Barbara

 

Rappelle – toi Barbara
Il pleuvait sans cesse sur Brest ce jour – là
Et tu marchais souriante
Epanouie ravie ruisselante
Sous la pluie …
Rappelle – toi Rappelle – toi
quand même ce jour – là
N’oublié pas
Un homme sous un porche s’abritait
Et il a crié ton nom
Barbara


Jacques Prévert (Paroles)

Khi chiếc xe màu xanh vừa phóng qua mặt đường làm bắn tung nước lên áo anh cùng với tiếng cười nhọn và khô, anh chợt có cảm tưởng hạnh phúc của chính mình cũng đã bị ướt ngoi như một người đi dưới cơn mưa tầm tã.

Em có còn nhớ tảng đá xanh dưới chân cầu bắc qua sông Potomac, nơi mình đã ngồi nhìn dòng nước chảy vào một chiều mùa hè, khi xe chúng ta bị hỏng ở bức tường Cựu Chiến Binh Việt Nam trên đại lộ Constitution? Bây giờ chắc nơi đó con sông đã đóng băng và những chú chim, chẳng biết tên là gì, có lẽ đang đi nhởn nhơ trên mặt nước đã đông cứng? Có bao giờ, từ sở về mỗi chiều, em tấp vào con đường Hai Mươi Mốt, thả bộ qua sân cỏ, nơi các học sinh Mỹ chơi trò đá bóng, đến ngồi ở tảng đá kia nghe lại hơi thở điên cuồng của hai con người sau hơn mười năm trời mới gặp lại nhau?

Buổi sáng thức dậy, trước khi đi làm, em có phải lội tuyết ra sân, áo khoác, khăn quàng cổ, nón len, găng tay và một bình nước sôi đổ vào ổ khóa cửa xe đã bị đóng đá, cho máy nổ và chờ mọi thứ “tan ra”, defrost. Những chiều trên “xa lộ vòng đai” từ Hoa Thịnh Đốn trở về, xe em có bị nghẽn ở đường vào ngã Backlick? Và Cánh Đồng Mùa Xuân, Springfield, thành phố của em, đã ngập chưa cái màu trắng lạnh lùng của ông thần Băng Giá?.

Hôm qua ở đầu dây điện thoại viễn liên, anh nghe tiếng em nói chuyện với các bạn đồng nghiệp, giọng nhẹ nhàng và trơn tru như một người dân bản xứ. Còn anh, cái thứ tiếng Mỹ “ăn đong”, vừa nói vừa suy nghĩ, vừa ráp chữ, vừa tìm cách phát âm, giống như một người leo dốc với một cái bọc bự mang trên vai hì hà hì hục, mà chẳng giúp ai hiểu được mình nói gì. Nhưng cũng chẳng sao, anh đang sống giữa một cộng đồng Việt Nam, anh vẫn nói tiếng Việt y như hồi còn ở Sài gòn. Mặc dù căn nhà anh ở, một bên là gia đình Mỹ đen, một bên là dân Đại Hàn, phía trước là Mễ Tây Cơ, phía sau là Phi Luật Tân, anh vẫn cứ nói tiếng Việt như một người chưa hề ra khỏi đất nước. Có người bạn sống ở miền Đông Bắc trách anh sao chọn chi một chỗ ở như thế! Rồi con cái sẽ hư hết, sẽ học hành dốt nát, sẽ cao bồi du đãng, sẽ… Có thể tất cả những điều mà người bạn ấy nói đều đúng, nhưng… khi người ta đã mất quê hương thì nơi nào trên trái đất này còn có được chút màu sắc, mùi vị, văn hóa dân tộc mà chẳng lôi cuốn người ta. Anh đâu phải là một người kén cá chọn canh. Phải không?

