BÙI GIÁNG

( Một thiên tài kỳ dị)

Nhân ngày nhà thơ BÙI GIÁNG mất (7.10.1998).Tôi xin trích đăng bài viết : BÙI GIÁNG Một thiên tài kỳ dị trong tập Trần Gian Sầu Muộn như một nén nhang tưởng nhớ con người siêu đẳng sinh bất phùng thời

(Qua nhận xét của những nhà văn cùng thời với ông và những người viết trẻ lớp hậu bối)
… Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên)

Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ nói rằng: “Nhiều người đang và sẽ viết về Bùi Giáng dưới nhiều góc độ khác nhau, thậm chí có người nhắc đến ông là để “tự nâng mình lên”. Không biết anh nói vậy có đúng hay không?

Viết về Bùi Giáng không hề là chuyện dễ nếu không đủ “nội công thâm hậu”, kiến thức uyên bác về các vấn đề liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của ông chứ không phải chuyện kể bên lề những lần gặp gỡ cùng những câu thơ ngẫu hứng ông viết trong quán cóc ven đường hay trong một lần tình cờ chạm mặt. Vì vậy có những người viết về Bùi Giáng đôi khi lại là “tự hạ mình xuống”.

Bài viết này chỉ ghi lại những nhận xét về Bùi Giáng của những nhà văn cùng thời và cũng là bạn của ông trong những thập niên trước 1975 và nhận xét của những người viết trẻ thuộc lớp hậu bối.(Những nhận xét được trích dẫn dưới đây với tư liệu ít ỏi mà chúng tôi có được.).

Bùi Giáng có quá nhiều giai thoại khi ông còn sống và cũng có rất nhiều huyền thoại khi ông đã mất. Thường thì người ta tôn vinh, viết những bài ca ngợi, kể những giai thoại hay những câu chuyện liên quan đến nhân vật nổi tiếng trong một lĩnh vực nào đó khi họ không còn nữa. Nhưng với Bùi Giáng thì là một ngoại lệ.

Nhiều tuyển tập sáng tác văn học, nhiều tờ nguyệt san, bán nguyệt san, trước và sau năm 1975 đã viết về ông, đã làm những đặc tuyển cho riêng ông khi ông còn sống cũng như những bài viết, phân tích về ông trên các tờ báo văn học trong nước và hải ngoại khi ông đã mất.

​Người ta dùng nhiều tên gọi để gán cho Bùi Giáng, như: Hiện tượng của sự phá hủy, Nhà hiền triết, Trung niên thi sĩ, Bồ tát giáng trần…nhưng dù với bất cứ tên gọi nào thì ông vẫn là một người trần tục đến đây, cõi ta bà này để rong chơi và thưởng ngoạn…

Nhà biên khảo, dịch giả Huỳnh Ngọc Chiến trong một bài viết đã nhận xét:“Bùi Giáng là bậc thượng trí, hầu như “vô sư tự ngộ”. Ở miền trung du hẻo lánh xứ Quảng đó ông chỉ đọc sách mà “phát minh tâm địa” như trường hợp thiền sư Huyền Giác đọc kinh Duy Ma Cật…” Anh viết: “Trước 1975 ông thường sống trong lô cốt trước viện Đại học Vạn Hạnh với các lon cơm bẩn thỉu. Lối sống kỳ dị đó cũng không ảnh hưởng đến sự sáng tạo phi thường của ông. Ngay vào giai đoạn người ta xem như ông bị điên nặng thì ông cho ra đời tập thơ: Bài ca Quần đảo mà theo nhà xuất bản thì đây là cả một đại dương thi ca” . Anh viết tiếp:“Như Kim Mao Sư vương Tạ Tốn đột nhiên xuất hiện trên Vương Bàn Sơn đảo dùng thần công vô địch trấn áp quần hùng và đoạt thanh đao Đồ Long của Thiên Ưng giáo gây chấn động kinh hoàng cho hai phe hắc bạch thì Bùi Giáng xuất hiện trong nền văn học miền Nam cũng bất ngờ như thế. Nhà thơ gầy gò nhỏ bé của xứ Quảng đã đột nhiên hiện ra sừng sững như một cây đại thụ giữa cõi thi ca và triết học Đông – Tây trên vùng đất “hàn lâm”mà xưa nay người ta nghĩ rằng chỉ dành riêng cho những kẻ học phiệt và khoa bảng .

