VIẾT ĐỂ CHỊU TỘI

Tôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đã rời gia đình, bỏ thành phố và ra đi biền biệt.Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm Mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế: về ngay, ba hấp hối.Với một gói hành lý vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đình và thành phố là tôi, đã trở lại Huế để chịu tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đã phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ. Sau cả tháng dài lăn lộn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàigòn, tôi đã thao thức mãi về việc phải thắt một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi ký về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tết Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vã của Huế, người ta còn bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những xót xa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng cũng lại là sâu sắc nhất của một thành phố hấp hối.Chính vì vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sống hồi ấy, mặc dù được tòa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đã cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, thì ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ý xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế. Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đã gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đã tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đã tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vã của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đã bớt ồn ào.Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế.Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chịu trách nhiệm.Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dắt súng lục bên hông, hăng hái đi lùng người này, bắt người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc, một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu Tý, giơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc :”- Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm… Hồ chủ tịch muôn năm” .Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngã gần hết. Cũng chính trong thời đại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đã có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa rỡn cho những mũi súng hờm sẵn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hãi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không có tình bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa giòng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác gì thân phận của con chó nhỏ đã chới với giữa giồng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa.Gần hai năm đã qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang đèn góp giỗ.Xin mời bạn, chúng ta cùng thấp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.”

NHÃ CA

ĐI TRONG TUỔI NHỎ

nhaca

Nàng đã đứng dậy, nàng đã đi
Gió biển mênh mông và nước mắt
Nước mắt tan trong thân thể nàng
Nàng ướt sũng
Và trí nhớ bốc hơi
Trời thì xanh và cao
Nàng thì bé bỏng
Biển xô nàng xuống

Trong khu vườn trẻ thơ của nàng
Có một bầy ngựa
Khu vườn rộng, cẳng ngựa dài
Mỗi buổi chiều
Bầy ngựa nô giỡn cùng cô bé
Những buổi chiều không bao giờ tắt

Trong khu vườn trẻ thơ của nàng
Có một người đàn bà
Người đàn bà điên và chiếc thanh la
Đi vòng quanh, đi vòng quanh
La hét cùng cô bé
Những tiếng la không bao giờ tắt

Trong khu vườn trẻ thơ của nàng
Có mặt trời
Mặt trời và những chàng hiệp sĩ
Những đứa trẻ bụng to hơn đầu
Những người đàn ông đầu to hơn bụng
Và những người đàn bà tong teo
Ngậm kín như miệng hến những nụ cười
Nhẫn nhục
Tất cả được mặt trời nuôi sống

Trong khu vườn trẻ thơ của nàng
Có một con đường
Con đường trôi ra biển
Với hai hàng phi lao
Lặp lại những lời ru của mẹ
Hai hàng phi lao và những ghe cá mắm
Cá và mắm ngọt ngào như hơi thở
Đến bây giờ chưa nguôi

Trong khu vườn trẻ thơ của nàng
Có những con rắn con
Trườn mình dưới chân ngựa

Và người đàn bà có đôi đũa
Khi đôi đũa giơ lên
Bầy ngựa lồng lộn quanh vườn và mất hút
Những con rắn kêu than
Ngựa hồng ôi ngựa hồng
Ngựa hồng ta đâu, ngựa hồng ta đâu
Chiếc thanh la gào hốt hoảng

Trong khu vườn trẻ thơ của nàng
Có những con dã tràng
Những hòn sỏi trắng và cát vụn
Và rất nhiều những dấu chân bé bỏng

Những con ốc những con rù rì
Và rất nhiều hang hốc
Trò chuyện mãi không thôi

Trong khu vườn trẻ thơ của nàng có tất cả
Tất cả những gì mọi người có thể nghĩ ra
Sự giáo dục đó thổi lớn cô bé lên
Bầy ngựa dạy nàng sự hung hãn
Người đàn bà điên dạy nàng
Những ảo tưởng
Con rắn dạy nàng sự khôn ngoan
Bầy dã tràng dạy nàng sự tan vỡ
Mặt trời dạy nàng sự nhẫn nhục
Và biển dạy cho nàng khóc lóc