Một người Pháp hay một người Đức, nói chung là một người Âu Châu, khi đến Mỹ họ đã có ngay một mẫu số chung là màu da và màu tóc, là chiều cao và sức nặng, là vóc dáng và tổ tiên trước của họ. Họ chỉ còn có cái trở ngại duy nhứt là ngôn ngữ. Bức tường ấy tuy vậy mà cũng không phải là khó leo. Còn chúng ta, những người Á Châu da vàng mũi tẹt, chiều cao thì khiêm tốn, sức nặng thì nhẹ nhàng, tóc đen nhánh, mắt nâu buồn… Chúng ta xa lạ biết bao với người bản xứ. Chúng ta có cố gắng lắm cũng chỉ là một thứ dân thiểu số nói tiếng Mỹ. Chúng ta là những người Mỹ nói rất ít tiếng Mỹ. Rồi ra con cái chúng ta, và cả chúng ta nữa, sẽ là những công dân Mỹ, tất nhiên. Nhưng bao lâu nữa để chúng ta là một người Mỹ như Mỹ? Liệu trong ba bốn thế hệ sau, pha trộn nhiều đợt, chồng này vợ nọ, vợ đó chồng kia? Ba bốn thế hệ nữa, như giờ đây người Nhật hay người Trung Hoa, đã có người làm tới dân biểu, nghị sĩ, bộ trưởng, thống đốc, giáo sư, bác học… nhưng họ vẫn là người Á Châu trong mọi sinh hoạt riêng tư và công cộng. Trong phong tục họ muốn trở về nguồn. Trong phong thái họ muốn được đồng hóa với Mỹ. Tuy vậy không người Mỹ nào nói những người “thiểu số” kia là Mỹ, còn người đồng hương cũng chẳng ai gọi họ là người đồng hương. Phần chúng ta, lúc đó chúng ta sẽ giống dân tộc nào trong những sắc dân của đất nước hợp chủng này?

Ôi, sao anh nói chi với em những điều tầm ruồng như thế!

Anh biết là anh đang nhớ em, nhớ đôi mắt nâu cười cợt, nhớ chiếc cổ cao như người trong tranh Modigliani, nhớ những sợi tóc mai mềm. Những sợi vắn sợi dài, sợi nhớ sợi yêu, mà có lần em đã nói với anh rằng “lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm.”

Giờ đây anh còn như nghe tiếng em nài nỉ anh giảm tốc độ khi xe bắt đầu vào xa lộ Hai Mươi Hai, chỗ rẽ của xa lộ Bốn Lẻ Năm.

Em có còn nhớ ngay tối hôm đó, khi chúng ta trở về Westminster, anh và em lại đến quán Nguyệt Cầm nghe tiếng hát khàn khàn giọng thổ của một người đàn bà mặc áo đen quyến rũ, và tiếng kèn não nuột của một người đàn ông trung niên. Ly cà phê đen của anh, ly sửa đậu nành của em, và sự tình của hai chúng ta! Ngọn đèn quá mờ không đủ sáng soi rõ khuôn mặt em, nhưng trí nhớ anh vẫn rực rỡ hình ảnh em. Ở đó, anh đã đốt liên tu hồ tận những điếu Pall Mall, và chôn vùi em trong một không gian ngập đầy thứ khói xám độc tố kia.

Hình như em đã khơi lại trong trí nhớ anh những ngày xưa Sàigòn, khi chúng ta vừa quen nhau. Lúc đó tình yêu ngọt ngào của chúng ta có cái gia vị đắng chua đậm đà của hơi lựu đạn cay. Đêm giới nghiêm đầu tiên của thành phố, chúng ta còn lái xe chạy trên đường Hiền Vương. Những quãng đường cấm đã bủa dây kẽm gai. Xe tuần tiễu đã vượt qua chúng mình khi hai đứa đang hôn nhau vội vàng cái hôn chia tay để sáng sớm hôm sau anh lại trở về đơn vị. Và những hàng me hai bên đường Gia Long đã làm chứng cho mối tình cuồng nhiệt của hai ta.

Không còn nữa, những bao cát làm ụ xây ở một góc ngã tư đường với những họng súng đen ngòm thò ra bốn phía. Cũng không còn nửa tiếng còi hụ khiếp hãi báo hiệu giờ giới nghiêm vào lúc nửa đêm. Chiếc xe hôm ấy đã ngừng ở một quán Snack Bar có tên là Ohio, thả em xuống góc đường Nguyễn Văn Giai – Phan Thanh Giản, và anh đã chạy bán sống chí chết trở về nhà, tốc độ của một chiếc xe đưa chết người, và con đường vắng lạnh của chiến tranh sao đầy hình ảnh em.