​Bùi Giáng với bút pháp tài hoa khi viết những câu thơ làm lay động lòng người :

“ Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay”

​Nhưng ông lại viết những câu thơ thật dễ dãi, như :

“Gặp nàng, nàng ở Già Lam
Gặp cô, cô ở Lê Quang Định đường”

Hoặc :

“Một con vịt, hai con gà
Thêm ba con lợn gọi là chăn nuôi”

​Đúng là ông đã bỡn cợt với thi ca mà Huỳnh Ngọc Chiến gọi là “đùa bỡn với thi ca đến độ quỷ khốc thần sầu”

Nhà văn Mai Thảo, người cùng thời và cũng là bạn của Bùi Giáng, viết: “…Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ (Giám đốc nhà xuất bản An Tiêm) chỉ in Bùi Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản Bùi Giáng trước mọi tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm, in ngày, in mệt nghỉ vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn, cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng bấy giờ hiển lộng tới không bến không bờ, vô cùng vô tận, và tài năng của ông cũng vậy. ..

Vắn tắt là Bùi Giáng chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi Giáng làm gì hết. Mà hoàn toàn phiêu bồng, hoàn toàn rong chơi.

Vậy mà cái sức viết hồi đó đến như Bùi Giáng là tột đỉnh, là không tiền khoáng hậu. Vậy mà cái lực viết đến như Bùi Giáng là ngàn người không một, là phi phàm, là vô địch rồi”

Mai Thảo môt nhà văn nổi tiếng, cùng thời và suýt soát tuổi với ông (Bùi Giáng hơn Mai Thảo một tuổi), đã “bàng hoàng, khiếp đảm” trước lực viết “tột đỉnh, không tiền khoáng hậu” là “ngàn người không một”, là “phi phàm, vô địch” của Bùi Giáng làm cho chúng ta vô cùng kinh ngạc như nhận xét của nhà thơ Đinh Hồi Tưởng:

“Thiền sư xuống núi bỏ chùa
Dìu trăng cà rỡn mút mùa lang thang
Huơ tay chọc thủng địa đàng
Múa chân dẫm nát niết bàn nề chi

Hay : ……

“Một lời đảo lộn ngàn chương
Trợn trừng đôi mắt mộng trường ngời xa
Rong rêu giữa cõi ta bà
Ngõ về im lặng đập ra não phiền
Dấu tìm, rối rắm, thơ điên
Siêu phàm nhập thánh, dĩ nhiên là Người (6)

​Nhà văn Mai Thảo đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, ông đem những thắc mắc của mình ra hỏi thầy Thanh Tuệ.

Thanh Tuệ nói : “Tôi cũng lấy làm lạ, anh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Đêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc. Điều kỳ lạ là không riêng một thể loại mà thể loại trước tác nào anh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh mau vô tả.

Từ thơ đến văn. Từ một cuốn tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về Nguyễn Du. Từ dịch thuật tiểu thuyết đến phê bình triết học. Tất cả như đùa như chơi vậy.”

Rồi Mai Thảo lại đem những thắc mắc này ra hỏi chính Bùi Giáng thì ông chỉ : « Cười cười, đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu, nói: “vui thôi mà”. “Ừ vui, ba chữ “vui thôi mà” là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất cuả Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông, cõi thơ vô bờ của ông trăm phương nghìn ngã mênh mông và chính ông là hiện thân của mênh mông nghìn ngã trăm phương ấy.”

Cho dù là Bồ tát giáng trần, cho dù là thiên tài kiệt xuất thì Bùi Giáng cũng chỉ là một con người nhưng là một con người phi thường mà bao nhiêu trăm năm nữa chúng ta mới có một người như vậy?