Nàng đã đứng dậy, nàng đã đi
Đi hung hãn đi khôn ngoan đi tan vỡ
Đi nhẫn nhục đi khóc lóc
Đi trên con đường trôi ra biển
Nàng hỏi thăm bè bạn và biển dịu dàng
Biển dịu dàng trả lời bằng cơn bão
Mùa đông
Mùa đông ôi mùa đông
Mùa đông làm những bạn bè nàng trốn hết

Nàng đã đứng dậy nàng đã đi
Đi dần về cái chết

NHÃ CA

Nguồn: Thơ Nhã Ca, NXB Thương Yêu, 1972

BƯỚC TÀN PHAI

nhaca

Rồi những chiều đi nuôi nhớ thương
Mây mù chia dạt nắng tha phương
Đường về chân lạnh sầu xa ngái
Tôi thả hồn trôi giữa phố phường

Mà phố chiều nay cũng vắng người
Như lòng hoang vắng mãi không thôi
Sầu xưa thức dậy trên vai nhỏ
Về ướt lòng tay nửa tiếng cười

Thôi thế thôi người đi quá xa
Chiều hôm dòng nước cắt trong da
Bờ cây dài những mùa đông trắng
Sao nói rằng yêu tôi thiết tha

Chân vẫn đi về trên lối xưa
Hồn tôi như lạc giữa rừng mơ
Rừng mơ sương khói pha mù lối
Sương khói mù nâng những bước hờ

NHÃ CA

Nguồn: Thơ Nhã Ca, NXB Thương Yêu, 1972

THANH XUÂN

 

Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây
Người đi chưa dạt dấu chân bày
Bàn tay nằm đó không ngày tháng
Tình ái xin về với cỏ may

Rồi lá mùa xanh cũng đỏ dần
Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân
Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng
Và nỗi tàn phai gõ một lần

Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười

Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh em cũng tợ sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ

NHÃ CA

Bài Tháng Sáu

nhaca

Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (1939-), sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960-1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết.

Một số tiểu thuyết Nhã Ca đã được đưa lên màn ảnh. Hãng phim Việt của Đạo diễn Hà Thúc Cần đã dựng một phần “Giải Khăn Sô cho Huế” thành phim Đất Khổ. Hãng Lidac, với đạo diễn Lê Dân, đã đưa cuốn tiểu thuyết Cô Híp Py lạc loài lên thành phim Hoa mới nở. Hai cuốn tiểu thuyết khác của Nhã Ca, Đoàn nữ binh mùa thu và Tình ca trong khói lửa đỏ, cũng đã được hãng Phim Việt mua bản quyền.

Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội “biệt kích văn hóa”. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống “Việt Báo Daily News” tại Quận Cam.

Với thân nhỏ chín muồi trăm tội lỗi
Tôi trở về mang tủi nhục trên vai
Giữa ngả ba đường tay hờ gối mỏi
Tôi cầu xin đời ban phép lạ tương lai

Người cũng vậy lòng muôn nghìn dối trá
Vờ thương yêu vờ đắm đuối ân tình
Tôi trót dại, tin lời trao tất cả
Đâu biết người mang nửa dạ yêu tinh

Thôi tình ái hãy về theo ảo mộng
Ta lỡ đi xa hết nửa đời rồi
Người phụ rẫy, ngày điêu tàn đứng bóng
Đêm nghẹn ngào chan muối mặn trong môi

Tôi đã biết tội thân làm con gái
Đời không thương tất cả héo khô dần
Không hiểu về đâu để cầu sám hối
Tôi đốt lỡ lầm theo với tuổi thanh xuân

Tên người ư, đã trở về bóng tối
Tôi đã vô tri giữa tháng năm dài
Và mỗi bận có một người nhắc lại
Tôi cố tìm nhưng chẳng nhớ tên ai.

Nhã Ca