Giờ đây, mười năm sau, gặp lại nhau giữa mùa đông trong thủ đô của một đất nước lớn nhất, giàu nhất, thanh bình nhất thế giới, chúng ta xa lạ biết là bao nhiêu?

Tại sao?

Khi chiếc xe vượt qua mặt anh, nước ở lề đường bắn tung lên, tiếng thoát ra cùng sức gió, anh đã nghĩ đến em. Đến em, với tiếng cười đổ vỡ. Đến em, với một mối tình không lối thoát. Đến em, với tất cả lo âu và sợ hãi.

Tại sao không phải là một người nào khác ngồi bên cạnh anh trong rạp chớp bóng Edwards ở South Coast Plaza? Những ngón tay chúng ta đan quyện vào nhau vì biết rằng chốc nữa đây phải rời xa. Có thể sẽ là mãi mãi. Sự im lặng đau đớn đã chế ngự chúng ta nặng nề đến nỗi mỗi đứa giành nhau nói những lời vô nghĩa. “Out of Africa”, đó là một cuốn phim hay. Ở đoạn này em nói giống anh, ở đoạn kia em nói giống em. Và đoạn kết của cuốn phim là điều em ghét nhất. Em chê đạo diện và chê cả người viết truyện phim. Anh thích khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Phi Châu. Anh khoái âm nhạc và âm thanh của cuốn phim. Lúc đó em đã hỏi anh có còn nhớ cuốn phim L’Insoumis ngày anh nghỉ phép từ Ban Mê Thuột trở về. Và cả hai đã chui vào một rạp hát tồi tàn ở Chợlớn? Tại sao nhân vật nữ, người luật sư lạnh lùng và lì lợm kia, có thể “phải lòng” người đàn ông đầy tội lỗi nọ ngay từ phút đầu gặp gỡ. Giữa ngã ba đường của một mối tình, hai người Pháp, một đàn ông, một đàn bà, yêu nhau trên đất Algérie và không ai biết sẽ phải quyết định như thế nào? Cũng như anh và em, hai người Việt trên đất Mỹ, chúng ta có biết quyết định gì đâu. Chúng ta như những chiếc lá trên mặt con sông vào mùa mưa lũ. “Thây kệ!” Em bảo vậy! Nhưng đó đâu phải là cách suy nghĩ thật của em? Em, người của lề thói, của dư luận, của tường kín và cổng cao… Chúng ta yêu nhau hay không yêu nhau? Không ai trong chúng ta trả lời được một cách dứt dạt câu hỏi ngắn ngủi và tầm thường kia?

Em nói mười năm trời ấy đã ăn cắp hết của em tuổi trẻ và cả thời con gái. Mười năm trời ấy đã thổi đi mất của anh những bụi phấn thông vàng ảo tưởng mà một người đàn ông như anh không thể không có. Chúng ta đang đứng trên một bờ biển và đang bị những con sóng quên lãng táp mòn hòn đá ký ức còn tụ dưới hai bàn chân hiện tại. Cũng giống như những người lái xe trên xa lộ, chúng ta chỉ đi tới, đi tới mãi, với một tốc độ cao được qui định, “không thể nhanh, cũng không thể quay lại đột ngột khi thấy người quen chạy ngược chiều bên kia đường.

Ở Sàigòn hồi đó, em nhớ không, mỗi khi anh đến thăm em trong dịp về phép, anh đâu dám bước chân vào nhà em, mà cứ phải ngồi ở cái quán “cóc” bên kia đường, uống những ly cà phê đen và đốt liên tu những điếu thuốc Pall Mall ngọt ngào mùi nho khô. Và hình như đã có lúc em cho anh “ăn thịt thỏ” vì bố em hôm đó đã đổi ý định không đi trường đua Phú Thọ như em đã nói với anh. Và những trận mưa tàn bạo dội ướt cả cái quán cà phê vỉa hè khiến anh cứ phải nán chờ em trong cơn tức tối. Ly cà phê thì loãng tràn những giọt nước mưa từ tấm “bạt” nhà binh đổ xuống, nhưng ý nghĩ anh sao lúc nào cũng đậm đặc hình ảnh em. Cái quán cóc ấy, sau mười năm, trước ngày anh lên đường rời bỏ quê hương, vẫn còn như ngày nào, chỉ có hai điều thay đổi: người chủ đã vượt biên và quán cóc ngày một tàn tạ hơn thôi.

