VẺ HẤP DẪN CỦA KÝ ỨC

Có người nói: “Viết, một cách nào đó, là chết”. Có những câu chuyện cũ mà ta đã trải qua, không có gì độc đáo nhưng ta muốn giữ cho riêng mình. Một ngày, ta ghi lại kỷ niệm ấy trên trang giấy, rồi được nếm trải cảm giác sung sướng khi bài viết nên hình nên dạng, được đăng trên sách, báo… Đến lúc nào đó ngồi lục lại trong trí nhớ, ta bỗng thấy những kỷ niệm lấp lánh ấy không còn đậm đà trong lòng mình nữa, không còn làm ta thao thức nữa, nó “chết” dần theo từng con chữ, để lại vài hình ảnh mờ nhạt. Điều đó như một quy luật tự nhiên.

Có một dạo tôi miệt mài viết về những cái Tết trong gia đình khi còn cha mẹ. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc khi ngồi trước màn hình máy tính hoặc trong bóng đêm thả trí nhớ bay về miền xanh thẳm thơm mùi thuốc pháo ở những ngày xưa. Sau đó, những chuyện cũ như phai dần sau một lần lấy ra từ trong kho của kỷ niệm, giống như cuốn sách cổ trong hầm mộ tan thành bụi bay theo gió khi phơi ra ánh sáng mặt trời.

Khi có nhà riêng, anh bạn tôi tách gia đình nhỏ ra khỏi cuộc sống đại gia đình và dần thay đổi lối sống, từ cách trang trí nhà cửa trở đi. Ngày Tết, cả nhà đi du lịch nước ngoài, cửa nhà khóa kỹ vài lớp. Anh kể rằng thật thoải mái khi mấy ngày Tết không bị ràng buộc bởi những kiểu cách xã giao như trước kia. Anh không cần mua hoa về chưng, dọn bày cỗ bàn, cúng kiến, xông đất, cúng giao thừa, tiếp khách v.v… Một lần, ngồi bên hồ bơi ở một resort xứ người để trông con đang ngụp lặn dưới nước, anh sực nhớ hôm nay là mồng Một Tết. Anh nhớ trong căn nhà cũ kỹ một thời, nơi sum họp của gia đình bảy người con cùng cha mẹ khi xưa. Anh nhớ cái bàn thờ sáng choang với lư đồng mà chính tay anh, đứa con trai út trong nhà mỗi năm nhận phần việc lau chùi bằng khế, chanh. Anh nhớ dáng cha bận bà ba trắng đứng thắp nhang trước bàn thờ, dáng mẹ ngồi cắt củ kiệu và nhớ cảm giác sung sướng khi mang từng cái sàng tre sắp đầy kiệu và củ cải lên phơi trên sân thượng trong cái nắng thơm dịu của tháng Chạp ta. Anh thấy buồn thiu, rồi tự nghĩ tốt nhất là cất cho kỹ cái tâm trạng u uẩn ấy, vì những người thân yêu quanh anh khó mà hiểu được những gì thuộc thế giới tuổi thơ của anh mà họ không từng có mặt. Có khi vợ anh, khi sống trong nhà chồng, cũng từng cảm thấy lạc mất nhiều cảm xúc của tuổi thơ, của quê hương, của kỷ niệm và của những nghi thức ở tôn giáo mà cô ấy gắn bó từ nhỏ. Tối đó, anh ngồi trên một góc giường phòng nghỉ, gõ phím ghi lại từng dòng về những thổn thức trong lòng. Anh thức để viết đến một giờ sáng, lưu lại và mỏi mệt nằm xuống ngủ khi tâm trạng đã nhẹ nhàng hơn. Biết mình không quen viết lách có văn vẻ, câu cú có lộn xộn, nhưng đó là liều thuốc hay. Anh bớt đi nhiều cảm giác nhớ nhung, cảm thấy việc viết lên trang giấy chẳng khác chi đốt một lá bùa, để những sầu não bay đi và tâm bình yên hơn.

Nhiều lần tôi thấy mình bị lạc trong mớ ký ức hỗn độn của “những năm niên thiếu dịu dàng và tuổi trưởng thành khắc khổ” (nói như Gogol), trong đó từng có những câu chuyện buồn, đáng xấu hổ và đầy giận dữ. Nhưng cho dù ký ức xấu cũng là ký ức, tôi chỉ thích nhớ những chuyện vui khiến mình từng thấy hạnh phúc. Sự nghiêm khắc của cha trở nên dễ thông cảm, câu răn dạy khó chịu của ông anh cả chứa đựng sự chăm lo thương yêu trên bước di của đứa em đang trưởng thành. Phải chăng đó là màng lọc không chỉ tạo nên từ lý trí mà còn từ sự thông hiểu và biết ơn, mà khi trưởng thành ở tuổi nào đó ta mới có được.

Viết về ký ức phải chăng chỉ là sự trốn chạy thực tại? Tôi không nghĩ mọi chuyện đơn giản như vậy. Khi viết về quá khứ, tôi nhận ra mình là ai, những gì đã tác động đến mình để trở thành một con người đủ cả những tính tốt và xấu, với những điều mạnh mẽ lẫn yếu đuối trong tính cách không dứt bỏ được. Tôi hiểu rõ hơn vì sao mình yêu tha thiết một thành phố dù nó dần dần không giống như mình yêu thương, vì sao gắn bó với những xóm giềng, cây cỏ, thời tiết, khí hậu chung quanh khi chúng đã dần biến dạng. Và vì sao, luôn cố gắng truyền cho con một điều gì đó của quá khứ, dù các con thật ra đang sống để hình thành một quá khứ cho tương lai của các con. Đó là mật mã để gắn kết các thế hệ mà nhiều khi mong muốn truyền đi như là một thứ bản năng có sẵn. Có lẽ đó là lý do các cụ già thích kể chuyện xưa.

Dù sao, thời thơ ấu là thời gian đẹp nhất đời người cho nên viết về tuổi thơ là niềm vui thực sự. Bằng bàn phím, tôi du hành ngược thời gian, để được lần nữa nếm miếng bánh tráng kẹo mạch nha ngọt lịm của ngày xưa, hút nhụy hoa trong cuống bông bụp trồng bên hàng rào, nhai lại hạt điệp vàng thơm bùi và đăng đắng… Đó là những khoái cảm đơn sơ nhưng đọng lại rất lâu.

Nên cho dù, viết là “làm chết” hay “làm mòn” những kỷ niệm, tôi vẫn muốn viết về những ngày xưa. Kỷ niệm càng đào, càng khai thác càng đầy và lộ ra những điều từng quen thuộc nhưng lạ lùng như mới gặp lần đầu. Đó là vẻ hấp dẫn khi được đào bới kho tàng ký ức.

PHẠM CÔNG LUẬN

(Trích trong cuốn “Những bức tranh phù thế”.)

PHÒNG VĂN

Hồi trẻ, thích đọc sách, có lúc tôi mơ có thể đến thăm phòng làm việc của một nhà văn có tác phẩm mình yêu thích. Tôi hình dung quanh chỗ ngồi nhà văn ấy có đầy sách tham khảo trên bàn và trong tủ sách, có thể có bình hoa, ấm trà và cái tách xinh xinh. Trên tường có thể là vài bức tranh sơn dầu vẽ cảnh sông nước hay cô thiếu nữ. Không gian ấy không cần sang trọng, thậm chí là đơn sơ, thanh bần nhưng chính là không gian sáng tạo, đủ để nhà văn dậy lên niềm hứng thú viết lách.

Công việc và bản tính khiến tôi không la cà nhiều, không có dịp kết thân rộng với giới sáng tác. Tuy vậy, tôi ghé thăm được vài thư phòng trang nhã.

Có lần, có dịp đến thăm tư thất của nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân ở Cái Bè thuộc Tiền Giang, tôi thấy lại cảm giác thư thái khi ngắm cách bày biện giản dị trong nội thất của anh. Ở phòng khách, sát tường là tủ sách có cửa kính. Trên tường đối diện treo bức thư pháp chữ Hán anh viết kiểu chữ thảo khá đẹp hai câu thơ của danh y Hải Thượng Lãn Ông: “Thiện diệc lãn vi hà huống ác. Phú phi sở nguyện, khởi ưu bần”, nghĩa là “Thiện còn lười biếng làm, huống chi việc ác; Giàu chẳng phải ước nguyện, nên đâu lo nghèo”. Treo bên cạnh bức thư pháp là cái quạt giấy… rách. Cả hai kết thành một tác phẩm sắp đặt đơn sơ nhưng tuyệt hay, hòa quyện với nhau trong tinh thần thiền giản dị và thoát tục. Không gian phòng khách kết nối với phòng làm việc kế bên. Ở đó, có cái bàn làm việc rộng, trên có mấy chồng sách và tạp chí. Con dao tre rọc giấy đặt trong ống bút. Khay trà cũng bằng tre chỉ có một cái chung, có lẽ chỉ dành cho chủ nhân. Trên bàn có một ngoạn thạch đặt trên đế thấp. Bàn viết đơn sơ, thanh sạch. Anh Quân bảo: “Vậy là đàng hoàng lắm rồi. Hơn chục năm trước, tôi ở trong cái chòi lá mái thấp trong rừng cao su ở Lai Uyên, miệt Bàu Bàng thuộc Bình Dương. Tôi ở đó một mình trong hơn một năm, tự nấu ăn, thỉnh thoảng trò chuyện với mấy công nhân cao su gần đó. Trời mưa, bốn vách chòi trống không, tôi ngồi giữa chòi bên cạnh mớ sách vở mà không sợ ướt. Vậy mà vẫn  viết lách được. Bức thư pháp trên tường anh thấy do tôi viết những ngày ở đó”. 

Rời nhà Phạm Hoàng Quân, tôi cùng anh và vài người bạn đi tiếp về huyện Chợ Mới, An Giang để thăm nhà nghiên cứu Lý Lược Tam đang nằm dưỡng bệnh. Đó là lần đầu và cũng là lần cuối thăm nhà chú Tám (cách tôi gọi ông). Góc phòng văn của chú có kệ sách nhỏ, mấy cuốn tạp chí. Thật cảm động khi thấy chú Tám treo ngay nơi làm việc hai món: áo yukata và cái nón cời lối. Áo yukata là dạng kimono đơn giản của đàn ông Nhật, do Đông Vy, vợ tôi tặng chú sau một chuyến đi Nhật vì biết chú thích. Cái nón cời lối đan bằng tre cũ kỹ, là kỷ niệm để lại từ ông nội của chú mang sang từ nước Trung Hoa ngày xưa, dùng cùng với cái áo xá xẩu khi còn là bang trưởng Triều Châu ở Lái Thiêu. Chú Tám không dùng  máy vi tính, viết tay trên giấy và khi muốn gửi ai đọc thì đi photo rồi phân phát. Góc nhỏ còn có một cái dù bằng giấy, vài món đồ cổ.

Phòng văn là không gian sáng tạo, thể hiện cá tính của chủ nhân. Ở gần nhà tôi, trên đường Lam Sơn hồi thập niên 1960 có một phòng văn của nhà thơ Đông Hồ và vợ là nữ sĩ Mộng Tuyết. Ông anh tôi, cựu sinh viên Văn khoa là học trò của ông, nghe các thầy trong trường kháo nhau đó là một phòng văn rất tao nhã hiếm có mà ông chỉ tiếp khách quý. Các sinh viên mến mộ ông chỉ “nhìn” phòng văn ấy qua mô tả của ký giả Nguyễn Ngu Í đăng trên báo Sáng Dội Miền Nam khoảng năm 1962. Ở đó, vào những dịp gần Tết, ông thường đón tiếp bạn văn với quốc phục, hoa trong bình, câu đối và tranh thủy mặc treo trên tường, phảng phất mùi trầm hương thơm ngát xông trong lò. Sau này, nhà văn Hồ Trường An mô tả lại chốn văn chương ấy trong cuốn Cõi ký ức trăng xanh, đọc càng hấp dẫn:

“Ông Đông Hồ và bà Mộng Tuyết có cuộc sống đẹp và phong nhã. Ông gọi bà bằng Tuyết muội muội, bà gọi ông là Đông Hồ ngô huynh. Khuôn viên của họ được gọi là Úc viên. Gác của ông Đông Hồ treo lủng lẳng một vài khóm phong lan nên được gọi là Vương Giả hương đình, còn căn phòng trên gác của bà Mộng Tuyết có mái hiên gie ra nên gọi là Tân Nguyệt Hiên (mái trăng non). Khi tiếp khách, ông Đông Hồ rửa tay bằng eau de cologne rồi xức eau de lanvande, mặc áo dài gấm, đội khăn xếp, đem lò hương trầm ra phòng khách. Còn bà Mộng Tuyết thì thoa son, giồi phấn tỉ mỉ, đeo nhiều món trang sức bằng cẩm thạch, kim cương, pha trà sen, dọn rượu cúc để bồi tiếp tao nhân mặc khách. Trong văn chương, họ gọi mứt hạt sen là mứt liên tử, rượu chát (vin, wine) là rượu bồ đào hay bồ đào mỹ tửu, gọi trái sầu riêng là trái Đào liên, gọi rượu Tây loại quý như rượu champgne là Quỳnh Tương ngọc dịch, gọi bánh Trung thu là Trung Thu nguyện bỉnh… Ngòi bút của họ nếu tả cảnh thì tả hoa quỳnh, hoa bạch mai, quả đèn bằng dưa hấu khoét ruột (qua đăng), đôi đèn sáp cầu tuổi thọ cho cha mẹ…”.

