm sóc bốn đứa em còn ở nhà. Nàng được mọi người yêu mến. Nếu có thời gian rảnh rỗi, nàng thường đón xích lô về thăm mẹ cũng đang ở gần đó. (Bấy giờ, cả hai người anh cũng đang phục vụ trong quân đội). Nếu có TQLC nào bị thương ở bệnh viện Thủ Đức cần phụ, nàng cũng sẽ đến giúp ngay.

Vào lúc xế chiều ngày thứ Bảy 1/4/1972, ngay cả đối với vợ lính và người thân, có rất ít tin tức liên quan đến tình hình của các lực lượng QLVNCH và TQLC đang giao tranh ở phía Bắc. Tuy nhiên trong mạng lưới thông tin của các bà vợ đã có sự bàn tán là có một chuyện gì đó sắp xảy ra.

Ai cũng biết cái thông lệ là luôn luôn phải giữ hai trong số ba lữ đoàn TQLC ở tuyến đầu. Do đó khi có tin Lữ đoàn 369, đơn vị đang ở Thủ Đức dưỡng quân như thường lệ để nghỉ ngơi, bổ sung quân số v.v… đã được điều động ngay lập tức ra phía Bắc trước thời hạn, mọi người bắt đầu bàn tán xôn xao. Có một cái gì đó khá nghiêm trọng đang xảy ra. Trong bao năm qua Cầm vẫn thấy chồng thường xuyên trở về từ chốn nào đó với thân thể mang hết thương tích này đến vết thương khác, thì nay nàng chỉ biết chịu đựng với nỗi chờ mong và cố làm nhiệm vụ của một người vợ đảm đang.

TRỞ LẠI ĐÔNG HÀ VỚI TIỂU ĐOÀN 3

Khi Thiếu tá Bình, Đại úy Ripley và các chiến sĩ của Tiểu đoàn 3 được điều động tới Đông Hà vào xẩm tối ngày 30/3/1972 để lãnh nhiệm vụ trừ bị cho Sư đoàn, họ không hề được nghỉ ngơi chút nào. Mặc dù những cánh quân tiên phong của bộ đội Bắc Việt đang xâm lấn chưa đến được Đông Hà nhưng sự xuất hiện của Tiểu đoàn 3 đã bị phát hiện. Đề-lô pháo binh Bắc Việt ở phía Bắc của dòng sông, cũng là những tên thường xuyên hướng hỏa lực pháo kích vào dòng người đang chạy nạn vào Nam trên Quốc lộ 1, đã gọi hỏa lực bắn vào Sói Biển mỗi khi có điều kiện. Không một ai trong Tiểu đoàn 3 kể cả Bình và Ripley có kinh nghiệm về cường độ của những cuộc pháo kích vốn đã xảy ra liên tục trước khi họ đến. Không tài nào ngủ được. Nghỉ ngơi thôi cũng khó khăn mặc dù họ đã nằm sâu dưới hầm và những trái đạn rơi xuống ở một khoảng cách an toàn khá xa. Điều tốt nhất mà các TQLC có thể làm được, như Bình, Ripley và tất cả những người khác trong Ban chỉ huy đã cố gắng thực hiện là mặc kệ và thích nghi với hoàn cảnh khi cho phép – chẳng hạn như ngả đầu ra phía sau mà vẫn theo dõi được các cuộc nói chuyện qua máy truyền tin v.v… – càng nhiều càng tốt mỗi khi đạn pháo kích không rơi gần lắm. Chuyện này họ đã làm khá thành công kể từ lúc đến Đông Hà. Các Đại đội tác chiến khác cũng vậy. Đành rằng không ai có thể hoạt động mãi như vậy được nhưng trước mắt không còn giải pháp nào khác hơn.

Thiếu Tá Bình giữ các Sói Biển trong tư thế sẵn sàng bất cứ lúc nào và luôn luôn chuẩn bị để chuyển nhanh từ phòng ngự sang tấn công. Cách hành quân căn bản cho tất cả các Tiểu đoàn TQLC là hiếm khi nào cả đơn vị cùng hoạt động chung với nhau thành một khối. Tiểu đoàn 3 gồm hai cánh là Alpha và Bravo. Hiện tại cánh Alpha gồm Bình, Ripley, lính của Ban chỉ huy, Đại đội 1 và Đại đội 4 cùng với phần lớn hỏa lực của Đại đội Vũ Khí Nặng của Tiểu đoàn 3. Họ đang hoạt động ở trong và bên ngoài thị trấn Đông Hà. Cánh Bravo do Tiểu đoàn phó chỉ huy gồm các đơn vị còn lại, Đại đội 2 và Đại đội 3 cùng với những người khác, đang nằm cách thị trấn vài cây số phía Tây trên Quốc lộ 9 hướng về Cam Lộ và đang phối hợp với Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp QLVNCH.

Nhằm giảm thiểu tối đa nguy hiểm cho binh sĩ trong những trận pháo kích không ngớt của quân Bắc Việt, Bình liên tục tái phối trí các đại đội, thường xuyên di chuyển đến một vị trí ngụy tạo trước khi trời sập tối để chắc chắn là bọn trinh sát địch trông thấy rồi lại lặng lẽ bỏ đi chỗ khác khi trời vừa tối xuống. Để cho việc ngụy tạo được hoàn hảo hơn, Bình cho lính ngụy trang vị trí giả, đặt ăng-ten truyền tin và tiếp tục điện thoại từ xa thông qua các vị trí đó. Khi bọn pháo binh Bắc Việt pháo kích vào các vị trí bỏ trống, nhân viên truyền tin của Bình phát đi những thông tin giả mạo mà họ đoán chừng địch sẽ nghe lén, về các thiệt hại và yêu cầu trực thăng tản thương. Bình làm hết mọi cách để địch tiêu hao đạn dược vào những mục tiêu vô giá trị. Những chuyện này đòi hỏi các Sói Biển lúc nào cũng phải cảnh giác và di chuyển không ngừng. Mặc dù họ chưa thực sự chạm trán với địch nhưng việc di chuyển vòng quanh và tích cực phòng thủ cũng làm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể.

Quan sát của John Ripley về người tỵ nạn Việt Nam bơ vơ cũng tương tự như Gerry Turley đã thấy, nếu không nói là còn mang tính cách cá nhân nhiều hơn. Khi Ripley tiến gần sát toán tiền phương địch, tức khoảng 10 cây số gần hơn so với Turley khi ở Ái Tử, anh đã chứng kiến một sự chết chóc và hủy diệt tàn khốc. Lòng căm thù của anh đối với bọn Cộng sản chồng chất lên một mức độ mới sau khi nhìn thấy dã tâm cố ý và hành động giết người bừa bãi hàng loạt những người dân vô tội nhiều như vậy. Anh tự hỏi không biết các Sói Biển sẽ nghĩ sao, có ai còn có thể thù hận bọn Cộng sản nhiều hơn được nữa hay không? Anh đã từng ngồi lặng yên hàng tháng nghe hết chuyện này qua chuyện khác do lính của Bình kể lại – họ đã hiểu và tin tưởng anh – biết bao nhiêu chuyện gia đình họ đã phải chịu đựng sự đau thương, nhọc nhằn và sỉ nhục trong tay bọn Cộng sản mà hầu hết người Mỹ không thể nào hình dung được. Sau cùng anh chỉ biết cám ơn là anh đã không phải đối phó với những vấn đề như vậy. Giống như Turley, tuy hai người chưa hề trao đổi với nhau về đề tài này, nhưng anh thầm tạ ơn là vợ con anh được ở xa, rất xa chốn này.

Nhiệm vụ giao cho Tiểu đoàn 3 của Thiếu Tá Bình như là đơn vị trừ bị cho Sư đoàn hóa ra là một quyết định sáng suốt. Điều hiển nhiên là hiện nay cầu Đông Hà đang là mục tiêu chiến lược của địch. Nói chung, sự biểu lộ yếu kém của các đơn vị bộ binh QLVNCH và nhất là sự tan rã của Trung đoàn 57 trong khu vực chung quanh Đông Hà nói riêng, đã để lại công tác phòng thủ sắp tới vào tay các đơn vị TQLC Việt Nam, những chiến sĩ sẽ không bỏ cuộc khi chưa đánh đấm gì cả.

Các Sói Biển có mặt ở Đông Hà vào chạng vạng tối ngày 30/3/1972 và các Đại đội tác chiến đã được bố trí tại những vị trí mà Bình cho là tốt nhất cho việc phòng thủ trong lúc này và sẵn sàng cho những trận phản công sắp tới. Sau khi đã quyết định phá cầu, Trung tá Turley gọi điện thoại xuống Bộ tư lệnh mới của Sư đoàn 3 Bộ Binh ở thành phố Quảng Trị. Cũng nên nhắc lại là tuy có toàn quyền điều động hỏa lực Hoa Kỳ nhưng khi trực tiếp điều động các đơn vị QLVNCH và TQLC thì người Mỹ chỉ là cố vấn. Tất cả công việc điều động binh lính và quyết định sử dụng các đơn vị đó như thế nào đều thuộc thẩm quyền người Việt Nam. Người Mỹ có thể đưa ra các đề nghị nhưng quyền tối hậu vẫn thuộc vào những người mà họ có nhiệm vụ cố vấn.

Turley đã gọi xuống cho Bộ tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh với mục đích đề nghị Tướng Giai cho sử dụng lực lượng trừ bị – trong trường hợp nầy là giao cho Tiểu đoàn 3 việc trấn giữ cầu Đông Hà – để ngăn chận không cho quân Bắc Việt vượt qua cho tới khi cầu có thể bị phá đi.

Đưa vào sử dụng lực lượng trừ bị là một chuyện rất quan trọng. Điều đó có nghĩa là tình hình đã nghiêm trọng lắm rồi. Đó cũng là biện pháp cuối cùng. Các Tư lệnh thường miễn cưỡng chấp nhận những biện pháp như vậy bởi đó là sự chọn lựa sau cùng; mũi tên cuối đã bắn ra rồi thì ống đựng tên trở thành trống rỗng. Đôi khi, đó lại là tất cả những gì mà người chỉ huy có thể làm. Tuy nhiên Gerry Turley tin chắc chắn rằng với tình hình chiến sự này thì cần phải hành động như vậy và phải làm ngay lập tức.

Khi Turley gọi lại Bộ tư lệnh Sư Đoàn 3 thì cả Tướng Giai và vị Đại tá cố vấn của ông – cũng chính là viên Đại tá trách nhiệm cho toán Cố vấn 155, người đã buộc Gerry vào nhiệm vụ hiện nay – đều không có mặt ở đó. Thay vào đó, cuộc trao đổi với Tham mưu trưởng của Tướng Giai đã như bị va vào bức tường gạch của truyền thống văn hóa. Tay Đại tá QLVNCH này, trong lúc thế giới chung quanh đang sụp đổ tan tành, chỉ khăng khăng từ chối vì sợ bị mất mặt và những chuyện linh tinh khác đã khiến cho máu của Turley bốc lên cao tới mức báo động. “Chúng ta phải đợi Tướng Giai trở về đã. Tôi không làm được gì ngay bây giờ. Chúng ta phải chờ.” Đó lại là một vấn đề truyền thống văn hóa nữa.

Tỉnh táo hơn tuy thất vọng cùng cực, Turley tuyệt vọng xoay qua Đại tá Định, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 258 đang cùng với anh ở trong hầm Trung Tâm Hành Quân.

Turley vừa mới mở thêm mặt trận thứ ba cho chính mình. Phía Bắc và Tây của anh là ba hoặc bốn Sư đoàn Bộ binh Bắc Việt, năm Trung đoàn Pháo binh rồi hình như đang có thêm một số lớn chiến xa địch chưa xác định được là bao nhiêu, và không ai biết còn cái gì khác nữa.

Quân tiếp viện của địch có thể không xa lắm ở phía sau. Về phía Nam, Turley đối diện với một hệ thống quân giai càng lúc càng không thân thiện tại Đà Nẵng và Sài Gòn, cứ liên tục chĩa mũi dùi vào quyền hạn của anh và chống đối các quyết định của anh.

Turley trông đợi nhiều vào Đại tá Định vì ông này cũng là TQLC. Tuy nhiên Turley nhận được câu trả lời y hệt như của tay Đại tá Tham mưu trưỏng trước đó. Ban đầu bị choáng váng nhưng Turley không chịu thua. Anh trình bày lý do của mình. Anh lập luận kế hoạch của mình với một sự nồng nhiệt mà chính anh cũng không ngờ mình lại như vậy. Bằng mọi cách hợp lý nhất, anh khẩn khoản Đại tá Định cho sử dụng Tiểu đoàn 3 tại cầu Đông Hà. Turley giải thích nhiều lần sự cần thiết phải hành động ngay nhưng Định vẫn đẩy quyết định cho cấp cao hơn. “Tôi không thể” là câu trả lời cố định lập đi lập lại của ông. Chán nản, Turley biết rõ rằng, nếu không điều động Sói Biển thì hoàn toàn không có hy vọng gì để ngăn chận được quân Bắc Việt.

Sự trao đổi giữa Turley và Định đã diễn ra ở một khoảng xa thích hợp đối với những người khác trong khu vực G-3. Khi Turley trở lại để gặp thuộc cấp của mình, đặc biệt là nhóm sĩ quan gần gũi đã cùng làm việc chung với nhau trong suốt ba ngày qua, họ có thể cảm thấy qua sự biểu lộ trên khuôn mặt và điệu bộ là anh đã thất bại trong việc thuyết phục Đại tá Định. Tuy nhiên anh biết vẫn phải bằng cách nào đó giữ một thái độ lạc quan cho những người khác nhưng anh chưa biết phải đưa ra lời khuyên gì đây.
May mắn thay là anh không phải làm gì cả. Chỉ một hay hai phút sau đó, Đại Tá Định bước đến phía sau Turley tuyên bố “Tiểu đoàn 3 sẽ chiếm cầu Đông Hà. Tôi sẽ ra lệnh cho Tiểu đoàn trưởng giữ lấy Đông Hà. Anh gọi cho cố vấn của anh đi và báo cho ông ta biết quyết định của tôi.” Trong nỗi vui mừng bất ngờ và với một tình cảm đặc biệt, Trung tá Turley đã ôm chầm lấy vị Đại tá TQLC Việt Nam.

SAU CUỘC GỌI MÁY VÔ TUYẾN

Tập họp lại cho đến người cuối cùng Tiểu đoàn 3 trong điều kiện hiện tại với mục đích cấp bách để phòng thủ khu vực chung quanh cầu Đông Hà không phải là một chuyện dễ dàng. Bình, Ripley và toán cận vệ vốn luôn bên cạnh họ, sau khi nhận được lệnh từ Đại Tá Định, đã để lại Đại đội 1 và Đại đội 4 đóng ở ngay cầu; sau đó họ di chuyển qua hướng Tây về phía Cam Lộ để bắt liên lạc và mang cánh Bravo cùng với Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp quay trở lại khu vực cầu.

Mãi cho đến lúc này, Bình và Ripley không thích thú lắm với nhiệm vụ trừ bị cho Sư đoàn. Trong tình huống thế giới chung quanh có vẻ như đang sụp đổ, họ cảm thấy hết sức bực bội vì không đóng được vai trò chủ động nào trong diễn tiến các sự việc. Trong nhiều ngày vừa qua họ đã phải chịu đựng cơn pháo kích liên tục và bao nhiêu là căng thẳng mà không có cơ hội để phản công. Bây giờ thì mọi chuyện sắp sửa thay đổi rồi.

Cả Bình và Ripley đều biết là họ sẽ cần đến hỏa lực của Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp và tất cả các tay súng dự phòng của Sói Biển để có được tối đa cơ hội sống còn nếu họ có ý định giữ lấy Đông Hà, bất chấp cái xác suất xấu một cách đáng sợ đang tăng dần theo từng giây phút trôi qua. Điều mà họ chưa biết là “địch có khoảng 20 chiến xa” nhưng trên thực tế hóa ra là hai trăm chiếc. Việc bắt liên lạc và mang được cánh Bravo cùng Tiểu đoàn 20 Thiếp Giáp về khu vực cầu là một điều hết sức then chốt nếu họ mong chận được địch quân ở phía Bắc dòng sông.

Điều khá nghịch lý là trong tất cả những người trong Ban chỉ huy Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp thì John Ripley, người Mỹ duy nhất trong nhóm, lại là người có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong vùng nhiều hơn là bất cứ ai trong những người Việt Nam. Anh là người thông thạo địa hình trong và ngoài Đông Hà nhiều nhất. Khi cả hai đơn vị cuối cùng kết hợp lại được với nhau ở phía Tây của thị trấn và Bình trực tiếp gặp gỡ vị Trung tá QLVNCH chỉ huy Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp thì bọn Bắc Việt tung ra một đợt pháo kích “trừng phạt” trên toàn bộ khu vực Đông Hà. Ripley tin chắc là trong thời gian 45 phút bắn phá có vào khoảng 1.000 trái đạn đã rơi xuống. May mắn là vị trí đóng quân của họ nằm ngoài vùng pháo kích nhưng tác động tâm lý khá nặng nề đối với những binh sĩ đang chứng kiến màn “trình diễn sống sượng” của hỏa lực địch, nhất là viên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp thì kinh hãi thấy rõ.

Trong hoàn cảnh chiến đấu cùng cực, mỗi lần gặp gỡ hội họp với nhau hiếm khi nào là dịp tốt nhất để giao hảo một cách lịch sự, chuyên nghiệp giống như trong các cuộc gặp nhau bàn chuyện làm ăn. Tuy nhiên hội họp trong những điều kiện khắc nghiệt lại cho phép bỏ qua các thủ tục chào hỏi rườm rà để có thể đi thẳng được vào vấn đề. Cảm giác ban đầu của Ripley đối với viên sĩ quan VNCH chỉ huy Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp không được thoải mái, có lẽ vì anh đã có thành kiến chung coi thường thành tích của hầu hết các đơn vị QLVNCH trong vùng gần đó. Điều hiển nhiên mà ai cũng thấy là cái nhân vật chịu trách nhiệm nguyên một đoàn gần 50 chiến xa M-48A3 có vẻ không nhiệt tình lắm trong chuyện đưa thiết giáp vào việc bảo vệ Đông Hà. Khác với hầu hết các sĩ quan TQLC nghiêm nghị, chuyên nghiệp, tận tâm cùng với một ít sĩ quan QLVNCH khác mà Ripley đã quan sát – họ thà chết chứ không chịu để mất mặt hay bị đánh giá là yếu ớt hoặc hèn nhát – vị sĩ quan QLVNCH này có vẻ không quan tâm đến vấn đề giữ thể diện hay không trong lúc này. Ripley thấy rõ là ông này tuy cấp bậc cao hơn Bình nhưng không thể sánh bằng về mặt tinh thần với Bình.

Vị sĩ quan chỉ huy Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp này có cái may là điều luật về việc bổ dụng sĩ quan cố vấn bộ binh Hoa Kỳ hiện chỉ được thực hiện ở cấp Trung đoàn đối với các đơn vị bộ binh do việc tiến hành Việt Nam hóa chiến tranh tất cả các hoạt động, nhưng vì lý do nào đó chưa áp dụng đối với đơn vị của ông. Do đó Ripley đã gặp được Thiếu tá Jim Smock, cố vấn Hoa Kỳ cho Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp cùng một lúc với viên Tiểu đoàn trưởng VNCH. Phút đầu gặp gỡ còn có nghi ngại, nhưng cũng phải thông cảm cho Ripley về những cảm giác đó vì các đơn vị VNCH lúc này có vẻ chẳng làm được trò trống gì ngoài chuyện rút lui hàng loạt. Đại úy Ripley cho là những lời nhận xét táo bạo và lạc quan của Thiếu tá Smock cũng cần phải xem lại. Về phần mình, Ripley tin là rốt cuộc rồi thì đoàn thiết xa này cũng sẽ phải đưa vào chiến địa thôi.

Lý luận của Ripley rất đơn giản và thẳng thắn. Chiến xa VNCH là loại M-48, khá tốt nhưng chiếc T-54 có hai lợi thế mà anh biết địch sẽ tận dụng tối đa. T-54 được trang bị súng lớn hơn – 100 ly so với 90 ly của M-48 – và trong hầu hết các tình huống, kích thước thực sự làm nên sự khác biệt. Lợi thế cốt lõi thứ hai là hình thù T-54 thấp hơn rất nhiều. Hình dạng này khiến T-54 thành một mục tiêu khó bắn trúng hơn chiếc M-48 cồng kềnh hơn, ồn ào và tốn nhiều công bảo trì, tuy được chế tạo tinh xảo hơn. Dù vậy, bỏ qua những vấn đề đó, yếu tố quyết định thực sự vẫn là khả năng chỉ huy và lòng nhiệt thành chiến đấu của các binh sĩ.

Điều lạ lùng là tại sao chiến xa lại được sử dụng tại đây? Ai cũng biết Việt Nam khó là một môi trường lý tưởng cho các chiến xa tối tân. Dụng tâm của chiến xa là để sử dụng trong những đội hình càn quét khổng lồ trên những cánh đồng trung tâm Âu Châu hay các sa mạc rộng lớn ngút ngàn Trung Đông; chứ không phải tại Việt Nam mà địa hình hầu hết là rừng già ẩm mốc hay những cánh đồng lúa mênh mông. Tuy nhiên đây cũng chính là lý do mà Cộng sản đã mang chúng ra sử dụng. Bọn vẽ kế hoạch Bắc Việt đã đoán đúng là miền Nam và ông chủ bù nhìn Hoa Kỳ sẽ không ngờ là chiến xa lại được mang ra trên một quy mô lớn như vậy như họ sắp thấy.
Một số lợi thế vốn có ngoài chiến trường của chiến xa đã bị vô hiệu hóa bởi địa hình đã khiến cho những con thú vật khổng lồ kềnh càng này chỉ chạy được trên một số ít đường nhựa hay đường mòn có đủ sức chịu đựng của chúng. Tuy vậy, đối với các đơn vị QLVNCH và TQLC lúc này chưa có, hay không có vũ khí chống xe tăng thì cái hỏa lực di động và ảnh hưởng kinh hoàng của chiến xa có khả năng bắn trực xạ rất đáng kể.

Mặc dù Thiếu tá Smock thừa nhận rằng vị Tiểu đoàn trưởng mà anh đang cố vấn còn cần phải được góp ý nhiều hơn nữa nhưng anh cam kết với anh bạn TQLC là những tay lính trẻ trong các chiến xa đã sẵn sàng để xung trận và đang ngứa ngáy được đụng độ với địch. Lúc này Thiếu tá Bình đang thực sự nhiếc móc viên sĩ quan cấp cao hơn anh, khuyến cáo ông ta phải hành động như một người đàn ông và ra lệnh cho đơn vị của ông phải làm điều đúng là phòng thủ Đông Hà. Trong suốt cuộc tranh cãi gần như một chiều giữa con sư tử và con cừu, Bình không kềm giữ trong lòng điều gì nữa và cố gắng truyền chút sinh khí cho tay Tiểu đoàn trưởng Thiết Giáp. May cho Bình là anh không bị giới hạn bởi những phong cách hành xử mà Gerry Turley đã từng bị. Cũng mất một hồi lâu và Bình đã phải sử dụng khéo léo tất cả các mánh khóe trong “sách” nghệ thuật chỉ huy của mình nhưng rồi cũng thành công phần nào. Sự hổ thẹn và mặc cảm tội lỗi cũng là những động lực mạnh mẽ.

Kiến thức rộng rãi về địa hình trong khu vực của Ripley là một ưu điểm rất lớn. Trong lúc Bình vẫn tiếp tục khuyên bảo viên Trung tá VNCH thì Ripley hướng dẫn các TQLC và đám lính miễn cưỡng của Thiết Giáp đi vòng qua những ngã sau của Đông Hà nhằm thoát ra khỏi hàng rào pháo kích liên tục của địch và cuối cùng đến được vị trí ngay phía Nam của cây cầu.

Tại cầu Đông Hà, Đại đội 1 và 4 của Sói Biển đã thực sự đụng độ ác liệt với các lực lượng Bắc Việt mới đến tại bờ Bắc của dòng sông. Vừa trông thấy chiến xa địch xuất hiện, Ripley đã gọi ngay hải pháo. Loạt hải pháo đầu tiên trước đó lúc anh còn ở phía Tây của thị trấn đã có kết quả là tiêu diệt được bốn chiếc PT-76. Khi họ đến gần Đông Hà, Ripley vẫn tiếp tục sử dụng hải pháo. Những loạt sau tiêu hủy hầu hết là T-54.

Sự xuất hiện những chiếc dẫn đầu của Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp làm thay đổi tình thế vì M-48 VNCH thực sự lần đầu tiên đã “lấy máu” được kẻ thù lâu nay không ngờ có thể bị đụng với thiết xa VNCH. Ngay lúc này thì bọn Cộng sản không lộ vẻ gì là sẽ mưu toan vượt sông trong thời gian sắp tới. Nhưng mọi người đều biết là chúng sẽ làm thôi, không chóng thì chầy.

TRONG KHI ĐÓ TẠI TRUNG TÂM HÀNH QUÂN CHIẾN THUẬT

Ranh giới của vũ trụ hiện tại ngay trước mắt đối với John Ripley, Lê Bá Bình, và các chiến sĩ Sói Biển là tầm bắn hiệu quả tối đa của tất cả các vũ khí mà họ có thể sử dụng và nhìn thấy được điểm rơi. Đối với Gerry Turley tại Trung Tâm hành Quân Ái Tử thì có phần rộng hơn một chút. Bất cứ ai đọc được bản đồ cũng đều thấy Đông Hà và cây cầu là chìa khóa của sự thành công hay thất bại trong vòng vài giờ sắp tới. Mặc dù nhận thức được điều đó nhưng Turley và toán của anh vẫn phải lo lắng và phối hợp những vấn đề tại các điểm khác trên địa bàn phía Bắc Vùng I Chiến Thuật. Tại những nơi này lực lượng VNCH và TQLC đang chịu đựng các tình huống càng lúc càng thêm khó khăn.

Trong lúc liên tục phân tích để điều động thời gian, nỗ lực, sự lo âu và nguồn lực, những điều dự đoán sắp sửa xảy ra tại Đông Hà đã khiến cho nơi này trở thành trọng tâm nhưng không phải là tất cả nỗ lực chung. Còn nhiều chỗ khác nữa cũng cần phải chú ý đến vì nếu lơ là thì sẽ có ảnh hưởng xấu đến bức tranh chiến lược tổng thể.

Không đầy 15 cây số về phía Tây của cầu Đông Hà có một cây cầu nhỏ hơn bắc qua sông tại Cam Lộ cũng có khả năng chịu đựng được chiến xa hạng nặng. Cái cầu đó hẳn nhiên đối với mọi người sẽ là lối giải quyết thứ nhì của Bắc Việt cho các đoàn thiết xa nếu họ không chiếm được cây cầu chính của Đông Hà. Turley cũng muốn phá nó luôn. Một lợi thế mà quân Đồng minh có là hải pháo, tuy không đủ sức để phá cho cầu sập xuống nước luôn nhưng cũng đã được sử dụng với hiệu quả tốt khi chống lại đợt tấn công ban đầu của thiết xa địch, nhờ sự phối hợp và kế hoạch đã tính trước của toán Joel Eisenstein rất phù hợp với quyết định nhanh chóng của John Ripley đã gọi và điều chỉnh hỏa lực nhắm vào địch. Cam Lộ thì nằm quá xa trong đất liền cho việc hỗ trợ bằng hải pháo, còn không quân thì không thể sử dụng được cho tới khi nào thời tiết tốt hơn.