Xin mượn hai câu thơ của nhà thơ Nguyễn Hữu Thụy để khép lại bài trích dẫn ngắn này:

“ Dẫu cho sinh bất phùng thời
Còn trong thiên hạ những lời thơ bay…”

Saigon, những ngày mưa

PHẠM THANH CHƯƠNG

TRẦN GIAN SẦU MUỘN

“Không có gì vĩnh cữu trong thế giới nầy. Kể cả những điều sầu muộn của chúng ta” Charlie Chaplin

Trên đường xuống núi Thiếu Thất, trong người mất hết võ công, thanh danh tàn tạ, Lệnh Hồ Xung biết rằng mỗi bước đi là đưa mình tới cõi chết. Các bên Hắc, Bạch , Chính, Tà, đều coi Lệnh Hồ Xung là kẻ tử thù. Y đứng giữa lưng chừng núi, nốc hết bầu rượu, lòng dâng lên bao niềm cảm khái: Ở đời có chi là quan trọng? đến cái chết cũng chẳng có gì là quan trọng. Ta là Lệnh Hồ Xung đây!

Trước khi rời chùa Thiếu Lâm tự, Lệnh Hồ Xung đến gặp Phương Chứng Đại sư Phương Trượng chùa Thiếu Lâm để tạ ơn đã hao phí nội lực dùng Dịch Cân Kinh là phương pháp bí truyền của bổn tự để chữa bệnh cho mình. Phương Chứng Đại sư nhìn Lệnh Hồ Xung :
– Thiếu hiệp nhất định rời tệ thất xuống núi hay chăng?
– Xin Đại sư nhận một lễ này. Tại hạ mong một ngày sẽ đền đáp được công ơn to lớn mà Đại sư đã dành cho.
Phương Chứng nhìn Lệnh Hồ Xung, lắc đầu :
– Nói làm chi đến chuyện ân cao đức cả, thù sâu hận lớn. Ân đức là cơ duyên còn cừu hận không nên để vào lòng. Mọi viêc trong trần tục đều như khói tỏa mây bay. Sau cuộc trăm năm còn đâu ân đức cừu thù.

Vừa xuống khỏi núi Thiếu thất, khi chứng kiến cảnh một lão phu to lớn, râu tóc xồm xoàm ngồi uống rượu một mình trong ngôi đình đổ nát mà chung quanh hàng ngàn người của các môn phái võ lâm siết chặt vòng vây trùng trùng điệp điêp hò hét vang trời đòi lấy mạng lão ta, Lệnh Hồ Xung nổi lên lòng cảm phục bèn dùng khinh công nhảy vào trong ngôi đình xin rượu uống rồi cùng chết với lão ta.
Với một tâm hồn phóng khoáng Lệnh Hồ Xung đã thi triển Độc Cô cửu kiếm cùng với vị anh hùng kia tử chiến thoát khỏi vòng vây của các bang phái rồi kết nghĩa kim bằng dù không hề biết người đàn ông đó là ai…
Mãi đến sau này Lệnh Hồ Xung mới biết lão anh hùng đó là Hướng Vấn Thiên, một Trưởng Lão của Triêu Dương thần giáo.

Cũng như Lệnh Hồ Xung- Kiều Phong một trang anh tài kiệt xuất đã dùng thần công vô địch ngăn cho hai bên Liêu-Tống không tàn sát lẫn nhau và, cuối cùng Kiều Phong đã dùng cái chết của mình để hai bên bãi chiến.
Hình ảnh người anh hùng lãng tử Kiều Phong tự đâm vào tim mình tuẫn tiết trong một buổi chiều âm u, tuyết phủ trắng xóa cửa ải Nhạn Môn Quan với núi non hiểm trở, nơi chỉ có chim nhạn mới bay qua được cửa ải.
Nhà thơ Quang Dũng đã cảm thán tâm trạng của nàng Chiêu quân khi qua Nhạn Môn Quan để về đất Hồ trong một buổi chiều ảm đạm :
“...Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng.
Trường thành xa lắm Hán Vương ơi!…

Từ hình ảnh bi hùng đó Nguyễn Bắc Sơn đã dùng ngòi bút của mình để nói lên niềm tiếc thương khôn cùng một tài năng xuất chúng có một không hai trong võ lâm:

“… Tháng giêng ngồi quán, quán thu phong.
Gió Nhạn Môn Quan thổi chạnh lòng.
Chuyện cũ nghe đau hồn tứ xứ.
Thương Kiều Phong, nhớ tiếc Kiều Phong…”