Phòng văn ấy hiếm có, như phong cách sống của vợ chồng chủ nhân.

Nhà văn xứ Việt bao đời nay hầu hết có đời sống kinh tế bình thường, thường có nghề khác để nuôi ngòi bút … Ai khá hơn thì vừa viết vừa làm chủ báo, chủ bút, chủ nhà in, chủ nhà xuất bản, chưa kể những nghề khác không liên quan đến sách vở. Số đông là sống thanh bạch, thậm chí là nghèo. Trong tâm trí của họ, những câu chuyện sắp viểt ra mới là quan trọng. Văn chương là đam mê, là nỗi thống khoái của họ, và phòng văn là không gian quan trọng, dù đơn sơ, để họ tuôn trào ra ngòi bút những cảm xúc và những điều muốn kể. Nhà văn Hồ Trường An cho là nhà văn Sơn Nam, dù không quan tâm chăm sóc bề ngoài, ăn bận đơn giản, không cạo râu nhưng: “căn gác của Sơn Nam trên đường Nguyễn Cảnh Chân rất gọn ghẽ, mỹ thuật. Sách vở trong tủ, trên kệ được sắp thứ tự, chậu cây cảnh, đồ cổ ngoạn chưng bày rất bon gout…”.  Còn nhà thơ kiêm ký giả Nguyễn Ngu Í, người có những cơn tâm thần bất định, tuy ở một căn nhà hẹp té gần chợ Vườn Chuối, trên căn gác lửng mờ tối, cạnh bàn thờ thắp sáng bởi ngọn đèn trứng vịt bóng đỏ là nơi đặt bàn viết của ông. Trên đó có giấy má, tập vở xép gọn gàng, có con ốc biển vân nâu vàng dằn lên. Tủ sách bày nhiều cuốn bìa da, mạ chữ vàng.  Đó là một không gian khá “sang”, như một góc đền văn chương nhỏ xíu mà Hồ Trường An được thấy và ghi lại.

Có một phòng văn ở Sài Gòn thập niên 1960 mà một nhà nghiên cứu người Mỹ khi đến thăm đã phải thốt lên: “Tôi ước mong có một căn phòng xinh xắn như thế này và chỉ có một nửa số tài liệu của ông thôi!”. Ông ta đã thấy gì ở nơi làm việc của nhà nghiên cứu ngữ học Nguyễn Bạt Tụy này? Theo Giản Chi, trong bài viết “Nguyễn Bạt Tụy, nhà dân ngữ học” trên báo Văn số 159, đó là: “những kệ và tủ kính đầy sách nghiên cứu, không còn để hở mảng tường nào. Một tủ ô to đựng các thẻ từ điển có nhiều tấm nhãn ghi ở đầu mỗi hàng ô: Điển tự Hán, Điển tự Nôm, Điển tiếng Dao, tập tiếng Dao theo gốc (gốc Hán, gốc Nho, gốc Nôm, gốc Ầu (chú thích: tiếng do ông Nguyễn Bạt Tụy đặt, do hai chữ Ấn – Tàu ghép lại), gốc Nê (chú thích: tiếng của ông Tụy, dùng trỏ chung: Indonésien, Mélanénisien, Polynésien). Gốc Thái, gốc Âu Mỹ, bộ tiếng Dao theo ý (tên giống, tên người, tên đất, chức tước, nghề nghiệp…)… Trên tủ ô ấy lại chồng hai tủ nữa với những nhãn đề: “lời ngạn Dao chợ, lời ngạn Dao – Mường, điển tiếng Dao – Mường, các điển tiếng Thái… Ông Tụy chỉ cho  khách về những thùng tài liệu, phim ảnh, băng thu thanh. Thùng nắp xanh để B.W films để chứa 15 ngàn phim đen trắng, đề C. films chứa 5 ngàn phim màu, những thùng nắp tím đề slide chứa 6 ngàn phim chiếu màu, những thùng nắp xanh lợt là ảnh màu và đen trắng, những thùng nắp màu cà phê sữa là những băng thu thanh các ngôn ngữ, các giọng nói, các điệu ca nhạc Kinh Thượng và các cuộc tế lễ. Chưa kế các cuốn sổ tay ghi chép với hơn 40 ngàn trang, “viết đến chết chưa hết”, chưa kể các sấp đối chiếu ngôn ngữ có 1.000 tiếng lấy trong 40 thứ ngữ.”. Tất cả tài liệu do Nguyễn Bạt Tụy thu thập trong bốn năm, gần cạn hết số tiền ông dành dụm trong bao nhiêu năm dạy học. Sau đó, ông chỉ ngồi trong phòng văn của mình và viết. Đây không chỉ là phòng văn, mà là một kho tư liệu quý hiếm. (trong bài viết gốc, chữ Dao được viết là Giao).

Một phòng văn không chắc tạo nên một nhà văn, nhưng một nhà văn có tài sẽ tạo nên câu chuyện thú vị về một phòng văn. Đó là không gian riêng tư của họ, nhưng có sức thu hút với chúng ta, những người thích đọc sách. Có ai từng có ý muốn lập một bộ ảnh, hay một tập tranh ký họa về không gian sáng tác, nơi hoài thai những tác phẩm được ưa thích của các nhà văn ở Việt Nam? Họ đã viết những tác phẩm, như “Vang bóng một thời”, “Chiếc lư đồng mắt cua” của Nguyễn Tuân, “Hương rừng Cà Mau” của Sơn Nam, “Những bước lang thang trên hè phố” của Bình Nguyên Lộc, vân vân trong khung cảnh thế nào?

Đó là việc đáng làm… trước khi quá muộn. Hoặc có khi đã muộn.

PHẠM CÔNG LUẬN

SÀI GÒN VÀI CƠN KHỦNG HOẢNG

Rất nhiều năm trước đây, Sài Gòn đã có lúc “Đi ngoài đường thấy vắng vẻ buồn hiu. Những căn phố đóng cửa im ỉm. Những căn phố chết. Sài Gòn lúc ấy như là thành phố chết hay đang hấp hối”.Mỗi biến cố đến với Sài Gòn không giống nhau. Đợt đại dịch này hoàn toàn khác những lần trước đó, nhưng sự lo lắng và tổn thất về con người lúc nào cũng có.