Lúc này thì trung đoàn thứ nhì của Sư đoàn 3 BB QLVNCH đang rút xuống Cam Lộ tương đối có trật tự hơn là Trung đoàn 57 tại Đông Hà. Bị quân Bắc Việt rượt theo sát đuôi nên lực lượng Công Binh Chiến Đấu không tài nào đặt chất nổ để phá hủy cầu Cam Lộ được.

Năm cây số về hướng Tây Nam của Cam Lộ là căn cứ Carroll, nơi đó có Trung đoàn 56 và 22 khẩu trọng pháo trọng yếu gồm cả bốn khẩu 175 ly quý giá cũng đang chịu áp lực nặng nề của địch. Turley và toán của anh trong Trung Tâm Hành Quân không lường trước được là có các thế lực ngấm ngầm bội phản trong nội tình lãnh đạo địa phương của QLVNCH. Kết quả đưa đến là sự đầu hàng hèn hạ của cả căn cứ hỏa lực với tất cả binh sĩ, súng ống và trang thiết bị. Lúc đó thì tất cả những gì Turley biết được là tình hình tại căn cứ Carroll đã tuyệt vọng và các yêu cầu bắn hỗ trợ không được trả lời.

Điều duy nhất còn khả quan về tình trạng của căn cứ yểm trợ hỏa lực Mai Lộc, non bốn cây số về hướng Nam của trại Carroll nơi mà Lữ đoàn 147 TQLC Việt Nam đang trấn giữ, là các lực lượng TQLC tuy bị áp đảo về quân số và hỏa lực nhưng vẫn chống trả kịch liệt. Tuy nhiên họ khó mà giữ mãi được.

Từ khởi đầu của cuộc công kích lễ Phục Sinh (Mùa Hè Đỏ Lửa), hải pháo đã chứng tỏ là nguồn hỏa lực duy nhất có thể tin cậy được trong việc yểm trợ cho các đơn vị nào trong tầm hoạt động. Cho đến buổi sáng lễ Phục Sinh, có năm chiến hạm ngoài khơi là những chiếc: USS Buchanan (DDG‐14), USS Strauss (DDG‐16), USS Waddell (DDG‐24), USS Anderson (DD‐786), và USS Hamner (DD‐718). Tất cả những chiếc tàu này đã bắn đi những đợt hỏa lực áp chế mạnh mẽ và chính xác. Các hạm trưởng đã cho chiến hạm vào sát bờ tối đa để tận dụng từng thước cho tầm đạn của hải pháo.

Việc điều động hỏa lực Hải quân như vậy đòi hỏi sự phối hợp và liên lạc chặt chẽ giữa các chiến hạm và các lực lượng trên bờ. Đồng thời với nỗ lực đó, các hạm trưởng cũng gởi bản sao các thông điệp cho cả Trân Châu Cảng lẫn Sài Gòn. Sự liên lạc này phần nào đã bị trì trệ với hậu quả là làm ảnh hưởng đến Turley và toán của anh tại Trung Tâm Hành Quân. Chính Turley cũng không đoán trước được sự việc này và hoàn toàn không hay biết gì hết.

Cho đến sáng lễ Phục Sinh thì mọi người trong Trung Tâm Hành Quân bắt đầu nghe tin đồn nhiều hơn từ những người anh em Hải quân ngoài khơi ám chỉ đến các lực lượng TQLC Hoa Kỳ đang lênh đênh ngoài biển và gợi ý một cách lộ liễu là họ chỉ chờ được mời vào nhập cuộc. Turley dẹp hoàn toàn và bỏ ra ngoài tai cái ý tưởng này. Thay vào đó, anh tập trung vào việc sử dụng tối đa các phưong tiện mà anh vẫn tin tưởng tuyệt đối.

Điều mà không ai trong Trung Tâm Hành Quân có thể lường được là sự lan truyền nhanh chóng của các tin tức sai lạc đó. Nó giống như Turley và toán của anh tự dưng là thành viên bất đắc dĩ của một kiểu trò chơi “điện thoại” dành cho người lớn trong đó cứ mỗi lần truyền tin đi truyền tin lại thì các dữ kiện được báo cáo lên các cấp cao hơn theo hệ thống quân giai lại càng bị bóp méo hơn. Mặc dù các nhân vật tại Sài Gòn từ từ cũng nhận ra là tình hình tại phía Bắc Vùng I Chiến Thuật không khá lắm nhưng đồng thời họ có vẻ như hết sức quân tâm là có một tên Trung tá TQLC nổi loạn nào đó đang giở chứng tại Trung Tâm Hành Quân Ái Tử.

Screen Shot 2015-06-03 at 9.18.31 AM

CƯỠI NGỌN SẤM 28

richardbotkin

pic2 (800 x 800)

Chương 23

Buổi sáng Lễ Phục Sinh tại Đông Hà

Sáng sớm Chủ Nhật ngày lễ Phục Sinh tại Vùng I Chiến Thuật
Tư gia của gia đình Ripley
Blacksburg, Virginia

Moline Ripley có cách riêng khá dễ dàng để theo dõi dấu vết của chồng trong tâm tưởng. Giờ Việt Nam đi trước giờ Virginia 12 tiếng đồng hồ. Do đó cô suy luận một cách hợp lý là khi ngày của cô bớt bận rộn thì ngày của anh chỉ mới bắt đầu.

May thay, trong khi Moline không thể hiểu được trọn vẹn thế nào là một ngày tiêu biểu hay không tiêu biểu của anh dù bất kỳ anh đang ở đâu, đặc biệt trong những ngày vừa qua, thì John Ripley lại có thể cảm thấy an tâm và thoải mái khi biết rằng ít ra vợ và mấy đứa nhỏ vẫn bình yên và được thương yêu đầy đủ trong đời sống đang ở cách anh mười hai tiếng đồng hồ và một triệu dặm xa.

Trước khi John Ripley trở về Việt Nam trong chu kỳ nhiệm vụ thứ hai ngay sau cái chết của người anh là Mike, anh đã sắp xếp cho Moline và ba đứa nhỏ – vào mùa Phục Sinh 1972, Stephen khi ấy lên sáu, Mary thiếu một tháng là đầy ba tuổi, còn Thomas vừa tròn hai tuổi – đến ở trong một căn nhà thuê tại Blacksburg. Lý do chính là họ không kiếm được căn nhà nào tốt hơn trong vùng Radford.

Trường Đại Học Virginia Polytechnic tọa lạc tại đó và chỉ cách Radford không tới mười dặm. Blacksburg là một làng đại học nhỏ, xinh xắn và có vị trí thuận tiện nhất để Moline có đủ không gian riêng tư khi nào cô cần, nhưng vẫn khá gần để cả hai ông bà nội ngoại có thể ghé thăm, giúp đỡ và vui đùa với những đứa cháu của dòng họ Ripley.

Cô em sinh đôi Marcella của Moline cũng đã lập gia đình và có con, sống ở Nashville cách xa đấy vài giờ đồng hồ lái xe. Đối với cha mẹ của Moline thì mấy đứa cháu Stephen, Mary, và Thomas là niềm vui thường xuyên của hai ông bà. Bà ngoại Blaylock hàng ngày lái xe từ Radford tới Blacksburg để đón một trong ba đứa nhóc; mỗi ngày một đứa khác nhau, và giữ nó trong vài tiếng để đỡ đần công việc cho con gái bớt vất vả nhưng chính thật để có dịp nựng nịu và cưng chiều mấy đứa cháu.

Bud và Verna Ripley biết rành về nghệ thuật trông trẻ hơn nhờ đã có mấy đứa cháu lớn hơn quanh họ cho nên cũng cưng mấy đứa nhỏ của John và Moline không kém ông bà ngoại. Bất cứ lúc nào gặp mặt, mấy đứa nhóc nhà Ripley đều là trung tâm vũ trụ của ông bà nội Bud và Verna. Cuộc sống tươi trẻ của chúng đối với họ, ngoại trừ lúc cha chúng ra đi sau ngày Giáng Sinh tuyệt vời 1971, được tràn đầy tình thương và sự chăm nom, những buổi vui chơi ngoài trời và những câu chuyện cổ tích buổi tối; và còn có cuộc viếng thăm sắp tới của Chú Thỏ Phục Sinh nữa chứ.

Stephen, nay lên sáu, đã rành chuyện trứng Phục Sinh rồi nên biết rõ sẽ phải làm gì. Đối với Mary thì đấy là mùa Phục Sinh đầu tiên mà em thực sự được thấy bánh kẹo nhiều như vậy và biết là phải đi lùng kiếm kho tàng đặc biệt ấy như thế nào. Thomas sẽ chập chững theo sau và tìm ra những thứ mà mẹ, ông bà và các anh chị em giấu vào những chỗ để bé thế nào cũng tìm ra cho dù mấy nhóc lớn kia đã lượm sạch cả rồi.

Hai cậu con trai Ripley được mẹ nhắc nhở sẽ phải thật chững chạc, riêng Stephen còn bị răn đe nữa vì là đứa lớn nhất, được căn dặn phải biết đứng ngồi tử tế và không được đùa giỡn quá trớn. Còn Mary, dĩ nhiên sẽ hết sức dễ thương trong bộ áo đầm Phục Sinh, với vớ viền ren, và đôi giầy da đen bóng mà các cô bé đều mang để trông thật nổi bật và sẽ làm mủi lòng những người đàn ông của cô. Mùa Phục Sinh năm nay chỉ có ông nội và ông ngoại mà thôi. Moline sẽ thực hiện chu đáo việc chụp hình để sau này sẽ đưa cho John coi.
Với một nách ba con, Moline không có nhiều thì giờ rảnh rỗi. Chỉ những thoáng bất chợt trong ngày, thường sau lúc Stephen đã đến trường và hai nhóc kia ngủ trưa, vào đêm khuya hay sáng sớm khi cô cầu nguyện, Moline mới có thời gian nhớ đến chồng, nhớ tới mức xót cả lòng.

Trong ngày, ngay cả khi đang trông mấy đứa nhỏ, nàng vẫn thường mở radio nghe xem có tin tức gì từ Việt Nam không. Đồng thời với sự lo lắng của một bà mẹ lúc nào cũng nghe ngóng các dấu hiệu đau ốm bất thường của con, Moline mở máy thu thanh để cố nhận ngay ra từng chữ, từng câu của xướng ngôn viên có thể cho biết những điều cần biết về người chồng ở tận phương xa.

Moline và các con của cô, mặc dù vẫn thường đều đặn đi lễ nhà thờ ở Blacksburg, nhưng vào ngày lễ Phục Sinh, họ sẽ gặp ông bà nội Ripley tại nhà thờ St. Jude tại Radford. Chính tại ngôi thánh đường này, cô và John đã làm lễ thành hôn tám năm về trước, trước khi cô biết đến cái nơi có tên là Việt Nam.

Turley và đồng đội trong hầm chỉ huy

Sáng sớm ngày lễ Phục Sinh
Căn cứ Ái Tử

Nếu như ông đã không quá bận tâm đến việc bảo toàn sự sống còn của các lực lượng đồng minh còn lại ở Vùng I Chiến Thuật, nhất là những người còn kẹt lại phía bên kia bờ sông Cam Lộ – Cửa Việt của địch; cũng như nếu ông đã không quá phí sức theo dõi ba sư đoàn bộ binh Bắc Việt, vài trung đoàn độc lập và một số lượng không rõ gồm trọng pháo và xe tăng mà Đại úy O’Toole cứ ra rả bên tai là chúng đã được dàn ra và sẵn sàng tung ra những trận đánh lớn hơn, thì may ra Trung tá Turley mới cảm nhận được sự nghiêm trọng của khối lượng hỏa lực và trách nhiệm mới bỗng dưng được giao thêm trên đôi vai một sĩ quan trung bình như ông.

Ngay trong lúc mọi chuyện đang diễn ra và trong lòng bận rộn với các băn khoăn, Gerry Turley vẫn còn thời giờ suy xét về mức độ nghiêm trọng của các trách nhiệm mới. Thẩm quyền chấm mục tiêu cho máy bay B-52 là một trọng trách. Trọng trách thật lớn là đằng khác. Ông tự nhủ không biết có người nào với cấp bậc như ông, ngay cả trong những trường hợp bất thường như vầy, đã đảm đương trách nhiệm này hay chưa. Ngay trong thời điểm này, Trung tá Gerry Turley đang sắp sửa phải thi hành, phối hợp và sử dụng một sức mạnh hỏa lực quân sự khủng khiếp hơn bất kỳ người nào khác trên toàn thế giới.

Gerry Turley hiện nắm toàn bộ sức mạnh quân sự – kỹ nghệ nổi tiếng của Hoa Kỳ trong tay. Những chiếc máy bay B-52, cùng với tàu ngầm nguyên tử Polaris và hỏa tiễn liên lục địa Minute Man hợp lại tạo nên bộ ba trong mô hình “kiềng ba chân” hạt nhân của Hoa Kỳ và đều được xem là các vũ khí chiến lược của đất nước. Việc quyết định sử dụng B-52, dù không mang bom nguyên tử, luôn luôn phải được quyết định ở cấp chỉ huy cao nhất. Vậy mà Gerry Turley đột nhiên trở thành, do vị trí tự nhiên của mình, một công cụ chiến lược quân sự quốc gia của Hoa Kỳ.

Tuy đóng một vai trò trong chiến tranh Việt Nam khác với vai trò mà nó được dự định lúc ban đầu, khả năng phi hạt nhân của chiếc B-52 vẫn còn rất ghê gớm. Những cuộc không kích trong Chiến dịch Arclight, với những chuỗi bom dài bất tận từ trên trời rơi xuống một cách bất ngờ đã gây tổn thất nặng nề cho quân Bắc Việt, nhất là về mặt tinh thần nếu việc chấm tọa độ có mức độ thông tin chính xác.

Turley không mất nhiều thời giờ chọn mục tiêu nhắm tới, điều mà ông báo cáo với những tay ở Sài Gòn là các “điểm chấn động” cho hàng ngàn và hàng ngàn trái bom ông sắp thả xuống và rơi ở đâu khi những chiếc phóng pháo cơ khổng lồ đã có mặt đúng vị trí. Mặc kệ thái độ buồn phiền của viên sĩ quan tình báo, mục tiêu đầu tiên mà Turley chọn là Thung lũng Ba Lòng bên ngoài phía Tây và phía Nam của Căn cứ Hỏa lực Sarge và Núi Ba Hồ. Ông và Đại úy O’Toole tranh luận ngắn gọn. Tom O’Toole nghĩ rằng nên khôn khéo ghìm chặt quân Bắc Việt vào mặt trận chính của họ trước. Turley lại muốn hai phần ba trong số những cuộc không kích B-52 đầu tiên phải được sử dụng để loại bỏ gọng kìm đe dọa đã được đánh giá không đúng mức nhưng thực ra khá đáng kể từ phía Tây. Những cuộc không kích còn lại sẽ được dành cho việc bảo vệ mặt trận phía Bắc của họ. Đây là lần đầu tiên kể từ khi đến ở trong hầm chỉ huy Turley mới tin rằng họ có được một cơ hội nhỏ để thành công. Lúc này chính là lúc trả đũa đây.

Quân Bắc Việt không phải là không biết chuẩn bị để đối phó với tiềm năng này của đối phương. Dù cho đến thời điểm này, thời tiết vẫn còn thuận lợi cho phe Bắc Việt, nhưng một khi thời tiết tốt trở lại và sức mạnh không quân của Đồng minh có thể được huy động toàn lực, các lực lượng không quân Hoa Kỳ và Nam Việt Nam sẽ phải đối phó với hệ thống phòng thủ phòng không đáng gờm mà quân Bắc Việt đã mang theo đến những khu vực tiền phương xa nhất của chiến trường.

Nhịp độ hoạt động trong khu vực bị thu hẹp dần còn dưới quyền kiểm soát của các lực lượng bạn ở Vùng I Chiến Thuật không thấy có dấu hiệu nào bị chậm lại. Turley và nhóm của ông tiếp tục phán đoán thông tin theo một tốc độ cho thấy tình hình chiến thuật đang phát triển gay gắt hơn. Sau sự triệt thoái của một số ít lực lượng VNCH vẫn còn sót lại ở mạn Bắc của sông Cam Lộ – Cửa Việt, Turley thấy rõ rằng giá trị chiến lược của cây cầu ở Đông Hà đang gia tăng theo từng phút một.

Thật khó mà kiểm định tình hình cho chính xác. Dường như cứ mỗi lúc chiến trường lại thay đổi, dù chỉ một chút ít. Đến bốn giờ sáng ngày lễ Phục Sinh thì Turley nhận thấy việc thông tin liên lạc từ những đơn vị tiền phương còn sót lại của Sư đoàn 3 QLVNCH và những lữ đoàn TQLC trực thuộc đã trở nên khá hơn. Các cố vấn Mỹ đang có mặt với các đơn vị tiền phương của QLVNCH và TQLC đều bắt liên lạc được qua máy điện đàm. Cho tới sáng nay chuyện này và khả năng sắp sửa được điều động các phi vụ B-52 sẽ là những món quà ngon ngọt trong giỏ kẹo Phục Sinh làm ông cảm thấy thích thú.

Đến bốn giờ sáng thì Turley có thể đếm được 10 căn cứ hỏa lực lớn đã bị quân Bắc Việt tràn ngập và chiếm mất. Ông không thể biết chính xác bao nhiêu quân khí cụ mà các lực lượng VNCH khi tháo lui đã bỏ lại và chúng có được phá hủy hay chưa, hoặc nó lại được đem ra dùng lại để chống phe ta. Chỉ còn căn cứ Mai Lộc và trại Carroll vẫn còn đứng vững trước sức tấn công của quân Bắc Việt. Bên ngoài trại Carroll, với 22 khẩu trọng pháo bao gồm bốn khẩu 175 ly quý giá, Trung đoàn 56 đang hứng chịu một áp lực khủng khiếp nhưng có thể nói họ vẫn tiếp tục chịu đựng được – dù chỉ là một cách mong manh.

Lúc đó tại trung tâm Hành Quân Chiến Thuật, tin tức liên tục đến từ mọi nguồn tạo ra sự kích động lớn nhưng không làm mất tinh thần những người vốn gần như thường xuyên phải đối phó với khối lượng thông tin căng thẳng không ngừng đổ tới. Turley, lúc này vẫn chưa khỏi hẳn bệnh tiêu chảy và cơ thể gần như mất hết cả nước. Thỉnh thoảng anh phải chạy ra ngoài để tự giải tỏa. Bất cứ lúc nào chui ra khỏi hầm trú ẩn, anh lại thấy trên Quốc Lộ 1 những khối người Việt Nam chen chúc nhau xếp hàng dài, gồm súc vật lẫn người và số tài sản ít ỏi mang theo được cứ thế dường như bất tận xuôi về hướng Nam.

Đến sáu giờ rưỡi, trong khi theo dõi mạng lưới hải pháo, Trung úy Eisenstein ghi nhận được một báo cáo bất thường. Một lực lượng Đổ bộ Đặc biệt TQLC Hoa Kỳ gồm 3.000 binh lính TQLC nghe nói đã có mặt ngoài khơi tại một nơi nào đó trong vòng hai tiếng đồng hồ hải hành. Tin này làm cho nhóm người trong Trung tâm Hành quân Chiến Thuật vui hẳn lên nhưng Turley không tin rằng số lính ấy sẽ được đưa tới chiến trường.

Việc đưa quân tác chiến Hoa Kỳ trở lại chiến trường Việt Nam là một quyết định thuộc quyền Tổng thống và sẽ không bao giờ xẩy ra nếu không có sự suy xét hết sức cẩn thận. Theo Turley thì xác suất này rất thấp. Dù vậy, tin tức về một lực lượng Đổ bộ Đặc biệt đang hiện diện ở một nơi nào đó trong vùng khiến ông cảm thấy vững bụng hơn. Nhưng điều ấy cũng giống như mua một hợp đồng bảo hiểm mà sẽ không bao giờ sử dụng trừ phi bị rơi vào tình thế xấu nhất; và mọi việc vẫn chưa đến nỗi xấu như vậy.

Có một lúc trong sáng sớm ngày Phục Sinh, Dave Brookbank chuyển cho Turley cái tin dự đoán thời tiết sắp thay đổi theo chiều thuận lợi cho họ. Dave nghĩ rằng trước khi ngày tắt nắng, Không quân thuộc Bộ Chỉ huy Không quân Chiến thuật TAC sẽ sẵn sàng trở lại. Dù gì đi chăng nữa, trận chiến vẫn còn đang tiếp diễn.

Vào lúc đúng 8 giờ 54, có một cú gọi qua mạng lưới vô tuyến chiến thuật của cả Hoa Kỳ và Việt Nam từ những đơn vị còn đang rút lui của Trung đoàn 57. Xe tăng địch đã được phát hiện trên vùng đồi cao tại căn cứ Alpha 2. Đây là sự xác nhận thực tế đầu tiên về chiến xa địch sau những ngày có các tin đồn và rất nhiều phỏng đoán. Mười sáu phút sau đó, quan sát viên trên những chiến hạm Hải quân Hoa Kỳ gần bờ biển đã có thể quan sát được những chiếc xe tăng này ở các vùng trống trải phía bắc sông Cửa Việt. Những yêu cầu khẩn về việc cho bắn hải pháo để ngăn chận sự đe dọa của thiết giáp đã được thỏa mãn ngay lập tức.

Dường như vẫn chưa đủ cho ông lo lắng, vào lúc 9 giờ 15, Gerry Turley nhận được một cú gọi riêng từ viên Đại tá Cố vấn Hoa Kỳ đang tháp tùng tướng Giai lúc này ở mãi tận phía Nam thành phố Đà Nẵng. Sau vài câu đùa cợt ngắn ngủi, viên Đại tá thông báo cho Gerry Turley: “Cuộc điện thoại này chính là lệnh cho anh phải tiếp nhận chức vụ Cố vấn Trưởng, Sư đoàn 3 Tiền Phương QLVNCH. Tổng tư lệnh Ủy ban Cố vấn Nghiên cứu Chiến trường đã ra lệnh trực tiếp cho tôi phải gọi điện thoại thẳng đến anh. Đây là một trường hợp nhiệm vụ khẩn cấp. Anh có rõ mệnh lệnh của tôi không?”

“Thưa Đại tá, tôi rõ.”

Cũng giống như lần đầu tiên ba ngày trước đó viên Đại tá đã thắng cuộc thì lần này Turley cũng chẳng có cách nào khác hơn là phải nhận lệnh. Tuy nhiên ông còn một cách tính nữa. Nhằm tự bảo vệ trường hợp các sĩ quan quân đội sau này phủ nhận cái lệnh đã đưa ra, Turley xin viên Đại tá số an sinh xã hội của ông, viết nó xuống một mẩu giấy bỏ vào túi quần trước của mình.

Cái lệnh mới từ trên xuống chẳng làm thay đổi gì mấy. Dù bây giờ có trở nên chính thức hơn nhưng nhiệm vụ của Turley cũng chẳng khác gì hết. Thật ra, ông cũng tự cho mình một khoảnh khắc hồi tưởng; nửa phần đầu dành cho câu hỏi không cần câu trả lời là “Sao lại là con, thưa Chúa?”; nửa phần sau để nhớ lại cái cảm giác bất an mà ông đã cố gạt đi trên đường bay tới Phú Bài. Turley một lần nữa lại nhớ lúc còn bé, ông đã có cái “cảm giác đó” và nó giữ ông lại, không cho tới vũng nước trong mỏ đá. Rốt cuộc, ngoài ông ra, những đứa khác đều chết đuối hết. Và một lần nữa tại Triều Tiên, khi ông không lên chuyến bay nghỉ phép dưỡng sức, máy bay đã rớt xuống ngay sau khi vừa mới cất cánh làm tất cả mọi người trên đấy đều thiệt mạng. Cỗ xe lửa hiện thời ông đang lái có lẽ, nếu như điểm số trung bình “đánh bóng chày” của ông vẫn giữ nguyên, sẽ lao thẳng xuống vực, và lần này ông chẳng còn cách nào để tự cứu mình ra khỏi sự thất bại hoàn toàn và tuyệt đối nữa.

Sự trớ trêu vẫn chưa chịu tha Gerry Turley. Chủ Nhật Phục Sinh. Khi nhìn thấy tình hình tại Vùng I Chiến Thuật mỗi lúc một tồi tệ hơn, những kẻ có thẩm quyền cấp trên dường như muốn hành xử theo kiểu Pontius Pilate, tức rửa tay rũ bỏ trách nhiệm về một chuyện càng lúc càng rõ ra là sẽ chấm dứt hoàn toàn bất lợi cho họ.

Họ đã buộc ông phải lãnh một nhiệm vụ mà chẳng ai có thể hoặc muốn chấp nhận cả. Những rủi ro cá nhân cho Turley rất lớn; rộng hơn cả những hiểm nguy hiển nhiên về mạng sống. Ông biết vì mối liên quan giữa quốc sách Việt Nam Hóa Chiến tranh của Tổng thống Nixon và các cuộc tổng tấn công toàn diện của quân Bắc Việt thì một ngày nào đó, nếu như còn sống sót, ông sẽ phải đứng trước mặt thượng cấp, rất có thể chính là vị Tổng tư lệnh Binh đoàn TQLC, để trả lời về những hành động của mình. Nhưng đó là nếu ông còn sống sót, mà dù còn sống đi chăng nữa thì từ bây giờ tới đó cũng còn lâu lắm. Lúc này ông không có đủ thời giờ để suy nghĩ vẩn vơ mặc dù trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ông thấy thông cảm và gần gũi với nhân vật Job trong Thánh kinh Cựu Ước; bị cô lập, bị ruồng bỏ, lẻ loi, chịu đựng những cơn đau bất tận, không bạn bè hay trợ giúp, và không một ai động viên tinh thần.

Mặc dù Gerry Turley cũng muốn nổi giận hay tỏ ý bực bội về những hoàn cảnh bất lợi của mình, nhưng các tình huống không may trong những ngày vừa qua, mũi dao nóng của quân Bắc Việt đang xắn vào miếng bơ QLVNCH không cho phép ông hành động như vậy. Sự hiện diện đáng ngại của chiến xa địch đã thay đổi cục diện của toàn bộ chiến tuyến rộng 24 cây số đang bị thu hẹp lại dần. Sau khi các xe tăng địch đã tàn phá hết phía bắc sông Cam Lộ – Cửa Việt, trong vùng chẳng còn mục tiêu nào đáng cho chúng tấn công nữa.

Turley thấy ngay là mũi nhọn tiến công của chiến xa và bộ binh Bắc Việt đang nhắm thẳng tới Đông Hà. Nếu chúng vượt qua được cây cầu thì toàn bộ tỉnh Quảng Trị sẽ bị bỏ ngỏ. Một khi họ tiến tới được mức đó thì chuyện gì sẽ xảy ra? Đông Hà chính là mấu chốt. Địch quân phải bị chặn đứng ngay tại nơi này. Nếu không, chấn động về tâm lý là địch đã có khả năng dùng thiết giáp tấn công các lực lượng VNCH hầu hết không được trang bị vũ khí chống xe tăng sẽ bẻ gãy hoàn toàn tuyến phỏng thủ mỏng manh mà QLVNCH đang cố gắng bám giữ.

Với quá nhiều mối đe dọa như vậy, Turley không cần suy tính lâu. Ông quyết định ngay chỉ có cách duy nhất là cho phá nổ cây cầu tại Đông Hà.