Nguyễn Bắc Sơn (1944-2015) quê Phan Thiết, Bình Thuận. Trước năm 1975 ông bị động viên đi lính trong quân đội VNCH. Ông là thi sĩ nổi tiếng với một tâm hồn lãng tử và khoáng đạt :

“…Có khi nghĩ trời sinh mỗi mình ta là đủ.
Vì đám đông quậy bẩn nước hồ đời.
Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn.
Để quàng vai ấm áp cuộc rong chơi…”

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ông có một cái nhìn khác hẳn với cái nhìn của mọi người, cái nhìn của ông nhẹ nhàng như bỡn cợt:

“…Lòng suối cạn phơi một bầy đá cuội.
Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng
Đoàn quân đi như những bóng cọp vằn.
Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt.
Bốn chuyền di hành một ngày mệt ngất.

Dừng quân đây nói chuyện tiếu lâm chơi…
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo.
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo.
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước.
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi…”

Mặc dầu biết rằng :

“…Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi…”

Nhưng với trò chơi “bom đạn” đâu có biết chuyện gì sẽ đến và cuối cùng cái chết dù có đến thì cũng chẳng quan trọng gì:

“ …Mai ta đụng trận ta còn sống.
Về ghé sông Mao phá phách chơi…”

Với một tâm hồn khoáng đạt, ông đã xem trần gian này như một nơi ghé lại, dừng chân trong phút chốc nên năm 15 tuổi ông vào nghĩa trang cắt gân và mạch máu nhưng được người ta phát hiện rồi cứu sống và 3 lần nhảy lầu sau đó cũng không thành công.

Tôi tự hỏi không biết thế giới ta bà có điều gì… “không phải” với những người tài hoa như Nguyễn Bắc Sơn hay Nguyễn Tất Nhiên để họ tìm cách “ lánh mặt” cõi trần gian này, nơi có quá nhiều bất trắc, đau thương và sầu muộn!?

(Saigon, tháng III. 2019)

PHẠM THANH CHƯƠNG

Quà Tặng Mùa Thu

MẸ

Cứ Ngỡ Mẹ Về
Tưởng như bước nhẹ mẹ về
Nhưng không- gió tạt bên lề cỏ thưa
Bồi hồi nghe tiếng rơi- mưa
Vòng xe thổ mộ, nắng trưa úa vàng
Mẹ về hay bóng sương tan
Hắt hiu bóng đợi, khói ngang tầm nhìn
Bờ lau, mặt nước hồ in
Bóng con hốc hác dưới nghìn dặm sâu…

Ngày Về
Hơn mười năm con về thăm lại
Đường cheo leo đá dựng ngang đầu
Quê vẫn nghèo mẹ vai áo rách
Ngày trở về nặng trĩu nỗi đau

Bên vách rạ khói chiều quanh quẩn
Chiếc mo cau mẹ gối đầu giường
Mưa có dột khi mùa bão tới
Gió có làm đổ giậu mùng tơi?

Con không về biết ai lợp lại
Mái nhà mình gió thốc quanh năm
Ngày phố thị con đâu hề biết
Nắng vàng soi vào chỗ mẹ nằm!

Con về đây xin đời thứ lỗi
Cắn hạt cơm như nuốt nỗi đau
Sữa mẹ nuôi thơm hương đồng lúa
Khói quê nghèo lẫn với hương cau

Hiu Hắt
Trong giấc ngủ con mơ thấy mẹ
Mười năm rồi từ lúc xa quê
Cứ lẩn quẩn trong vòng cơm áo
Lòng vẫn mong có một ngày về

Con mơ thấy cánh đồng trươc ngõ
Ánh nắng chiều rụng dưới bờ cau
Mẹ đứng đó tóc là mây trắng
Trong mong chờ có lẫn nỗi đau

Mảnh vườn hoang mái nhà xơ xác
Mười năm rồi nhìn quãng trời xa
Con đâu biết nỗi buồn của mẹ
Hắt hiu như sông nước quê nhà

Rừng trung du mùa này chắc lạnh
Khóm mai xưa còn nở hoa vàng?
Chiều mẹ có còn ra đầu ngõ
Đợi con về dưới bóng sương tan?