Chỉ tính từ đầu thế kỷ 20, cuộc sống đời thường đã có những thời khắc vô cùng khó khăn, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống hầu hết người dân Sài Gòn – Gia Định.Đó là thời gian khủng hoàng kinh tế thế giới bắt đầu từ 1929 đến giữa thập niên 1930. Ký giả Tế Xuyên kể tỉ mỉ câu chuyện này trên báo Đuốc Nhà Nam xuân Tân Hợi 1971. Năm 1932, ông từng thấy cả dẫy phố đường de la Somme (Hàm Nghi) – Catinat (Đồng Khởi) – Sabourain (Lưu Văn Lang) hầu hết bỏ trống khoá cửa, chỉ vài căn có người mướn. Chợ Bến Thành buôn bán ế ẩm, cho dù một con vịt quay treo tòn ten ở quán bán có 6 xu một con nhỏ, 8 xu con lớn. Gạo thì 4 cắc 4 giạ mà lại là thứ gạo nấu cơm mềm dẻo, thơm phức…Những kẻ thất nghiệp dám mướn phố lầu mà ở, những căn phố ở trung tâm, gần chợ Sài Gòn. Họ có cách để ở khỏi tốn tiền: chỉ xoay đủ tiền trả tiền phố tháng đầu, tới từ tháng sau không trả tiếp nữa, ở lì luôn cả năm. Khi người thâu tiền phố đến đưa biên lai thâu tiền thì chỉ cười trừ. Tiền đâu mà trả, người thâu tiền cũng thông cảm vì hoàn cảnh của thầy ta chắc cũng chẳng hơn gì người thuê nhà. Có khi ngượng quá thì lánh mặt, cho vợ con “đại diện” mà trả lời rằng: “Tháng này túng quá, thôi để tháng sau trả luôn thể”. Tháng sau? Rồi tháng sau nữa… kéo dài cả 10 tháng, 12 tháng như vậy. Người thu tiền thét rồi thối chí sau hai ba lần sẽ không đến nữa, báo cáo cho chủ đối phó. Đối phó cách gì? Nhiều lắm là đưa ra toà xin trục xuất thôi vì người mướn phố không có một món đồ gì đáng giá để tịch thu. Kẻ nghèo chỉ có vỏn vẹn một cái ghế bố để ngủ và một cái rương hay cái vali cũ kỹ đựng ba bộ quần áo rẻ tiền.Cái lối mướn phố “luân chuyển” đã thành kế sách của dân nghèo: ở căn này một thời gian rồi lại ở đến căn kia, trả tiền phố có một tháng đầu ở đến một năm hay 8 tháng, ít lắm cũng là 6 tháng.Đi ngoài đường thấy vắng vẻ buồn hiu. Những căn phố đóng cửa im ỉm. Những căn phố chết. Sài Gòn lúc ấy như là thành phố chết hay đang hấp hối. Nạn thất nghiệp tràn lan, kiếm được một việc làm là cả một cái may mắn như trúng “số đuôi”. Công chức, tư chức có “sở mần” rồi thì cố mà giữ lấy, cố chiều chuộng ông “sếp” để khỏi bể nồi gạo.Lao động lại càng cực khổ hơn vì phải đổ mồ hôi đổi lấy chén cơm manh áo và ít người có lấy một cái gì gọi là “nhà” để ở. Phần nhiều họ đóng đô ở ngay hàng ba với những căn phố trống. Với tất cả nồi niêu xoong chảo, cả thê tử đùm đề, họ sống cố thủ tại đó, vì có ai mướn căn phố ấy đâu. Đêm đến họ bẻ khoá cửa, di cư bớt bầy con vào ngủ trong nhà, sáng đến lại móc khoá và cửa để khoá hờ, khoá tượng trưng cho người quản lý dãy phố khỏi la rầy.Trước cơn bịnh kinh tế trầm trọng đó, một nhà thầu khoán ở miền Trung là Trần Quang An, từng học trường Công Chánh Hà Nội tự xưng là “Bác sĩ kinh tế” lên sân khấu một nhà hát ở Phan Thiết, diễn thuyết về nạn kinh tế khủng hoảng và tuyên bố đem tài “kinh bang tế thế” giải quyết nạn đồ thán cho đồng bào. Ông còn chạy vào Sài Gòn để kê toa, toan chữa bệnh kinh tế khủng hoảng cho toàn dân. Toa thuốc của ông giản dị lắm: tìm biết đúng nhu cầu hàng tháng của mỗi gia đình (bao nhiêu gạo, bao nhiêu than, bao nhiêu mắm muối, tương cà) phân phối cho từng nhà. Tóm lại là mua tận gốc bán tận ngọn, mua gộp lại để có thể trả giá rẻ. Một hình thức “hợp tác xã” nhưng bác sĩ kinh tế gọi là “Entrepots-Warrant”.Ông dùng Sài Gòn làm thí điểm. Ông in ra cả mấy vạn tập “câu hỏi” về nhu cầu bếp núc của mỗi gia đình, phát cho từng nhà xin trả lời để ông ước lượng số hàng phải mua dự trữ trong những “Entrepots Warrant” của ông. Ông thuê một dãy 24 căn phố trệt ở đường Jean Eudel (nay là đường Nguyễn Tất Thành) Khánh Hội, để làm kho chứa hàng. Nhưng ông thất bại lớn. Vì người Vỉệt Nam thế hệ trước quen sống với nếp sống cổ truyền “tén vén tương cà” đâu có hiểu lợi ích của một biện pháp kinh tế xa lạ mà họ còn nghi ngờ là một thủ đoạn gì đây? Toa thuốc kinh tế của “Bác sĩ” Trần Quang An chưa kịp cứu dân độ thế đã bị xếp xó, 24 căn phố của ông thuê bị bỏ trống cả năm rồi trả lại cho chủ phố.Các nhà buôn lỗ lã, bị đóng cửa vì vỡ nợ, vì khánh tận. Nhà băng Đông Dương, nền tảng của đại tư bản Pháp, quơ lưỡi hái mà giết chết thương gia nầy đến điền chủ kia. Chờ đến lúc các tiểu thương trung thương Pháp cũng khó sống, muốn nghẹt thở, chết ngộp. Đám thương gia Pháp cầm đầu, các cuộc biểu tình rầm rộ diễn ra ở Sài Gòn, trong các phòng họp nhóm. Họ la thét, thảo kiến nghị, đòi phá giá đồng bạc. Nhưng chỉ là tiếng kêu giữa bãi sa mạc, chẳng đi đến đâu vì phái đại lý tài Pháp vững như bàn thạch.Lúc đó, nếu ai có người thân ở nông thôn miền Nam để có thể về tạm trú trốn khủng hoảng kinh tế ở Sài Gòn thì thật là may mắn. Lúa bán không được, công việc làm ăn buôn bán ngưng trệ, song nông gia ở dưới đó vẫn sống đầy đủ. Gạo có sẵn, không bán được thì để ăn, dân quê không phải lo nạn đói. Nhà nào ở quê cũng chất lúa đầy lẫm, đầy kho, gà vịt nuôi cả bầy, không phải để bán mà để ăn hàng ngày. Ngoài ra nhà nào cũng có một hai lu mắm, cá đồng tràn trề không thiếu.**Đến năm 1945, Nam bộ kháng chiến, Sài Gòn – Gia Định tràn đầy binh lửa. Chú Nguyễn Cương Phú, một facebooker lớn tuổi đang sống ở Úc kể năm đó nhà chú đang sống yên bình với cửa tiệm giày dép guốc ở chợ Bến Thành. Một trái bom thả xuống chợ Bến Thành, làm sụp một góc chợ. Gia đình chú tản cư về Gò Công, đến khi quay trở lại thì tiệm tan hoang. Để lo một gia đình có của ăn của để, nhà từng có 8 người giúp việc, mẹ của chú trở thành bà bán cơm bình dân cho phu thợ ăn trong chợ Phú Nhuận, và chú phải đi giúp việc một thầy thuốc Đông y để được nuôi cơm. Lúc đó, nhà ông ngoại tôi bên Khánh Hội, trên đường Quai De La Marne (Bến Vân Đồn, quận 4) cũng đang lao đao vì ông ngoại, đang làm việc công sở Tây thì bị bệnh mắt, ánh nhìn ngày càng mờ dần. Bà ngoại tôi phải bán cái tiệm tạp hóa và một tiệm rượu có môn bài đang kinh doanh để lấy tiền chữa cho ông nhưng đành chịu thua vì bệnh không hết, khi các bác sĩ Pháp tập trung cho cuộc chiến. Sau cả nhà phải tản cư về Củ Chi và ông ngoại cũng mất cuối năm 1945. Trước đó, người anh lớn nhất của ông ngoại tôi khoảng năm 1944 bị chết trong một trận bom gần cầu Ông Lãnh. Rồi đến lượt cậu ruột tôi, Nguyễn Công Linh, đã lấy xong Đip-lôm, bị bệnh ban phải vô nằm nhà thương Dejean de la Bâtie (trung tâm cấp cứu Sài Gòn). Chỉ vài ngày sau, một trái lựu đạn nổ phía ngoài vách tường sát bên giường gây sức ép khiến cậu mất khi chỉ 22 tuổi. Ngôi nhà ông cố tôi ở Khánh Hội ly tán từ đó, may mà còn giữ được một phần căn nhà cho đến ngày nay.Ông anh lớn nhất của tôi còn ghi lại một câu chuyện năm 1953, lần đầu anh nếm mùi giới nghiêm khi đã về Phú Nhuận. Lúc đó, người chị thứ tư mới sanh. Chị có tật khóc cả đêm nên cả nhà vất vả vô cùng trong khi ba tôi đi vắng. Năm đó chiến sự vẫn còn tiếp diễn, lính Lê Dương được tăng cường đầy dẫy khắp Sài Gòn – Gia Định. Tối cứ đến tám giờ là giới nghiêm, ai ra đường không có lý do báo trước hoặc thấy bóng là bắn. Ai có việc bệnh hoạn sinh nở cần di chuyển phải cầm đèn bão đi theo, xét đúng mới cho đi. Chị Tư lại hay nóng sốt ban đêm, má tôi thường dùng khăn thấm giấm đánh lưng cho hạ nhiệt. Một đêm đã khuya, trán chị nóng quá, má rầu rĩ nói phải chi có được lá trầu về đánh lưng cho em hạ sốt. Nhà cách vườn trầu chỉ khoảng năm chục mét nhưng đi qua khỏang sân trống không phải là chuyện dễ dàng. Cái lô cốt có lính Lê Dương gác sừng sững trước mặt hễ thấy bóng người là bắn ngay lập tức. Thương em và thương cả má, anh tôi quyết định đi hái lá trầu. Chui ra khỏi nhà, anh bỏ lơ tiếng gọi giật của má, sát người xuống bò chầm chậm trong đêm tối. Anh kể chỉ năm chục mét đất trong vườn mà như dài dằng dặc tưởng chừng sẽ có một phát súng và mình ngã lăn ra, bỏ má và đứa em thơ. Ác liệt là đêm đó lại có trăng sáng. Anh vừa bò vừa van vái vong hồn ông bà phù hộ cho đến cây trầu, hái vội nắm lá trầu rồi bò về. Đến tới cửa nhà, mồ hôi đã ướt đẫm. Tôi lớn lên, sống ở Phú Nhuận khá êm đềm trừ vài lần đáng nhớ. Không khí chiến tranh trong mắt tôi chỉ là những hàng chữ chi chít trên báo Đại Dân Tộc, Trắng Đen, Điện Tín mà ba tôi mua đọc hằng ngày. Thỉnh thoảng có tin báo tử của những người đi lính trong xóm. Máy bay hàng ngày bay qua lại trên đầu, nhiều nhất là trực thăng. Nhiều lần con nít trong xóm phát hiện có “máy bay thả giấy” (truyền đơn) phía xa và chạy đi lượm. Giao thừa tết Mậu Thân, tiếng pháo bỗng nhiên rộn rã hơn rất nhiều. Tôi được hứa cho đi chơi vào ngày mùng Một. Sáng hôm sau, ba bảo cả thành phố giới nghiêm rồi, trên đài đã có lệnh chính thức nên không đi được. Đêm đó, cả nhà chui xuống nằm dưới bộ ván bằng gỗ sây rất cứng, có lót bao cát phía trên mà không biết ba tôi đã chuẩn bị từ bao giờ để tránh đạn lạc. Từ đó, khu xóm tôi thỉnh thoảng có những ngưới lính đội nón sắt hành quân đi ngang qua, đám con nít thấy thành nón của họ treo lủng lẳng vài gói nhỏ không biết là gì. Rồi tình hình dần êm ắng. Ông anh tôi bảo tết Mậu Thân coi vậy không căng thẳng bằng hồi đảo chánh ông Diệm hồi anh còn nhỏ vì lúc ấy nhìn lên trời thấy máy bay bắn nhau với khói đạn từng cụm và đạn rớt trên mái tôn rổn rảng.Đến tháng 4 năm 1975. Trước mái hiên, cả nhà tôi chứng kiến trên bầu trời phía sân bay Tân Sơn Nhứt có hai chiếc máy bay quần thảo nhau. Đêm 28 hay 29 tháng 4, tiếng súng ầm ì và tiếng đạn rớt như ai gõ vào chảo, cứ lanh canh, ục oạc gần xa. Sau đó là ngày 30 tháng 4 và sau đó nữa là hơn chục năm sống thời bao cấp. Cùng với bao người, gia đình tôi trải qua những tháng ngày khó khăn. Nhiều gia đình khổ sở vì có người thân ra đi vì bệnh tật không có thuốc đặc trị, vượt biên mất tích, đi kinh tế mới,… Những năm 1980 thiếu thốn, lụt bão, lên đường ra chiến trường, đổi tiền… Những năm đó, gánh nặng đè nặng lên vai người lớn, riêng đám học trò nhỏ chúng tôi thì cho gì ăn nấy, mặc nấy và vẫn vô tư lớn lên. Người Sài Gòn – Gia Định từng đối diện nhiều đợt biến động, những lần khủng hoảng trong trăm năm qua. Các bi kịch xảy ra không sao kể xiết. Mỗi nhà mỗi cảnh, không ai có thể thông cảm hết cho ai. Dù gặp chuyện gì, ai cũng nuôi động lực là hy vọng và lạc quan. Hy vọng sẽ có lúc thoát ra được những khó khăn, không lẽ thế này mãi! Có mất mát cũng phải gượng dậy để sống tiếp và giúp nhau vượt qua. Đó là nếp nghĩ của người thành phố này, dù có gốc gác lâu đời ở đây hay mới nhập cư sau này.