Sáng sớm Phục Sinh tại Đông Hà

Thị trấn Đông Hà sẽ không có cơ hội nằm trong danh sách những địa điểm du lịch cần ghé thăm trong vùng cực Bắc Việt Nam Cộng Hòa nếu như người Mỹ chưa từng đến chiến đấu tại Đông Nam Á. Nằm trên Quốc lộ 1, đó là vùng đất cuối cùng, tập trung khá đông người, được nhắc tới như một thị trấn địa đầu trước khi băng qua khu phi-quân-sự, cách 21 cây số về hướng Bắc để rồi bước vào vùng đất Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Với vị trí nằm chắn ngang vừa sông Cửa Việt vừa Quốc lộ 1, đồng thời là trạm cuối về hướng Đông hoặc trạm đầu về hướng Tây, tùy góc độ quan sát từ phía nào đối với Quốc lộ 9 chạy vào trong đất Lào, Đông Hà là nơi tụ họp tự nhiên của các nông dân và ngư dân để trao đổi hàng hóa ở phía bắc tỉnh Quảng Trị. Những khu chợ hàng ngày với nhiều phẩm vật trong các vùng lân cận và của ngư dân đánh cá ngoài Biển Đông, 13 cây số phía hạ lưu, đã giúp cho cư dân trong vùng dư dả các nguồn thực phẩm có chất đạm từ Vịnh Bắc Bộ.

Kể từ khi có sự can dự của Hoa Kỳ tại Việt Nam và vì là nơi gần nhất với khu phi-quân-sự, Đông Hà được các lực lượng Mỹ đặc biệt chú ý trong việc bảo vệ lãnh thổ tại các địa điểm gần nhất với biên giới đối phương. Từ năm 1965 cho đến khi những binh lính TQLC Mỹ được đưa về nhà vào năm 1971, Đông Hà cũng là nơi trú đóng của các đơn vị thuộc Tổng Hành dinh Sư đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ. Với sự ra đời của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, các cuộc hành quân tại tỉnh Quảng Trị đã giảm xuống một cách đáng kể cho đến trưa ngày 30 tháng Ba 1972. Như để chứng minh cho tính kiên cường của người dân Việt Nam, trước khi các cuộc pháo kích bắt đầu nổ ra thì cuộc sống không đến nỗi quá tồi tệ với một nền kinh tế thị trường tương đối sôi động phát triển một cách tự nhiên; cũng giống như những vùng phía Nam Đông Hà mà Gerry Turley đã thấy lúc ông và Jim Joy bay trên trực thăng từ Phú Bài đến chưa đầy một tuần trước đó.

Vì Đông Hà gần với Biển Đông nên luôn luôn có nhu cầu về hàng hải để di chuyển người và vật liệu xuôi ngược trên con sông vốn có dòng chảy khá mạnh và sâu nơi có cây cầu bắc ngang và rồi ngoặt sang hướng Đông để đổ ra Vịnh Bắc Bộ. Cây cầu bắc qua sông Cửa Việt tại Đông Hà đã có từ lâu rồi. Thực ra, hiện có tới hai cây cầu, một cái có tên là “Cầu Tây Cũ” để chỉ cây cầu được bắc lên trước đó, cách cây cầu mới và rộng hơn chưa đầy 100 thước từ phía thượng nguồn. Cây cầu lớn hơn, nguyên thủy được xây dựng cho việc lưu thông đường bộ và xe cộ đã được tái thiết lại vào năm 1967 bởi một Tiểu đoàn Công binh Hải quân Hoa Kỳ (được thế giới biết đến với cái tên là “Toán Ong Biển”).

Cây cầu mới ấy tượng trưng cho sự thông minh trong việc thiết kế và sắc sảo về kỹ thuật của người Mỹ. Được xây dựng để tồn tại một cách vĩnh viễn, con “mãnh long” làm bằng bê tông, thép và gỗ -hầu hết là thép- đã thể hiện ra bản chất của nước Hoa Kỳ, đặc biệt là sức mạnh kỹ nghệ của hai thị trấn Pittsburg và Youngstown. Dài gần 200 thước, sức chịu đựng kỳ diệu của chiếc cầu được tạo thành từ sáu thanh thép hình chữ I chạy theo chiều dọc làm nhiệm vụ của một bộ khung khổng lồ, bên trên được đặt những phiến gỗ chắc nịch, dày dặn. Năm cái trụ cầu chống đỡ toàn bộ cấu trúc lớn này được làm bằng bê tông cốt sắt. Để chống lại sự phá hoại của những tên đặc công, trên cả hai bờ phía Bắc và phía Nam, Toán Ong Biển đã thiết lập những hàng rào bằng xích sắt và dây kẽm gai dày đặc dưới gầm cầu. Nếu muốn phá hủy cái con “quái vật” ghê gớm ấy, dù trong hoàn cảnh thuận lợi nhất, cũng không phải là điều dễ dàng. Còn muốn phá hủy cây cầu trước khi quân Bắc Việt có thể chiếm đoạt được nó là điều không thể thực hiện nổi.

Nếu tay chỉ huy của đoàn chiến xa Bắc Việt, hiện có lẽ đang tập trung gần Căn cứ Alpha 2, có thái độ dứt khoát hơn, hoặc nếu như hắn ta có nghiên cứu chút ít về các vị tướng lãnh như Patton, Rommel hoặc Guderian thì hắn đã có thể là một đối thủ nguy hiểm ngoại hạng, ngoài việc chỉ nắm trong tay một sức mạnh hỏa lực có thể tạo chấn động tâm lý cho đối phương. Turley hy vọng là hắn đã được giáo dục thành một tên Cộng sản tốt, thành thử sẽ không dám mạo hiểm, và nếu là một đứa con cưng của “Cách mạng” thì hắn lại càng sợ bị kiểm thảo và bị mất mặt, điều mà các đối thủ phía Nam của hắn không bị vướng phải. Đúng là nếu như người nắm quyền chỉ huy đoàn chiến xa Bắc Việt có được một nhúm óc thực tiễn và táo bạo, với sức chống cự của QLVNCH hiện thời rất yếu ớt, hắn có thể đã ra lệnh cho đám chiến xa và lính tùng thiết yểm trợ để lên đường rồi, và chúng sẽ tràn tới bờ bắc sông Cửa Việt trong vòng chưa đầy một tiếng đồng hồ nữa. Hoặc giả hắn không phải là kẻ dứt khoát và thuộc loại người cẩn thận, mưu mẹo, thì các đơn vị của hắn cũng có thể vượt đoạn đường 11 cây số giữa Căn cứ Alpha 2 và Đông Hà trong vòng không quá hai tiếng đồng hồ hoặc ba tiếng là tối đa. Turley không còn mấy thời gian nữa.

Turley hiểu rõ tầm mức gây kinh hoàng và chấn động tâm lý của thiết giáp. Ông biết rằng chỉ cần một trong những chiếc xe tăng T-54 do Liên Xô cung cấp vượt qua được mạn Nam của con sông thì cái khối thép khổng lồ gần 40 tấn đầy đe dọa ấy sẽ tạo ra nỗi kinh hoàng hoảng loạn vô cùng cho dân chúng đang lánh nạn và các lực lượng QLVNCH chỉ được trang bị kém cỏi trong việc chống lại xe tăng.
Trên thực tế thì những khả năng để đối phó lại của Trung tá Turley cũng khá hạn chế. Khi nhận thức được giá trị chiến lược của cây cầu, một trong những ý nghĩ đầu tiên hiện ra trong đầu ông là suy nghĩ về các nỗ lực tái chiếm cho bằng được cây cầu tối quan trọng tại thị trấn Regamen khi các lực lượng Đồng minh tiến vào phía Tây nước Đức vào đầu năm 1945. Cấp bậc Trung tá như ông không có quyền quyết định phá hủy hay bảo vệ các cây cầu nằm ngang các con nước quan trọng. Nhưng lần này thì khác một chút so với lúc quân đội Hoa Kỳ đang tìm cách vượt qua cây cầu độc nhất còn sót lại để băng qua sông Rhine vào 27 năm về trước. Chẳng phải là Turley muốn quyền uy gì cả. Không còn thời gian nữa. Ông phải ra đứng ra nhận trách nhiệm và phải hành động ngay tức khắc.
Chỉ có một cách duy nhất để phá hủy cây cầu Đông Hà. Không thể dựa vào hỏa lực không quân được. Mặc dù trước đó Thiếu tá Brookbank đã lạc quan tuyên bố rằng thời tiết sẽ được cải thiện, nhưng Turley không đủ thời gian để gọi lực lượng Không quân thuộc Bộ Chỉ huy Không quân Chiến thuật để làm việc này. Quân Bắc Việt sẽ băng qua cầu trước khi những lớp mây cho phép máy bay hoạt động được. Ngay trong lúc này, dù có quyền định mục tiêu cho B-52 thả bom, Turley cũng không bao giờ nghĩ đến việc sử dụng chúng. Không kích Arclight chỉ có độ chính xác vừa phải mà thôi, nếu ông có thể tập trung được sức bom dội xuống đúng ngay trên cầu, thì may ra mới xong chuyện. Những cuộc dội bom Arclight chỉ có hiệu quả đối với những vùng không cần sự chính xác tuyệt đối. Hơn nữa không có gì bảo đảm chỉ riêng cây cầu sẽ bị trúng bom. Tiểu đoàn 3 của Thiếu tá Lê Bá Bình và Cố vấn John Ripley hiện còn đang giữ nhiệm vụ bảo vệ Đông Hà và hàng ngàn người dân chạy loạn vẫn còn trong khu vực. Turley sẽ hân hoan thả xuống bất cứ cái gì và mọi thứ gì mà ông có trong tay vào quân Bắc Việt đang tấn công, ngay cả có thể gọi không kích ngay trên đầu mình chứ không bao giờ nghĩ đến chuyện thả bom vào những người dân đang chạy trốn; không giống như bọn Bắc Việt vẫn tiếp tục cho pháo binh cố ý nhắm vào thường dân vô tội.

Cũng vậy, ngay cả hải pháo của những con tàu đậu ngoài khơi dù có gia tăng hỏa lực đi nữa cũng không đủ sức để hạ gục cây cầu. Mặc dù hải pháo tỏ ra hữu hiệu và đã tiêu diệt được một số quân địch đang tập trung và có thể chống được đoàn chiến xa đang tiến lại gần nhưng cỡ đạn bắn ra tương đối nhỏ cũng khó phá được cây cầu. Giá như Turley có thể ra lệnh các chiến hạm USS Iowa, New Jersey, Wisconsin, và Missouri đồng loạt nã pháo trực tiếp yểm trợ thì sự thể có lẽ đã khác đi rồi. Nhưng thực tế không phải như vậy. Mơ ước chả ích gì vào lúc này. Không. Turley biết rằng chỉ có mỗi một cách để hạ cây cầu là dùng phương pháp cổ điển. Ông sẽ phải cho người mò xuống dưới gầm cầu với một khối chất nổ, người đó phải biết mình đang làm gì và quyết tâm phải làm cho bằng được. Chỉ có mỗi cách đó thôi.

Cuộc chiến trên hai mặt trận một lúc mà Gerry Turley đang đối phó chưa bao giờ rõ ràng bằng lúc này, và nỗi cô độc của nhân vật Job trong Cựu Ước trong vai trò thủ lĩnh chưa bao giờ sâu sắc hơn khi ông thông báo cho hậu cứ biết ý định phá cây cầu Đông Hà. Trong nhiều ngày qua, ông đã ra hết quyết định này đến quyết định khác về việc xử dụng hỏa lực, việc di chuyển và bố trí các lực lượng; tất cả đều là các mệnh lệnh tối quan trọng. Tất cả đều là vấn đề sống chết. Vài ngày qua, một số tướng lãnh Mỹ và Việt, ngoại trừ Tướng Giai và tay Đại tá Mỹ, ra vào hầm chỉ huy 155 soành soạch. Không một lần nào những cấp chỉ huy ấy đưa ra mệnh lệnh ngược lại với ông, ngay cả đưa ra lời hướng dẫn chiến lược cũng không. Tuy vậy, chưa đầy một phút sau khi Turley nói với người nào đó bên kia điện đàm hay đường điện thoại tới Sài Gòn hoặc Đà Nẵng về quyết định của ông sẽ cho hạ cây cầu thì có lệnh ngược lại là không được.

“Chúng ta phải giữ nó để phản công lại phía Bắc. Không được phá hủy cây cầu. Đây là mệnh lệnh, Trung tá Turley”.

Turley biết rằng nếu quân Bắc Việt mang chiến xa băng được qua cầu, thì có thể sẽ chẳng bao giờ có phản công. Và nếu trong vòng vài tiếng đồng hồ tới đây, quân Bắc Việt mà mang được đủ lực lượng qua sông thì chẳng bao lâu trong một tương lai gần sẽ không còn một nước Việt Nam Cộng Hòa nữa. Tình thế nguy hiểm đến như thế. Ông biết và tin là như thế. Những người thuộc Ban Tham mưu ở Đà Nẵng hoặc Sài Gòn, dù họ ở đâu và bất kể họ là ai, vẫn chưa hình dung nổi tình hình mong manh như thế nào tại đây. Cuộc trao đổi điện đàm không thân tình chút nào. Turley, dù đang giận dữ, vẫn hiểu được những người dưới kia vẫn chưa tin nổi, gần như không thể hiểu nổi mức độ tan rã ngoài chiến trường ra sao. Thật khó cho ông tuân lệnh khi đang ở vào tình trạng cấp bách này. Kềm chế cơn giận, ông đặt ống nghe xuống và ngưng nói. Ông biết mình cần phải làm gì. Turley và đồng đội sẽ phải chặn đứng được quân Bắc Việt hay là chết. Cây cầu sẽ phải được phá hủy.

CƯỠI NGỌN SẤM 27

cuoingonsam

richardbotkin

Chương 21: Giờ phút huy hoàng nhất của họ

Thiếu úy Nguyễn Lương nóng lòng được nhập cuộc ngay. Anh mong muốn có dịp để chứng tỏ khả năng của mình. Anh nôn nóng để tự khẳng định tài năng trước 36 quân nhân TQLC thuộc Trung đội 1 Đại đội 4 mà giờ đây anh được chỉ huy; và đối với Đại đội trưởng và vị Tiểu đoàn trưởng gần như là huyền thoại qua các câu chuyện về ông ta. Phải tự khẳng định mình là nỗi lo lớn nhất của Lương để biết rằng mình có xứng danh là “TQLC” và là thành viên trong toán Sói Biển. Thiếu úy Nguyễn Lương, giống như vị Tiểu đoàn trưởng và viên cố vấn Hoa Kỳ, cũng ngạc nhiên về việc tại sao Tiểu đoàn 3 lại được sử dụng vào một vai trò có vẻ không xứng đáng với khả năng của đơn vị là nằm mãi phía dưới này, xa hẳn các căn cứ hỏa lực và các cuộc giao tranh quan trọng.

Sự tương phản giữa Thiếu úy Nguyễn Lương vừa mới tốt nghiệp ra trường lúc nào cũng hăm hở chu toàn nhiệm vụ cũng tương tự như các thiếu úy khác trong tất cả các tổ chức quân đội trên thế giới, và các thuộc hạ TQLC trong trung đội của anh – có người còn trẻ, có người đã lớn tuổi rồi – rất lớn, lớn hơn những gì mà đa số các sĩ quan Hoa Kỳ đã trải qua. Các sĩ quan trẻ Hoa Kỳ, mới tốt nghiệp từ Quantico hay Ft. Benning ra, thường có lợi vì được dựa vào các hạ sĩ quan trẻ và các binh sĩ vì những người đó đã ở trong cái xứ này khá lâu rồi. Cũng vì họ đã sống sót được cho tới khi các ông sĩ quan trẻ đến, cho nên họ có nhiều kinh nghiệm về đường rừng và mang trong lòng một niềm hận thù sâu sắc đối với kẻ thù gian manh, xảo quyệt và độc ác.

Văn hóa người Mỹ thiên về tính cao thượng, do đó theo tình cảm tự nhiên họ quý trọng ý niệm tự do và tất cả những thứ gì khác mang tính tinh khiết. Ngoại trừ một số thanh niên Mỹ thuộc thành phần gia đình đã vượt thoát tìm tự do từ sau bức màn sắt hay từ Cuba, rất ít người sinh ra trong nước có thể hiểu nổi chủ nghĩa Cộng sản nghĩa là gì.

Trong số binh lính tình nguyện thuộc trung đội của Nguyễn Lương, là một trung đội tiêu biểu cho các trung đội khác thuộc Tiểu đoàn 3 và phần còn lại của binh chủng TQLC, có những binh sĩ TQLC kỳ cựu lẫn với các chiến sĩ dày dạn trận mạc đã từng phục vụ trong các binh chủng Nhẩy Dù, Lực Lượng Đặc Biệt và có cả một số Biệt Động Quân nữa. Một tỉ lệ khá lớn sinh trưởng từ miền Bắc và đã di cư cùng với gia đình vào trong Nam năm 1945. Trong nhóm đó, tất cả mọi người đều có những kinh nghiệm riêng tư với bọn Cộng sản và có những lý do đặc biệt để phục vụ trong quân đội. Họ không nghĩ điều gì xa hơn là ao ước có dịp được trả các mối thù cá nhân hoặc của gia đình; một chuyện hoàn toàn ngoài sự hiểu biết của người Mỹ.

Nhóm hơn 700 chiến sĩ của Tiểu đoàn 3 TQLC đã sẵn sàng. Họ gồm cánh Alpha của Thiếu tá Bình, Đại úy Ripley, Nhã và hai trong số bốn đại đội bộ binh, cộng thêm Đại đội súng cối đóng tại căn cứ hỏa lực Nancy; và cánh Bravo, gồm hai Đại đội còn lại đóng tại căn cứ hỏa lực Barbara. Mọi cấp chỉ huy, từ cấp cao nhất xuống đến cấp thấp nhất và mới ra trường giống như Thiếu úy Lương, rõ ràng là họ đã sẵn sàng cho cuộc đụng độ sắp diễn ra, mà là đụng nặng. Từ vị trí gần sông Mỹ Chánh, vào buổi trưa ngày 30 tháng Ba, họ nhận được lệnh đảm nhận vai trò làm lực lượng trừ bị cho Sư đoàn 3 và phải di chuyển lập tức bằng mọi phương tiện nhanh nhất đến thành phố Đông Hà. Đêm hôm đó họ nhanh chóng chiếm lĩnh mục tiêu mới bằng đủ loại xe vận tải khác nhau.

Ngoại trừ trong những giai đoạn dưỡng quân hay tái phối trí tại Thủ Đức, ít ra là trong khoảng thời gian Ripley ở với toán Sói Biển, Tiểu đoàn 3 không bao giờ đứng ngoài lề các cuộc giao tranh trọng yếu. Được đảm trách là đơn vị trừ bị cho Sư đoàn 3 Bộ Binh không phải là chuyện đùa. Khi mặt trời ló dạng vào ngày 31 tháng Ba và cho thấy một sự tàn phá qui mô, có hệ thống đang diễn ra, ngay lập tức mọi người hiểu được rõ rệt là trận đánh lớn sắp nổ ra.

Đông Hà, nằm vào khoảng 12 dặm phía dưới khu phi-quân-sự, hiện đang chịu đựng cơn pháo kích gần như không ngừng của hỏa tiễn và pháo binh địch. Lực lượng bộ binh Bắc Việt vẫn còn xa vào khoảng ít nhất tám hay chín dặm ở phía Bắc cứ điểm Alpha 2 nhưng điều hiển nhiên là chúng đang tràn xuống phía này.

Chính cái tỉnh lỵ Đông Hà này thì hoàn toàn không có gì đáng kể. Điều đã làm cho thành phố này trở thành quan trọng đối với TQLC đang bảo vệ nó trước việc đang sửa soạn tấn công của quân Bắc Việt là vì nó nằm chắn ngang cây cầu chính bắc qua sông Cửa Việt trên Quốc lộ 1, là con đường được xây dựng dưới sự giám sát của người Pháp từ nhiều năm trước, chạy dọc suốt chiều dài của cả nước Việt Nam. (Một cây cầu thứ hai cũng được bắc ngang sông Cửa Việt có thể chịu đựng được chiến xa nằm vào khoảng 10 dặm về phía Tây Cam Lộ. Giữa hai chiếc cầu này thì cây cầu Đông Hà quan trọng hơn về mặt giao thông thương mãi và quân sự. Vào khoảng non một trăm thước trên thượng nguồn tính từ cầu Đông Hà có một chiếc cầu nữa cũ và nhỏ hơn nhiều mà người ta gọi là “Cầu Tây Cũ.” Cầu này có thể đi bộ được và chỉ đủ chiều rộng cho một chiếc xe jeep chạy qua nếu không có xe ngược chiều lại. Cách đó khoảng hơn một cây số về phía Tây là một cây cầu cũ của con đường sắt Hà Nội – Sài Gòn nay không còn sử dụng được nữa. (Chiếc cầu này có một nhịp đã bị sập xuống nước mà hiện giờ người ta coi như không thể qua lại được). Nếu quân Bắc Việt kiểm soát được cầu Đông Hà, bọn chúng sẽ có một cửa ngõ tuyệt đối mở xuống toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Với thời tiết xấu làm giới hạn khả năng của không quân Đồng minh, không chận được bước tiến của kẻ thù, quân Bắc Việt hy vọng sẽ đưa được đủ lực lượng xuống phía Nam trước khi trời quang mây tạnh. Nếu thực hiện được điều này, chúng sẽ giáng được một đòn độc hại nghiêm trọng xuống chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Lợi thế duy nhất hiện nay quân Đồng minh có được tại Đông Hà là tỉnh lỵ này nằm trong tầm hải pháo của một số khu trục hạm Hoa Kỳ đang tuần tiễu sát bờ biển càng lúc càng đông hơn.

Đông Hà cũng là đoạn chót từ hướng Đông của Quốc lộ 9 chạy qua phía Tây, vượt qua nhiều căn cứ hỏa lực trọng yếu, ngang qua Khe Sanh và cuối cùng chạy qua bên Lào. Trong chu kỳ nhiệm vụ trước với Lima 3/3, John Ripley đã từng lái xe công vụ rất nhiều lần trên con đường hiểm nghèo này. Từ Đông Hà, Tiểu đoàn Sói Biển đang ở vào một vị trí lý tưởng để tiếp viện cho Sư đoàn 3 bất cứ chỗ nào mà Tướng Giai yêu cầu.

Tiểu đoàn 3 chia thành hai cánh Alpha và Bravo giống như các tiểu đoàn TQLC anh em khác. Họ chiếm lĩnh các vị trí khác nhau trong tỉnh lỵ và nằm đợi lệnh. Khi ngày Thứ Sáu Tuần Thánh dần tàn, các chiến sĩ TQLC của Bình vẫn không thể nào dỗ được giấc ngủ bởi tiếng pháo kích liên tục nhưng họ cố làm tất cả những thứ gì có thể làm được để giữ gìn sức khỏe và sửa soạn cho trận đánh chắc chắn sẽ xảy ra.

Trở lại với Turley và hoạt động tại TTHQCT

Hầm trú ẩn của Toán 155 tại Ái Tử (khoảng chừng năm dặm phía Nam Đông Hà), mà trước đó không lâu là Trung tâm Hành quân Chiến thuật của Sư đoàn 101 Nhẩy Dù Hoa Kỳ lừng danh, mãi cho tới khi chương trình Việt Nam hóa chiến tranh phát triển thì nó bị buộc phải đóng cửa và rút ra khỏi chiến trường, hiện bận rộn như một tổ ong vò vẽ. Bên ngoài hầm, từng khoảng lớn của căn cứ hỏa lực Ái Tử đang bốc lửa dưới cơn pháo kích liên hồi và chính xác đến chết người của quân Bắc Việt.

Trung tá Gerry Turley chịu trách nhiệm một số vấn đề khác nhau một trời một vực và mỗi chuyện đều đòi hỏi một sự tập trung, quan tâm rất lớn. Gerry vẫn cố hết sức mình làm tròn nhiệm vụ để giữ tất cả mọi vấn đề chiến thuật và tiếp vận còn trong tầm kiểm soát cho tới khi nào mọi nơi đều bị quân Bắc Việt tràn ngập và chính ông ta bị giết ngay tại chỗ hoặc bằng cách nào đó được bốc ra khỏi cái trách nhiệm đổ lên đầu ông một cách vô lý như vậy.

Nhiều tiếng đồng hồ trôi qua trong cuộc chiến đấu để đời, Gerry vẫn không có ý niệm nào rõ ràng về số phận của khoảng 30 người mà hiện giờ ông đang chỉ huy, cũng như không biết họ đang thực sự ở đâu nữa. Ông bắt đầu lập danh sách tất cả các cố vấn Hoa Kỳ hiện đang có mặt ở Vùng I Chiến Thuật. Chắc phải có cách nào đó để theo dõi trong tình huống họ bị đánh phủ đầu, bị bắt hay bị giết chết. Đối với những người ông đang quan tâm, niềm tin của ông vào những người không phải là TQLC trong thời khắc này đã bị giảm đi rất nhiều, qua trường hợp của chính vị sĩ quan mà ông vừa thay thế. May mắn thay, hầu hết những người khác sẽ trở nên hữu sự hơn trong những ngày kế tiếp và chứng tỏ họ cứng cỏi hơn nhiều trong lúc trận đánh đang diễn tiến.

Trong những TQLC tại TTHQCT, Gerry dựa nhiều nhất vào vào Đại úy J.D. Murray, một tay chuyên nghiệp thứ thiệt đã từng được tặng thưởng huân chương Navy Cross qua những chiến công trước kia. Cùng hiện diện trong hầm có một toán Chấm Tọa độ Hải pháo gồm hai người mà trưởng toán một tay trung úy cứng cỏi và sắc bén tên là Joel Eisenstein.

Trung úy Joel Eisenstein, sau này hóa ra là một nhân vật tối quan trọng trong sự diễn tiến của các sự kiện then chốt trong những ngày sắp tới, là một sĩ quan gan lì, hoạt bát và năng động mới chỉ 26 tuổi, quê ở Missouri. Với ba lục cá nguyệt học trình luật trong túi, Eisenstein đã chọn tình nguyện vào TQLC sau khi nhận được lệnh động viên. Là một người cuồng nhiệt trong niềm tin, anh có được cái tính chính xác lạnh lùng của một tay luật sư công tố thâm niên chỉ lên tiếng cho những điều đáng được bảo vệ. Anh hoàn toàn không ngại ngùng khi phải đụng độ với những người thâm niên hơn anh nhằm theo đuổi cho sự thành công của nhiệm vụ và săn sóc các TQLC mà anh hiện đang chịu trách nhiệm ngoài cứ điểm Alpha 2. Từng phút một, họ đang càng lúc càng có vẻ bị cô lập và sắp sửa bị bao vây bởi quân Bắc Việt đang trên đường tấn công. Anh và viên trung úy tại Alpha 2 chỉ huy toán đã bắt đầu sửa soạn cho một cuộc triệt thoái cái nhóm tí hon không trực thuộc bất kỳ đơn vị VNCH hay TQLC Hoa Kỳ nào cả.

Trận chiến mà Turley, Murray, Eisenstein và tất cả những người khác trong hầm trú ẩn TTHQCT đang phải đương đầu dường như không hề giảm bớt. Tình hình rất căng thẳng tại tất cả các vị trí của Quân lực VNCH và TQLC mà tụi Bắc Việt đã biết rất rõ. Nơi này có thể tệ hại hơn nơi khác nhưng không có vị trí nào trong tầm pháo kích của địch quân mà không bị thiệt hại cả.