Phạm Thanh Chương


QUÀ TẶNG MÙA THU

Anh gởi tặng một khoảng trời đầy gió
Mùa thu về lãng đãng ở trên cao
Một chút nắng phớt hồng đôi gò má
Chút mưa thơm cho môi ấy ngọt ngào

Anh gởi tặng quãng đường thu đầy lá
Chút mây bay che nắng lúc em về
Trong cặp vở sao bỗng dưng nằng nặng
Đôi bướm vàng khô ép đã ngủ mê

Anh gởi tặng những ngày thu mưa bụi
Một chút buồn len lén dưới hàng mi
Một chút gió vừa đủ bay tà áo
Nỗi nhớ nào quấn quít bước em đi?

Và gởi tặng chút cỏ hoa đồng nội
Làn hương thơm chùm hoa bưởi sau hè
Hãy khe khẽ nâng giùm anh nhè nhẹ
Đừng vô tình hương ấy sẽ phai đi.

Phạm Thanh Chương

SƯƠNG KHÓI

 

Mảnh sân cũ ta về rêu đã úa
Dấu thời gian khuya sớm mẹ nơi này
Cụm khói chiều còn vương trên mái rạ
Cứ ngỡ rằng còn mẹ ở quanh đây

Mùi cỏ dại từ ngày ta thơ ấu
Mười năm xa màu cỏ biếc bên lòng
Tiếng võng trưa hắt hiu như đời mẹ
Theo tháng ngày mòn mỏi vời chờ mong

Đây giàn mướp ra hoa ngày ta lớn
Bướm và hoa vàng nắng ban chiều
Ta hỏi với mưa bay ngoài cửa
Hỏi một đời mẹ vui được bao nhiêu?

Ta về lại khi bao điều đã khác
Mưa chiều nay rơi quanh chỗ mẹ nằm
Dòng hương khói có ấm lòng mẹ được?
Nơi xa nào, lặng lẽ cõi ngàn năm!

Phạm Thanh Chương

CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ – Tập thơ Vũ Hữu Định

Một buổi trưa năm 1973 trong căn phòng bề bộn ở đường Nguyễn Trãi trong thành Ô Ma, tôi đang dọn dẹp thì có một người đi thẳng vào, dáng thấp, đậm, bận áo chemie dài tay, trán cao, cười rạng rỡ :
– Mày là Phạm thanh Chương? Tao Vũ hữu Định, nhà còn cơm không?
Vũ hữu Định ngồi xuống sàn nhà, cởi áo, ăn cơm tự nhiên:
– Mày có biết Hạc thành Hoa nói “làm người mà được ăn cơm thì có hạnh phúc gì bằng” chứ?
Câu nói ấy cứ ám ảnh tôi mãi suốt những năm tháng sau này. Buổi chiều tôi giao căn phòng cho Vũ hữu Định, anh tắm giặt, viết rồi nằm lăn ra ngủ. Chiều tối trở về tôi không thấy Vũ hữu Định đâu cả, anh đến rồi đi bất chợt như một cơn mưa giông ở Saigon.
Bẵng đi hơn tuần lễ, một buổi sáng Vũ hữu Định đến tìm tôi :
– Sáng nay mày làm gì? Gần đây có cái quán nào không?
– Chi vậy ?
– Đi uống với tao chai bia.
– Sao hôm nay chơi “sộp” vậy ?
– Tao vừa ghé VĂN nhận nhuận bút bài thơ của Hạc thành Hoa.
Tôi với Vũ hữu Định vào cái quán nhỏ trong khuôn viên thành Ô Ma, Vũ hữu Định nói mỗi đứa uống 1 chai thôi nhưng cứ vừa uống hết anh lại kêu thêm chai nữa… và cứ như vậy cho đến lúc nhuận bút bài thơ của Hạc thành Hoa bay theo những chiếc vỏ chai nằm lổn ngổn dưới góc bàn anh mới chịu ra về.
“Chiều khó thở ta ngồi bên quán xép.
Một miếng khô một xị rượu nồng
Nhai là nói với đời lận đận
Uống là nghe sầu cháy long đong”