PHẠM CÔNG LUẬN

MÙI CHẠP PHÔ

Trong những khu xóm nhỏ, tiệm chạp phô báo hiệu Tết đến sớm khi bắt đầu đưa hàng về bán càng lúc càng nhiều. Trong đó, có nước mắm tĩn, cải xá bấu, khô cá và có cả đầu ông Địa. Hàng hóa của ông tạo thành một thứ mùi riêng, đó là
MÙI… CHẠP PHÔ
Cuối tuần mấy ông bạn già ngồi cà phê với nhau. Sau khi nói hết chuyện thời sự, một ông cắc cớ hỏi: “Nghề tui là lái xe cho ông chủ. Có lúc ngồi đợi chủ ngoài bãi xe, tôi chợt nghĩ: người ta hay nói… mùi quê hương. Nghe cũng hay hay, nhưng theo mấy ông, mùi quê hương là mùi gì?”Một ông buông tờ báo nói: “Đó là mùi sữa mẹ!”.“Thôi đi, nghe nói hồi ông còn nhỏ, má ông đứt sữa sớm, ông phải uống sữa Guigoz. Không có bú sữa mẹ thì làm sao ông nhớ được tới giờ?!”Ông khác nói: “Đó là mùi đất sau cơn mưa. Hồi xưa vùng Gia Định này còn nhiều đất trống. Mùa hè, sau cơn mưa, mặt đất xông lên mùi âm ẩm. Mưa ít thì mùi đất nồng, người lớn bảo hít vào dễ bị bệnh. Có lúc mùi đất sau cơn mưa lớn thơm mát như mùi cỏ, dễ chịu. Nắng hạn lâu ngày, tụi mình chơi đánh trổng, phải đào đất đặt con trổng vào. Khi xới miếng đất ẩm, có chút mùi đất ẩm hít vào nhớ mùa mưa ghê lắm!”.Cả nhóm gật gù, có lý!Ông lái xe bảo: “Nghề nghiệp bắt tui hay phải đi xa đi gần. Có lúc đi cả tháng ngoài Bắc, khi nhớ về Sài Gòn là nơi sinh ra, tui nhớ nhất là… mùi chạp phô. Đó là mùi quê hương của tui!Mùi chạp phô! Đó là mùi gì mà nhớ dữ vậy! Mà chạp phô là cái gì, một ông gốc ngoài Bắc xen vào. Mấy ông còn lại gật gù, không biết ý ra sao.Mùi chạp phô? Ông lái xe bảo đó là một mùi khó diễn tả. Nó là thứ mùi tổng hợp, có mùi xà bông cục Cô Ba, mùi xà bông bánh dài hình chữ nhật hiệu Cây Đờn. Hai thứ mùi thơm đó quyện với mùi củ cải muối, mùi tương hột và mùi nước tương, nước mắm. Tất cả tạo thành một mùi hơi hâm hẩm, luẩn quẩn trong gian nhà trước của tiệm chạp phô với hằng trăm hàng ngàn món, không chỉ là những món đồ nhà bếp như mắm muối, hộp quẹt diêm, đá lửa, dầu hôi, ngo chụm lửa… mà còn có nhiều thứ khác như kim, chỉ, nút áo, tim đèn… có cả thuốc Con Rồng trị đau bụng, thuốc nhức răng nhức đầu… Hàng hóa đựng trong hũ, treo lủng lẳng trên đầu, đựng trong cái tủ kiếng luôn luôn mờ căm vì không chùi bao giờ, hàng hóa vun ngọn trong mấy cái bao đang hé miệng đặt dưới đất. Ông chủ tiệm người Hoa (nhiều chủ tiệm chạp phô là đàn ông) ngồi trong một góc chật hẹp, chen giữa lối đi bé nhỏ để lấy đồ cho khách, miệng còn lơ lớ: “Hầy cái lầy, ngộ tính năm cắc dẻ dồi!”, “Nị mua từ từ chả cũng lược mà!”. Tiệm chạp phô giống như cửa hàng tiện lợi, dù không bán 24 giờ nhưng trưa trời nắng đúng ngọ hay đêm hôm cần mua, như mua chai dầu gió hay thuốc đau bụng chẳng hạn, đến kêu cửa họ cũng bán, chẳng càu nhàu. Ai mua đồ, chê đồ dỏm họ cũng tỉnh bơ không tự ái, khuyên vậy thì mua cái khác đi. Tiệm đặt trong hẻm cũng có, ngoài mặt tiền đường cũng có, nhất là góc ngã tư. Trên đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển) ở Phú Nhuận, chỉ một đoạn ngắn đã có mấy tiệm, chưa kể trong chợ Lò Đúc. Góc đường này, giáp đường Trương Quốc Dụng có một tiệm chạp phô lâu đời, tính ra đã hơn bảy chục năm giờ vẫn còn. Ông lái xe vẫn lui tới tiệm này, như tìm chút ký ức hồi còn nhỏ nhà còn ở xóm Lộc Lì gần đường rầy xe lửa cổng số 8 đường Nguyễn Minh Chiếu, nay là đường Nguyễn Trọng Tuyển. Hồi nhỏ, ngoài chuyện đi học và bắn bi, đánh trổng với bạn bè, con nít trong xóm giao tiếp với xã hội bên ngoài qua tiệm chạp phô. Nhờ cái tiệm mà biết trên đời có bao nhiêu món người ta sản xuất ra để phục vụ cuộc sống, như đường thì có đường cát trắng, cát vàng, đường phèn, đường phổi, đường thốt nốt… mắm thì có đủ thứ mắm thu, mắm lóc, mắm tôm chà… khô thì khô tra phồng, khô cá đuối, khô khoai… đứa nào chịu để ý sẽ khôn ra nhiều. Nhờ có cái tiệm, đứa nào đựợc sai đi mua nước mắm, mua gạo hay củi, than sẽ được chủ tiệm cho thêm cây kem, cái bánh vòng… Nếu có tĩn nước mắm dùng hết, thay vì đem bán cho ve chai, đem ra tiệm đổi mỗi cái tĩn 3,5 lít sẽ được hai cây cà rem, không cần dài cổ đợi bà ve chai vô xóm. Nếu đi mua xà bông Cây Đờn, nhìn ông chủ dùng dây cắt xà bông rất sướng, một đầu dây ông cột vào tay nắm cửa, tay kia ông cầm sợi dây kéo thẳng ra và hạ xuống cắt bánh xà bông rất ngọt. Nhà hết gạo, ra mua thiếu ông cũng chịu, hỉ hả nói cứ từ từ cũng được mà. Có vài người nghèo có lúc ngặt quá, ra lấy vài ký gạo rồi xin thiếu, sau đi ngang qua tiệm, ông ngó lơ, để rồi người ta cũng nhớ trả nhưng chậm, có khi cả tháng. Ngày qua ngày, ông vẫn nhập hàng về đều đều, nhớ từng món một để ở đâu, ai cần là đứng dậy đến đúng chỗ mà lấy rất nhanh. Có lần, chú bé trong câu chuyện này hỏi ông có bán cây súng gỗ bắn pháo không? Ông lắc đầu. Nhưng chỉ chiều hôm sau, ông nhắc: “Có súng bắn pháo rồi đó, có mua không?”. Người ta nói: ai cần gì thì ông bán cái đó! Có người trong xóm phân tích: “Ông chủ tiệm chạp phô bán rẻ vậy, sao có lời? Hay ông bán hàng giả?”. Mấy người trong xóm lắc đầu bảo tui thấy rẻ là được, gạo mắm ăn được còn nói gì nữa? Về nhà, hỏi má, má bảo: “Con nhớ có bán cho ổng mấy cái tĩn nước mắm phải không? Ổng đi mua nước mắm rẻ tiền trong can nhựa chiết ra tĩn, bán ra với giá nước mắm tĩn, có lời hơn vì giá nước mắm tĩn cao hơn. Ai cũng biết, nhưng người ta vẫn mua. Thôi kệ, không có cái tiệm chạp phô đó ra mua chỗ khác cũng vậy, chắc chắn không có chuyện cho thiếu!”. Sau này lớn lên, thấy chút tiểu xảo của ông không đáng gì so với sự dễ dãi, có khi tốt bụng với người nghèo của ông. Anh Thành, người lái xe trong câu chuyện này chia sẻ với tôi những câu chuyện vụn vặt về… mùi quê hương của anh. Anh bảo tui luôn nhớ cái tiệm chạp phô góc đường Trương Quốc Dụng đó và có mấy lần ghé mua vài thứ cho vui. Ông chủ tiệm đã mất, hai cô con gái của ông đã lớn tuổi, không lập gia đình vẫn duy trì cái tiệm cũ, vẫn xởi lởi vui vẻ với khách như cha mình, chỉ có khác là khi tính tiền thì nhẩm trong miệng hoặc dùng máy tính, không gảy bàn toán gỗ lạch cạch như cha nữa. Tiệm này tuy vẫn bề bộn, cũ kỹ nhưng đã sáng sủa hơn. Có điều không còn cảm thấy cái mùi xưa cũ đậm đà. Có lần sau khi ghé tiệm về, anh Thành chợt nhớ mình vẫn chưa hỏi hai cô chủ là vì sao ngày xưa ba của các cô không bao giờ bán cây kim vào ban đêm. Ông trả lời khi Thành đến hỏi mua cây kim cho má vào một buổi tối: “Lâu có lược, ngộ không bán cây kim vào buổi tối lược!”. Cùng với cách phát âm lơ lớ của người Hoa ngụ cư trên đất Việt, có thể đó là một phong tục cũ kỹ của đất tổ Trung Hoa mà ông mang theo khi sang sống bên xứ này.Ngày xưa, ngoài Chợ Lớn là nơi tập trung sinh sống đông đúc của người Hoa, ở Sài Gòn – Gia Định và khắp Nam kỳ ở xóm làng nào, con đường nào cũng có vài tiệm chạp phô của họ. Ngay trung tâm Sài Gòn, từ những con đường vây quanh chợ Bến Thành cho đến các con đường Bonard (Lê Lợi), đường George Guynemer (Hồ Tùng Mậu), lề đường chợ Cũ đều có nhiều tiệm vách ván. Họ bán chạp phô, có khi kiêm luôn tiệm nước bán hủ tiếu, cà phê. Sau này, đặc biệt sau 1954, các tiệm tạp hóa thay thế dần, dù không quá đa dạng hàng hóa như tiệm chạp phô nhưng bày biện thoáng, sạch sẽ hơn. Tiệm chạp phô biến thành một hình ảnh để hoài niệm của những đứa nhỏ nay đã hai thứ tóc, nhớ lại cái thời hồi đó suốt ngày le te chạy ra tiệm chú Xồi, chú Sừng mua chai nước mắm, miếng cải xá bấu, để được xâu bánh vòng treo trên cổ ăn dần.

PHẠM CÔNG LUẬN (Trích trong SÀI GÒN NGOẢNH LẠI TRĂM NĂM – Công ty sách Phan Book xuất bản 2021)

MÙI SÁCH CŨ

Có lần, tôi được một người bạn sống ở nước ngoài tặng vài món quà nhỏ, trong đó có hũ thủy tinh đựng nến thơm, một món đồ xinh xắn không có gì đặc biệt. Một buổi tối mất điện, tôi mang hũ nến ra đốt và dần cảm nhận một mùi thơm thoang thoảng, không phải mùi hương hoa mà là một thứ mùi lạ lùng lại rất thân quen, gợi nhớ một điều gì rất xưa cũ.

Lúc đó tôi mới nhìn lại nhãn dán trên hũ nến. Đó là loại nến có mùi hương của … sách bọc bìa da thuộc, loại sách quý được đóng bằng kỹ thuật kinh điển, thường nằm trong các tủ sách giới thượng lưu hoặc là loại sách cổ lưu truyền nhiều đời trong một gia đình bình thường. Nhà tôi chỉ có vài cuốn sách như vậy, bằng tiếng Pháp, để lại từ thời ông ngoại còn làm ở sở Hỏa xa Đông Dương trước năm 1945. Mùi hương đó có mùi giấy cũ, mùi da thuộc và một chút mùi vani, mùi trà cũ… là những gì tôi cảm nhận.

Việc nghiên cứu và kinh doanh mùi hương của sách ở nước ta nghe có vẻ lạ lẫm, nhưng thế giới, nhất là phương Tây, đã đi rất xa trong chuyện này. Ở Anh có một viện mang tên “Viện Số hóa khảo cổ học” đã làm chuyện độc đáo là thu lại mùi từ những cuốn sách cổ thế kỷ XIII tại hai thư viện của Anh và Mỹ rồi tổ chức triển lãm cho khách đến thăm ngửi mùi.

Họ lấy mùi bằng cách đặt sách trong hộp kín 72 giờ, thổi khí tinh khiết vào và thu mùi hương, xong phân tích thành phần hóa học của nó rồi mô phỏng lại. Một số công ty nước hoa và làm nến thơm nắm bắt ngay ý tưởng này, cho ra lò các sản phẩm của mình cho dân “mọt” ngửi mùi sách. Có nơi còn tạo mùi hương lấy cảm hứng từ một tác giả cụ thể, như một người ở Mỹ kể rằng đã được mẹ anh tặng cho một cây nến Charles Dickens có mùi quýt, mùi cây bách xù và đinh hương. Tất nhiên, anh ta là một con mọt sách sống ở một đất nước nhiều người thích đọc sách.

Hình ảnh người mua sách ấp cuốn sách vào mặt hít mùi sách mới rất dễ bắt gặp đâu đó ở nhà sách, ngoài đường sách. Vậy sách có mùi gì? Tôi nhớ sách thường có mùi thơm nhẹ như vani, có khi có mùi chua nhẹ. Người ta nghiên cứu rằng giấy làm từ gỗ có chứa chất clignin, một hóa chất có liên quan mật thiết với vanillin là hợp chất tạo ra hương vani.

Ở Anh, từ một cuốn sách cổ xuất bản năm 1928, người ta ngửi thấy một phần của cuốn sách này là một trong tám mùi không xác định, bao gồm mùi sô cô la, mùi lửa than, mùi… nhà trọ cũ, mùi chợ cá, mùi vải lanh, bã cà phê, nước xốt và cà ri. Ở nhiều nơi, người ta cảm thấy mùi sôcôla là phổ biến nhất. Sau đó là mùi cà phê, mùi cà ri, gỗ và mùi than củi. Sách trong một nhà thờ ở Anh có mùi gỗ, khói, đất, vani, mùi mốc, hạnh nhân, mùi cay nồng, dược liệu, hoa, trái cây, mùi bánh mì, cam quýt, mùi chua, và mùi kem…

Tôi nghĩ, nếu có ai thích ngửi mùi sách, thật ra đó là tình yêu đối với sách mà mùi hương là chất dẫn truyền.

Chắc chắn mùi của sách ở châu Âu khác mùi sách ở xứ nhiệt đới. Cuốn sách trong căn nhà ẩm thấp hay thiếu vệ sinh dễ hình thành mùi của sách. Sách càng cũ càng có mùi riêng. Mùi sách có được còn từ những thói quen của người đọc sách. Có ai ăn vặt khi đọc không? Có ai đã làm đổ rượu, hút tẩu, hay vừa đọc vừa nấu bếp đốt bằng củi? Có cuốn sách nào được dùng đế… chống chân ghế hoặc đập con ruồi, con muỗi hay con gián không? Có ai ép lá thuộc bài, cánh hoa hồng hay cánh hoa phượng không? Tất cả đều tạo nên hương của sách.

Vậy sách ở Việt Nam có mùi gì?

Thập niên 1940, khi giấy in khan hiếm, người ta dùng giấy dó in sách, vậy sách bằng giấy dó có mùi gì?

Sau năm 1975, giấy in sách dùng giấy tái chế có mùi gì? Trong trí nhớ, tôi nghĩ đó là mùi than củi khét, mùi cỏ khô, có đúng vậy chăng? Mùi sách in bằng giấy tái chế gắn chặt với thời bao cấp khốn khó, thèm đọc sách đến độ không thể tưởng tượng rằng mình có thể đọc được những cuốn sách giấy đen xỉn đến như vậy. Mua lại vài cuốn sách xưa như Đội săn của quốc vương Xtac hay Nhà nguyện Critxtốp, lại cảm thấy có mùi ẩm mốc và mùi bụi lâu năm không thoát được.