Trong hầm trú ẩn của Toán 155
Ái Tử, tỉnh Quảng Trị
Đúng 4 giờ sáng ngày 1 tháng Tư 1972

Lúc này đã là xế trưa ngày thứ Sáu tại quê nhà và Gerry tự ép mình trong một phút phù du xa hoa để cố hình dung ra Bunny và mấy đứa trẻ giờ ra sao. Tuần này chúng được nghỉ học vì lễ Phục Sinh và tha hồ làm những gì chúng đang làm bây giờ. Giờ ở nhà đi trước 15 tiếng, tức lúc này là xế trưa thứ Sáu – ngày lãnh lương – và Bunny chắc hẳn đang nhập đoàn với vô số các bà vợ TQLC khác trong khu quân nhu trong trại Pendleton để mua sắm đồ dùng cho gia đình. Ngoài cái xe đẩy thông lệ chất đầy thức ăn, lần này chắc có thêm một vài món cho ngày lễ Phục Sinh nữa. Chris và Bob đã gần đến cái tuổi đủ lớn để không còn thích mấy quả trứng tô mầu nữa nhưng chắc chưa đâu. Sau đó thì nàng sẽ phải mua tất cả một loạt các thứ bắt buộc phải có màu vàng như kẹo đường dẻo Peeps màu vàng bọc đường, trứng Robin và kẹo dẻo trứng chim. Mọi người chắc sẽ xuống San Diego rước lễ trong ngày Chủ Nhật Phục Sinh cùng với gia đình và cố gắng có một buổi lễ thật vui mặc dù bố Gerry vẫn còn ở Việt Nam và Anne thì ở xa trong trường huấn luyện y tá.

Vì mới chỉ là trưa thứ Sáu ở Mỹ nên Gerry biết chắc là nếu MACV trong Sài Gòn chưa có vẻ gì là lo lắng lắm về những chuyện đang xảy ra tại Vùng I Chiến Thuật thì cái tờ báo San Diego Union mà Bunny hằng ngày đọc rất kỹ để xem có gì gợi ý trong các tin tức có thể cho nàng biết manh mối về chồng ra sao, sẽ không thể lộ được gì về trận đánh mà Gerry đang bị lôi vào ở ngay trong lòng.

Gerry thoáng cười thầm khi nghĩ đến lời tiên tri không dự tính trước mà ông đã viết trong lá thư cuối cùng gởi về nhà trước chuyến đi dự tính bốn ngày từ Sài Gòn lên miền Bắc. Ông bảo vợ: “Đừng có lo lắng gì nếu em không nghe tin tức của anh trong vài ngày nữa…” Nếu tình hình hiện tại không đảo ngược, ông có thể sẽ bị giết hay bị cầm tù trước khi vợ ông nhận được lá thư, hiện chắc phải vài ngày nữa mới tới tay.

Trở lại trong hầm trú ẩn

Gerry Turley không hề chợp mắt từ khi các cuộc tấn công bắt đầu, bây giờ đã trải qua gần 48 tiếng đồng hồ rồi. Ông khá ngạc nhiên lại cảm thấy mình khoẻ khoắn và minh mẫn trong cái tình thế bất thường này.

Vào khoảng bốn giờ sáng ngày thứ Bẩy 1 tháng Tư, bởi các lý do nào đó mà phe Đồng minh chẳng ai biết, tình hình tự dưng tạm lắng dịu, đủ thời gian để Gerry kiểm điểm lại tất cả những chuyện đã xảy ra từ lúc Cộng sản bắt đầu tấn công.

Không có thứ gì trong hầm có thể cho mọi người biết đã sang một ngày mới, ngoại trừ một vài cái đồng hồ trên tường và những chiếc đồng hồ đeo tay của mỗi người. Không có tin tức mới nào tốt đẹp hay vui vẻ cả. Thật khó mà lạc quan được, thế mà Trung tá Turley can đảm chấp nhận cái trách nhiệm chưa từng thấy đang đổ lên đầu mình. Ông là một quân nhân chuyên nghiệp và có quá nhiều thứ đang bị đe dọa. Bao nhiêu là cặp mắt đang hướng về ông cho nên Gerry không thể lộ ra điều gì mà phải chú tâm vào việc cứu vãn cái tình hình đang tồi tệ dần.

Bước vào ngày mới, ông phải kiểm điểm và xem xét lại tất cả những gì đã xảy ra từ lúc ông bị bó buộc bỏ mất món tráng miệng trong buổi ăn trưa ba ngày trước đó. Ông chỉ có đủ thời gian tính toán một cách lạnh lùng; không còn cái xa xỉ để tìm hứng, suy ngẫm, hay xem xét hời hợt các khả năng khác nhau. Mỗi quyết định đều là vấn đề sinh tử, giống như một bác sĩ giải phẫu đơn độc có quá nhiều bệnh nhân cần săn sóc. Gerry buộc phải chọn lựa và phân loại các sự phán đoán của mình.

Từ phía Bắc ngoài khu phi-quân-sự và phía Tây bên Lào, quân Bắc Việt tiếp tục tạo áp lực không nương tay trên tất cả các vị trí của các đơn vị Quân lực VNCH và TQLC. Cho tới lúc này thời tiết vẫn còn xấu cho nên không có cách nào gọi phi pháo để giảm áp lực cho các đơn vị phòng thủ. Pháo binh VNCH phản pháo vô hiệu quả và trong hầu hết trường hợp là bất khả dụng. Nguồn hỏa lực yểm trợ duy nhất là hải pháo từ các chiến hạm đậu ngoài cửa sông Cửa Việt bây giờ đã tăng lên bốn chiếc.

Gerry không hề biết là chỉ huy trưởng chiếc Buchanan đã bắt đầu gởi các báo cáo tình hình chiến sự về cho cấp trên là bộ phận CINCPAC đóng tại Trân Châu Cảng ở cách xa đó năm ngàn dặm. Những bản báo cáo này vẽ lên một bức tranh về tình hình càng lúc càng tuyệt vọng tại miền Bắc tạo ra một sự thất vọng, bối rối và sau đó là ngượng ngùng cho nhóm nhân viên MACV tại Sài Gòn. Cho tới thời điểm này và chỉ cách xa đó ba trăm dặm, các cấp chỉ huy MACV và Quân lực VNCH vẫn chưa chịu chấp nhận là sự nghiêm trọng của tình hình đang ập lên chính họ và các đơn vị VNCH đang tham gia trong trận chiến.

Thêm vào nữa là sự nhắc đến liên tục về một Trung tá TQLC Hoa Kỳ tên là Gerry Turley, có vẻ như đang chỉ huy toán 155 Cố vấn quân sự thuộc TTHQCT của Sư đoàn 3 BB VNCH, đã được chú ý đến. Vì lý do lịch sự đối với đơn vị bạn, CINCPAC (tuy không thể nào biết chuyện không có sự liên lạc nào giữa các đơn vị ở Vùng I và Sài Gòn hay không) bắt đầu chuyển các báo cáo của chiến hạm Buchanan qua cho tướng Abrams và nhân sự của ông tại MACV. Chỉ qua các báo cáo lạ lùng đó mà nhóm MACV lần đầu tiên mới biết đến một tay TQLC họ chưa từng nghe đến bao giờ hiện đang đảm nhận một cách khó hiểu cái trách nhiệm về một tình thế hiện đã vượt ra khỏi tầm tay, trong khi họ không hề có một khái niệm nào về những diễn biến cả. Những sĩ quan cao cấp của MACV và Quân lực VNCH tại Sài Gòn cuối cùng buộc phải công nhận, trái với định kiến cố chấp trong đầu của họ, là tình hình phía Bắc có lẽ nghiêm trọng hơn là một biến cố nhỏ hay đòn nhử chiến lược của địch quân. Hậu quả ngược trở lại của thực tế đó chẳng bao lâu sau sẽ đè nặng lên Gerry Turley.

Không ai có thể ngờ rằng họ đang chứng kiến các loạt pháo mở màn cho một chiến dịch tấn công lớn nhất của địch quân trong suốt cuộc chiến Việt Nam. Trận đánh này lớn hơn cả biến cố Tết Mậu Thân khi mà Walter Cronkite – được coi là con người đáng tin cậy nhất tại Hoa Kỳ – đã tuyên bố là quân đội Hoa Kỳ sẽ thất trận tại Khe Sanh.

Từ vị trí thích hợp và sôi động của Gerry trong chiến cuộc với đầy đủ các thông tin, ông thấy sự cố tình chậm trễ loan báo các tin tức xấu của Quân lực VNCH mà ông đánh giá là do sự mất mặt do bị đánh bất ngờ cùng với tình trạng lơ là trong thời gian kỳ nghỉ trước lễ Phục Sinh đã giúp cho kẻ thù hoàn tất được các mục tiêu chiến lược của chúng. (Về sau này mới biết là có nhiều sĩ quan chủ chốt Hoa Kỳ và Quân lực VNCH đã đi nghỉ phép cuối tuần trước khi các cuộc tấn công bắt đầu).

Trong những khoảnh khắc giữa những lúc quan sát các vấn đề đó, Gerry vẫn không thể nào hiểu nổi cái thực tế đã xảy ra cho ông. Không đầy 48 giờ đồng hồ trước đây, ông chỉ là một viên phụ tá cho Cố vấn trưởng TQLC đến đây để thăm chừng một chục cố vấn quân sự khác, giao thư từ cho họ và xem xét tình hình chiến sự ra sao. Giờ đây có vẻ như ông đang ở trung tâm điểm của một trận đánh báo hiệu tận thế tới nơi rồi, và mặc nhiên được toàn quyền ra tất cả các quyết định mà ông biết là chưa chính thức được quyền làm như vậy. Trông thì tưởng chừng như là một điều hoang tưởng, nhưng ông biết chỉ có các sĩ quan TQLC mới hiểu nổi, điều làm ông lo ngại nhất không phải là cái chết của bản thân mình. Sự lo lắng của ông cùng với các trách nhiệm càng lúc càng nhiều, là liệu sau này các hành động và tinh thần chỉ huy của ông sẽ được phán xét như thế nào đối với những người còn lại – đặc biệt là nếu ông bị tử thương và còn bị thua trận. Điều mà Gerry Turley không bao giờ muốn là bôi nhọ danh dự của binh đoàn TQLC Hoa Kỳ. Người ta thường nói chiến thắng có hàng ngàn người cha nhưng thất bại chỉ là một đứa con vô thừa nhận. May mắn hay không cũng vậy nhưng tình hình diễn tiến như thế thì Gerry cũng không có thời giờ nhiều để mà suy tư về những vấn đề đó. Thắng hay bại, Gerry vẫn sẽ là cái nhân vật trong đấu trường như trong một trích dẫn nổi tiếng của Teddy Roosevelt. Ông sẽ tập trung vào những chuyện có thể thay đổi được và bỏ những phần còn lại cho các bình luận gia, các vấn đề khác để sau này sẽ tính. Nếu ông sống sót nổi. Hiện tại ông có một trận đánh đang phải đương đầu.

Tình trạng tạm lắng chẳng bao lâu nữa thì chấm dứt. Khắp các ranh giới phía Bắc và phía Tây thuộc Vùng I Chiến Thuật đang co cụm lại, các căn cứ hỏa lực Đồng minh tiếp tục bị tan tác dần, chỗ này nhanh hơn chỗ kia. Chẳng có nơi nào trên tấm bản đồ cho thấy quân ta đang thắng trận cả. Các đơn vị bạn có khá lắm thì thua chậm hơn một chút.

Tình hình đã xấu lắm rồi đối với quân Đồng minh nhưng rồi lại trở nên tồi tệ hơn nữa. Hiệp hai sắp mở màn. Toàn bộ lực lượng của bốn sư đoàn quân Bắc Việt cùng với hàng trăm khẩu trọng pháo đã di chuyển vào vị trí chiến đấu gần nhất. Mặc dù các sự đánh phá từ đầu đã quá ác liệt, nhưng các trận chiến khởi đầu này mới chỉ là trò mở màn của một đội banh thiếu niên chơi trước khi đội thứ thiệt ra sân.

Tuốt trên cứ điểm Alpha 2 tình hình đang tiến triển rất nghiêm trọng. Khác với các sĩ quan TQLC Hoa Kỳ được chỉ định rõ rệt làm cố vấn cho các trung đoàn hay tiểu đoàn cho các đơn vị TQLC và trực thuộc quân số của họ, sống chết, chiến đấu cùng với họ, cái toán năm người Chấm Tọa độ Hải pháo tại Alpha 2 chỉ hoạt động riêng lẻ một mình. Không có đơn vị TQLC nào tại Alpha 2 và lực lượng VNCH tại đó tỏ ra không nhiệt tình để quyết chiến bảo vệ căn cứ lắm.

Trung úy Joel Eisenstein không hề quên tình trạng mong manh của Alpha 2. Các TQLC Hoa Kỳ tại đó là người của anh. Sĩ quan trưởng nhóm là Trung úy David Bruggeman. Anh này vẫn báo cho Eisenstein về tình hình ra sao và tối ngày 31 tháng Ba cả hai đã nói chuyện với nhau qua tần số truyền tin bảo mật về khả năng cần phải rút khẩn cấp nhóm quân nhân đó.

Vào sáng sớm ngày thứ Bẩy, Eisenstein đã tới gặp viên Đại tá Quân đội, lúc đó đang ở tại phía sau hầm trú ẩn cùng với Tướng Giai. Viên Đại tá nói với ông là nên có kế hoạch nhưng không được phát động nó nếu không có sự chấp nhận của ông. Eisenstein bắt tay ngay vào hành động.

Vấn đề mấu chốt cho việc rút lui đặc biệt này là sự phối hợp giữa trực thăng và hải pháo. Các nguy cơ thì rất cao. Điển hình cho phương cách chiến đấu của người Mỹ là họ điều động rất nhiều người và phương tiện quý giá khác chỉ để cứu một lực lượng nhỏ hơn. Joel Eisnstein sẽ là sĩ quan trưởng toán cứu viện và chỉ huy công tác cả trên không khi họ tới nơi và ở dưới đất khi họ đáp xuống. Mặc dù tình thế dự kiến sẽ xấu vô cùng cả trên đường bay vào căn cứ lẫn tình hình trận địa tại Alpha 2, các phi công trực thăng Hoa Kỳ không đợi phải bị thúc giục, họ nhận lời công tác ngay. Họ bàn tán với nhau làm sao để thực hiện tốt nhất việc cứu viện. Đến sáng sớm ngày 1 tháng Tư thì kế hoạch căn bản đã hình thành, Eisenstein chỉ cần lệnh cho phép là đi thôi.

Tình hình trong hầm trú ẩn của Toán 155 vào sáng sớm ngày thứ Bẩy căng thẳng một cách đặc biệt. Mặc dù trên thực tế Gerry đã điều hành mọi chuyện từ lúc được bổ nhiệm bởi cố vấn trưởng của Tướng Giai, ông Đại tá quân đội vẫn giữ quyền chỉ huy trên danh nghĩa – dù ông không bao giờ hỏi hay cãi lại bất kỳ lệnh nào của Gerry – đối với các nhân sự khi họ có mặt tại đó, nhất là các nhân viên VNCH. Vấn đề khó khăn nhất dưới quan điểm của người Mỹ, được tạo ra bởi sự cố gắng hòa hợp giữa các sĩ quan Hoa Kỳ và VNCH lại với nhau là cái cung cách của người Á châu không dám quyết định điều gì nếu không được sự chấp thuận rõ ràng của chỉ huy trưởng. Lúc này thì Tướng Giai đang vắng mặt khá lâu khi đi thăm các đơn vị đang đụng độ, do đó các quyết định then chốt thường bị chậm trễ vì họ sợ đi ngược lại ý muốn của ông và từ đó sẽ bị mất mặt. Gerry Turley biết được điều này và nó làm ông hết sức thất vọng. Với tương quan chỉ huy kỳ cục và không xác định rõ rệt như vậy, mặc dù sau khi đã điều hành mọi chuyện, phối hợp các nhân sự và các phương tiện khá tốt rồi trong suốt hai ngày vừa qua, Gerry vẫn cảm thấy mình chỉ là một người giúp việc, một người thừa hành; tức là một thứ “băng keo cứu cấp” dán tạm trong khi chờ đợi được thay thế bằng một cuộc giải phẫu lớn hơn. Nếu đây chỉ là một cơn ác mộng thì ông chỉ muốn mau chóng thức dậy cho xong.

Cú điện thoại đầu tiên yêu cầu rút lui lập tức đến từ Dave Bruggeman vào lúc 8:40 sáng. Eisenstein tức khắc đi gặp ngay ông Đại tá quân đội để trình bày. Ông này lại nói với anh là cứ lên kế hoạch công tác nhưng chỉ được thực hiện với sự chấp thuận của ông. Phối hợp được hỏa pháo và trực thăng yểm trợ đã làm Eisenstein mất nhiều thời gian hơn dự tính. Đến khi anh đã tập hợp được nhóm phi công dũng cảm và xác định được tọa độ cần thiết cho hải pháo thì Tướng Giai và ông Đại tá quân đội của Toán 155 đã trở ra mặt trận rồi. Vì đã được chỉ thị, được ra lệnh thì đúng hơn, là phải có sự chấp thuận của Đại tá của Toán 155 nhưng ông này khi đó vắng mặt, cho nên quyết định cho thi hành sứ mạng lớn ấy mặc nhiên rơi xuống dầu Gerry Turley, cho dù không có tính cách pháp lý thật sự.

Có một vài đặc tính độc nhất không thể diễn tả được trong toàn bộ tiến trình cho phép tối hậu công tác cứu trợ khẩn cấp đã làm thay đổi thái độ và tâm tính của Gerry Turley. Khi nhận được cú điện thoại của Eisenstein xin phê chuẩn công tác vì ông Đại tá quân đội vắng mặt, thời gian như ngừng lại một lần nữa. Giống như lần hai ngày trước đây khi ông nhận lệnh điều hành Trung tâm Hành quân chiến thuật, trong vòng một vài giây đồng hồ, với một sự rõ ràng minh bạch kỳ diệu, ông điểm lại trong đầu tất cả mọi khía cạnh của các vấn đề có trong tay. Không còn nghi ngờ gì nữa, chuyện cứu viện là một điều đúng, một vấn đề danh dự cần phải làm. Nếu thành công thì các TQLC và phi hành đoàn trực thăng sẽ thoát nạn. Nếu lực lượng cứu viện bị tiêu diệt hay các TQLC của Eisenstein bị bắt hay bị giết thì đó sẽ là “chuyện điên rồ của Gerry Turley.”

Trong khoảnh khắc vài giây đồng hồ đó, Gerry Turley đã thay đổi hẳn. Không phải về mặt thể xác. Một điều gì đó khi quyết định cho phép thực hiện công tác đã biến đổi Trung tá Gerry Turley từ vị trí một kẻ thừa hành trở thành một người chỉ huy. Sự lột xác từ một giảng viên tạm thiếu tự chủ trước các học sinh nay trở thành ông hiệu trưởng đầy lòng tự tin, trong một thoáng chốc đó, đã hoàn thành xong. Một cái gì đó mà ông không hiểu nổi đã đổi khác. Gerry Turley đã đánh động được vào cái tiềm năng an bình và mạnh mẽ của mình, một cảm giác thư giãn một cách kỳ lạ với nhiệm vụ mới mà cho tới đúng cái giây phút đó vẫn dường như lẩn tránh ông. Đây là một chuyện rất hay. Ông sẽ phải cần tới cái mặt mạnh đó, lòng tự tin, sự quyết đoán về mục đích trong những ngày giờ tới đây. Và đối với Trung tá Gerry Turley, cái ngày đó mới chỉ bắt đầu…

__________________________________________________________

* Trung úy Joel Eisenstein và David Bruggeman, cùng với các thành viên có tên trong danh sách toán Chấm Tọa độ Hải pháo không nằm trong chương trình cố vấn như Gerry Turley, John Ripley, George Philip và những người khác. Họ không là cố vấn quân sự. Tuy vậy, họ thuộc thành phần của ANGLICO (Đại đội Liên lạc Phi pháo và Hải pháo Air & Naval Gunfire Liasion Company) còn ở lại khá lâu giống như các cố vấn sau khi các lực lượng bộ binh chiến đấu đã rút đi. Vai trò các nhân viên ANGLICO hết sức quan trọng, giống như các cố vấn, trong việc hỗ trợ hỏa lực cho miền Nam Việt Nam. Khác với các cố vấn Hoa Kỳ đi theo cấp tiểu đoàn và trung đoàn nhằm trợ giúp nhiều vấn đề khác nhau, các toán ANGLICO không trực thuộc các đơn vị TQLC Việt Nam và họ được sử dụng thuần túy trong việc phối hợp yểm trợ hỏa lực mà thôi. Cũng nên chú thích rằng ANGLICO có một hệ thống quân giai riêng rẽ với các cố vấn TQLC Hoa Kỳ.

CƯỠI NGỌN SẤM 26

cuoingonsam
richardbotkin

Hoạt động với Tiểu đoàn Sói Biển

Trong lúc cuộc tổng công kích Mùa Hè Đỏ Lửa đang rộ lên thì Thiếu tá Bình, Đại úy Ripley và các binh sĩ của Tiểu đoàn 3 TQLC Việt Nam bị rơi vào tình huống bất thường là nằm ngoài vùng chiến đấu trực tiếp. Mới trở về lại vài ngày trước đó sau đợt dưỡng quân luân phiên thường lệ kéo dài ba tuần tại Thủ Đức gần Sài Gòn, bốn Đại đội của Tiểu đoàn Sói Biển hiện đang làm nhiệm vụ bảo vệ cho Lữ đoàn 258 TQLC đóng gần sông Mỹ Chánh đâu đó giữa căn cứ hỏa lực Barbara và Nancy. Họ đóng quân vài cây số ngoài tầm pháo binh của quân Bắc Việt đang dồn dập nã đạn lên toàn bộ khu phi quân sự và sườn cánh Tây của các lực lượng VNCH và TQLC. Điều này khiến họ có cái cảm giác lạ lẫm đã bị đứng xa ngoài lề trận đánh chính.

Khi Tiểu đoàn 3 được đưa trở lại Vùng 1 Chiến Thuật trước trận đánh Mùa Hè Đỏ Lửa, John Ripley nhận thấy một số điều lạ lùng. Tự dưng và không biết từ đâu tới, có một Thiết đoàn chiến xa VNCH được điều động lên phía Bắc. Chuyện này chưa bao giờ xảy ra, theo kinh nghiệm của cả Ripley và Bình, chưa hề có một lực lượng thiết giáp lớn như vậy hoạt động gần khu phi-quân-sự. Đồng thời đối với Ripley cũng là một điều bất thường khi Tiểu đoàn 3 TQLC lại hoạt động tuốt ở phía Nam. Từ khi Ripley và Bình làm việc chung với nhau đến nay thường thì phải tới gần sát bọn ác ôn mới có chuyện đấm đá. Trong lúc tình hình chiến sự gần Barbara và Nancy vẫn hằng ngày bị đạn súng cối pháo kích và đòi hỏi có các toán tuần tiễu cấp Trung đội và Đại đội thì hoạt động của quân Bắc Việt chưa mãnh liệt lắm, nhưng có vẻ báo hiệu một sự thay đổi lớn sắp sửa đến. Có người cho rằng cường độ hoạt động giảm sút của kẻ thù chứng tỏ tình hình đã khả quan hơn nhưng Bình và Ripley thì không bao giờ tin rằng sự yên ổn đã trở lại.

John Ripley chưa bao giờ dự bất kỳ khoá huấn luyện nào về ngôn ngữ trước khi nhận nhiệm vụ làm cố vấn. Do cần thiết, anh đã phải nhặt nhạnh một vài chữ tiếng Việt mà anh biết để hàng ngày bổ sung thêm vào các bài bản ngoại ngữ sẵn có của mình. Lúc này đã sắp mãn chu kỳ nhiệm vụ nên Ripley cũng đã có thể nói năng đôi chút bằng tiếng Việt được rồi. Đại úy Ripley được Bình, Nhã, tay truyền tin của Bình, và một số ít TQLC khác thuộc Tiểu đoàn 3 mà ông làm việc chung coi trọng cho nên họ hiểu được những gì Ripley cố gắng truyền đạt với thứ tiếng Việt pha giọng Virginia của ông. Dĩ nhiên tiếng Anh của Bình khá hơn tiếng Việt của Ripley. Giữa hai người đã có một sự cảm thông thừa sức để cho họ trở thành một mối đe dọa quan trọng đối với bọn Bắc Việt.

Làm công việc cố vấn có những niềm hạnh phúc mới nhưng cũng có các thử thách đặc biệt. Giống như những người khác đã từng được bổ nhiệm, John Ripley nhận ra các trách nhiệm độc nhất đặt trên vai những sĩ quan Hoa Kỳ có nhiệm vụ đi theo các đơn vị chiến đấu khác nhau của binh chủng TQLC Việt Nam. Không như hầu hết người Mỹ, kể cả những người đã đến chiến đấu và đổ máu trong cuộc chiến nhằm chận đứng sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, các cố vấn thật sự là một nhóm người chọn lọc có cơ hội đứng bên phía ngoài dư luận Hoa Kỳ để quan sát trận chiến.

Với sự giảm thiểu các lực lượng tại Đông Nam Á, điều có vẻ như là sự triệt thoát một chiều của các lực lượng chiến đấu mà không tùy thuộc vào bất cứ một sự nhượng bộ nào về phía Cộng sản, bây giờ tất cả những gì mà phía Hoa Kỳ cho là quan trọng – dù thắng, bại hay huề – chỉ còn là cố thoát hoàn toàn ra khỏi tình trạng sa lầy mà cuộc chiến đang đưa đẩy đến.

Đại úy Ripley rất trân trọng cái ý nghĩa và tầm quan trọng của công việc ông đang làm là cố vấn cho một Tiểu đoàn mà đối với ông là một Tiểu đoàn ưu tú nhất của TQLC Việt Nam, nhưng ông vẫn nhớ thời gian ông chỉ huy các TQLC Hoa Kỳ. Mặc dù binh chủng TQLC Việt Nam cũng có những Chuck Goggins của họ và mọi chuyện trên căn bản cũng đều như nhau, nhưng cũng có cái gì đó không giống nhau nữa. Ngoại trừ Bình và Nhã, cơ hội để John thật sự gắn bó hàng ngày với các TQLC khác, Hoa Kỳ hay Việt Nam, không thể nào tương tự như thời kỳ ông làm “đích thân” của Đại đội Lima 6 thuộc Tiểu đoàn 3, Sư đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ vào năm 1967 được.

Mỗi ngày mỗi hiểu rõ hơn nhãn quan của người Việt Nam và vị trí của họ trong cuộc chiến, ngay cả các cố vấn khi đến Việt Nam thi hành nhiệm vụ lần thứ hai đều bị thất thế trong cái gọi là sự “thiếu hụt về chính nghĩa.” Những người lính Mỹ trước đây, nhất là những người thi hành nhiệm vụ lần đầu tiên, đều được huấn luyện kỹ lưỡng và các huấn luyện viên đều hướng dẫn đầy đủ về các mục đích và lý tưởng mà họ có thể bị hy sinh. Đối với các cố vấn thì lý tưởng này vẫn còn mù mờ và không được xác định rõ rệt.

Mục đích của người Mỹ nói cho ngay là khác biệt với người Việt ở cả hai phía Bắc và Nam. Henry Kissinger, theo chỉ thị của Tổng thống Nixon đang cố gắng đặt quyền lợi chiến lược của Hoa Kỳ vượt ra khỏi phạm vi Việt Nam. Người Mỹ giờ đây có thể chiến đấu ở Đông Âu hay Bắc Á cũng vậy, hoặc bất kỳ nơi nào xảy ra hiện tượng “Thế cờ Đô-mi-nô” do tác động áp bức của Cộng sản.