Em hỏi cuối tuần này anh đi chơi đâu? Xuống San Diego thăm Sea World hay lên San Francisco nhìn cầu Golden Gate một chuyến? Sòng bài Las Vegas nổi tiếng cũng nên đến đó coi chơi cho biết sự tình. Cám ơn em, chắc chắn thế nào rồi anh cũng sẽ đi nhưng lúc này thì chưa được. Mặc dù đất nước này nhiều nơi hùng vĩ, chỗ nào cũng đáng đi qua một lần trước khi nhắm mắt. Bởi vì những sáng tinh sương, khi cả thành phố còn ngái ngủ, anh đã phải đi bỏ báo cho tờ Times, những trưa làm công cho một ông chủ Việt Nam “xếp sòng” cắt cỏ. Em nói dưới đó nhiều thú vui, nhiều nơi giải trí, chắc là tuần nào anh cũng sẽ mất ngủ và mệt mỏi. Mất ngủ và mệt mỏi là cái chắc. Nhưng, không phải do nhảy nhót và hoang phí thời gian. Chính là sự không yên tĩnh của trái tim đã làm anh trở nên như thế. Em đừng giận nếu anh nói rằng không phải vì trung thành với em mà anh không tới đó, càng không phải vì lương bổng nhỏ nhoi mà anh xa lánh. Không, đó không phải là lý do. Anh không thích đến chỉ vì không thích đến. Thế thôi. Em nghĩ là anh quá bi quan chăng? Hay em sẽ nghĩ là anh mặc cảm về sự nghèo khó? Cách nào cũng được. Anh là người luôn luôn dị ứng với mọi thứ lố bịch.

Em có thể tin những gì anh nói không?

Em còn nhớ chăng ngày nào ở Sàigòn, anh chở em trên chiếc Lambretta màu bạc, lang thang trên những con đường đất đỏ trong làng đại học Thủ Đức? Có phải đó là con đường đẹp đẽ nhất trong những tháng ngày đẹp đẽ nhất của hai ta? Còn nỗi xót xa của chúng mình lúc đó để đâu. Chiến tranh ăn mòn da thịt quê hương ta, ám ảnh cả giấc ngủ anh và chen vào cuộc tình không một ngày hòa bình của chúng mình?

Khi chiếc xe màu xanh đi ngang qua vũng nước, bắn ướt áo anh, cả mặt mũi anh, anh chợt hiểu rằng tình yêu chúng ta chẳng qua cũng chỉ là một sự tình cờ. Tình cờ hai ta gặp nhau. Ở đâu? Hình như là lần đầu tiên em theo các bạn trong trường đi thăm “chiến sĩ tiền đồn” và anh, người trung đội trưởng ngang tàng đã ngã xuống cái ngã êm ái khi bị viên đạn đầu tiên của mắt em bắn cái nhìn xuyên tâm anh. Phải rồi, chỉ là tình cờ thôi, tình cờ khi cả hai ta cùng kẹt xe dưới chân cầu Kiệu (em tan trường về, anh trên đường nghỉ phép). Tình cờ khi đèn đỏ giữ chúng ta ở một ngã tư đường. Tình cờ như khi anh cầm tay em… Nhưng giờ đây, mười năm sau, cả sự tình cờ ấy cũng chẳng còn với chúng ta nữa.

Em có biết không, vào những ngày đầu tháng Năm, Bảy Lăm, khi cả Sàigòn chìm trong một thứ âm thanh sôi sục hoảng loạn và đỏ thẫm một màu chết chóc, anh đã tìm đến em, nhưng em đã biệt tăm. Căn nhà vắng tanh, trống tuếch. Quán cà phê bên kia đường bỗng đông khách hơn xưa, nhưng tất cả những con người ngồi đó đều ngơ ngơ ngác ngác, chân trên mặt đất nhưng thần trí mãi tận nơi đâu. Anh cũng ngồi bon chen trên một chiếc ghế thấp giữa những người khách không quen nhưng rất gần gũi, bởi vì giờ đây tất cả đều cùng có một tên chung: “ngụy”. Anh “lính ngụy” ngồi đây, nhưng em “ngụy” đã bỏ đi tự lúc nào? Bao giờ chúng ta mới gặp lại nhau? Em biết cho câu hỏi ấy cách đây mười năm là một câu hỏi rất khó trả lời. Anh đã hiên ngang bước vào nhà em, đã xô cánh cửa căn phòng riêng của em. Và anh đã thấy gì? Trên bàn học, tấm ảnh chụp em đứng trước sân trường với áo dài trắng, nón lá được tháo ra khỏi khung kính và anh đọc thấy hai câu thơ chép tay bằng tiếng Việt, mà hình như em đã ghi là của Byron, anh không còn nhớ.