Mùi sách gắn với những kỷ niệm. Tôi nhớ ba tôi thích vừa đọc sách vừa rít ống điếu (bây giờ gọi là tẩu). Khi giở mấy cuốn sách ba thường đọc đi đọc lại như bộ Con đường đau khổ của Alexey Tolstoi hay bộ Sông Đông êm đềm của Solokhov, thoảng qua mùi thuốc lá Gò Vấp. Tuy nhiên, khi giở ra bộ Tam Quốc Chí mà ông đọc thường xuyên thời trước 1975, lại có mùi thuốc lá nhồi Half and Half mà sau này tôi biết đó là mùi anh đào.

Những ngày hè mùa mưa tuổi nhỏ, không đi chơi được, tôi ôm bất cứ sách gì đang có để đọc. Ánh sáng ngày mưa ngoài cửa sổ không đủ nên sách được dí sát vào mắt. Tôi nhớ nhiều cảm giác lúc đó với mùi sách ấm, hơi chua sát tận mũi.

Tôi nghĩ, nếu có ai thích ngửi mùi sách, thật ra đó là tình yêu đối với sách mà mùi hương là chất dẫn truyền. Cuốn sách mới mua, nâng niu trên tay nhưng chưa đọc được ngay thì động tác ấp sách vào mặt để cảm nhận mùi hương là cách tiếp nhận ban đầu chóng vánh nhất. Đối với những cuốn sách xưa cũ, sách quý trong thư viện mới có, sách do người Pháp viết về Đông Dương, sách giấy dó của Tản Đà, sách L’art à Hue… mùi sách đôi khi ẩm mốc, đôi khi khô cứng hay bụi bặm…. tỏa ra mùi quá khứ, mùi thuộc địa, mùi của những ngày xưa lạc hậu, lễ nghĩa cũ mòn… Ai đã cầm đến những cuốn sách này: ông Tây thực dân? Cụ Vương Hồng Sển? ông Sơn Nam?… Nó đã nằm ở đây từ khi nào, lưu lạc vào Nam từ biến cố 1954, Huế 1968 hay được thu mua sau này?

Người ta có thể đoán tuổi một cuốn sách dựa vào mùi giấy cũ in ra cuốn sách đó đang trong quá trình tự hoại dù rất chậm. Điều đó được giới bán sách cổ nghiên cứu kỹ. Trong số đó, vài người đã tìm cách làm sách cổ giả, ngoài hình thức cũ kỹ và tàn tạ bằng kỹ thuật in ấn, kỹ thuật đóng sách theo kiểu cổ điển và nhiều thủ thuật khác, họ bắt buộc cần phải tạo mùi mốc, ẩm lâu ngày, bụi và những mùi khác để đẩy tác phẩm giả mạo tinh vi của mình lên giá rất cao mà chỉ giới siêu giàu mới mua nổi. Đó là câu chuyện ở nước ngoài và biết đâu nó sẽ lan tới thị trường sách Việt!

Tôi nhớ mấy năm đầu thập niên 2000, thị trường sách khởi sắc do các công ty văn hóa tư nhân được làm sách liên kết. Sách tồn nhiều nên vài nơi bắt đầu bán sách giảm giá, đến tận kho chọn lựa. Cảm giác được bò dưới sàn xi măng lựa sách, lúc đó đã bề bộn không theo thứ tự nào, thật sung sướng. Mùi sách cũ lưu kho thoảng trong không khí, không giống lắm mùi của những tiệm sách cũ… kiểu gì cũng là những khoảnh khắc hạnh phúc, nhắc tôi nhớ tuổi nhỏ cùng anh đi mua sách ở mấy cái sạp gần khu vệ sinh công cộng trên đường Lê Lợi, và những lần tự đón đi xe lam ra chợ sách cũ Đặng Thị Nhu sau năm 1975…

Phạm Công Luận

LỜI TIỄN BIỆT THẦY NHẬT TIẾN

Phạm Công Luận

“SỐNG VỚI SÁCH”

Hồi tôi còn nhỏ, có lần ba tôi, sau khi xem được một quyển sách hay của nhà văn Trung Hoa Lâm Ngữ Đường, đã hứng thú kể tôi nghe câu chuyện về một thư viện rất nổi danh, thư viện Alexandria ở Ai Cập thời cổ đại. Tôi nhớ đại khái như sau: “Lúc đó sách thực hiện bằng ghi chép thủ công. Muốn có nhiều sách cho thư viện, nhân viên thư viện phải đi khắp nơi trong thành Nhã Điển (tên gọi thủ đô Athen của Hy Lạp hồi trước 1975), đặt tiền cọc để mượn sách mang về chép một hoặc nhiều bản. Ngoài ra, khi phát hiện được có bản chép tay nào trên các tàu biển thả neo ngoaì cảng, họ “tạm thời tịch thu” các bản đó để sao chép lại xong mới đem trả.

Chuyện một thư viện có cách nay gần 2.500 năm trước đã rất linh hoạt trong chuyện tổ chức nguồn sách của mình khiến tôi rất thích thú. Ý muốn có một tủ sách gia đình bắt đầu xâm chiếm tôi.

Hoàn cảnh sống nhà tôi hồi đó cũng giống như rất nhiều nhà trong xóm lao động, chủ yếu người lớn đi làm cho tư nhân, lái taxi hay buôn bán nhỏ ở chợ. Con cái nhà nào cũng đông, tự đi học và tự về, đứa nào mực tím cũng dính tay dính áo. Nhưng ba tôi khác với mấy người cha trong xóm, là rất mê đọc sách. Nhà tôi có ông anh là giáo viên, ba má tôi giao phó hẳn việc học mấy đứa con nhỏ cho anh. Như mọi thầy giáo hồi xưa, anh cũng mê sách. Đam mê của các bậc phụ – huynh này đã ảnh hưởng mấy anh em trong nhà.

Sách của ba tôi không nhiều, chứa trong khoảng ba thùng cạc tông. Đa số ông mua từ hồi trai trẻ, chiếm nhiều là truyện Tàu như Tiết Nhơn Quý chinh đông, Đông Chu Liệt quốc, Tam Quốc chí… Có mấy tập thơ của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử là những người cùng thế hệ với ông. Trong số đó, tôi thích nhất bộ “Việt Nam Thi nhân Tiền chiến” của Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng. Dù không nổi tiếng như quyển Thi Nhân Việt Nam của Hoàì Thanh – Hoàì Chân nhưng cuốn này rất đầy đặn, phong phú và tất nhiên cập nhật hơn với nhiều bài thơ phát hiện sau này.

Mấy cái thùng sách của ông để cạnh chỗ ngủ.Có lần một cơn mưa dữ dội đưa nước vào nhà, ngấm vào mấy cái thùng khiến cả nhà phải bày ra phơi cả tuần. Rất may sách không bị hư hại nhiều.

Sách của anh Hai tôi để trong một cái rương bằng thiếc. Đó là dấu vết một thời dạy học ở một vùng biên giới Việt – Miên. Khi trở về Sài Gòn, anh đem rương về và nó thành thế giới bí mật đầy quyến rũ với tôi. Có lúc tôi lục lọi được chúng. Trong đó có những tập quay roneo bàì giảng cho sinh viên Văn khoa Sài gòn trước 1975 nhưng tác giả là Đinh Gia Khánh và Nguyễn Đình Thi của Hà Nội. Sau này tôi biết để có những bản sách hiếm có như vậy, các giáo sư Văn khoa đã tìm cách đặt sách từ Hà Nội qua Paris và từ Paris mang về Sài Gòn phổ biến cho Sinh viên. Trong rương có mấy quyển sách bàn về chuyện tình yêu nam nữ của Công giáo, có cả phần giáo dục giới tính. Tò mò xem, tôi ngượng quá nên bí mật đem… bỏ thùng rác. Khi biết được ông anh nổi giận nhưng không giải thích khiến tôi tin chắc là mình… đúng. Tội nghiệp mấy quyển sách vô tội và hiền khô so với sách giáo dục giới tính bây giờ.

Dù có mấy thùng sách, nhà vẫn không có một tủ sách đàng hoàng. Lúc ấy, nhớ đến hồi được làm “quản thủ” tủ sách lớp Năm của trường tiểu học Võ Tánh, tôi bắt đầu lập tủ sách gia đình. Trước hết, xin những quyển sách nào ông anh không đọc nữa, tôi đưa vào tủ sách của tôi.

Thời kỳ này, quyển sách gây men hứng thú là quyển Con Nai Tơ, tác giả Mỹ tôi không nhớ tên nhưng người dịch là Trương Bảo Sơn. Ông này sau dịch những quyển nổi tiếng khác như Ông già và biển cả của Hemingway và Gió đông Gió tây của Pearl Buck. Quyển thứ hai là Phiêu lưu trên lưng ngỗng của Senma Largerlof, nhà văn Thuỵ Điển. Chi tiết tôi nhớ nhất trong truyện là sự tiếc nuối mãnh liệt của cậu bé Nin. Một đêm, cậu bước vào một ngôi thành lớn bên bờ biển. Có nhiều người buôn bán trong thành mời cậu mua sản vật ở đó nhưng cậu từ chối vì tiền trong túi quá ít, chỉ có vài đồng xu. Sáng hôm sau, toàn bộ tòa thành biến mất. Cậu được kể rằng một trăm năm tòa thành này mới hiện ra một lần và trong lần đó, nếu ai mua bán với người trong thành dù chỉ một đồng xu bé cũng giúp nó sống lại sau một lời nguyền tự ngàn xưa.

Thời điểm ấy là năm mới đến sự kiện 1975. Nhiều nhà bán đổ tháo sách ra vỉa hè. Một bà trong xóm tôi không biết vì sao có được mấy bao tải sách của nhà xuất bản Phượng Giang, nhóm Tự Lực Văn Đoàn với bìa trắng, chữ đen và logo hình chim Phượng. Lập tức tôi xúm vào lựa và không nhớ tiền đâu mà mua được khá nhiều quyển của Nhất Linh, Kháí Hưng, Thạch Lam, Trần Tiêu… Bà bán cho người khách duy nhất trong xóm là tôi và đến khi tôi không mua nữa thì bà đem đi bán … ve chai.

Bộ sách này với khoảng hơn hai chục cuốn làm tăng giá trị tủ sách của tôi. Suốt thời gian đó, đang học lớp Tám, xem chừng tôi mê sách hơn mê học. Suốt ngày tôi có mặt ở đường Trần Quang Khải là nơi có bán sách báo vỉa hè để canh mua sách với tất cả tiền có trong tay.

Có lần tôi lập một kế hoạch “chôm” sách đáng xấu hổ. Số là phường tôi ở có một căn nhà chủ bỏ đi nước ngoài năm 75. Nhà này biến thành trụ sở thanh niên của phường. Trong nhà còn đủ bàn, ghế và một tủ sách nhỏ. Theo anh chị đến đó, tôi thường mượn sách để đọc tại chỗ. Đến một ngày, tôi phát hiện sách trên kệ thưa dần. Tôi hỏi và ông anh trả lời rằng chúng đã được số thanh niên ở đây đem xé ra quấn thuốc hút và… đi vệ sinh.

Tôi phẫn uất và lo lắng. Nhìn lên kệ, tôi thấy quyển “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc. Quyển này tôi mê từ hồi chín mườì tuổi khi ông anh mượn về từ thư viện. Sách dày, có nhiều bài ca dao tục ngữ hay. Tôi biết chắc nó sẽ bị tanh bành theo mấy quyển kia.

Một thằng bạn trong xóm thường lên trụ sở này chơi đã bày cách cho tôi. Số là nhà này là căn hộ chung cư ở lầu 1, phía sau dãy nhà là con hẻm. Ngon ơ ! Buổi trưa, tôi và nó lên đó chơi. Lúc nào cũng có người ở đó nên không thể bỏ vào bụng áo một quyển sách dày cộm được. Theo lệ thường, tôi mượn mấy tờ báo thiếu nhi xem tại bàn. Đợi lúc một anh vừa rời căn phòng phía sau ra đứng ngoài hành lang trò chuyện với bạn, tôi đến kệ chộp ngay quyển sách đưa cho thằng bạn ngồi cạnh và biến nhanh xuống cầu thang, chạy ra con hẻm sau dãy nhà. Bạn tôi lập tức xuống nhà bếp, mở cửa thông ra phía sau và ném sách xuống đường. Sách nặng, rơi bộp xuống đất, bung ngay bìa. Tôi chụp nhanh và lỉnh về nhà, tim đập thình thịch.

Tôi rủ thằng bạn đi uống nước đá nhận và nó nhanh chóng quên chuyện đó. Còn tôi đem đóng lại sách, bọc ny lon và sung sướng lật nó đọc hằng ngày. Trong một thời gian dài, thỉnh thoảng lương tâm tôi lại dậy lên chuyện lấy cắp sách.