Đối với các binh sĩ TQLC Việt Nam thì chẳng có đô-mi-nô gì cả để mà xem xét. Vào năm 1972 sự thất thủ Quảng Trị đối với người Mỹ chẳng có gì là quan trọng, cũng chẳng có nghĩa là quân thù sẽ sớm diễu hành tại phố Hollywood hay Đại lộ Pennsylvania. Nhưng đối với Bình, Lương, Nhã và những công dân yêu nước của VNCH thì những gì xảy ra tại Quảng Trị thật sự hết sức quan trọng. Đối với họ, thắng trận là sự lựa chọn duy nhất.

Thêm vào đó, tình nghĩa gần như là anh em đối với Bình, Ripley cũng dần dần gần gũi đặc biệt với Nhã, tay truyền tin trẻ tuổi. Cũng chẳng có gì khó hiểu, do điều kiện ngặt nghèo của chiến tranh mà tình bạn, dù khác nền văn hóa, vẫn có thể phát triển hết sức sâu đậm. Mặc dù có những rào cản lớn về ngôn ngữ, văn hóa và quân phong quân kỷ khác nhau nhưng Đại úy Ripley và tay truyền tin Nhã đáng tin cậy vẫn rất mực kính trọng và thương mến nhau. Sự ngưỡng mộ và say mê của Nhã đối với cái anh chàng sĩ quan Hoa Kỳ độc đáo và vui vẻ này mà lòng dũng cảm có vẻ ngang tầm với với vị Tiểu đoàn trưởng thân thương vẫn không hề suy giảm sau nhiều tháng trời bên nhau. Nhã cũng ngạc nhiên là phong cách của ngưòi Mỹ khác với người Việt Nam, nhất là thông lệ của TQLC Hoa Kỳ cho phép các sĩ quan và binh sĩ được thân với nhau, một điều không thể tưởng tượng nổi và không thích hợp đối với TQLC Việt Nam.

Nhã là một thanh niên khá đặc biệt. Bằng nhiều cách, Nhã đã làm người “anh cả” cố vấn Đại úy Ripley nhớ lại những tay TQLC trẻ và sừng sỏ mà ông đã có dịp chỉ huy trong binh đoàn TQLC Hoa Kỳ. (“Anh cả” là một danh xưng tỏ sự tôn trọng và kính mến thường thấy trong nền văn hóa Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Khổng giáo, là một cách gọi một người phải là thân thuộc trong gia đình nhưng được kính mến và xứng đáng được trọng vọng như người “anh cả” hay đúng hơn là “anh lớn”. Người chứng tỏ sự tôn trọng, nếu là nam phái thì luôn luôn được gọi là “chú nhỏ” hay đúng hơn là “chú em”.)
Được cất nhắc vào bộ phận tổng hành dinh của Tiểu đoàn có nghĩa là Nhã đã được công nhận là một tay TQLC có hạng, một phần tử ưu tú vượt trội lên trên. Và quả nhiên qua các công việc thường lệ hàng ngày, cho dù những việc tạp nhạp nhất, cũng nói lên sự tận tụy và chuyên nghiệp của Nhã.

Đại úy Ripley đúng là “ông anh lớn” đối với Nhã cũng như Nhã là “chú em út” đối với Ripley. Có nhiều yếu tố đã làm hai người thân với nhau. Ngay từ lúc ban đầu, trước cả khi Đại úy Ripley tạo được uy tín trong các Sói Biển TQLC như là một chiến binh xứng đáng được tôn kính và quý trọng, Nhã cũng đã chứng tỏ khả năng chuyên nghiệp và lòng trung thành với viên cố vấn mới.

Hiển nhiên Nhã rất thông minh, có đức tính là hết sức xông xáo cùng với một trực giác nhạy bén về chiến thuật. Anh có vẻ biết hết trong mọi tình huống là chuyện gì phải làm ngay, cả trước khi cần phải thực hiện điều đó. Mặc dù anh chỉ là nhân viên truyền tin duy nhất của Ripley, Nhã vẫn trông chừng viên cố vấn giống như anh chịu trách nhiệm trực tiếp về sự an nguy, sức khỏe và thể chất của ông ta vậy. Với tiếng Anh “bồi” của Nhã, tiếng Việt “ngọng” pha âm điệu Virginia của Ripley, cộng thêm tay chân khua lung tung và lòng cảm mến thật sự giữa hai người, cả hai chiến binh đã có thể hiểu nhau một cách tốt đẹp. Họ trở thành một cặp bài trùng khá dữ dằn.
Sinh hoạt thường ngày mà Tiểu đoàn 3 đã chịu đựng khi hành quân khắp Vùng 1 Chiến Thuật đã củng cố mối tương quan giữa hai người thêm phần sâu đậm. Trong khi uy tín của Ripley tăng nhanh đối với các Sói Biển thì Nhã, mặc dù đã có phần góp sức cho sự thành công của viên cố vấn bằng công việc của mình, vẫn hoàn toàn từ khước bất kỳ lời khen ngợi nào khi có ai nhắc đến tài năng và lòng dũng cảm của anh.

Điều đã làm Đại úy Ripley xúc động nhất là sự khiêm nhường chân thành mà Nhã đã bộc lộ ra. Đây không hề là một sự giả vờ, một sự nhún nhường giả tạo theo kiểu “đâu có gì đâu…” mà là một sự lánh xa tất cả các sự vinh danh cho những công việc giản dị nhất, bình thường hay bất bình thường mà người truyền tin trẻ đã thực hiện khi phục vụ cho Tiểu đoàn 3 và viên cố vấn đáng kính trọng. Trong bất cứ nền văn hóa nào, Nhã cũng là một thanh niên khác thường. Anh có vẻ như tìm được niềm vui lớn khi được phục vụ quên mình.

soibien

CƯỠI NGỌN SẤM 25

cuoingonsam

richardbotkin

Chương 20: Một mắt nối trong sợi xích

“Bất cứ ai trong chúng ta, trong cả cuộc đời sẽ có lúc tựa như được vỗ vào vai và được hưởng cơ hội để thực hiện một điều nào đó thật đặc biệt, độc nhất và thích hợp với tài năng của mình. Thật là một điều bất hạnh nếu người đó chưa kịp chuẩn bị hay chưa đủ sức để biến thời điểm đó thành những giây phút tuyệt vời nhất trong đời họ.”
Winston Churchill

Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật (TOC)
Sư Đoàn 3 Bộ Binh QLVNCH
Căn cứ Ái Tử, Vùng 1 Chiến Thuật
Việt Nam Cộng Hòa
Chiều ngày 31 tháng 3 năm 1972

Viên Đại tá Quân Lực Hoa Kỳ, vị cố vấn trưởng cho Chuẩn tướng Vũ Văn Giai Tư lệnh Sư Đoàn 3 Bộ binh Quân lực VNCH đã hết sức bận rộn. Đi sát như bóng với hình cạnh một người mà tài chỉ huy đã được phần lớn người Mỹ đánh giá là tài ba, xông xáo, can đảm và thẳng tính, viên Đại tá theo ông Chuẩn tướng khắp mọi nơi ông có mặt. Với tất cả các đơn vị của Sư đoàn 3 đang tham chiến toàn bộ trong những ngày giờ đầu của cuộc Tổng công kích Mùa Hè Đỏ Lửa, ý định của ông Giai là đích thân đi thị sát tất cả những đơn vị này, ủy lạo các sĩ quan chỉ huy dưới quyền và toàn bộ binh sĩ để động viên tinh thần chiến đấu của họ mà cho tới lúc này có vẻ như không được khả quan lắm.

Đồng thời với nhiệm vụ cố vấn cho tướng Giai, viên Đại tá cũng chịu trách nhiệm trực tiếp về sự hoạt động hữu hiệu của toán cố vấn Hoa Kỳ đối với các cấp chỉ huy Việt Nam thuộc Sư đoàn 3 trực thuộc Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật (TOC, cũng thường được gọi tắt là Trung tâm Hành quân) Ái Tử, còn có tên gọi là Toán 155 nữa. Suốt một ngày rưỡi đi theo tướng Giai, viên Đại tá không thể nào không nhìn thấy các khó khăn và sự căng thẳng càng lúc càng nhiều đè nặng lên vai những người đang cố gắng hết sức để điều hành công việc tại đó.

Trung tá Gerry Turley đang từng bước đảm nhận trách nhiệm chỉ huy TTHQCT của SĐ 3 BB và Toán 155 mà không phải lạm quyền hay lấn át người khác. Turley không thực sự để ý mình đang làm chuyện gì mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ tái lập lại trật tự từ cái mớ hỗn loạn đang xảy ra. Qua việc ép buộc và phục hồi theo ưu tiên mà ông và Đại úy J.D. Murray đã thực hiện đối với các TQLC Việt Nam, ảnh hưởng và tác động của họ tự nhiên cũng lan dần ra khắp Sư đoàn 3 Bộ Binh.

Trong giai đoạn này của cuộc chiến, sự hiện diện của người Mỹ trong Vùng 1 Chiến Thuật hầu hết chỉ hạn chế trong vai trò cố vấn và yểm trợ về tham mưu mà thôi. Giá trị lớn nhất mà họ mang đến là sự phối hợp và ứng dụng hỏa lực trong thời điểm này trở nên vô cùng quan trọng. Chẳng mấy chốc, tài năng của Gerry về phối hợp hỏa lực yểm trợ đã được đưa vào cuộc thử thách trên chính ông và trên nhóm người tạp nham mà ông đang cố tập hợp lại với nhau. Công tác nặng nề này được đặt trên vai một viên Trung tá trẻ thay vì một vị tướng với đầy đủ nhân viên đã nói lên tính chất nguy kịch và sự chuyển hướng tệ hại của tình hình chiến sự.

Sự kiện Gerry được đặt vào vị trí chỉ huy trong một chiến dịch đặc thù của quân đội, mà lại là quân đội VNCH nữa, thật là một điều không thể tưởng tượng nổi ngay cả trong suy nghĩ của ông ta. Ngay cả những ai chỉ lõm bõm chút ít kinh nghiệm trong công tác tiến hành các cuộc hành quân và hoạt động của các ban ngành đều không hề nghĩ tới chuyện giao cái trách nhiệm nặng nề này, dù chỉ là tạm thời, cho một tay TQLC thật ra chỉ là ghé qua chơi.

Chuyến đi của Turley theo dự định chỉ là một chuyến khứ hồi cuối tuần trong bốn ngày, bay đi Vùng 1 Chiến Thuật rồi về lại Sài Gòn để nhận nhiệm vụ phụ tá cho Trưởng Cố Vấn Quân Sự TQLC Việt Nam. Gerry Turley chỉ đi đến đó để kiểm tra một vài công việc, tay bắt mặt mừng với các thuộc hạ, giao cái túi thư từ quan trọng và cảm nhận về những gì đang xảy ra thực tế ngoài chiến trường. Turley chẳng khác nào là một quan sát viên không chính thức, gần như là một khách du lịch không hơn không kém theo các tiêu chuẩn quân đội.

Gerry Turley, cái gã mà 23 năm về trước đã gia nhập đội quân trừ bị TQLC Hoa Kỳ chỉ để chơi bóng rổ và kiếm chút tiền tiêu vặt, bây giờ đã trở thành thành viên hết sức cốt cán của tổ chức TQLC. Khi ông đáp xuống Vùng 1 Chiến Thuật, thật giống như ông vô tình bước vào một cái vận động trường có giải Super Bowl bất ngờ được bày ra mà chỉ có đối phương mới biết khi nào sẽ đấu.

Mặc dù các huấn luyện viên cho đội nhà đầy rẫy trong TTHQCT, tình hình lại giống như ông chủ đội banh đã quyết định chỉ vài giây trước hiệp nhất, thay vì lấy những tay chơi nổi tiếng có sẵn, lại chọn một tên bá vơ làm đấu thủ để phối hợp tấn công, với ý định mang lại nguồn sinh lực mới lạ vào một trận đấu đễ rồi như có vẻ sẽ cầm chắc là bị thua.

Nội trong vòng vài giờ đồng hồ khi cuộc Tổng công kích Mùa Hè Đỏ Lửa bắt đầu, viên sĩ quan phụ trách TTHQCT đã tỏ dấu hiệu lo lắng và thường xuyên cáo lỗi vắng mặt trong lúc mọi người vẫn thi hành nhiệm vụ của họ. Chưa đầy 18 tiếng đồng hồ sau, ông Đại tá chỉ huy gọi ông này vào làm việc riêng. Chính Gerry cũng không được biết. Ra khỏi phòng họp, ông Đại tá tiến thẳng đến Trung tá Turley và hỏi ông, thực ra là ra lệnh trực tiếp cho ông tạm thời đảm nhận trách nhiệm toàn bộ các hoạt động trong TTHQCT; ít nhất cho tới khi nào một sĩ quan thâm niên hội đủ tiêu chuẩn có thể đáp trực thăng từ Đà Nẵng hay Sài Gòn tới, hoặc tự nhiên từ trên trời rơi xuống. Làm sao Turley có thể nói gì được nữa? Ông không có đủ thời gian và tư cách để mặc cả các điều kiện của mình. Bọn bộ đội Bắc Việt như bầy chó sói hung dữ đang hổn hển bên ngoài, còn căn nhà sắp sập rồi.

Ngay từ lúc đầu, và chẳng mấy chốc sau, kéo dài thành hàng giờ và hàng giờ đồng hồ liên tục tại các cứ điểm trên khắp vùng phi quân sự, từ bờ biển phía Đông nơi sông Bến Hải đổ ra biển Đông tại căn cứ Alpha 2, qua hướng Tây tới biên giới Lào và kéo xuống phía Nam cho tới căn cứ hỏa lực Sarge, cùng với hàng chục cứ điểm khác nằm ở giữa, có tới hàng ngàn và hàng ngàn quả hỏa tiễn, đạn pháo binh và bích kích pháo nã xuống chính xác vào tất cả các mục tiêu mà quân Bắc Việt cho là có giá trị về mặt quân sự hoặc có thể gây kinh hoàng cho thường dân.

Làm tăng sự trầm trọng của các khó khăn và thêm sự mù mịt của chiến trường là những sự hỗn loạn đang hiện diện gây ra cản trở trong thông tin liên lạc. Mây thấp dày đặc đã làm giảm đi hoạt động yểm trợ chiến thuật của không quân. Ngoài ra một số vấn đề phát sinh từ sự bối rối và sĩ diện của chỉ huy Quân lực VNCH đã khiến cho việc báo cáo các sự kiện bị chậm hẳn lại. Mặt khác các bộ phận khi nhận được các báo cáo chậm trễ đó, cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ, cũng cố tình không muốn tin vào cái tai họa đang xẩy ra.
Trong cái tích tắc biến đổi từ một người ngoại cuộc vô tình thành một người có toàn quyền trách nhiệm đối với những gì còn sót lại trong một tình huống quân sự có vẻ như đang tồi tệ dần một cách nhanh chóng, Turley không có thời gian để mà tự thương hại hay nghi ngờ gì nữa. Ông chấp nhận cái số phận đã an bài. Ông chỉ có thể hành động những gì ông có thể làm được. Ông đâu có muốn bước vào cái đấu trường đó. Nó tự dưng bao trùm lấy ông và Turley hiện giờ đang nằm ngay trọng điểm cả về nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Trong các cuộc giao tranh đang diễn ra khắp nơi tại Vùng I Chiến Thuật, tất cả các chiến sĩ Việt Nam và Hoa Kỳ hiện diện đều mặc nhiên nằm trong trung tâm điểm của các đấu trường cá nhân và chiến đấu cho sự sống còn của chính họ.

Điều hiển nhiên đối với Gerry là ông ta và những người khác đã phải dấn thân hoàn toàn, dù có muốn hay không, vào một trận đánh cho chính mạng sống của họ. Không còn thời gian để chuẩn bị nữa. Không có những giây phút để nghỉ ngơi hay hồi sức, không có cả thời gian cho một bữa ăn cuối cùng giống như các TQLC Hoa Kỳ đã được hưởng trước khi họ lao vào các cuộc đổ bộ đẫm máu trong Thế Chiến Thứ Hai. Đối với Gerry, tất cả những gì đã hun đúc lòng quyết tâm và cá tính trong 42 năm cuộc đời ông, tất cả những gì đã xẩy ra trong đời binh nghiệp TQLC từ 1949 đến nay, theo ý nguyện riêng, đã đầy đủ để đối đầu với các thử thách mà ông đang phải trải qua. Điều này cũng giống hệt những gì mà bất cứ người nào khác, Mỹ cũng như Việt, giờ đang bị đẩy vào cuộc chiến ngoài ý muốn của họ.

Bên trong cái khoảng khắc vĩnh cửu đó, Gerry nhớ lại một đoạn thơ tứ tuyệt từ một bài thơ các sinh viên Học viện Hải quân phải học thuộc lòng từ thuở xa xưa ấy. Được kể lại từ một người bạn tốt nghiệp trường Hải quân Annapolis tại Okinawa khi hai người còn là Đại úy vào năm 1959, bây giờ Gerry nhớ lại lời kêu gọi giản dị đầy cảm xúc:

“Bằng vào sức dẻo của một mắt xích trong sợi cáp
Sức mạnh của cả sợi xích trông cậy vào đó
Nào ai biết khi nao bạn bị thử lửa?
Xin hãy sống sao để chịu được sức căng!”

Trung tá Gerry Turley tự nhủ sẽ tập trung toàn bộ sức mạnh tinh thần và thể chất để bảo đảm mắt xích nối của ông sẽ không bị đứt đoạn.

Sau hơn một ngày mở màn của cuộc tổng công kích Mùa Hè Đỏ Lửa, chẳng có điều gì có thể làm cho Trung tá Gerry Turley, một sĩ quan mới của TTHQCT Ái Tử có thể lạc quan nổi. Các lực lượng VNCH bắt đầu bị tan rã trước sức tấn công không ngừng của kẻ thù. Tại mọi vị trí mà QLVNCH và TQLC đụng độ với kẻ địch suốt một chiến tuyến dài 15 dặm, họ đã chịu đựng những cơn pháo kích với cường độ chưa từng thấy bao giờ. Đằng sau bức màn lửa tưởng chừng như là vô tận, mọi vị trí chính yếu của quân bạn gần sát với khu phi-quân-sự đã chịu sức ép của những đợt tấn công đại qui mô của bộ binh địch quân đã được chuẩn bị kỹ lưỡng cùng với quân số vượt trội. QLVNCH phản pháo kém hiệu quả, và vì thời tiết xấu, không quân yểm trợ cũng không có, khiến quân Bắc Việt được tự do tràn xuống và chỉ gặp sự chống trả yếu ớt. Nguồn yểm trợ đáng tin cậy duy nhất là hải pháo thì chỉ có tác dụng đối với các đơn vị nằm sát bờ biển. Vào ngày 30 tháng 3 năm 1972, Chiến hạm USS Buchanan (DDG-14) là chiếc duy nhất có mặt sẵn sàng để yểm trợ. Nhằm tạo một hoả lực tối đa để bảo vệ quân bạn, Hạm trưởng Chiến hạm Buchanan đã bất châp nguy hiểm, cố gắng đưa tàu sát bờ để kéo dài tầm yểm trợ vào sâu hơn trong đất liền. Chính chiếc Buchanan cũng làm mục tiêu cho trọng pháo trên bờ của quân Bắc Việt nhắm bắn với ý định diệt luôn nguồn yểm trợ hỏa pháo hữu hiệu duy nhất mà các lực lượng VNCH còn trông cậy vào. Chiến hạm Buchanan không hề nao núng và, miễn là còn súng và còn đạn, đã tiếp tục yểm trợ liên tục cho quân bạn. Vài ngày sau, có thêm nhiều chiến hạm khác đến tăng cường yểm trợ cho nhiều đợt hải pháo.

Screen Shot 2015-06-03 at 9.18.31 AM

CƯỠI NGỌN SẤM 24

cuoingonsam
pic2 (800 x 800)

Chương 19

Tổng công kích “Mùa Hè Đỏ Lửa”

Trận công kích mà Bắc Việt gọi là Chiến dịch Nguyễn Huệ vào tháng Ba năm 1972 được người Tây phương biết đến dưới cách gọi của họ là Tổng Công Kích mùa Phục Sinh 1972 (VNCH gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa). Trận tổng công kích này, giống như trận Tết Mậu Thân 1968 là một kế hoạch táo bạo nhằm đánh một trận quyết định về quân sự và chính trị để tiêu diệt cái mà chúng cho là tay sai của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Cùng một lúc, bọn vẽ kế hoạch phương Bắc hy vọng sẽ tập trung được tối đa tất cả sức mạnh quân sự để tạo ra sự hoảng hốt và hỗn loạn ở miền Nam. Bởi nguy cơ về một cuộc xâm lăng ra Bắc vượt vĩ tuyến 17 do quân đội Hoa Kỳ và VNCH đã không còn nữa, chúng có đủ lý do an toàn để tung hết sức ra đánh xả láng thêm một lần. Ngoại trừ một số phải ở lại để sử dụng các hệ thống phòng không, chúng nghĩ không cần phải giữ lại lực lượng chính quy bộ binh nào tại Bắc Việt, tuy vậy vẫn có một số đơn vị trừ bị được để lại trong một thời gian vô hạn định ở phía Bắc của khu phi-quân-sự.

Với tác động của một cú sốc lớn nhờ vào sự phối hợp về bộ binh, thiết giáp và pháo binh, cộng thêm việc sử dụng tối đa các hệ thống phòng không tối tân nhất do Liên Xô viện trợ được mang vào tận các vùng tiền phương, mục tiêu tối hậu của Bắc Việt là phải chiến thắng toàn diện.

Trong khi những người dân bình thường của Bắc Việt không có chỗ nào để trút được sự bất mãn về việc các thanh niên cũng như người lớn tuổi đã bị hy sinh quá nhiều cho niềm vinh quang của “Cách mạng” thì cấp lãnh đạo của họ hoàn toàn ý thức được cái giá phải trả về nhân mạng cho chiến tranh. Cho tới thời điểm này, tâm lý các nhân vật nắm quyền hành tại Bắc Việt vẫn chưa bị chạm đến ngưỡng phải chịu thua.

Nỗ lực Việt Nam hóa chiến tranh rõ ràng đang tiến hành tốt đẹp. Bộ sậu lãnh đạo Cộng sản ý thức được là, như một quốc gia, Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tinh thần tự do báo chí và các sự biểu lộ phản đối chiến tranh đang lan rộng trong các trường đại học. Trong khi các thái độ tương tự sẽ bị đàn áp một cách thẳng tay tại Hà Nội hay Hải Phòng, hay bất cứ nơi nào khác phía trên vĩ tuyến 17, bộ chính trị Cộng sản ngồi rung đùi sung sướng khi thấy có quá nhiều người Mỹ đủ sức để tạo ảnh hưởng như vậy đến chiều hướng của chiến tranh.

Hậu quả của Tết Mậu Thân là một sự thất bại toàn diện giáng lên các lực lượng Cộng sản bởi quân đội Đồng minh. Dân chúng tại miền Nam đã không chịu nổi dậy chào đón các “chiến sĩ giải phóng” như chúng đã tính toán. Tuy là chiến thắng, nhưng vì cái giá phải trả quá cao đã đánh gục quyết tâm tiếp tục chiến đấu của dân Mỹ. Đầu tư về xương máu phải đổ ra để đánh đổi lấy những điều ít ỏi đạt được đã bị đánh giá là quá cao. Người Mỹ quý trọng mạng sống con người và hết sức chú ý đến việc hồi hương các tù binh chiến tranh của họ. Tất cả những điều này đã phù hợp với các nhận xét của giới lãnh đạo tại Bắc Việt.

Hành động của quân đội Mỹ tại Mỹ Lai đã trở thành một biểu hiệu có tầm mức quốc gia về sự nhục nhã, về sự sám hối, một hình thức tự hành hạ, và người Mỹ lại có vẻ thích thú một cách bệnh hoạn khi cho rằng mình đích thực là thủ phạm. Trong khi đó các tội ác và sự tàn bạo thường lệ của Cộng sản nhiều gấp bội của người Mỹ lại rất hiếm khi được bàn tán hay tường thuật một cách đàng hoàng trên báo chí.

Một trong các mối lo ngại chính của các tay vẽ kế hoạch Bắc Việt là liệu Hoa Kỳ có quay ngược lại nỗ lực lớn rút chân ra khỏi Việt Nam hiện nay đang tiến hành càng lúc càng nhanh và càng rộng lớn tựa như tảng băng đang lăn nửa đường xuống dưới chân đồi hay không? Chúng đánh giá là không. Việt Nam Cộng Hòa không có bạn bè chính trị trong nội bộ nước Mỹ. Không có ai chịu vận động thật tình để bênh vực cho họ, để đối phó lại một cách có hiệu quả ảnh hưởng của các sinh viên đang nổi giận, hoặc của những nhóm nhỏ khác gồm các cựu chiến binh Việt Nam cũng phản chiến do lòng cay đắng mà tiếng nói của họ ngày càng mạnh hơn.

Cũng không hề có truyền thống, khác với trường hợp Trung Cộng, là các nhà truyền giáo Hoa Kỳ làm việc ở đó, hoặc có kết hợp lâu dài với những người yêu chuộng tự do tại Việt Nam. Trong bài diễn văn nổi tiếng trong lễ nhậm chức năm 1961, những lời Tổng thống Kennedy đã phát biểu rằng Hoa Kỳ sẽ “trả bất cứ giá nào, chịu bất kỳ gánh nặng nào, đáp ứng bất cứ sự khó khăn nào để giúp đỡ tất cả các bạn bè chống lại bất kỳ kẻ thù nhằm bảo đảm sự trường tồn và thành công của nền Tự Do” đã không còn được áp dụng đối với Việt Nam nữa.

Bắc Việt tính toán là khả năng Hoa Kỳ sẽ sử dụng tối đa hỏa lực không quân trong một mức độ chưa từng thấy cũng cần phải lưu ý tới. Hệ thống phòng không tối tân nhất do Liên Xô cung cấp có thể sẽ hạn chế hay vô hiệu hóa được nỗ lực trả đũa của Hoa Kỳ. Thời tiết cũng sẽ giúp họ trong những ngày đầu tiên. Không chừng nếu bộ đội Bắc Việt có thể chiếm được một phần lãnh thổ nào đó đủ để khi thời tiết trở nên bất lợi cho họ, họ có lẽ cũng đã gây đủ thiệt hại cho đối phương để có thể tuyên bố là đã thành công hay bằng cách nào đó, lật đổ được cái chế độ Nguyễn Văn Thiệu đáng ghét.

Chắc chắn Hoa Kỳ sẽ không đưa binh lính hay TQLC trở lại chiến trường. Giới truyền thông và các đối thủ phản chiến trong Quốc Hội sẽ không bao giờ cho phép chính quyền làm điều đó. Nếu Nixon đủ điên rồ mà làm chuyện đó thì tất cả các trường đại học trên toàn quốc sẽ bùng nổ trong một cơn giận dữ khiến cho sự kiện tại Kent State sẽ thành mờ nhạt khi so sánh với biến động này. Còn đối với hỏa lực không quân thì Bắc Việt sẽ đành phải chấp nhận ăn thua đủ, đánh ván bài đỏ đen vậy.

Việc chuẩn bị cho cuộc tổng công kích và các hành động táo bạo của Bắc Việt đơn giản là sự khẳng định lại những điều bi quan nhất mà các nhà phân tích tình báo của Đồng minh đã lo ngại từ lâu. Phải mất tới vài ngày, khi khói lửa chiến tranh ban đầu đã tan mới đủ để cho bộ chỉ huy hỗn hợp Việt – Mỹ quá chậm chạp trong việc phát triển xong một kế hoạch phòng thủ liên hiệp nào đó và bắt đầu lên kế hoạch phản công.