Vũ hữu Định mất năm 1981, mười lăm năm sau, năm 1996 Trần từ Duy đứng ra quyên góp anh em trong giới văn nghệ, tập hợp bản thảo để in cuốn CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ. Sách in trang nhã, do Nguyễn việt Hải (hoạ sĩ báo Tuổi trẻ một hoạ sĩ tài hoa trình bày thật ấn tượng. Việt Hải mất khi còn rất trẻ năm 2003 trên đường đi viếng tang lễ nhà thơ Thu Bồn). Tập thơ hình thành như một nén nhang tưởng nhớ anh. Sự đóng góp tuy nhỏ nhoi và khiêm tốn của đông đủ bạn bè đó cũng là cách biểu hiện sự trân trọng và quí mến của tình bằng hữu, những người đã một thời cùng sống hay quen biết Vũ hữu Định.
Anh mất để lại một lượng thơ khá lớn in rải rác trên các tạp chí và tản mác trong bạn bè. Và, anh cũng để lại trong lòng người yêu thơ nỗi nhớ tiếc khôn nguôi.
Hơn ba mươi năm sau, đọc lại thơ Vũ hữu Định bên cạnh những ngổn ngang và lo toan cuộc sống, vẫn thấy dòng thơ anh nhẹ nhàng, mộc mạc đến độ hồn nhiên như chính anh chẳng hề vướng bận điều gì :
” Con đường đất cỏ màu xanh bữa nọ
Cây bên đường màu lá lục hôm kia.
Con chim bỏ đi có bận quay về
Cất tiếng hát chào niềm vui của gió.
Anh ra đứng sau hè để ngó
Không thấy chim mà thấy tiếng kinh chiều”.
Anh thấy “tiếng kinh chiều” giữa khoảng không gian bát ngát, giữa cái vô cùng của thời gian và trong cái ngắn ngủi của kiếp người không biết anh có cảm nhận được điều gì? Nhưng chắc chắn một điều là lòng anh sẽ buồn man mác, vì :
“Vui trong lòng anh đã bước chân theo.
Em có nói là em không trở lại”
“Không trở lại” là một điều mất mát mà trong mất mát bao giờ cũng đi kèm theo đó một nỗi buồn.
Con đường đất, bãi cỏ, dòng sông, luỹ tre làng hình ảnh quen thuộc của tuổi thơ, những hình ảnh quen thuộc đến nỗi không còn rỏ nét mỗi khi nhớ lại, đó cũng là cách nói hết sức tự nhiên của một tâm hồn phóng khoáng ;
” Cây bên đường, cỏ bụi, hàng tre
Quen đến nỗi không nhớ gì tha thiết”
Đôi khi những hình ảnh quá quen thuộc không còn làm ta để ý đến những tiểu tiết, nhưng có một lúc nào đó ta chợt nhận ra :
” Con chim nhỏ có nằm trong vạt cỏ.
Bữa hôm nay anh mới thấy cỏ vàng”.
Vũ hữu Định đã sống một quãng đời lang bạt, anh đã từng “bụi đời” như một gã giang hồ chính hiệu .
” Ta có những ngày đi vất vưởng
Những buổi chiều ngồi chẳng đợi ai quen”.
Tài hoa thì mệnh yểu, không biết câu này có đúng với trường hợp Vũ hữu Định hay không? Anh làm thơ như một nhu cầu bức xúc, như hơi thở, như tiếng nói tự đáy lòng mình. Chân chất, mộc mạc nhưng đầy ấn tượng :
“Phố núi cao phố núi trời gần
Phố xá không xa nên phố tình thân.
Đi dăm phút đã về chốn cũ…”
Anh mất không phải …CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ…mà còn biết bao điều để nhớ về anh :
” Xin cám ơn thành phố có em
Xin cám ơn một mái tóc mềm..”
Xin được cám ơn những bài thơ anh đã viết, những bài thơ bao giờ cũng thấp thoáng một nỗi ngậm ngùi như cuộc đời ngắn ngủi của anh.

Saigon, mùa Giáng sinh
Phạm thanh Chương