Khi nhà có độ ngàn quyển sách, ba tôi bắt đầu đóng kệ sách. Đang thời khó khăn, kệ là những miếng ván đặt thẳng góc với tường, cố định bằng những sợi dây kẽm dằng giữ. Cái buồng nhỏ nhà tôi bốn phía đều có kệ sách. Mỗi tường hai kệ, vị chi là tám kệ. Ở giữa là cái giường rộng và lối đi. Kệ sách là nơi bụi ưa thích, vài tháng quét một lần vẫn thấy có bụi. Ông anh tôi lên cơn suyễn thường xuyên thời gian đó. Kệ sách, thứ mà cả nhà đều biết là quý trở thành gánh nặng không muốn rời bỏ.

Một buổi chiều chủ nhật, cảm thấy mình có lỗi vì làm ảnh hưởng không khí trong nhà, tôi bắt đầu ngồi phân loại sách. Có những quyển truyện đọc đi không muốn đọc lại. Có những quyển vô bổ. Có những quyển có cũng được, không có không sao. Rất nhiều quyển làm dậy lên những cảm xúc mới mẻ. Một quyển sách hay mua được trong chiều chủ nhật. Quyển sách kỷ niệm đứa bạn thân không gặp lại nữa. Số sách không dùng, tôi tặng một nhà sư trẻ mê đọc sách và khi anh ta chở những bao sách ra về, tôi cảm thấy thanh thản vì đã không phụ những quyển sách chắt chiu bao năm nay.

Viết về sách thì có thể … viết dăm bài nữa vẫn chưa chán. Vừa rồi, tôi vui mừng tìm được quyển “Sống với sách” của Alan Powers. Cuốn sách nói về sự gắn bó với đời sống con người mà phương Tây, nơi phát minh ra máy in đã khiến sách dễ dàng phổ biến rộng và nhiều hơn, rẻ hơn trong xã hội, giúp con người phát triển nhanh hơn. Với góc nhìn riêng, tôi nghĩ nếu không có sách, cuộc sống này sẽ khó khăn biết bao nhiêu với rất nhiều người, trong đó có tôi. Với sách, chúng ta không cảm thấy bơ vơ. Sách góp phần không nhỏ nuôi dưỡng, chở che, xoa dịu tâm hồn và giúp ta lớn khôn. Dường như vấn đề nào trên đời này, kể cả cái chết, luôn có một quyển sách đang chờ ta ở đâu đó để lý giải, an ủi, trò chuyện và dẫn dắt ta đi.

Phạm Công Luận

Trích cuốn “Những lối về ấu thơ” viết chung với Đặng Nguyễn Đông Vy –

HỒI CÒN MA

Cây sung nằm ở đầu một bức tường chia đôi đoạn đầu xóm Bà Ba. Từ nhà tôi ra đầu đường Nguyễn Minh Chiếu phải đi ngang cây sung. Những buổi tối ra tiệm thuốc gác khi nhà có người cảm sốt, từ xa thấy cây sung tôi đã cảm thấy ngần ngại. Không thấy có người đàn ông nào ngồi trên cành cây hút thuốc và rít đỏ tàn thuốc trong bóng tối như lời đồn đãi, cũng không có tay hay chân ai rớt xuống nhưng trong buổi tối cuối năm lạnh, lưng tôi lạnh nhưng đầu tôi bừng bừng. Chạy!

Khổ nỗi, đó mới chỉ là chuyện đầu ngỏ bên kia. Nếu không thích đi con ngõ đó, tôi ra con ngõ phía đường Trương Tấn Bửu thì lại gặp cây keo. Nói đúng ra, từ khi tôi lên mười tuổi, ở đó chẳng còn cái cây nào hết mà chỉ còn nơi đã từng có cây keo với khoảnh đất trống tối mò vì không có đèn đường. Ai đó đã đồn cây keo có ma? Phải chăng từ chuyện một người lái taxi trong xóm? Do công việc, ông thường lái xe về khuya. Một lần, ông về tới xóm với mặt tái mét, kể với mọi người là khi lái xe về tới cây keo đầu ngỏ thì thấy có một cái mặt to chần vần hiện ra trước đầu xe khiến ông lái lọang choạng. Dì tôi lúc đó đang học trường Gia Long, có tính dạn dĩ nên bảo với ông là không tin trên đời có ma. Dì dặn là khi nào ông thấy nữa thì bảo cho biết, dì sẽ chạy ra. Lần khác, ông lại thấy “ma” xuất hiện lần nữa trước mũi xe. Ông chạy về nhà dừng xe kêu cái “két”, kêu dì cùng ra cây keo xem sao có chuyện lạ vậy. Không hiểu do sợ hay vì sao mà dì không chịu ra xem ma. Sau câu chuyện của ông lái taxi, cả xóm đồn cây keo đầu ngỏ có ma khiến phụ nữ và con nít đi ngang qua đó luôn thấy chờn chờn.

Nhưng có lần dì bị “ma” nhát thiệt. Sát vách nhà thờ Nam phía ngoài mặt tiền đường Trương Tấn Bửu, nay là Trần Huy Liệu, có một con mương sâu lộ thiên, nước luôn chảy róc rách. Một buổi đi học về trễ khi trời đã chạng vạng, dì thấy một bóng đen dưới mương ngoi lên, miệng ngậm cây nhang đỏ lè trong bóng tối. Giật thót cả mình nhưng dì gan góc định thần nhìn kỹ chính là chú Trọng, một thanh niên trong xóm. Như vậy, dì có sợ ma nhưng lần này lại do ma giả nhát.

Dọc đường tuổi thơ tôi không hề thiếu vắng những câu chuyện ma. Cách nay nửa thế kỷ, đèn đóm trong nhà khu ngoại ô còn tù mù nói chi đến đèn ngoài đường nên chiều xuống bóng tối dần chiếm không gian, các ngỏ hẻm tối thui. Cây mọc sân nhà, cây mọc ngoài rào, ban ngày lung lay cành lá và ban đêm biến thành ma lắc lư quơ tay quơ chân tùy theo trí tưởng tượng từng người. Ngoài phía đường rầy đã có người bị xe lửa cán và xe cam nhông 18 bánh của Mỹ cũng làm chết vài người gần đó. Trong xóm có người chết trận, có người thắt cổ vì chồng Mỹ bỏ về nước. Ai chết oan, chết ức đều thành ma quỷ từ những lời đồn. Mua xác nhà cũ, giở ra xây lại thấy treo trên cột nhà cuốn sách chữ Hán Tam Tự Kinh cũng nghĩ bùa thợ mộc ếm. Tuổi thơ tôi sống chung với những câu chuyện huyền hoặc đáng sợ và kích thích trí tưởng tượng như vậy.

Các bà chị trong xóm là nguồn phát tán chuyện ma và là hình thành đường dây loan đi xa. Những buổi tối cúp điện trời nóng và khi người già con nít, thanh niên trai gái ra ngồi hóng mát trong bóng tối của khoảng sân trước nhà là các thể loại ma bắt đầu xuất hiện. Chị tôi khẳng định đã có lần thấy một ngón tay ló ra lỗ khoá vào ban đêm, khi chị đi ngang cái cửa hông thông ra con hẻm bên nhà để ra sau nhà vệ sinh vào nửa đêm. Một chị khác kể khá nhiều chuyện ma nhà thương thí vì chị đã từng nuôi bệnh cho mẹ suốt mấy tháng trong nhà thương Sài Gòn. Một anh trong xóm kể có lần anh đi Thủ Đức trên xe ngựa vào buổi sáng sớm trời còn tối. Xe ngựa đang lọc cọc chạy trên đường, hai bên là ruộng và trời còn tối thui thì có từ phía sau xe ngựa, anh thấy có hai bóng đen từ hai phía bờ ruộng nhảy lên. Có điều lạ là mỗi người chỉ có một giò ở chân phía gần tim đường. Cả hai nhanh chóng nắm tay nhau nhảy lò cò rượt theo cái xe. Ngựa lồng lên, hí to. Ông phu xe quay lại nhìn rồi hốt hoảng quất ngựa chạy thật nhanh nhưng nhanh tới cỡ nào, hai bóng đen lò cò này vẫn rượt kịp. Trong xe, mấy bà đi chợ sớm đọc kinh lâm râm trong miệng. Hai bóng đen, tức là hai con ma một giò, chạy theo riết cho đến khi xe ngựa chạy gần tới đường xe lửa và có tiếng còi tàu hú cùng đèn sáng thì chúng mới biến mất. Nghe xong, các chị gái hít hà còn tôi thì ngờ vực: “Chuyện này em đã đọc rồi, trên báo !”Anh kia tỉnh bơ còn mấy bà chị còn lừ mắt bảo tôi im lặng. Sau này, tôi đọc lại câu chuyện đó trên một tờ báo thiếu nhi và nghiệm rằng đối với người nghe, quan trọng là mức hấp dẫn và hồi hộp của chuyện từ một giọng kể khéo léo, không ai quan tâm nó từ đâu ra.

Hầu như địa phương nào cũng có những chuyện ma gắn với cuộc sống ở đó. Đi ngang cầu Ông Tạ, tôi nhớ lời đứa bạn sống ở đó kể về bóng ma nó thấy (?) chạy từ công-xy heo, lò sát sinh hàng chục con heo mỗi ngày, nháo nhào ra cầu và nhảy ùm xuống rạch Nhiêu Lộc vào một buổi sáng sớm khi nó đi lễ nhà thờ. Đến khu Bà Chiểu, câu chuyện cô Ba Trâm thắt cổ sau trường Vẽ Gia Định vì bị hãm hiếp được nghe kể dài dài từ khu cầu Băng Ky đến Ngả tư Bình Hòa rồi vòng ra đường Vạn Kiếp. Những lời thì thầm như không dám kinh động quỷ thần của các bà trong ngày giỗ, về chuyện những người đi xe bò xe ngựa được quá giang bởi một cô gái tóc xõa và trả tiền bằng lá cây. Đó là những ngày xa xưa, đường xá vùng Gia Định buổi trưa thường vắng hoe vì đang giờ Ngọ nhiều âm khí và ma đang đi. Câu chuyện cô gái bị xe điện chạy trên cầu sắt Đa Kao tông đến nỗi đầu của cô bay lên tới vọng gác của lính Tây gây ấn tượng mạnh đến nỗi sau 1975, con nít lớn lên đường Bùi Hữu Nghĩa dưới dốc cầu vẫn được người lớn khuyến cáo là không được ra cầu sắt chơi ban đêm nếu không muốn hồn ma cô gái ra nhát.

Trong đợt du lịch xứ xa, những câu chuyện huyền hoặc được kể giúp chuyến đi đậm màu sắc văn hoá và đáng nhớ hơn những cuộc mua sắm vội vàng. Thành phố nào cũng có những chuyện ma, tất nhiên. Nói cách khác, ở đâu có người sinh sống là có chuyện kể về những con ma. Năm 2000, tôi đến Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh và nghe A Xủn, hướng dẫn viên du lịch, một người Việt gốc Hoa Móng Cái và sau năm 1979 là người Hoa, kể một câu chuyện ma xa xưa. Thế kỷ 15, hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh đã ra lệnh giết gần ba ngàn cung nữ chỉ vì ông nghĩ rằng một người vợ yêu dấu đã bị ai trong số đó đầu độc. A Xủn bảo đến giờ thỉnh thoảng vẫn có những người lính gác ban đêm ở đó nhìn thấy một người phụ nữ với mái tóc đen chạy vụt ra và có những âm thanh la hét, khóc lóc và tiếng gươm khua như đang đánh nhau. Tử Cấm Thành chỉ mở vào ban ngày, đóng cửa trước khi màn đêm buông xuống. Rời thành lúc chiều tà để đến một nhà hàng trước khi đóng cửa, khách du lịch nghĩ về thân phận con người, nhất là phụ nữ thời vua chúa phương Đông, được nâng niu và sử dụng như một bông hoa hay con thú cưng và có thể vứt bỏ không thương tiếc. Một vài lần khác, khách sang Nhật du lịch được hướng dẫn viên đùa rằng hãy cẩn thận đi xuống phố vào đêm khuya, khi đến cửa hàng tiện lợi tranh thủ mua quà. Có thể khách sẽ gặp một phụ nữ tên là Kushisake Onna, tên có nghĩa là “Người phụ nữ bị rách miệng “. Cô ta xuất hiện khi mang một chiếc khẩu trang trong phòng phẫu thuật và một chiếc áo khoác. Cô ta sẽ hỏi: “Tôi có đẹp không?”. Nếu nói không, cô ấy sẽ cắt đầu khách bằng một chiếc kéo lớn mà cô ấy mang theo. Nếu nói có, cô ta sẽ tháo mặt nạ ra, để lộ cái miệng bị rách từ tai này sang tai kia. Một câu chuyện khác là đừng bao giờ ngồi trong nhà vệ sinh khi không có giấy vệ sinh. Sẽ có Aka Manto (có nghĩa là “áo choàng đỏ”) có thể đang chờ bạn. Đây là một hồn ma ám nhà vệ sinh ở Nhật. Nếu ta ngồi trong nhà vệ sinh và không có giấy, con ma này sẽ hỏi: “Bạn muốn giấy đỏ hoặc giấy màu xanh?”. Nếu bạn chọn màu đỏ, bạn sẽ được cắt thành từng miếng. Nếu bạn chọn màu xanh, bạn sẽ bị bóp nghẹt đến chết.