Thần chiến tranh có vẻ ủng hộ phe xâm lược. Trong những ngày và tuần lễ trước khi cuộc tấn công được phát động, lực lượng phòng không gồm pháo binh và hỏa tiễn địa đối không Bắc Việt tuyên bố đã bắn hạ một số máy bay Hoa Kỳ đang thực hiện các phi vụ yểm trợ như thường lệ trong khu phi-quân-sự. Hệ thống phòng không tốt hơn và thời tiết xấu đã làm cho khả năng quan sát trên không về sự di chuyển của địch thủ bị hạn chế một cách đáng kể.
Việc sử dụng một loạt các trọng pháo tầm xa do Liên Xô và Trung Cộng cung cấp, lâu nay vẫn chỉ được dùng đến để chống các lực lượng Đồng minh khi được bắn đi từ vùng Cơ Rốc bên Lào đến các mục tiêu như Khe Sanh, vượt suốt chiều dài của khu phi-quân-sự và các vùng sát biên giới với Lào, đã lộ ra là khả năng của kẻ thù vượt xa các dự đoán. Ngay cùng một lúc, có vẻ như tất cả các vị trị đóng quân của các đơn vị Quân Lực VNCH và TQLC cùng với các khu dân cư quan trọng trong tầm tác xạ đều bị pháo kích với một cường độ mãnh liệt và chính xác.

Từ hầm trú ẩn đến lòng chảo nóng

Chẳng ai có thể xác định được phe Cộng sản có thể chọn một thời điểm nào thuận tiện hơn để tung ra các loạt tấn công lớn khủng khiếp vượt qua khu phi-quân-sự và qua địa phận Tây Bắc của Lào hay không. Nhưng cũng chẳng cần phải là Tôn Tử, Clausewitz hay McArthur, hoặc ngay cả bất cứ khóa sinh hạng bét nào trong các trường trung cấp quân sự tại Hoa Kỳ hay Liên Xô, ai cũng thấy Cộng sản đã chọn được một thời điểm lý tưởng để chơi xả láng.

Cho dù vô tình hay cố ý, có vẻ như lực lượng Đồng minh đã bị ru ngủ bởi một cảm giác an toàn giả tạo vì không ai có thể nghĩ đến một cuộc tấn công theo hết chiều rộng của khu phi-quân-sự. Bọn Cộng sản chưa hề làm chuyện đó bao giờ và dĩ nhiên họ không có quyền làm điều đó theo Hiệp định Genève. Ngay lúc này thì thời tiết xấu đã hỗ trợ cho địch quân vì các đám mây mù xuống thấp khoảng từ 1.000 đến 1.500 bộ trên khắp Vùng I Chiến Thuật trên thực tế đã làm cho không quân yểm trợ chiến thuật hoàn toàn vô dụng.

Thêm vào sự xáo trộn và hỗn loạn, đặc biệt là ở câu hỏi phải chăng đã có những hành động xảo quyệt và phản bội từ cấp chỉ huy cao cấp của QLVNCH, là ngay đúng vào lúc đó có hai trong số ba Trung đoàn của Sư đoàn 3 BB đang thực hiện một thao tác gọi là hoán chuyển vị trí tác chiến. Trong thao tác này, hai đơn vị thường là cùng cấp số với nhau di chuyển thay vị trí với nhau với mục đích đánh lừa đối phương. Trong những điều kiện thực tập bình thường, thì động tác chiến thuật này cũng đã là một sự nhức đầu cho cấp chỉ huy và tiếp vận rồi. Trong tình huống đang giao chiến thì thật sự là một cơn ác mộng. Đối với Sư đoàn 3, chuyện đó là một sự thảm hại.

Sư đoàn 3 được thành lập sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 và còn chưa kỷ niệm được đệ nhất chu niên như một sư đoàn nữa. Được tạo thành từ ba Trung đoàn bộ binh – Trung đoàn 2, 56 và 57 – chỉ có Trung đoàn 2 là có lịch sử thâm niên hơn đơn vị chủ quản và được các sĩ quan Hoa Kỳ vừa mới phục vụ trong vai trò cố vấn quân sự đánh giá là tạm đủ sức chiến đấu. Hai Trung đoàn 56 và 57, tuy là những đơn vị quân sự hợp pháp nhưng có vẻ giống như là lực lượng dân quân nhiều hơn vì đa số binh lính được tuyển mộ tại địa phương như Quảng Trị hay các tỉnh lân cận. Với quân lính được huấn luyện sơ sài, lãnh đạo ở hầu hết mọi cấp bực cũng giống như vậy, là thiếu kinh nghiệm và không được trui rèn đúng mức. Một số khá lớn binh sĩ trong các Trung đoàn này là đã bị sung vào vì tội đào ngũ từ những đơn vị Quân Lực VNCH khác.

Trên nhiều khía cạnh, sự tương quan giữa Quân Lực VNCH và Quân đội Hoa Kỳ cũng y hệt hình ảnh của TQLC Việt Nam và TQLC Hoa Kỳ vậy. Trong khi Quân đội Hoa Kỳ chỉ nhỉnh hơn binh đoàn TQLC Hoa Kỳ một chút thì Quân lực VNCH lớn hơn binh chủng TQLC Việt Nam rất nhiều. Tuy nhỏ và có nhiều hạn chế hơn nhưng binh chủng TQLC Việt Nam có vẻ như đang phát triển toàn diện trong các nhiệm vụ, và dù được thành lập khá muộn màng trong cuộc chiến, binh chủng này vẫn giữ được nhiều tiêu chuẩn rất cao. Các đơn vị QLVNCH cũng có rất nhiều binh sĩ dũng cảm và các cấp chỉ huy đơn vị cấp nhỏ táo bạo. Tuy nhiên vấn đề đau lòng đối với họ là đã bị lẫn vào một số lớn hơn các đồng đội được chỉ huy và động viên tinh thần một cách quá yếu kém. Mặc dù Quân đội Hoa Kỳ đã nhiều năm qua sử dụng các cố vấn để giúp các đơn vị này nhưng tầm vóc đơn vị cũng là một vấn đề lớn. Với tiến trình Việt Nam hóa chiến tranh và việc giảm thiểu liên tục các lực lượng Hoa Kỳ, rất ít đơn vị VNCH còn đủ cố vấn quân sự thông hiểu tình thế hầu là chỗ dựa trong những tình huống nguy kịch. Trong ngày 30 tháng Ba 1972, Trung đoàn 2 không còn được sự cố vấn trực tiếp nào nữa từ phía Hoa Kỳ. Cả hai Trung đoàn 56 và 57 thì vẫn còn một ít nhưng chỉ ở cấp trung đoàn mà thôi.

Bắt đầu vào giữa trưa giờ địa phương ngày 30 tháng Ba 1972 cả 12 căn cứ hỏa lực cố định trải dài toàn bộ chiều ngang từ Đông sang Tây của khu phi-quân-sự và khoảng 20 cây số từ Bắc xuống Nam sát với biên giới Lào, cùng một lúc chịu đựng những cuộc pháo kích khốc liệt và liên tục của trọng pháo và hỏa tiễn với mức độ chưa từng thấy bao giờ. Một lần nữa, ở vị thế phòng thủ, các đơn vị VNCH và TQLC hoạt động chung quanh các căn cứ hỏa lực cố định, dễ thấy và dễ bị xác định tọa độ bởi tiền sát viên Bắc Việt. Ngoại trừ bốn khẩu 175 ly của VNCH tại căn cứ Camp Carroll, các đơn vị VNCH và TQLC khi đụng trận chỉ có thể gọi được pháo binh 105 và 155 ly. Với tầm tác xạ tối đa vượt xa cả hai loại 105 và 155 ly, quân Bắc Việt ung dung bố trí trọng pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly của chúng ra khỏi tầm bắn của VNCH và tự do pháo kích họ mà không sợ bị trả đũa.

Kế hoạch của Bắc Việt là những đợt pháo kích đầu tiên nhắm vào các vị trí pháo binh VNCH mà chúng đã rõ. Đó là chưa kể bên VNCH phản pháo cũng chậm chạp. Các pháo thủ VNCH chưa quen bị pháo kích như vậy. Sau khi các đơn vị pháo binh của VNCH bị tắt tiếng – vì bị tiêu diệt hay ngưng hoạt động vì quá sợ – kẻ thù có thể tự do chuyển qua các mục tiêu khác. Ngoài ra, những đợt pháo kích đầu tiên cũng đã phá hủy được một số lớn các phương tiện liên lạc của VNCH và làm tăng thêm cái cảm giác bị hỗn loạn, bị cô lập như rắn mất đầu.

Đằng sau những cuộc pháo kích là hơn 30.000 lính Bắc Việt và, lần đầu tiên tại Việt Nam có hằng trăm chiến xa T-54 và PT-76 do Liên Xô cung cấp đã lăn bánh tiến về phía trước giống như một gã khổng lồ không thể ngăn cản nổi. Kiểu chiến tranh quy ước mà quân Mỹ vẫn luôn mong muốn được dàn ra đánh tại Việt Nam sau khi thắng một lần trong kỳ Tết 1968 lại được Bắc Việt tung ra, lần này với một tầm cỡ lớn hơn rất nhiều.

Cuộc tổng công kích của quân Bắc Việt không chỉ hạn chế ở các mục tiêu quân sự. Trong vài năm qua, người dân thường Việt Nam đã bị đánh lừa bởi cái cảm giác an bình nên không hề nghĩ tới chuyện họ sẽ bị quân xâm lược tấn công như vậy. Các cuộc pháo kích vào khu đông dân cư bởi quân Bắc Việt đang tiến dần về phía Nam là một mục đích trọng yếu của kế hoạch nhằm gieo rắc hoảng loạn và phá chặn các mạng lưới giao thông quan trọng, từ đó làm chậm thêm phản ứng của Quân lực VNCH và TQLC.

Nhìn từ khía cạnh những người phản chiến hung hăng nhất tại Hoa Kỳ thì phản ứng chậm chạp, hay thụ động của Quân lực VNCH là điều đương nhiên có thể dự đoán trước được. Trong khi nhiều đơn vị VNCH cố gắng chống cự và chiến đấu thì có một số đơn vị bộ binh, pháo binh và yểm trợ khác tưởng chừng là đã tan biến đi, vào nhiều nơi mà không còn hiện hữu nữa. Trong những giờ đầu tiên khi quân Cộng sản mở cuộc tấn công, các con đường dẫn xuống phía Nam và xa vùng giao tranh bị tràn ngập bởi hàng ngàn và hàng ngàn dân chúng đi bộ, chạy trốn, thậm chí bò dưới đất, một cách hỗn loạn. Họ cưỡi bất cứ con vật nào hay lái loại xe nào có bánh nhằm thoát khỏi cơn bão lửa từ phía Bắc. Lẫn lộn với dân chúng có hàng ngàn thanh niên vẫn còn mặc quân phục nhưng không còn đeo bảng tên, cấp bậc hay phù hiệu đơn vị nữa. Một số lớn những người đó là lính của Trung đoàn 57 đã buông khí giới chạy theo Quốc lộ 1 về nhà gần đó để di tản gia đình về phía Nam nhằm lánh xa cuộc tàn sát. Gần như tất cả các nơi ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị đều bị bắn phá tan tành. Không có một tin tức nào là tốt đẹp cả.

Cùng với việc không có một tin mừng nào để báo cáo, trong những giờ đầu tiên của cuộc tấn công của Cộng sản, nguồn thông tin đưa xuống Sài Gòn ở phía Nam chỉ là những sự chỉ trích lẫn nhau qua hệ thống điện đàm chiến thuật của Quân lực VNCH. Có lẽ vì cuộc tấn công quá bất ngờ nên các sĩ quan cao cấp của Quân lực VNCH có cảm giác bị lúng túng – có khi bị mất mặt là đằng khác – do đó họ khó chấp nhận các tin xấu và làm chậm trễ đi việc loan báo các thông tin nầy.

Người Mỹ không hề bị vướng mắc về vấn đề sĩ diện, vì vậy Gerry Turley, lúc đó đang ở trong hầm trú ẩn của Trung tâm Hành quân Sư Đoàn 3, tuy chỉ giữ vai trò quan sát và không chính thức, đã lập tức nắm lấy tình hình và bắt đầu báo cáo về Sài Gòn. (đường liên lạc giữa TTHQ Sư Đoàn 3 và Trung Tâm MACV ở Sài Gòn chạy qua một đường dây điện thoại duy nhất, lỗi thời và vận hành bằng tay gắn trong hầm trú ẩn. Gerry không biết là đường dây liên lạc này có chạy thẳng vào Sài Gòn hay nó được chuyển qua những trạm tiếp vận hay không. Ông chỉ lo ngại về phẩm chất của các cuộc điện đàm, nếu tốt lắm cũng chỉ lúc được lúc không). Những vị ở MACV cũng phản ứng chậm chạp không khác gì bên phía bạn VNCH nhưng vì các lý do khác nhau. Họ tin chắc trong đầu là nếu có tổng tấn công xảy ra thì các mục tiêu sẽ xa hơn ở phía Nam chứ không thể nằm trong vùng phi-quân-sự được. Do vậy họ nghĩ đợt tấn công này chỉ là đánh nhử mà thôi. Quả thật, rất khó thông cảm được sự ẩm ướt của sương mù San Francisco nếu người đó chỉ sống trong nắng ấm Los Angeles. Do đó, cũng thật khó để mường tượng được chiến tranh toàn diện tại Quảng Trị trong khi Sài Gòn vẫn sinh hoạt như thường lệ. MACV vẫn chưa tỏ ra có dấu hiệu gì bối rối lắm.

Quang cảnh và hoạt động tại TTHQ Sư Đoàn 3 tại Ái Tử lúc này là ngoài sức tưởng tượng. Ngoài việc bị lãnh pháo kích và hỏa tiễn như các nơi khác, tại đây còn là chỗ tiếp nhận, theo sát các dữ kiện và báo cáo điện đàm từ các đơn vị phụ thuộc, rồi ghi chú lên những tấm bản đồ hành quân lớn cho những người có trách nhiệm điều phối số lượng tăng viện vốn ít ỏi có thể ra quyết định được, là chỗ nào cần tiếp thêm máu, chỗ nào cần thắt lại hay cắt bỏ đi…. Tất cả những nhân sự trong quân đội Hoa Kỳ giữ vai trò yểm trợ, cũng như các nhân viên VNCH đều chưa hề được chuẩn bị cho các cuộc tấn công với tầm vóc và cường độ lớn như vậy.

Nằm trong hầm trú ẩn TTHQ là một cách tiếp cận với mặt trận gần nhất – trong trường hợp các đơn vị tiền tuyến bị đụng độ – mà không thực sự chạm địch. Tình hình biến chuyển liên tục được thể hiện bởi các điểm được di chuyển liên tiếp theo hướng xấu nhất đã vẽ ra một bức tranh ảm đạm cho thấy tất cả các điểm quân ta ở trên bản đồ sắp sửa bị tràn ngập. Đối với các nhân sự trong Trung tâm Hành quân thì tình hình giống như trong một cuộc tranh giải vật lộn trong trường đại học, chỉ có điều là không hề có thời hạn hay trọng tài nào cả. Trên từng cái chiếu tranh tài cách biệt nhau, các đối thủ chỉ biết phạm vi không gian của mình. Họ vật lộn sống chết với nhau mà không cần biết bên cạnh chuyện gì đang xảy ra. Chỉ có những người trong TTHQ mới có cơ hội để quan sát một bức tranh toàn diện hơn. Khi ánh nắng tắt dần vào ngày 30 tháng Ba 1972, bức tranh này không cho thấy một tia hy vọng nào cả

Screen Shot 2015-06-03 at 9.18.31 AM

CƯỠI NGỌN SẤM 23

cuoingonsam

richardbotkin

Chương 18

“Vừa đánh vừa đàm”
Vùng I Chiến Thuật
Mùa Thu 1971

Số lượng người Mỹ còn lưu lại tại Việt Nam cho đến cuối năm sẽ chỉ còn ít hơn con số 160.000. Trong số này hầu hết là những người phụ trách các vai trò về tiếp liệu hay yểm trợ cho tác chiến. Đến cuối năm 1971 thì mọi đơn vị bộ binh chiến đấu TQLC Hoa Kỳ đều đã triệt thoái ra khỏi vùng Đông Nam Á, và trên thực tế quân đội Hoa kỳ chỉ còn rất ít người cầm súng ở lại. Những người ở lại chỉ đóng các vai trò yểm trợ cho Quân Lực VNCH trong chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh.”

Điều duy nhất được coi là kỳ dị hơn cả các quy tắc chiến đấu mà các lực lượng bộ binh và không quân Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tuân theo là cái nguyên tắc rối rắm theo kiểu “lắm thầy thối ma” theo đó đường lối chính trị đã ảnh hưởng vào các hoạt động quân sự. Từ giữa tháng Tư cho đến tháng Mười năm 1968, trong một số các động tác bày tỏ thiện chí một cách ngây thơ đối với phe Cộng sản, Hoa Kỳ trên thực tế đã ngưng tất cả các cuộc không kích Bắc Việt ở phía trên vĩ tuyến 20. Điều này coi như đã bỏ ngỏ 90% lãnh thổ kẻ thù không được đụng đến. Phía Bắc Việt thực tế và quyết thắng hơn đã lợi dụng đúng mức cơ hội này để bố trí lại các phương tiện quân sự chiến lược trọng yếu và xây dựng một hệ thống phòng không tối tân, hoàn thiện hơn do Liên Xô cung cấp chung quanh Hà Nội và Hải Phòng.

Tiến trình hòa đàm tại Paris với bọn Cộng sản cứng đầu và ngoan cố đã tỏ ra là một quá trình cực kỳ khó chịu vì người Mỹ chỉ muốn có kết quả và nóng lòng đạt một sự thỏa thuận nào đó. Phải cần tới chín tháng trời hai bên mới đồng ý xong về hình dáng cái bàn hội nghị và điều này ngầm báo trước những điều chẳng tốt lành gì. Trong khi đó cả hai bên, với bọn Cộng sản rõ ràng là xảo quyệt và nhạy bén về chính trị hơn, đều áp dụng đường lối “vừa đánh vừa đàm” của Mao Trạch Đông, tức đánh lúc không đàm phán và đàm phán trở lại lúc không còn đánh nhau nữa.

Chuyện quan trọng nhất đối với dân chúng Hoa Kỳ, ngoài sự kiện triệt thoái toàn bộ ra khỏi Đông Nam Á là chuyện hồi hương các tù binh chiến tranh Mỹ bị bắt với số lượng ngày càng tăng thêm. Họ đang bị giam giữ trong những điều kiện tồi tệ và bị tra tấn tại những nơi được đặt cho cái tên mỉa mai là “Khách sạn Hilton.”

Mặc dù cuộc đột kích vào tháng Mười Một năm 1970 của người Mỹ vào Sơn Tây, nằm vào khoảng 20 dặm về hướng Tây của Hà Nội bởi một lực lượng đã được huấn luyện kỹ lưỡng và có quyết tâm cao do Đại tá Arthur “Bull” Simons chỉ huy, đã thất bại trong toan tính giải cứu các tù binh chiến tranh bị giam giữ tại đó – họ đã bị chuyển đi nơi khác không lâu trước đó vì nguy cơ lũ lụt – nhưng hành động này đã có một hiệu quả tích cực đáng kể. Hành động Hoa Kỳ dám tung ra một lực lượng biệt kích lớn, can đảm xông vào thẳng sào huyệt của Bắc Việt đã báo lên một thông điệp mạnh mẽ đến tất cả các phe có liên quan. Người Mỹ có thể chịu linh động hay nhân nhượng ở một số điểm nào đó nhưng sự đối xử với những người đã được công nhận là tù binh là một chuyện mà sau này phía kẻ thù sẽ phải chịu trách nhiệm. Sau cuộc đột kích Sơn Tây, điều kiện các tù binh bị đối xử đã được cải thiện khiến tinh thần họ cũng được nâng cao lên. Lực lượng xung kích cũng đã có cơ hội, trong thời gian ngắn tại Sơn Tây, “xơi tái” được một số đáng kể những tên xấu xa. Không có người Mỹ nào bị thiệt hại trong cuộc mưu toan giải cứu tù binh.

Các cuộc thương lượng và chỉ trích lẫn nhau tiếp diễn trong những phiên hòa đàm miệt mài tại Paris. Ngay từ ban sơ, khi các cuộc đàm phán khởi sự vào tháng Năm 1968, thái độ của phe Cộng sản nhắm vào nhiều mục tiêu cùng một lúc: đòi hỏi sự công nhận của Hoa Kỳ và VNCH đối với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (phe Cộng sản miền Nam Việt Nam có đại diện của họ), phân hóa đế quốc Mỹ và “đầy tớ” đồng minh bất chính VNCH, buộc Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm về tất cả những đau thương đã xảy ra và phải rút về nước, cũng như cam kết không viện trợ cho phe VNCH nữa.

Trong vòng hơn ba năm, những cuộc đàm phán của các phía đều vô ích. Vào tháng Năm năm 1969, Tổng thống Nixon đã đưa ra đề nghị rút tất cả các lực lượng không phải của miền Nam Việt Nam ra. Điều này có nghĩa là bao gồm các lực lượng Hoa Kỳ lẫn Bắc Việt. Vào tháng Mười năm 1971, người Mỹ lại một lần nữa đưa ra đề nghị tương tự. Chẳng may cho Nixon là Cộng sản Bắc Việt không hề có ý định vội vã triệt thoái ra khỏi miền Nam như Hoa Kỳ. Người Mỹ đằng nào cũng sẽ phải rút về, dù có hòa đàm hay không cũng vậy. Cộng sản vẫn cương quyết tập trung giành chiến thắng bằng bất cứ mọi giá, giá nào cũng được, vượt hẳn quyết tâm của người Mỹ đang trông đợi kẻ thù nhân nhượng.

Vào tháng Bẩy năm 1971, Tổng thống Nixon làm bất ngờ cả nước và thế giới khi ông tuyên bố sẽ ghé thăm Bắc Kinh với ý định rõ rệt muốn bình thường hóa quan hệ với một quốc gia đông dân nhất thế giới. Những lợi ích về mặt chiến lược rất đáng kể. Trong hai năm vừa qua, Liên Xô và Trung Cộng đã tranh dành lãnh thổ với nhau trong một số trận đánh đẫm máu tại nhiều điểm dọc theo đường biên giới dài giữa hai nước. Nếu có thể thúc đẩy được sự tan vỡ của cái khối Đỏ to lớn và lợi dụng sự mất tin tưởng lẫn nhau của hai nước đó thì may ra Hoa Kỳ có thể lấy lại uy tín và xây dựng lại được sức mạnh đã bị chỉ trích là đầu tư quá nhiều mà chẳng lấy lại được bao nhiêu tại Đông Nam Á. Liệu Tổng thống Nixon có thể biến điều này thành một thắng lợi về mặt chính trị và quân sự tại Việt Nam hay không vẫn còn phải chờ xem. Tuy nhiên nhưng tay đầu sỏ Bắc Việt có vẻ đang lo lắng một cách thật sự. Họ hiểu rằng, nhất là sau bài học cuộc đột kích Sơn Tây, yếu huyệt của người Mỹ là vấn đề tù binh. Họ sẽ tiếp tục chơi lá bài đó trong mọi cuộc đàm phán tiếp theo. Trong khi đó thì các lực lượng Hoa Kỳ tiếp tục triệt thoái không gián đoạn ra khỏi Việt Nam.

Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
Lễ mãn khóa
Đà Lạt, Việt Nam Cộng Hòa
Tháng Mười Hai 1971

Đó là một ngày nắng ấm tuyệt vời tiêu biểu của khung trời Đà Lạt, nhiều gia đình, bạn bè và quan khách đã tụ họp nhau lại để tham dự lễ mãn khóa và chúc mừng các thanh niên tân Thiếu úy và tân Chuẩn úy sắp lên đường phục vụ cho một đất nước đang bị tàn phá bởi chiến tranh. Sự kiện Việt Nam Cộng Hòa và khóa 24 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt đã tồn tại cho tới nay không phải do phép lạ nào cả. Thật vậy, vào cuối tháng Mười Hai năm 1971, đất nước còn tự hào là đã có được những điều báo hiệu cho niềm hy vọng, thậm chí cả sự chiến thắng nữa.

Năm 1971 sắp chấm dứt và tương lai tuy chưa có gì chắc chắn nhưng đã tỏ ra có những khúc quanh sáng sủa hơn. Chính quyền Sài Gòn đã kiểm soát được nhiều phần lãnh thổ hơn là lúc đất nước mới được thành lập ngót 18 năm về trước. Những công cuộc cải tổ chính đáng đã được áp dụng và mặc dù chưa được nhanh chóng theo mức độ cần thiết để tránh cho chính quyền bị các sự chỉ trích trong nước cũng như từ giới truyền thông Tây phương và các trường đại học tại Hoa Kỳ, nhưng cũng đã đủ để chận đứng tuyên truyền của Cộng sản. Hạ tầng cơ sở của Việt Cộng đã bị thiệt hại nặng nề trong kỳ Tết Mậu Thân, họ vẫn chưa đủ khả năng để chỉnh đốn hay tự vực dậy được. Công cuộc triệt thoái các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ đã được cân bằng lại với lời hứa viện trợ tối đa cho bạn đồng minh và tiếp tục hỗ trợ bằng không lực.

Sắp sửa được mang lon Thiếu úy, Nguyễn Lương đã tốt nghiệp với số điểm đủ cao trong lớp để đạt cái danh dự trong nhóm 14 khóa sinh được khoác bộ quân phục rằn ri của binh chủng TQLC trong ngày chọn đơn vị phục vụ. Người Mỹ bình thường chắc sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Việt Nam cũng có TQLC, nhưng họ sẽ còn ngạc nhiên gấp bội khi hiểu ra là chỉ có những khóa sinh đậu cao nhất, những sĩ quan trẻ xuất sắc và thông minh nhất mới được chọn để phục vụ trong các đơn vị ưu tú như TQLC, Nhẩy Dù và Biệt Động Quân. Do đó sự tranh đua để chọn đơn vị rất là gay go.

Bãi diễn hành cho buổi lễ là một phiên bản thu nhỏ hơn một chút của trường West Point. Tuy nhỏ hơn về kích thước so với mô hình của Hoa Kỳ nhưng hoàn toàn không kém phần trang trọng, tự hào và nhiệt tình cho buổi lễ tốt nghiệp tại Đà Lạt. Trong số 311 thanh niên nhập khóa 24 từ năm 1967, chỉ có 245 người đã chịu đựng nổi quân trường và sắp sửa bước lên khán đài để nhận bằng cấp tốt nghiệp và trách nhiệm của người sĩ quan trước mặt toàn thể các người thân và bạn bè hâm mộ. Sự phấn chấn và lời thề, giống như trong mọi buổi lễ mãn khóa khác, đã được ghi khắc vào trong tâm hồn của những thanh niên lên đường chiến đấu với niềm tin vững chắc là tất cả mỗi người trong số họ đều sắp sửa được chỉ huy binh lính để chống lại kẻ thù Cộng sản.

Ngày 27 tháng Mười Hai năm 1971 là cái ngày cuối cùng mà khóa 24 còn tụ họp lại với nhau như một tập thể đồng nhất. Họ tự nhủ không biết trong những lần hội ngộ sau này, có thể là năm, mười hay 30 năm nữa, sẽ có bao nhiêu đồng đội trong số họ, có lẽ là một con số không nhỏ, sẽ hy sinh đền nợ nước trong cuộc chiến hiện tại vì sự sống còn này.

eric-joseph-hieu

Screen Shot 2015-06-03 at 9.18.31 AM

CƯỠI NGỌN SÓNG 22

cuoingonsam

richardbotkin
Chương 17

Kinh Kông vẫn sống mãi!

Tiến trình để anh chàng Đại úy trẻ George Philip làm quen với cái thế giới tương đối hạn hẹp của các cố vấn TQLC Hoa Kỳ mất vào khoảng năm ngày tại Sài Gòn. Nhịp độ của công việc tại cái hậu phương được mệnh danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông” này vào thời điểm cuối hè 1971 thật khác xa với những gì anh nhớ lại từ lần điên loạn đầu tiên khi anh mới đến Đà Nẵng vào năm 1968.

Trong năm ngày nhàn rỗi này, George gặp hết tất cả các cố vấn đang ở Sài Gòn và được tường trình về các cuộc hành quân của binh chủng TQLC Việt Nam. Anh cũng giải quyết cho hết các thủ tục giấy tờ và các chuyện riêng tư. Hằng ngày anh theo dõi các cuộc điện đàm giữa bộ tư lệnh và các đơn vị ngoài mặt trận cách xa đó gần ba trăm dặm đường. Trong những lần đi chơi tối tại câu lạc bộ Hòa Bình George tiếp tục uống bia và vui chơi cùng cái nhóm mà anh mới được gia nhập vào. Anh cũng nhận ra, qua cung cách lịch sự đặc biệt mà những người dân bình thường đã biểu lộ ra khi tiếp xúc với họ, là người Việt rất kính trọng các sĩ quan Hoa Kỳ trong bộ quân phục rằn ri của TQLC Việt Nam.

Khi mọi chuyện đã xong xuôi, George được lệnh mang túi bưu tín để chuyển cho các cố vấn Hoa Kỳ đang ở phía Bắc. Anh xách túi hành trang và lên xe ra phi trường Tân Sơn Nhất. Lúc này thì anh đã quen với vấn đề lưu thông của Sài Gòn rồi. Chuyến xe jeep ra phi trường có vẻ đỡ căng thẳng hơn lần đi vào chỉ vài ngày trước đó.

Anh đáp một chiếc máy bay vận tải C-123 chở đầy lính TQLC Việt Nam, một vài phụ nữ đi thăm chồng con, cùng với một mớ gà vịt và heo. Anh lại thong dong lên đường ra mặt trận tuốt ngoài Vùng I Chiến Thuật, lần này với tư cách cố vấn quân sự Hoa Kỳ.

Vào mùa Hè 1971, công tác phòng thủ phần cực Bắc của Vùng I Chiến Thuật do Sư Đoàn 3 Bộ Binh VNCH và ba lữ đoàn TQLC Việt Nam luân chuyển nhau đảm trách. Vùng trách nhiệm bao gồm các lãnh thổ tiếp giáp với khu phi-quân-sự và khu vực phía Đông của biên giới Lào, kể cả Khe Sanh mà trước kia thuộc trách nhiệm phòng thủ của Sư Đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ (Sư Đoàn 1 phụ trách khu vực phía Nam của Sư Đoàn 3).

Sư Đoàn 3 BB VNCH là một sư đoàn được thành lập sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 và gồm các binh lính được động viên hầu hết từ các tỉnh chung quanh vùng cực Bắc này. Sư Đoàn 3 BB cũng được ngầm hiểu là đơn vị chứa các thành phần bất mãn với chính quyền và các lao công đào binh. Vì là một đơn vị lớn xa Sài Gòn nhất, họ được điều ra đây với mục đích bị trừng phạt và cũng khó mà trốn đi đâu nổi ngoại trừ đào ngũ qua phía Bắc Việt thay vì phục vụ đàng hoàng trong quân ngũ.

Các lữ đoàn TQLC (mỗi lữ đoàn gồm ba tiểu đoàn tác chiến, một tiểu đoàn pháo binh, các đơn vị yểm trợ khác nhau và một bộ tư lệnh tương đối gọn nhẹ so với tiêu chuẩn của quân đội Hoa Kỳ), đã mang lại thế quân bằng cho khả năng mong manh của các đơn vị địa phương VNCH, và trở thành các trụ cột chống đỡ cho chính phủ và dân chúng đang trông mong vào họ nhằm ngăn chận không cho Cộng sản tràn vào phía Nam của vùng phi-quân-sự. Thông thường, các lữ đoàn TQLC Việt Nam hoạt động trong ba tháng tại đây trước khi được hoán chuyển về Sài Gòn và Thủ Đức để dưỡng quân, nghỉ phép và tiếp liệu trong một tháng. Mục đích của chuyện này nhằm luôn luôn có hai trong số ba lữ đoàn, hay ít nhất là có hai trong số ba tiểu đoàn của mỗi lữ đoàn sẵn sàng ứng chiến bất cứ lúc nào.

Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh TQLC Việt Nam hiện là đơn vị hỏa lực cho Lữ Đoàn 369. Đó cũng chính là đơn vị mà George Philip đã được bổ nhiệm làm cố vấn. Do tình hình không có đụng độ nhiều lắm nên anh được điều về Pháo Đội B để quan sát và phụ trách phối hợp hỏa lực yểm trợ nếu tình hình đột nhiên biến động.

Pháo Đội B hiện trấn giữ căn cứ hỏa lực Gio Linh ở tận cùng cực Bắc của miền Nam Việt Nam. Nằm vào khoảng vài cây số về phía Bắc của Đông Hà, Gio Linh là thị trấn cuối cùng của Quốc Lộ 1 hướng về khu phi-quân-sự, là điểm tận cùng, điểm xa nhất từ Sài Gòn không nằm trong vùng địch. Trên bản đồ quân sự, Gio Linh được gọi là A-2 hay Alpha 2 và chỉ là một gạch nhỏ của một phân tây nằm ngay sát phía Nam vùng phi-quân-sự. Ngay khi chiếc xe jeep bắt đầu lăn bánh chở George lên căn cứ A-2, mặc dù vắng tiếng súng nhưng George thấy rõ là anh đang đi vào vùng có kẻ thù rồi. Sài Gòn và cuộc sống thành thị đã cách rời hàng triệu dặm xa xôi.

Từ vị trí các hầm trú ẩn kiên cố cũ – có một cái được xây dựng từ thời Tây – và các đài quan sát, nằm trên vùng đất cao ngay phía Đông của Quốc Lộ 1, các TQLC Việt Nam và cố vấn Hoa Kỳ có thể nhìn thấy vượt qua sông Bến Hải, biên giới chính thức giữa hai nước Việt Nam, cái lá cờ Bắc Việt tung bay vật vờ trong bầu không khí ẩm ướt. Khi hai bên không nhả đạn vào nhau, vả lại sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 nhịp độ chiến sự nay đã giảm đi đột ngột, tại đây dường như có một sự thỏa thuận ngưng bắn ngầm, không chính thức và rất kỳ khôi.

Một toán riêng gồm năm người thuộc hỏa lực hải quân Hoa Kỳ được kết hợp với Pháo Đội B. Họ được trang bị các thiết bị tối tân nhất như ống nhòm nhìn trong bóng đêm và máy xác định vị trí bằng hệ thống laser. Những thiết bị này có lẽ cân nặng khoảng 50 cân Anh, không rõ có hiệu quả hay không nhưng chắc chắn đã nâng tính sát hại lên một mức cao hơn vì căn cứ A-2 và các vùng lân cận nằm trong tầm bắn của các chiến hạm Hoa Kỳ đang lởn vởn ngoài khơi bờ biển phía Bắc. Đối với George thì được nói chuyện với các quân nhân người Mỹ cũng khá thú vị.

Cho đến đầu tháng Chín thì George đã khá quen thuộc với các công việc thường lệ. Anh đã học hỏi và hiểu được nhiệm vụ của một cố vấn quân sự, cũng như mọi thứ khác phải ra sao. Anh đã trở thành một chiến sĩ kỳ cựu… thêm một lần nữa. Như dự tính mong muốn và theo đúng thời hạn, anh đã tạo được tình thân với các chiến sĩ Việt Nam và hứng thú khi làm việc với anh chàng truyền tin. Anh cũng hoàn thành được phần đóng góp của mình trong nỗ lực yểm trợ hỏa lực đồng minh. Anh chỉ cảm thấy hơi kỳ lạ là tuy ở ngay sát cạnh khu phi-quân-sự, trong tầm hoạt động và quan sát của kẻ thù mà không bị đụng độ thường xuyên hơn. Thế nhưng, mặc dù George đã có ý tưởng này hay các ý nghĩ kỳ quặc nào khác nữa, anh vẫn phải tự nhủ là anh đang ở Việt Nam.

Các kinh nghiệm và kỳ vọng tại Việt Nam của người Mỹ bị hạn chế bởi kinh nghiệm của họ như tại các nơi khác. Hoa Kỳ được an toàn không bị xâm lăng nhờ hai đại dương làm trái đệm thành thử cho đến mùa Hè 1971 không còn ai đang sống trong “pháo đài Hoa Kỳ” có thể nhớ nổi những thảm họa của cuộc Nội Chiến như thế nào. Các binh sĩ của đất nước đều đi ra ngoài lãnh thổ quốc gia để chiến đầu cho nền dân chủ. Những người còn lại trong nước, đặc biệt là trong Thế Chiến thứ Hai thì được tuyên truyền mạnh mẽ về nhu cầu phải làm cho thế giới an toàn hơn về tinh thần dân chủ. Là những người dân thường, họ làm việc cật lực ngoài giờ để tạo ra các máy bay ném bom, các chiến xa và tầu chiến nhằm áp đảo khối Trục.

Tất cả cho nền Dân Chủ! Bức tranh nổi tiếng và được lan truyền rộng rãi “Bốn Thứ Tự Do” (Four Freedoms) của họa sĩ Norman Rockwell là một thiên tài về kỹ thuật tuyên truyền đã nói lên ý thức quốc gia, sự nhận thức về công lý và tính hào hiệp, lòng yêu nước của người dân Mỹ mà không ai có thể làm nổi. Bức tranh này đã lấy cảm hứng từ một bài diễn văn của Tổng thống Franklin D. Roosevelt vào năm 1941 và được đăng lần đầu tiên trên tờ Saturday Evening Post năm 1943. Ngay cả trong những giây phút đen tối nhất sau ngày 7 tháng 12 năm 1941 – trước cuộc đột kích Doolittle, trước trận đánh Midway và cuộc xâm lăng Bắc Phi – rất ít người Mỹ, ngoại trừ những người sinh sống tại Hawaii, có thể nghĩ rằng sẽ có một cuộc chiến tranh trên bộ xảy ra trong tương lai do kẻ thù xâm lược đất nước. Những người ở trong nước thì hiếm khi còn mang nỗi lo trực tiếp đến an ninh của họ.

Người Mỹ trong nước trải qua suốt cuộc Chiến Tranh Lạnh đã sống trong mối hiểm họa có thể bị hủy diệt đồng loạt một cách chắc chắn do người Xô Viết nhưng lại không bị mối nguy lũ quỷ đỏ sẽ xuất hiện trên ngưỡng cửa tại các thành phố Detroit, Denver hay Duluth của họ. Trong khi đó thì những bậc cha mẹ và con cái họ sống trên mảnh đất Việt Nam Cộng Hòa lại không hề có được sự yên tâm như vậy.

Điều mà người Mỹ không nhận thức được là trong khi họ đi truyền bá một cách ngây thơ các lý tưởng của dân chủ và kinh tế tự do thì họ đã không cảm nhận được đất nước họ đã được một sự đặc ân và các nhu cầu bình an của người dân thường được đặt cao hơn là các tư tưởng về nhân quyền và tự do cá nhân. Người Cộng sản không bị những ràng buộc như vậy. Kẻ thù Cộng sản phương Bắc không bị ai xâm chiếm trong cuộc chiến này và họ chỉ bị ảnh hưởng một cách hạn chế bởi những cuộc ném bom của Hoa Kỳ. Họ hiểu rất rõ hiệu quả của sự khủng bố nhằm lôi kéo dân chúng ra khỏi tầm kiểm soát của người Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà họ cho là tay sai của Hoa Kỳ. Điều mừng nhất là cho đến mùa Hè 1971, các nỗ lực và khả năng khủng bố của Cộng sản đã bị suy giảm đáng kể. Niềm tin vào chính quyền và hiệu năng của các lực lượng quân sự của VNCH đã không bị rơi vào tay các lãnh tụ của Hà Nội.

Công việc thường lệ tại căn cứ Alpha 2

Cuộc sống của một cố vấn quân sự Hoa Kỳ trong binh chủng TQLC Việt Nam cần một số điều chỉnh nhất định. Mặc dù có những sự khó khăn rõ rệt vì sự khác biệt về văn hóa và ngôn ngữ nhưng đồng thời cũng có những lợi điểm khác thường. Trong cơ chế tổ chức về cấp bậc, binh đoàn TQLC Hoa Kỳ đã huấn luyện các tân binh từ lúc họ được tuyển dụng tại Parris Island hay San Diego về sự kính trọng cấp trên nhưng cũng đồng thời nhấn mạnh về tinh thần trách nhiệm của một thuộc cấp. Nhu cầu bảo đảm an sinh cho binh lính luôn luôn được đặt sau mục tiêu phải chu toàn nhiệm vụ đã giao phó. Các sĩ quan TQLC Hoa Kỳ phải là người có mặt đầu tiên ngoài mặt trận và là người cuối cùng rời trận địa. Họ phải là người lãnh đạo nổi bật ngoài tiền tuyến trong mọi tình huống. Quan niệm này đã được thể hiện ra trong các mặt khác của nghệ thuật chỉ huy, bao gồm những chuyện như binh lính được chăm lo trước các sĩ quan v.v… Các cấp chỉ huy được cấp dưới hỗ trợ trong phạm vi để hoàn thành nhiệm vụ mà thôi. Sự giúp đỡ này không bao hàm chuyện phải hầu hạ cá nhân. Làm tôi tớ là chuyện bị ghét cay ghét đắng trong văn hóa quân sự của người Mỹ.

Làm việc chung với TQLC Việt Nam thì hơi khác một chút. Văn hóa Á châu chịu ảnh hưởng bởi những điều khác với người Mỹ vẫn thường biết, ít bình đẳng hơn do tinh thần sùng bái thượng cấp đã luôn luôn hiện diện trong mọi tầng lớp chỉ huy quân sự.

Tất cả các sĩ quan, kể cả các sĩ quan cấp úy trong quân đội Việt Nam đều có người phục vụ riêng. Được bổ nhiệm để theo giúp một sĩ quan, chẳng hạn như làm nhân viên truyền tin, làm vệ sĩ hay tùy viên – gọi là “tà-loọc” hay “cowboy” theo lối Mỹ – không bị coi là một công việc khúm núm hay “nâng bi.” Được gia nhập vào nhóm “tùy tùng” của thượng cấp tức là đã thuộc vào thành phần chỉ huy, giống như là gia nhập vào nhóm cốt lõi rồi. Cho dù là công việc gì đi chăng nữa, đó là một nhiệm vụ quan trọng và đầy danh dự.

Với trách nhiệm của mình, George Philip không có một nhân viên truyền tin riêng và những chuyện này anh có thể làm lấy một mình được. Tuy nhiên anh được phân bổ một người phục vụ riêng. Hạ sĩ Tường tương đối khá lớn tuổi so với cấp bậc (anh này có một người con trai là quân nhân VNCH đang phục vụ đâu đó tại Việt Nam) nhưng anh chu toàn trách nhiệm “tà-loọc” cho Đại úy Philip một cách tận tụy và chuyên nghiệp. Tường không bao giờ xin Đại úy Philip đặc ân nào cả và luôn luôn trân trọng những gì mà George đã giúp anh, chẳng hạn như mua cho anh mấy bao thuốc lá Mỹ. Hai người rất hợp nhau và lo cho nhau với sự tương kính và trân quý thật tình.

Mỗi buổi sáng thức dậy Đại úy Philip có thể tin tưởng chắc chắn, giống như mặt trời bao giờ cũng phải mọc, là sẽ có một tô súp nóng và một chậu nước nóng để anh cạo râu. Nếu Hạ sĩ Tường cảm thấy đêm hôm trước đôi giầy của xếp có vẻ dơ rồi thì sáng hôm sau chúng đã sạch bong và để sẵn sàng bên chân giường bất cứ lúc nào anh thức dậy. Cho dù có pháo binh bắn yểm trợ cho các đơn vị hay mọi chuyện đang yên tĩnh thì Hạ sĩ Tường luôn luôn chu toàn nhiệm vụ một cách xuất sắc.

Bất thường tại căn cứ A-2

Bất cứ một người nào có thể nghĩ đến hai ý tưởng trọng đại kế tiếp nhau cùng một lúc thì đều hiểu ngay chiến tranh là địa ngục và chiến tranh là kỳ cục. Một điều chắc chắn là những ai biết đọc và biết nghe đều nhận thức ra rằng cuộc chiến tại Việt Nam là một cái gì đó vượt khỏi sự suy nghĩ thông thường của mọi người. Một điều làm cho cuộc chiến Việt Nam càng bất thường đến gần như phi lý nữa là cho đến mùa Hè 1971 đối với những người Mỹ còn hiện diện, cùng với sự giảm thiểu nhanh chóng những người phục vụ tại Đông Nam Á, họ vẫn làm mọi thứ cho tới cùng để giúp đỡ nhau, có khi trong những tình huống lạ lùng có thể là buồn cười nữa.

Số là, dù còn trẻ và khỏe mạnh, chưa đầy 27 tuổi nhưng Đại úy George Philip lại bị bệnh trĩ, nhưng cũng nhẹ thôi. Mặc dù nó không nguy hiểm gì đến tính mạng hay có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng phối hợp hỏa lực yểm trợ như anh vẫn làm từ trước tới nay, nhưng đó cũng là một vấn đề khó khăn đối với anh. Tóm lại, có thể vì sự căng thẳng trong chiến sự hay vì chế độ ẩm thực không được hoàn hảo, bệnh trĩ đã hành hạ George Philip. Chứng bệnh này kèm theo triệu chứng đau đớn, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Không chút mắc cở, anh bốc máy gọi ngay về tổng hành dinh Lữ đoàn hỏi xem ai có thứ gì cho anh không?

Thật là ngạc nhiên khi không đầy một tiếng đồng hồ sau, có một chiếc trực thăng Huey thuộc một đơn vị Không kỵ của quân đội Hoa Kỳ gọi đến xin đáp xuống sân bay căn cứ A-2 với một bưu kiện cho Đại úy Philip. George chạy vội đến chiếc trực thăng mới đáp xuống nhưng chưa tắt máy. Anh cúi đầu để tránh cánh quạt máy bay còn đang quay và tiến tới cánh cửa bên phía tay phi công phụ. Lúc anh đến, vẫn còn cúi rạp, tay phi công đầu đội nón bay che cả mắt, cười toe trao cho anh qua cánh cửa nhỏ một tấm bưu thiếp của binh đoàn Không kỵ và một tuýp thuốc nhỏ trị bệnh trĩ hiệu Preparation H. Sau đó, viên phi công chào anh bạn TQLC mới quen, tống ga và cất cánh đi một cách nhanh chóng. George tự nhủ không biết Thượng nghĩ sĩ William Proxmire, người nổi tiếng đã thông đồng với chính phủ trong việc gian lận, lãng phí và lạm quyền sẽ nghĩ sao nếu biết về sự việc này.

Đại úy Philip giống như phần lớn các TQLC khác cùng địa vị, tỏ ra rất trân trọng lòng dũng cảm được thể hiện bởi các TQLC Hoa Kỳ hay Việt Nam, hay cả những đơn vị khác mà giới TQLC thường cho là không ngang tầm cỡ với mình. George Philip tin chắc là nếu tính chung cả nhóm thì có lẽ “lũ” điên khùng và can đảm nhất trên toàn Việt Nam phải là các hạ sĩ quan kỳ cựu lái trực thăng Hueys. Anh đã từng chứng kiến trong quá khứ nhiều trường hợp các tay này dám bay vào những vùng mà những người có đầu óc bình thường đều phải từ chối. Đối với anh và nhiều người khác nữa thì đó là một điều yên tâm khi biết rằng luôn luôn có các trực thăng quân đội ứng chiến gần đó để đáp ứng các yêu cầu về tản thương khẩn cấp, bắn hỏa lực hay tiếp liệu, kể cả chuyện bị bệnh trĩ luôn.

Đại úy Philip cũng rất trân trọng Hải quân. Trong những tháng đầu tiên tại căn cứ Alpha 2, anh và nhóm Hỏa Lực Hải Quân đã điều phối khá nhiều công tác bắn yểm trợ từ các tuần dương hạm và khu trục hạm khác nhau đậu ngoài khơi. Có lẽ vì cha anh đã từng là hạm trưởng chiến hạm khi ông bị tử trận trong Thế Chiến Thứ Hai thành thử anh dành nhiều tình cảm cho những chiếc tầu anh không thể thấy được từ các vị trí hầm trú ẩn gần khu phi-quân-sự trong căn cứ A-2. Anh luôn luôn tin tưởng là họ sẵn sàng đáp ứng khi có yêu cầu và rất mong có dịp được thăm họ.

Từ lúc người Mỹ đổ bộ lần đầu tiên lên Việt Nam vào đầu năm 1965, lớp phòng thủ hỏa lực phụ trội bởi các đơn vị hải quân hoạt động trong tầm hải pháo của hàng chục chiếc tầu của Đệ Thất Hạm Đội là một yếu tố quan trọng cho sự thành công của người Mỹ chống lại Cộng sản. Khi phần lớn các đơn vị tác chiến của Hoa Kỳ triệt thoái khỏi Việt Nam vào giữa năm 1971, các chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội đã ở lại để giữ nguyên mức yểm trợ cho các đơn vị TQLC VNCH hoạt động gần bờ biển. Hiện nay vì không còn bao nhiêu người Mỹ phụ trách công tác yểm trợ này nữa thành thử mối quan hệ giữa những người Mỹ ở trên đất liền và ngoài khơi đã trở nên chặt chẽ và thân thiện hơn.

Cũng chẳng có gì lạ là, trong một ngày nắng ấm, khi mọi chuyện vẫn vô sự, viên sĩ quan liên lạc hỏa lực hải quân trên chiến hạm USS Rupertus (DD-851) gọi điện thoại vào bờ và hỏi George Philip có muốn bay lên thăm chiếc tầu gần đây vẫn từng giúp bắn yểm trợ hỏa lực hay không? Dĩ nhiên là Đại úy Philip chụp lấy cơ hội ngay lập tức. Anh dụ khị phi hành đoàn một chiếc Huey đưa anh ra tầu. Đây là lần đầu tiên phi hành đoàn Huey thử đáp xuống một chiến hạm đang lênh đênh trên biển thành thử cũng không phải là chuyện dễ dàng gì. Tuy nhiên nhóm phi hành đoàn này đã không hề ngại ngùng đáp ngay xuống con tầu mà còn tham gia vào đoàn thăm viếng chiếc Rupertus rồi cùng đi ăn trưa nữa.

Ngày hôm đó, điều làm George khoái trí nhất là sau khi đã quá ớn với các bữa ăn dã chiến của Hạ sĩ Tường rồi, anh lại có dịp được ngồi đàng hoàng với tấm khăn trải bàn thật sự, được ăn với bộ muỗng nĩa bạc thứ thiệt và – tuồng như anh đã qua đời và lên thiên đàng vậy – được ăn tráng miệng bằng kem lạnh thỏa thích. Khi đến giờ chia tay, viên hạm trưởng còn tặng cho mỗi vị khách một cái bật lửa có huy hiệu của chiếc Rupertus gắn trên đó và một hộp thịt bí-tết đông lạnh nữa.

Để đáp lại tấm thịnh tình theo đúng phong cách TQLC Hoa Kỳ, George mời lại viên chỉ huy chiếm hạm cho một sĩ quan lên bờ thăm căn cứ Alpha 2 trong một ngày trời để quan sát cuộc chiến trên bộ và đời sống của các chiến binh TQLC như thế nào. Khi anh chàng chuẩn úy hải quân đó trở về tầu chắc hẳn sẽ có khối chuyện chiến sự để mà kể lại, và có thể kể cho cả con cháu của anh sau nầy nữa. Những chuyện đó đã diễn ra trong những ngày tốt đẹp khi chưa có biến cố xấu nào đáng kể xảy ra.

Kể ra thì không phải tất cả mọi điều đều là chuyện đùa vui, ngay cả những khi chúng có dính dáng đến vui chơi. Thậm chí khi không có đụng độ với quân Bắc Việt, luôn luôn có những sự kiện xảy ra nhắc nhở mọi người rằng cuộc sống trên bờ cũng nghiêm trọng như thế nào.

Chuyện xảy ra là có một anh lính trẻ thuộc một trong các tiểu đoàn TQLC Việt Nam đóng gần căn cứ Alpha 2 đã thua một số tiền khá lớn khi chơi bạc với đồng đội. Viên Trung đội trưởng ra lệnh anh phải trả nợ khi hay tin anh muốn quỵt món tiền này. Trong một phút điên rồ tối hôm đó, hắn đã ném một quả lựu đạn vào trong lều của Trung đội trưởng làm chết một sĩ quan và làm bị thương nhiều người khác.

Sáng hôm sau, trước mặt toàn tiểu đoàn, phạm nhân nay vừa bị tuyên án tử hình và loại ra khỏi binh chủng TQLC, bị bắt phải tự đào lấy hố chôn để khi bị tiểu đội hành quyết bắn chết, thân xác anh sẽ rớt xuống hố làm công việc mai táng dễ dàng hơn. Các sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ thường tránh có mặt trong những buổi xét xử kiểu TQLC như vậy và điều này khiến họ luôn luôn nhớ rằng họ đang ở Việt Nam.

pic2 (800 x 800)

CƯỠI NGỌN SẤM 21

cuoingonsam
richardbotkin

Chương 16

Trở lại mặt trận, thế là xong

Mặc dù có chiến tranh hay không, nhưng một khi được đi học tại trường Sinh Ngữ Quốc Phòng DLI, bạn không thể nào mà không tìm dịp để đi một vòng vui chơi ở Carmel và Monterey, ấy thế mà George Philip chỉ chực ra đi. Anh đã chứng kiến quá nhiều cảnh chết chóc và hoang tàn rồi, đã được thỏa mãn đầy đủ tất cả những sự háo hức mà một người chiến sĩ thường gặp trước trận thử lửa đầu tiên. Anh đã từng tự nhủ: “liệu mình có đủ nghị lực hay không? Và có dám cầm súng đứng lên hay không?” Anh tự biết là mình đã trải qua những thứ đó rồi.

Cuộc chiến đã gần tàn và George không có nhiệm vụ phải trở lại Việt Nam nữa. Đối với hầu hết các quân nhân chuyên nghiệp Hoa Kỳ thì chiến tranh đã chấm dứt. Những cơ hội để được phục vụ, trừ các phi công và phi hành đoàn ra, đều đã bị cắt giảm đáng kể. Đối với các sĩ quan TQLC Hoa Kỳ thì nhiệm vụ cố vấn là nhu cầu đứng đắn duy nhất còn sót lại, ngoại trừ một số trách nhiệm đặc biệt khác. Nhưng TQLC là nghề của George và việc trở lại chiến trường chỉ là một nghĩa cử cao quý đáng phải làm mà thôi. Ngoài ra, dư luận chung trong nước có khuynh hướng ghét giới quân đội làm George rất chán nản. Mấy tay nhạc sĩ phản chiến như Neil Young, Joan Baez và bầu đoàn của họ chắc chẳng bao giờ đi vào Vùng I Chiến Thuật hay bất cứ nơi nào mà George sẽ phục vụ với những người bạn mới trong TQLC Việt Nam. Nhiệm vụ như một người cố vấn là một chuyện có ý nghĩa và đầy sức sống mà anh có thể đảm đương được.