Ma, âm hồn, người khuất mày khuất mặt… ám ảnh cả thời niên thiếu của rất nhiều người. Những cơn rùng mình khi đi ngang một nhà có người mới chết, những sợ hãi trong căn phòng tối khi trời mưa sầm sập và sấm chớp đì đùng bên ngoài, khi tiếng cú kêu ngoài cây chùm ruột trước nhà, những lần cùng anh em vừa sợ hãi vừa phấn khích trùm vội tấm mền khi cả nhà cúp điện… đó là những cảm xúc mạnh mẽ và tuyệt vời đã xa biền biệt, kể từ khi ta bước vào cuộc đời đầy tranh giành và gặp nhiều người còn đáng sợ hơn những con ma mơ hồ không bao giờ thấy đụng chạm đến ai trong thuở thiếu thời.

Phạm Công Luận

(Trích sách NHỮNG BỨC TRANH PHÙ THẾ. Xuất bản tháng 1 – 2019)

SÁCH DỌC ĐƯỜNG ĐỜI (trích)

Những năm 1990, ở các bến xe đò thường thấy có những người bán sách dạo. Họ ôm bằng hai tay một chồng sách cao gần tới cổ, rảo quanh bến xe mời khách mua sách. Sách gồm những tựa dễ đọc, tác giả dễ đọc. Nếu không là truyện của Hồ Biểu Chánh, thì là những cuốn sách giật gân ăn khách hay ly kỳ hấp dẫn kiểu như “Vụ án đêm giao thừa”, “Lửa hận rừng xanh”, “Một thời ngang dọc”. Ai cần mua cứ gọi họ đến ngay, đặt chồng sách xuống, tay rút vài cuốn đang ăn khách để mời. Khách sẽ chọn một cuốn ưng ý để giết thời giờ trên chiếc xe đò liên tỉnh chạy chậm rì. Lâu lâu có người mua vài cuốn làm quà cho người ở quê. Kiểu bán sách dạo này không phổ biến so với bán báo dạo, nhưng không phải mới mẻ mà đã có từ lâu

Nhà văn Nguyễn Hiến Lê trong bài viết “Kỷ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn” (giai phẩm Bách Khoa số kỷ niệm 16 năm và Xuân Quí Sửu 1973) kể là quê ông ngoài miền Bắc ngày xưa còn có những người bán sách dạo mà ông thấy chỉ được một hai lần. “Họ gánh một đôi bồ chứa đầy sách ghé vào nhà bác tôi ở quê. Có lẽ mỗi năm họ mới ghé một lần, bán sách thì ít mà đổi sách thì nhiều: đổi sách lấy giấy đã viết rồi để ra tỉnh bán ra cho những nhà làm lọng làm quạt. họ cũng như hạng người di mua giấy báo cũ bây giờ. Về sau số người cần sách mỗi ngày một hiếm, họ không đổi sách mà đổi kẹo mạch nha lấy giấy: rồi sau nữa người học chữ Nho mỗi ngày một hiếm, giấy cũ cũng không có, nghề đó dẹp luôn”.

Trong báo Sài Gòn, Số 14344, ra ngày 8 Tháng Tư 1940, bài viết “Nghề xuất bản sách” (không ghi tên tác giả) cho biết tình hình bán sách báo lúc đó đang ế ẩm, chán ngán nhưng thực tế có hai người biết cách bán sách rất chạy dù không làm xuất bản. Đó là hai ông Phạm Đình Khương và Phạm Văn Thình. Hai ông chỉ phát hành thơ, truyện, tuồng, bài ca thôi mà làm ăn khấm khá. Khắp các chợ nhỏ từ thành thị ở thôn quê đều có tiệm bán sách của hai ông. Các loại sách này thường để chung các đồ vật vụn vặt của người bán dạo bày trên chiếc chiếu trải dướt đất: dao, kéo, gương soi, thuốc phong tình, thơ Chàng Nhái, vọng cổ ân tình v.v… Tác giả đi xuống Cà Mau thấy có năm người bán sách của hai ông này. Còn ở chợ các tỉnh khác ở miền Nam có khá đông người hai bên dãy phố quanh chợ. Ông tả: “nhiều nơi, họ choán một góc trong nhà chợ, dăng dây bốn phía và treo loại sách này lên như thầy pháp lập đàn trận. Những tranh bìa các sách này sặc sỡ, màu in phủ tràn, nét vẽ ngoằn ngoèo, người không ra người, nhà không ra nhà, cây không ra cây, như bùa chú của pháp sư phá đàn, trông rất buồn cười. Anh chèo ghe, người phát cỏ, người bán hàng gánh đều có thể mua được, đọc được, ngâm nga được”.

Tác giả cho biết thêm là cả hai “nhà xuất bản” này tái bản mỗi cuốn hơn năm lần, mỗi lần 2 ngàn cuốn, tức một cuốn thơ bán ra mười ngàn cuốn, bán gái 5 xu, một cắc hay lên tới hai cắc tùy cuốn. Người mua về bán lại, theo giá trăm, tức giá sỉ. Họ mua mỗi lần cả trăm cuốn, “lạm xạm đủ thứ”, nhất là bài ca bán rất được.

Về cách trữ sách trong nhà, nhà văn Nguyễn Hiến Lê trong bài viết dẫn ở trên kể ngày xưa, hầu như là sách chữ Hán, ở miền Bắc khoảng thập niên 1920: “Hồi tôi còn để chỏm, nhà tôi không có tủ sách mà chỉ có hai cặp sách. Cặp sách của chúng tôi cao độ tám tấc gồm bốn cái cọc một tấm ván gọi là đế, bề mặt bằng khổ tờ giấy bản gấp đôi, nghĩa là chiều dài độ ba tấc, chiều ngang hơn hai tấc (tôi nhớ phỏng chừng như vậy), đóng hai quai để treo lên, hoặc xách hoặc khiêng, thêm một tấm ván nữa ở phía trên để dằn sách xuống. Khi đổi chỗ ở thì có người gánh, y như trong truyện Kiều: “Túi dàn cặp sách đề huề dọn sang”. Một cái cặp như vậy chứa Tứ thư ngũ kinh, ít bộ Bắc sử và bộ Khang Hi tự điển thì vừa đủ. Còn cái nữa chứa một ít sách thuộc, địa lý (tức sách phong thủy), tử vi, bói, vài bộ ngoại thư: Tình sử, Liêu trai, Đường thi, Tống thi, Văn tâm Điêu long và ít cuốn sách Nôm: Kiều, Hoa Tiên”.

Ông kể có một ông bác chỉ có hai cặp sách gồm sáu bảy chục bộ mà đã nhiều sách nhất Tổng. Khi ấy muốn mua sách thì xuống Hà Nội đến một tiệm ở phố Hàng Gai. Khoảng năm 1925 ở đó còn có dăm bảy tiệm bầy những sách in mộc bản ở trên một tấm phản kê hơi cao. Có chừng trăm thứ sách rẻ tiền, còn sách quí cất riêng ở trong. Ít năm sau các tiệm đó cũng dẹp luôn, thay vào là những tiệm bazar.

Trên đất nước có khi hậu nóng ẩm, sách trong tủ thường phải đem ra phơi. Báo Phụ Nữ Tân Văn, Số 198, 4 Tháng Năm 1933 có bài Tản văn “Phơi sách” của Phanh-Ni khá điệu đàng, có đoạn: “Lại ngồi trên chiếu, chung quang ngỗn ngang những sách chinh chòng, tôi ngó qua một vòng, hay trong lòng hơi cảm động như đi tình cờ gặp lại bạn cũ, mắt nhìn nhau chan chứa cảm tình. Bao nhiêu sách gợi bao nhiêu ngày xưa, bao nhiêu tình cũ. Có đủ cả sách đấy: sách bằng thưởng cuối năm ở trường học, từ lớp nhỏ đến lớp lớn, sách in đẹp thay, sơn son thếp vàng, trên bìa đầy những bông hoa chạy lẫn chỉ vàng, cầm lên lại bâng khuâng nhớ những ngày… những ngày xưa, buổi mình đưa tay lãnh sách, trái tim đập mạnh như vỡ ra nhồi máu trong đấy như xung hết lên mặt, nóng đến hai tay…”. Bà Tùng Long, nhà văn nữ viết truyện xã hội nổi tiếng trước 1975 kể trong Hồi ký về thú đọc sách của mình hồi còn nhỏ trong gia đình. Có cha là công chức Sở Thương chánh thích đọc sách báo và có viết bài gửi cho báo Nam Phong, Hữu Thanh, mua rất nhiều sách báo nên bà may mắn từ nhỏ đã sống với sách báo thơ văn. Sách của người cha để đầy các tủ, mẹ của bà lãnh phần chăm sóc đống sách báo không để mối mọt gặm nhấm. Mỗi tháng một lần, người mẹ chọn ngày nắng ráo đem sách ra phơi, bà Tùng Long còn làm một bé gái lãnh phần trông sách. Vừa trông vừa đọc báo, đọc sách có khi say mê đến nỗi ngồi ngoài nắng mà không biết.

Đối với những người có điều kiện kinh tế, sách báo được mua về vẫn được xem là thứ vật chất quý giá để giữ gìn. Tôi có đọc câu chuyện trong một cuốn bút ký sau 1975, về một anh trí thức Sài Gòn nhà giàu Tây học bỏ nhà theo kháng chiến. Nói về sự kiên quyết dứt bỏ giàu sang của anh ta, tác giả kể anh không hề tiếc ba thứ là ngôi biệt thự, cái tủ rượu và một tủ sách đồ sộ. Bộ ba này được coi là những thứ phong lưu bậc nhất mà người thời ấy có được.

***

Trong gia đình tôi, hầu như ai cũng thích đọc sách từ ba mẹ đến các con, dù đã đi làm hay còn đi học. Tuy vậy, cách nay năm mươi năm, số sách trong nhà chỉ độ vài chục cuốn đọc đi đọc lại. Quý nhất chỉ là vài bộ truyện Tàu, bộ Việt Nam Thi nhân tiền chiến, vài tập thơ và vài sách bình luận văn chương của ông anh học Văn khoa. Góp chung chỉ đủ một kệ sách dài khoảng hai mét. Chỉ nhờ các tiệm cho mướn sách, từ giữa thập niên1960 anh em chúng tôi mới có thể đọc được nhiều sách.

Sinh thời, ba tôi còn giữ ký ức về chợ sách trên lề đường Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần khu chợ Đũi) khoảng 1954. Đọc cuốn Một mảnh tình riêng của nhà văn Sơn Nam, thấy ông cũng nhắc tới chợ sách lề đường này và cho đó là “nét đẹp nhất vào màn chót của việc chấm dứt một thế kỷ đô hộ của người Pháp”. Ở đó bán nhiều cuốn sách quý một thời của những người sưu tập cất trong thư viện gia đình, mạ chữ vàng. Ông kể : “Nhiều quyển nhất là sách khảo cứu bán rẻ, thí dụ như sách cơ bản để tham khảo về văn minh Chăm, điện Ăng-ko, đạo thiền, toàn tập văn chương của những bậc lừng danh Pháp, hoặc Đức, Anh dịch sang chữ Pháp. Sách của những luật sư kỹ nghệ gia Pháp từng lưu trú lâu đời ở Sài Gòn, già rồi họ về xứ để nhắm mắt. Lại còn sách lấy ra từ các thư viện các câu lạc bộ sĩ quan Pháp, câu lạc bộ thể thao, đồn điền cao su”. Đây là cơ hội hiếm hoi để sở đắc những cuốn sách đẹp và quý với kỹ thuật đóng sách cao cấp hơn hẳn thời sau này. Tuy vậy, dù là sách vỉa hè, dù giá bán rẻ hơn trước nhưng theo ba tôi, giới bình dân không mua nổi vì giá vẫn còn khá cao so với thu nhập của họ.