George được thăng cấp Đại úy ngay trước khi hoàn tất khóa học tại trường Sinh Ngữ Quốc Phòng. Anh tận dụng một tháng phép được cấp thêm một lần nữa trước khi trở lại Đông Nam Á.

Chuyến công tác lần thứ hai này ít ồn ào và không quá căng thẳng như lần trước. Hiện nay không còn bao nhiêu người Mỹ hiện diện nữa thành thử anh gần như là chỉ có một mình trong chuyến bay và có thời giờ để suy ngẫm về hoàn cảnh riêng của mình. Anh cười thầm trong bụng khi nhớ lại chuyến đầu tiên anh đi Việt Nam vào đầu năm 1968. Lúc đó anh chỉ sợ là đã quá trễ và không có dịp tham gia vào cuộc chiến. Giờ đây, ngót bốn năm sau, anh đang trở lại một cuộc chiến tranh mà dưới quan điểm riêng của anh, vẫn chưa thấy được đoạn kết trong tầm nhìn đâu cả.

Tái hồi với Vùng I Chiến Thuật

Đời sống của các TQLC và binh lính Hoa Kỳ tại Việt Nam là một cuộc chiến đấu không ngừng với phong thổ địa lý. Điều này đặc biệt đúng đối với các đơn vị bộ binh vì họ phải luôn chịu đựng các yếu tố về sức nóng, bụi bặm, ẩm ướt, dơ dáy, đói khát và nỗi sợ hãi thường trực. Yếu tố thời gian cũng không kém phần nguy hiểm như kẻ thù quân Bắc Việt và nó dường như ngừng trôi trong khi các biến cố trong nước tưởng chừng như chuyển động với tốc độ chóng mặt, chắc chắn là ngoài sức tưởng tượng của họ.

Nỗi ám ảnh lớn nhất đối với người lính là tại quê nhà các người yêu hay vợ trẻ có thể thoát ra khỏi cái vũ trụ mà họ đang sống và xoay trở trong đó. Trong một số chiến binh còn có nỗi lo, cũng có thể pha chút giận dữ, khi những người thân không thể nào hiểu nổi sự độc nhất vô nhị của mối căng thẳng trong chiến trận tại Việt Nam.

Một điều khác thường nữa là cuộc sống của những người dân mà tài sản của họ lọt vào những nơi mà chiến tranh đang xảy ra. Đối với một số người sống nơi thành thị và hầu hết những người dân ở thôn quê, họ là thành phần chính của văn hóa Việt Nam, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn như thường lệ. Cho dù cảm tình của họ dành cho chính phủ VNCH, hay cho Cộng sản, đơn giản hơn là họ chỉ muốn được yên thân, người dân thường chỉ muốn có cơm ăn áo mặc, nhà ở và những thứ khác cần thiết cho cuộc sống.

Nhà văn nổi tiếng người Nga Fyodor Dostoevsky đã nhận xét con người là một sinh vật có khả năng thích ứng với tất cả mọi thứ. Có vẻ như ông đã mô tả những người dân thường Việt Nam sống tại nông thôn. Họ đã từng chịu đựng bao nhiêu thế hệ rồi và sẽ tiếp tục còn phải chịu đựng thêm mãi.

Trong các làng mạc và xã ấp hẻo lánh tại vùng phía Bắc miền Nam Việt Nam, cuộc sống hằng ngày xoay quanh việc cóp nhặt các nguồn lợi được cung cấp từ mảnh đất nghèo nàn và khô cằn. Gạo là mạch sống của mọi thứ. Trồng cấy, chăm sóc, gặt đập và giã gạo là đặc biệt quan trọng cho mọi cuộc sống. Ngoài lúa gạo ra, người nông dân còn nuôi thêm gà vịt, thỉnh thoảng một vài con heo và chài lưới bắt cá bất cứ chỗ nào có thể bắt được – cá biển, cá sông, rạch, cá từ các cánh đồng ngập nước hay những vũng nước tạo ra bởi mưa lũ nhiệt đới, bất kể ở đâu. Cá hầu như là nguồn cung cấp chất đạm chính ở khắp nơi.

Đối với những người Mỹ nào không thông cảm nổi sự dè dặt một cách khó hiểu của văn hóa Đông phương thì dân Việt Nam có vẻ chỉ là một phần vô hồn trong cái môi trường khắc nghiệt mà họ đã quá quen thuộc với những sự kinh hoàng của chiến tranh đang vây bủa. Khi một TQLC hay chiến sĩ Hoa Kỳ bình an sau chu kỳ nhiệm vụ của mình và trở về nhà thì những người dân địa phương nơi đó vẫn phải ở lại chốn cũ và sống tiếp trong cơn ác mộng mà những người Mỹ đã trải qua tại Việt Nam. Đối với người lính VNCH là những người có liên quan nhiều nhất đến cuộc chiến thì hầu hết bị người Mỹ bỏ quên hay không chú ý đến.

Hẳn nhiên là với địa vị một sĩ quan cấp úy, George Philip không biết nhiều về sự liên hệ chặt chẽ giữa binh đoàn TQLC Hoa Kỳ và binh chủng TQLC Việt Nam đã có từ năm 1954, lúc mà anh chỉ mới học đến lớp bốn. Rất ít người Mỹ, ngay cả những người đã từng tham dự mật thiết vào cuộc chiến từ 1965 đến 1971 biết được điều đó. Hầu hết chỉ biết đến “những kinh nghiệm về Việt Nam” trong đó sự liên quan của họ đối với quân lực VNCH hay binh chủng TQLC Việt Nam ở mức rất hạn chế.

Vào thời điểm anh đến phi trường Tân Sơn Nhất ở ngoại ô Sài Gòn để bắt đầu nhiệm vụ lần thứ hai của mình, Đại úy George Philip đã được huấn luyện cấp tốc về ngôn ngữ và văn hóa cần thiết. Trong số gần 400.000 TQLC Hoa Kỳ đã đến và đi khỏi Việt Nam tính đến giữa năm 1971, chỉ có non 600 người được bổ nhiệm làm cố vấn.

Nhiệm vụ cố vấn cho binh chủng TQLC Việt Nam là một trách nhiệm khá lạ lùng. Đến năm 1971, các cấp chỉ huy của chín Tiểu đoàn tác chiến và ba Tiểu đoàn pháo binh đều là Thiếu tá (cấp số của quân đội Hoa Kỳ là Trung tá). Trong khi hầu hết các sĩ quan Hoa Kỳ nhận nhiệm vụ cố vấn đều đã trải qua ít nhất một chu kỳ nhiệm vụ thì tất cả các cấp chỉ huy của các Tiểu đoàn VNCH đều khởi đầu binh nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Do họ chưa chết hay chưa bị trọng thương và vì cuộc chiến chưa chấm dứt, họ vẫn phải tại ngũ trong cái nhiệm vụ duy nhất và liên tục của họ.

Theo nhu cầu tác chiến của TQLC Việt Nam, mỗi Tiểu đoàn cần đến hai sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ. Thông thường ngoài mặt trận, các Tiểu đoàn TQLC Việt Nam được chia ra thành hai bộ phận chỉ huy. Bộ phận đầu được gọi là ban chỉ huy Alpha, gồm sĩ quan Tiểu đoàn trưởng và sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ thâm niên nhất, thường là một Đại úy hay Thiếu tá. Bộ phận thứ hai được chỉ huy bởi Tiểu đoàn phó. Nhóm thứ hai này gọi là ban chỉ huy Bravo, được thành lập với mục đích là trong trường hợp ban chỉ huy Alpha bị tiêu diệt hay bất khiển dụng thì Tiểu đoàn phó có thể lên thay thế. Quyền chỉ huy được phân chia như vậy có thể bảo đảm là kẻ thù không dễ dàng gì làm tê liệt toàn bộ cơ cấu tổ chức của một tiểu đoàn. Nếu tiểu đoàn có một cố vấn quân sự Hoa Kỳ thứ hai thì người này đi theo Tiểu đoàn phó và thường mang cấp bậc Đại úy hoặc kém thâm niên hơn người kia nếu cùng cấp bậc.

Một trong những điều tâm lý động viên tinh thần lớn nhất cho các binh sĩ là cho họ khái niệm là họ thuộc vào thành phần của một gia đình hay một nhóm mà mọi đồng đội có thể hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Tình huynh đệ chi binh đã được nâng lên ở (một) mức cao nhất không thấy nơi các đơn vị khác. Hầu như mọi người đã thể hiện lòng dũng cảm không phải vì phục tùng hay nhắm hưởng bổng lộc mà chỉ vì họ muốn bảo bọc lẫn nhau. Ít nhiều, nhiệm vụ cố vấn đã làm phức tạp thêm khái niệm này.

Các sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ phần nào đã thoát ra khỏi những mối liên hệ chặt chẽ họ đã từng có với những người mà họ đã phục vụ chung, đã từng chỉ huy hay từng dưới quyền chỉ huy.

Với nhiệm vụ cố vấn, họ không có quyền hạn thật sự và vì là người Mỹ, mặc dù đã được huấn luyện về ngôn ngữ, hầu hết cũng chưa có đủ khả năng để trao đổi một cách chân thành và sâu sắc nhất với những quân nhân mà họ chia sẻ các khó khăn của cuộc đời lính chiến. Không thế nào mà không phải trải qua những giây phút cô đơn, nhất là khi khả năng của họ lúc ban đầu đang bị những người họ làm cố vấn và các binh sĩ chung quanh đánh giá một cách lạnh nhạt. Thể tạng những người Hoa Kỳ cao lớn và lông lá cũng là một đề tài để họ quan sát.

Mỗi một Tiểu đoàn trưởng TQLC Việt Nam đều có ít nhất là tám đến mười năm tác chiến lâu hơn so với một cố vấn Hoa Kỳ thâm niên và lão luyện nhất. Do đó kinh nghiệm chiến đấu không phải là mặt mạnh của các cố vấn Hoa Kỳ.

Dù không thâm niên bằng nhưng nhu cầu cần cố vấn Hoa Kỳ rất cao vì họ được sống trong một văn hóa đã thấm nhuần các khái niệm thực tế về sự phối hợp và sử dụng hỏa lực một cách có hiệu quả. Ngay cả trong một vài trường hợp hiếm hoi, dù sĩ quan Việt Nam không ưa các cố vấn đi theo họ lắm nhưng họ không bao giờ chê các phương tiện hỏa lực mà cố vấn Hoa Kỳ nắm trong tay.

Ngoài khả năng có thể gọi hỏa lực yểm trợ cần thiết khi được yêu cầu và đòi hỏi, các cố vấn Hoa Kỳ đều phải nhớ, giống như khi họ còn chỉ huy trung đội và đại đội, rằng họ luôn luôn bị những người chung quanh quan sát họ. Tâm trạng cô đơn của người cố vấn còn tăng thêm vì sự khác biệt tương đối so với các binh sĩ Việt Nam mà họ đang phục vụ và sống chung với nhau.

Cho đến năm 1971, TQLC Việt Nam đã có được một khả năng về pháo binh khá hùng hậu. Điều mà họ chưa có, và có lẽ không bao giờ có được là một hạm đội hải quân với số lượng vô giới hạn về đạn hải pháo bắn đi từ các hộ tống hạm và chiến hạm như Hải quân Hoa Kỳ. Họ cũng không thể nào có nổi một không lực với khả năng thả một khối lượng bom như một cuộc không tập ARCLIGHT B-52 hay bất kỳ phóng pháo – chiến đấu cơ nào khác mà Không Lực Hoa Kỳ đang có trong tay.

Mặc dù cố vấn Hoa Kỳ có thể được châm chước về những phong cách khác lạ của người ngoại quốc, đặc biệt nếu anh là người giỏi hoặc anh hòa đồng tốt với những người anh trực tiếp làm việc chung, chẳng hạn như nhân viên truyền tin và đám lính “ba trợn,” tức những người mà các lời rỉ tai tốt hay xấu sẽ được lan truyền tới những người khác trong tiểu đoàn, anh vẫn luôn luôn phải nhớ anh là ai và đang ở đâu.

Trên thực tế, cố vấn Hoa Kỳ ngoài chuyện phải can trường và tuyệt giỏi về công tác phối hợp hỏa lực yểm trợ, còn phải là viên “đại sứ” Hoa Kỳ trong bộ quân phục rằn ri của TQLC Việt Nam nữa. Trong mọi tình huống, cố vấn Hoa Kỳ phải biết thông cảm với những sắc thái văn hóa và sự khác biệt giữa những gì anh vẫn làm lúc còn là TQLC Hoa Kỳ và những chuyện cần làm bây giờ trong binh chủng TQLC Việt Nam. Quan trọng hơn hết là anh phải biết thế nào là “thể diện” và “giữ thể diện.”

Khuynh hướng của người Mỹ muốn giải quyết các vấn đề một cách trực tiếp và chóng vánh nhất thường đi ngược lại với phong thái Khổng giáo. Những vi phạm nghiêm trọng đến các điều nhạy cảm về văn hóa một cách nghịch lý có thể thành một vấn đề lớn. Một cố vấn khôn ngoan cần phải biết cách đối phó với những vấn đề này mọi lúc, mỗi ngày.

Tất cả các sĩ quan TQLC Hoa Kỳ đã từng làm việc chung với TQLC Việt Nam đều trải qua những giai đoạn bị cô lập và lẻ loi, mặc dù là sau này họ có thể gần gũi với các đồng đội TQLC Việt Nam hơn. Điều này khiến cho tình bạn giữa các cố vấn Hoa Kỳ với nhau vô cùng quan trọng, nhất là trong thời kỳ Việt Nam hóa chiến tranh đã khiến cho sự hiện diện của người Mỹ trên đất nước mà họ đang giúp đỡ càng lúc càng vắng dần. Khi các đơn vị được nghỉ ngơi dưỡng quân tại Thủ Đức gần Sài Gòn thì các sĩ quan Hoa Kỳ thường tìm gặp nhau ngoài giờ làm việc. Chính trong một dịp như vậy mà Đại úy George Philip đã gặp được một số người mà sau này trở thành những người bạn thân thiết nhất.

Bằng trực giác và được nghe qua những mẩu chuyện cũng như lời đồn đãi trước khi đến Việt Nam, George tin chắc là hầu hết các cố vấn Hoa Kỳ có mặt tại Việt Nam đều là những tay chiến binh kỳ cựu, những kỳ tích chân chính được lưu truyền trong tập thể TQLC Hoa Kỳ. Trong hai cuộc Thế Chiến Thứ Nhất và Thứ Hai, những nhân vật như John Ripley, Ray Smith, Walt Boomer và nhiều người nổi danh can trường khác nữa luôn luôn được dư luận Hoa Kỳ trân trọng và ghi nhận. Cuộc chiến này thì khác hẳn. Trong khi ai cũng biết đến Trung úy Calley và những hành động bỉ ổi của hắn tại Mỹ Lai thì chỉ có cái nhóm nhỏ chuyên nghiệp mới biết đến ai là những thủ lĩnh thật sự và những hành động dũng cảm nào mà họ đã thực hiện được.

George cảm thấy rằng trong chu kỳ nhiệm vụ trước đây, khi anh là TQLC Hoa Kỳ đánh nhau trên Vùng I Chiến Thuật thì cũng giống như anh tham dự một đội bóng loại xoàng. Nay làm cố vấn Hoa Kỳ, anh hiểu ra là anh đã được tham gia vào một đội siêu đẳng. Nhóm “cầu thủ” tài danh mà binh đoàn TQLC Hoa Kỳ đã tập hợp cho nhiệm vụ đặc biệt này là những sĩ quan trẻ tài ba nhất. George tự cảm thấy vừa khiêm tốn vừa hãnh diện.

Cuộc sống vẫn tiếp diễn

Cho đến mùa Hè năm 1971 có vào khoảng hơn 200 triệu người Hoa Kỳ chưa bao giờ đổ mồ hôi hay xương máu ngày nào tại Đông Nam Á. Do đó, đối với hầu hết trong số họ, Việt Nam chỉ là một sự phiền nhiễu vu vơ gây ra sự bực mình hằng đêm khi xem truyền hình hoặc chỉ là một vấn đề làm khó chịu và gây thất vọng.

Đối với những người trong nước, cuộc chiến Việt Nam vẫn còn ảnh hưởng đến họ và làm họ thay đổi theo những chiều hướng rất khó diễn tả, khó lường được và cũng khó hiểu nữa. Những sự thay đổi và biến động hiện nay trong xã hội, phong trào nhân quyền, tệ nạn ma túy, cách mạng về tình dục, sự bất tuân mọi hình thức của quyền lực chính quyền, tất cả những thứ đó dường như quyện vào nhau và là thành phần của một hiện tượng Việt Nam lớn hơn bao trùm tất cả lứa tuổi đủ già dặn để nhớ lại là đã xem được những cuốn phim như “Leave it to Beaver” hay “The Adventures of Ozzie and Harriet” trước khi những cuốn phim này được mang ra chiếu lại.

Cho đến mùa Hè năm 1971, nước Mỹ đã bắt đầu bước qua trang sử mới. Số người Mỹ còn ở lại Việt Nam mang cái ảo tưởng là mức độ rủi ro của họ không đáng kể vì chỉ có một số ít trong số hơn 100 ngàn người còn ở lại Việt Nam được lãnh các nhiệm vụ nguy hiểm. Lệnh động viên vẫn còn hiệu lực nhưng đã tiết giảm dần. Số lượng tổn thất giảm đáng kể so với các năm 1968 và 1969. Ngay cả âm nhạc cũng có vẻ đã vượt qua thời kỳ chiến tranh vì những bản nhạc phản chiến cũng đã ít dần đi.

Cho đến mùa Hè 1971 rõ ràng là tương lai của nước Mỹ không có hình ảnh của Việt Nam trong đó nữa. Tuy nhiên các kỷ niệm về Việt Nam vẫn còn trong kính chiếu hậu, nhất là đối với các thanh niên đã từng qua đó, đã trở về và đang cố gắng mưu cầu lại cuộc sống bình thường, bất kể những ước vọng đó như thế nào.

Trong số khoảng 43.000 người được động viên vào binh đoàn TQLC Hoa Kỳ thì có rất ít người được chỉ huy một trung đội tác chiến. Mặc dù không có hồ sơ ghi chép chính xác nhưng có lẽ Chuck Goggin là người đã nắm kỷ lục thời gian nhanh nhất từ Hạ sĩ lên Trung sĩ chỉ trong vòng hai tháng, và đã được nắm quyền chỉ huy trung đội.

Chiến Thương Bội Tinh duy nhất mà anh đã được trao tặng mặc dù anh đã bị thương ba lần khác nhau bởi đạn thù đã nói lên cái thói quen của những chiến sĩ như anh. Họ vẫn thường từ chối không chịu cho tản thương hay công nhận là đã bị thương mà chỉ muốn ở lại chiến đấu cùng với đồng đội trong rừng đang cần đến họ.

Đại đội trưởng John Ripley đã đề nghị anh được huân chương Silver Star nhưng sau đó nó đã bị hạ xuống còn huy chương Bronze Star vì trong thời gian đó cấp chỉ huy của Tiểu đoàn 3 thuộc Sư đoàn 3 rất bủn xỉn trong việc tưởng thưởng các loại huy chương anh dũng.

Được giải ngũ vào ngày 10 tháng Hai năm 1968, gần hai năm sau ngày nhập ngũ, Chuck Goggin đến Vero Beach, Florida chín ngày sau đó để tham dự khóa tập luyện mùa Xuân với đội bóng chày Dodgers. Trong khi các đồng đội cũ của anh còn ở Việt Nam và tham dự hàng loạt trận đánh kể từ cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân thì giờ đây Chuck sống ngoài lề và tách ra khỏi những chuyện đó. Hiện anh cũng có những “trận đánh” riêng của anh để được ở lại trong đội bóng.

Trong phạm vi các cầu thủ đội bóng chày có rất ít hay hầu như không có các cuộc trao đổi về chiến tranh tại Việt Nam thành thử chẳng ai màng tới chuyện Chuck đã làm gì trong thời gian đó. Chuyện duy nhất mọi người quan tâm là không phải đi Việt Nam. Trên thực tế, anh biết nhiều cầu thủ đã cố ý tham gia các đơn vị trừ bị hay Vệ Binh Quốc Gia chỉ vì muốn tránh bị phục vụ tại Việt Nam. Huy chương này hay huy chương kia chẳng có nghĩa lý gì đối với những người chỉ muốn theo đuổi những mục đích vinh thân phì gia.

Từ kỳ tập luyện mùa Xuân năm 1968 cho mãi đến mùa Hè 1971, cuộc sống của Chuck không sôi nổi như các cuộc hành quân tại Vùng I Chiến Thuật mà chỉ là một sự mờ ảo của những hoạt động không dứt của một thế giới xoay quanh môn bóng chày. Tiếp theo khóa huấn luyện mùa Xuân đầu tiên, anh chơi cho đội tuyển hạng AA tại Albuquerque suốt mùa hè, còn mùa Đông thì tại Arizona, nơi anh được Tommy Lasorda dìu dắt, một người mà anh đặc biệt quý mến. Năm sau, cũng trong tổ chức của Dodgers và vẫn dưới quyền huấn luyện của Lasorda, anh chơi cho đội AAA tại Spokane. Sau đó anh được hoán đổi cho tổ chức Pirates để Dodgers lấy về một tay ném bóng trẻ hơn, là Jim Bunning.

Chuck Goggin chơi cho các đội AA và AAA của Columbus, Charleston, Waterbury tại Connecticut và còn dành thời gian để chơi cho đội Mexico trong mùa Đông nữa. Trong suốt thời gian đó, qua biết bao nhiêu lần bị chấn thương trong đó có một lần bị gãy cổ chân khá nặng, Chuck Goggin vẫn chịu đựng được và cố gắng vươn lên cao. Anh hy vọng anh sẽ được vào đội tuyển các đội ngoại hạng.

Cho đến mùa Hè năm 1971 thì hầu như không có ngày nào trôi qua mà Chuck không nghĩ về thời gian anh phục vụ tại Việt Nam mặc dù anh không hề kể lại cho ai nghe về kinh nghiệm của anh về Việt Nam bao giờ.

Cho đến mùa Hè năm 1971 Chuck Goggin đã gắn chặt đời mình vào bóng chày và lập gia đình với một cô dâu mới. Anh đã đoạn tuyệt với quá khứ. Anh không hề tiếc nuối thời gian qua tại Việt Nam nhưng anh vui là đối với anh, đó chỉ là kỷ niệm và không phải là cuộc sống hiện tại nữa.

Việt Nam… Phần hai

Chuyến bay đến Tân Sơn Nhất không xảy ra biến cố gì. Trong lần nhiệm vụ trước, Đại úy George Philip chưa bao giờ xuống đến Sài Gòn. Tất cả kinh nghiệm của anh với Việt Nam, giống như các TQLC Hoa Kỳ khác, là đến, chiến đấu và ra đi, mọi chuyện đều xảy ra tuốt phía Bắc và trong phạm vi Vùng I Chiến Thuật.

Lúc đến nơi, George được hai người cố vấn đồng đội ra đón và giúp làm các thủ tục cần thiết tại phi trường. Ngoại trừ đây đó có những vị trí được tấn bao cát dọc theo bên đường đưa vào thành phố cùng sự hiện diện của quân nhân và cảnh sát Việt Nam, người ta cũng khó mà biết là vào thời điểm tháng Tám 1971, chiến tranh vẫn còn đang xảy ra.

Thành phố Sài Gòn náo nhiệt với cuộc sống và buôn bán. George Philip rất thích ngắm cảnh và sự náo nhiệt của đường phố nhưng anh lại rất hãi hùng về cách lái xe của dân chúng. Anh tưởng chừng như có thể bị tử thương ngay trong ngày đầu tiên khi vừa lái ra khỏi phi trường.

Từ phi trường họ lái thẳng về Bộ Tư Lệnh TQLC Việt Nam ngay trung tâm Sài Gòn. George được viên chỉ huy phó cố vấn đón tiếp. Anh cũng được phát đồ trận rằn ri (George đã gởi kích thước của mình đến trước để thợ may sẵn sàng quân phục khi anh đến nơi là có ngay) và cái nón bê-rê đặc biệt mà anh sẽ đội trong suốt một năm phục vụ. Vì đã trễ rồi và vì đằng nào những thủ tục giấy tờ và thời gian hội nhập cũng phải mất vài ngày thành thử George được cho về nhằm kịp lấy phòng tại khách sạn Splendid, cũng trong trung tâm thành phố, nơi mà hầu hết cố vấn Hoa Kỳ đang trú ngụ.

Mặc dù rất mệt nhưng anh cũng gia nhập một nhóm cố vấn gồm các Thiếu tá và Đại úy, tất cả đều thâm niên hơn anh. Họ mới trở về từ mặt trận và rủ nhau đi câu lạc bộ Hòa Bình, một chốn ưa thích tại Sài Gòn mà các cố vấn Hoa Kỳ thường chọn để lui tới. Ngay từ lúc anh mới ngồi xuống và chưa kịp uống ngụm bia đầu tiên, anh đã thấy rõ ràng là cái nhóm sĩ quan TQLC Hoa Kỳ này hết sức đặc biệt rồi. Anh hiểu ngay là anh đang nhập bọn với những nhân vật tên tuổi. Tâm trạng anh giống như đã được gia nhập vào nhóm Robin Hood của thế kỷ 20. Nhóm người thần kỳ này là một kinh nghiệm duy nhất từ trước đến nay đối với anh.

Anh định cáo lui sớm để nghỉ ngơi hầu lấy lại sức vì sự sai biệt về múi giờ đã làm anh thiếu ngủ và trong máy bay anh cũng không ngủ được bao lâu. Thiếu tá Andy DeBona *, một trong những người kỳ diệu nhất trong nhóm, có thể tượng trưng cho nhân vật Little John trong chuyện Robin Hood, đã phản đối ý định của viên Đại úy trẻ không muốn ở lại suốt buổi tối với nhóm. Lúc George đứng dậy lễ phép muốn cáo từ, Thiếu tá DeBona hỏi anh:

“Anh định đi đâu đấy?”

George cố giải thích.

“Dẹp đi ngay. Anh phải ở đây uống với chúng tôi đã.”

Thế là George bị kẹt lại. Tất cả những gì viên Đại úy trẻ có thể đáp lại cũng chỉ tương tự như tâm trạng của một sinh viên sĩ quan Hải quân đối với cấp trên:

“Xin tuân lệnh thượng cấp.”

__________________________________________________________

* Vào tháng Chín năm 1967, Andy DeBona là Đại đội trưởng Đại đội M, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 26 TQLC Hoa Kỳ. Anh được tưởng thưởng huân chương Navy Cross vì lòng dũng cảm đặc biệt trong trận đánh đẫm máu với bộ đội Bắc Việt tại Cồn Thiên. DeBona đã là một huyền thoại lúc anh còn trong TQLC Hoa Kỳ. Những hành động của anh khi làm cố vấn quân sự cho Tiểu Đoàn 7 TQLC Việt Nam còn làm cho anh nổi danh thêm với tư cách là một người chiến sĩ.

Screen Shot 2015-06-03 at 9.18.31 AM