Đầu thập niên 1960, đại lộ Lê Lợi trở thành thiên đường của giới ham đọc và ham học. Ở đó, ngoài khu bán sách vỉa hè phía bên vỉa hè gần nhà thương Sài Gòn và các quán bán sách báo và bưu ảnh, còn có khoảng chục nhà sách, lớn nhất là Khai Trí, và các nhà sách Tự Lực, Việt Bằng, Vĩnh Bảo, Dân Trí, Khai Trí, Phúc Thành, Lê Thành Tuân, Việt Hương, Nguyễn Văn Trung, Văn Hữu, Lê Phan, Hoa San, Thu Tâm… Người đọc lúc ấy ra đến đó là mê mẩn, nhưng mua phải dè sẻn. Nhà sách Khai Trí có cho đọc tại chỗ nên có rất nhiều người tranh thủ coi cọp, tranh thủ nạp cho nhanh cho nhiều chữ nghĩa vào đầu không mất tiền.

Trong hành lang Eden khoảng thời gian này có ba nhà sách bán sách báo ngoại quốc, nổi bật là một tiệm sách tiếng Anh tuy nhỏ nhưng khá nổi tiếng lấy tên là Book Shop. Lúc đó, phong trào học Anh ngữ đang lên, người Sài Gòn đến học các trường tư dạy tiếng Anh để mong tìm được việc làm thư ký hay phiên dịch ở các hãng buôn ngoại quốc, các sở thông tin hay các tòa Đại sứ Anh Mỹ. Lúc đó chỉ có sách dạy tiếng Anh cho người Pháp, người Mã Lai, người Thổ Nhĩ Kỳ .v.v… Hiệu sách này ra đời đáp ứng như cầu đa dạng hơn về sách tiếng Anh. Được nơi thành lập là Hội Ái hữu Phụ nữ Hoa Kỳ đứng ra nhập sách báo xuất bản tại Mỹ về Việt Nam, hiệu sách có đủ các loại: Tiểu thuyết best-seller trong năm, sách khảo cứu đủ loại từ làm vườn, trang hoàng nhà cửa, nuôi con… cho đến sách hội họa, văn chương, chính trị. Ngoài ra, có cả các tuần san, nguyệt san như Life, Saturday’s Evening Post, Esquire, Photography v.v… Riêng sách học tiếng Anh có đủ sách dành cho các cấp độ, từ Tự điển bỏ túi cho đến Bách khoa từ điển. Tuy nhiên mỗi tựa sách ngoại ngữ nhập về đây không nhiều lắm nên chỉ một thời gian ngắn là hết veo.

Các cuốn sách quý thật sự trở thành của cải, có giá trị mua bán trao đổi trong giới đọc và chơi sách. Trong thư viện gia đình của dân chơi sách tầm cỡ, thường là khá giả trở lên, sở hữu nhiều sách giá trị mà nhà sách hay có khi thư viện không có, hoặc không phong phú bằng.

Hồi mới lớn, sau 1975, tôi có dịp vào hai ngôi nhà mà cả nhà đã bỏ ra nước ngoài. Một ngôi nhà trong cư xá Nha Trước bạ ở Phú Nhuận của một bác sĩ, có phòng tập thiền bằng gỗ và một tủ sách nhỏ ở phòng khách. Tủ sách toàn những cuốn dày như “Papillion, người tù khổ sai”, “Tội ác và hình phạt”, “Bản du ca cuối cùng của loài người không còn đất sống”, bộ “Thành ngữ điển tích danh nhân tự điển”, cuốn “Tình em vỗ cánh” cùng nhiều cuốn tạp chí Thời Nay. Lần đầu tiên tôi được cầm những cuốn sách đó trên tay, mới toanh và cứng cáp, không bị đóng kẽm cứng ngắt đến mức đọc mất chữ gần phía gáy sách như các tiệm cho mướn sách hay làm. Tuy mê mẩn nhưng tôi chỉ dám mượn một cuốn để đọc. Sau đó, nó nhanh chóng vơi bởi những người giữ nhà không thích đọc sách mà dùng vào việc khác, chỉ một tháng sau đó. Tủ sách thứ hai ở một ngôi nhà phố trong hẻm của người Hoa trong Chợ Lớn. Buổi tối đứa bạn trong xóm có người chị làm ở cơ quan tiếp nhận nhà người bỏ ra nước ngoài rủ tôi đến đó tìm chị nó. Chị biết tôi thích sách nên bảo là sách chủ nhà để lại nhiều lắm, thích thì cầm về. Tôi háo hức vào xem, hoa mắt nhìn các dãy kệ có rất nhiều sách art books, các tập tranh Hoa điểu, đồ sứ cổ, đồ gốm và đồ gỗ kiểu xưa bên Tàu. Tôi chọn một cuốn vẽ các loại khủng long in màu rất đẹp, sách tiếng Hoa in ở Hồng Kông. Về nhà, giở cuốn sách dưới ánh đèn, tôi thấy rớt ra một tấm ảnh chụp năm người, hẳn là một gia đình có hai vợ chồng, cô con gái lớn và hai cậu con trai nhỏ hơn. Trong hình, cả nhà ăn mặc đẹp, dáng vẻ phong lưu và nền nếp. Tôi vẩn vơ nghĩ về gia đình đã ra đi ấy. Hẳn là ngày xưa họ đã có những ngày sống hạnh phúc bên nhau, đã có những buổi tối trong căn nhà đó, có hai cậu con trai được người cha chỉ xem và giải thích từng bức tranh các loài bò sát cổ đại trong sách. Tủ sách này hẳn đã được chắt chiu góp nhặt trong nhiều năm và là trung tâm của đời sống tinh thần của gia đình này, để rồi cuối cùng phải bỏ lại.

Tôi biết trên thế giới này, có rất nhiều người không cần đọc sách vẫn có cuộc sống hạnh phúc hay yên ổn cả đời. Nên viết về chuyện đọc sách, mua sách, khen chê cái hay cái dở trong một cuốn sách hóa ra chỉ trong thế giới những người đọc sách. Tản mạn về thú đọc sách là muốn chia sẻ điều mình nghĩ trong thế giới chỉ dành riêng cho ai tìm đến niềm vui, sự thức tỉnh và thổn thức trước những trang sách.

Phạm Công Luận

Phạm Công Luận: Vẻ hấp dẫn của ký ức

Có người nói: “Viết, một cách nào đó, là chết”. Có những câu chuyện cũ, không có gì độc đáo nhưng ta muốn giữ cho riêng mình. Một ngày, ta ghi lại kỷ niệm ấy trên trang giấy, rồi được nếm trải cảm giác sung sướng khi bài viết nên hình nên dạng, được đăng trên sách, báo… Đến lúc nào đó ngồi lục lại trong trí nhớ, ta bỗng thấy những kỷ niệm lấp lánh ấy không còn đậm đà trong lòng mình nữa, không còn làm ta thao thức nữa, nó “chết” dần theo từng con chữ, để lại vài hình ảnh mờ nhạt. Điều đó như một quy luật tự nhiên.

Có một dạo tôi miệt mài viết về những cái Tết trong gia đình khi còn cha mẹ. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc khi ngồi trước màn hình máy tính hoặc trong bóng đêm thả trí nhớ bay về miền xanh thẳm thơm mùi thuốc pháo ở những ngày xưa. Sau đó, những chuyện cũ như phai dần sau một lần lấy ra từ trong kho của kỷ niệm, giống như cuốn sách cổ trong hầm mộ tan thành bụi bay theo gió khi phơi ra ánh sáng mặt trời.

Khi có nhà riêng, anh bạn tôi tách gia đình nhỏ ra khỏi cuộc sống đại gia đình và dần thay đổi lối sống, từ cách trang trí nhà cửa trở đi. Ngày Tết, cả nhà đi du lịch nước ngoài, cửa nhà khóa kỹ vài lớp. Anh kể rằng thật thoải mái khi mấy ngày Tết không bị ràng buộc bởi những kiểu cách xã giao như trước kia. Anh không cần mua hoa về chưng, dọn bày cỗ bàn, cúng kiến, xông đất, cúng giao thừa, tiếp khách.v.v…

Một lần, ngồi bên hồ bơi ở một resort xứ người để trông con đang ngụp lặn dưới nước, anh sực nhớ hôm nay là mồng Một Tết. Anh nhớ trong căn nhà cũ kỹ một thời, nơi sum họp của gia đình bảy người con cùng cha mẹ khi xưa. Anh nhớ cái bàn thờ sáng choang với lư đồng mà chính tay anh, đứa con trai út trong nhà mỗi năm nhận phần việc lau chùi bằng khế, chanh. Anh nhớ dáng cha bận bà ba trắng đứng thắp nhang trước bàn thờ, dáng mẹ ngồi cắt củ kiệu và nhớ cảm giác sung sướng khi mang từng cái sàng tre sắp đầy kiệu và củ cải lên phơi trên sân thượng trong cái nắng thơm dịu của tháng Chạp ta. Anh thấy buồn thiu, rồi tự nghĩ tốt nhất là cất cho kỹ cái tâm trạng u uẩn ấy, vì những người thân yêu quanh anh khó mà hiểu được những gì thuộc thế giới tuổi thơ của anh mà họ không từng có mặt.

Có khi vợ anh, khi sống trong nhà chồng, cũng từng cảm thấy lạc mất nhiều cảm xúc của tuổi thơ, của quê hương, của kỷ niệm và của những nghi thức ở tôn giáo mà cô ấy gắn bó từ nhỏ. Tối đó, anh ngồi trên một góc giường phòng nghỉ, gõ phím ghi lại từng dòng về những thổn thức trong lòng. Anh thức để viết đến một giờ sáng, lưu lại và mỏi mệt nằm xuống ngủ khi tâm trạng đã nhẹ nhàng hơn. Biết mình không quen viết lách có văn vẻ, câu cú có lộn xộn, nhưng đó là liều thuốc hay. Anh bớt đi nhiều cảm giác nhớ nhung, cảm thấy việc viết lên trang giấy chẳng khác chi đốt một lá bùa, để những sầu não bay đi và tâm bình yên hơn.

Nhiều lần tôi thấy mình bị lạc trong mớ ký ức hỗn độn của “những năm niên thiếu dịu dàng và tuổi trưởng thành khắc khổ” (nói như Gogol), trong đó từng có những câu chuyện buồn, đáng xấu hổ và đầy giận dữ. Nhưng cho dù ký ức xấu cũng là ký ức, tôi chỉ thích nhớ những chuyện vui khiến mình từng thấy hạnh phúc.

Sự nghiêm khắc của cha trở nên dễ thông cảm, câu răn dạy khó chịu của ông anh cả chứa đựng sự chăm lo thương yêu trên bước đi của đứa em đang trưởng thành. Phải chăng đó là màng lọc không chỉ tạo nên từ lý trí mà còn từ sự thông hiểu và biết ơn, mà khi trưởng thành ở tuổi nào đó ta mới có được.

Viết về ký ức phải chăng chỉ là sự trốn chạy thực tại?

Tôi không nghĩ mọi chuyện đơn giản như vậy. Khi viết về quá khứ, tôi nhận ra mình là ai, những gì đã tác động đến mình để trở thành một con người đủ cả những tính tốt và xấu, với những điều mạnh mẽ lẫn yếu đuối trong tính cách không dứt bỏ được. Tôi hiểu rõ hơn vì sao mình yêu tha thiết một thành phố dù nó dần dần không giống như mình yêu thương, vì sao gắn bó với những xóm giềng, cây cỏ, thời tiết, khí hậu chung quanh khi chúng đã dần biến dạng. Và vì sao, luôn cố gắng truyền cho con một điều gì đó của quá khứ, dù các con thật ra đang sống để hình thành một quá khứ cho tương lai của các con. Đó là mật mã để gắn kết các thế hệ mà nhiều khi mong muốn truyền đi như là một thứ bản năng có sẵn. Có lẽ đó là lý do các cụ già thích kể chuyện xưa.

Dù sao, thời thơ ấu là thời gian đẹp nhất đời người cho nên viết về tuổi thơ là niềm vui thực sự. Bằng bàn phím, tôi du hành ngược thời gian, để được lần nữa nếm miếng bánh tráng kẹo mạch nha ngọt lịm của ngày xưa, hút nhụy hoa trong cuống bông bụp trồng bên hàng rào, nhai lại hạt điệp vàng thơm bùi và đăng đắng… Đó là những khoái cảm đơn sơ nhưng nhớ lâu.

Nên cho dù, viết là “làm chết” hay “làm mòn” những kỷ niệm, tôi vẫn muốn viết về những ngày xưa. Kỷ niệm càng đào, càng khai thác càng đầy và lộ ra những điều từng quen thuộc nhưng lạ lùng như mới gặp lần đầu. Đó là vẻ hấp dẫn khi được đào bới kho tàng ký ức.

Phạm Công Luận
(Nguồn: Tác Giả cho phép)