… Xin chia tay, và nếu là mãi mãi thêm một lần xin mãi mãi chia tay…

Có đúng là nhà thơ Byron viết như thế không? Có thể không phải là như thế. Cũng chẳng sao. Anh cần đọc lời nhắn gửi của em, chớ anh đâu cần sự chính xác của nguyên tác. Và anh tự hiểu là tấm ảnh ấy em đã viết cho anh, những dòng chữ kia là lời nhắn nhủ anh. Và em đã ký là Barbara. Phải, là Barbara và chỉ có riêng hai chúng ta mới hiểu được qui ước này. Qui ước ấy nay anh vẫn còn giữ, và chắc là em hiểu tại sao, phải không?

Đó là ngày đầu tiên anh quen em và em đã chép gửi tặng anh bài thơ của Jacques Prevert. Một bài thơ dài không dấu phẩy, chỉ có dấu chấm sau cùng. Một bài thơ mà anh sẽ phải nhớ mãi và anh đã nhớ mãi! Bởi vì nó rất gần với chúng ta, em đã nói vậy, phải không?

Oh Barbara Quelle connerie la guerre
Qu’es tu devenue maintenant
Sous cette pluie de fer
De feu d’acier de sang
Et celui qui te serrait dans ses bras
Amoureusement
Est il mort disparu ou bien encore vivant
Oh Barbara …

Em thấy chưa, đầu óc anh vẫn còn tỉnh táo chán, phải không?

Barbara, giờ này em đang làm gì?

Barbara, em có biết là cả thành phố đã bị sụp xuống trong lừa dối và sự ra đi của em đã nhận chìm anh trong đống tro tàn của những trối trăng? Anh đã ngồi trong căn phòng em rất lâu, thật lâu. Anh đã nằm trên chiếc giường đầy hơi hướm em và tưởng chừng như đang đắp lên người tấm thân nồng ấm của em; đã đốt những điếu Pall Mall dư thừa trong túi áo; đã uống đến say mèm những chai rượu của bố em còn để lại trong tủ kính; đã kéo tung tất cả hộc bàn của em ra để tìm xem biết đâu… may ra… có dòng chữ nào khác em gởi cho anh.

Không có chi hết ngoài sự bừa bộn em đã vứt lại. Chắc là em quá vội vã trước giờ ra đi nên không thể làm cách nào khác.

Barbara, kể từ giờ phút ấy đến lúc gặp lại em là mười năm. Thời gian ấy ngắn hay dài của một đời người? Nó đã uống cạn chưa trong anh cốc rượu nồng nàn của một người đàn ông tràn đầy sinh lực? Nó đã làm phai tàn chưa trong em tình yêu cuồng tín của một thiếu nữ vừa mới lớn? Những câu hỏi ấy theo đuổi anh, đến bao giờ mới chịu buông tha?

Khi chiếc xe màu xanh chạy vụt qua, cán nát quả cà chua trên mặt đường, anh cảm thấy hạnh phúc mình cũng đã tan nát đập vỡ. Anh nhớ chiếc Porsche thể thao của em. Xe hai chỗ ngồi, dàn máy radio cassette tối tân, ống thuốc an thần trong hộc, lọ nước hoa Yves Saint Laurent mùi chanh tươi bên một cái giũa móng tay đặt dưới cần sang số….

Em hỏi chiếc xe “thổ tả” Datsun của anh đã vất ra nghĩa địa chưa, và em đã hôn anh tức thì để mắng một câu trấn áp kỳ quái: “Đồ ngu, đừng giận em, trời ạ! Em yêu anh!” Em nói chúng ta không cần dư luận và cũng lại chính em, em luôn luôn nói chúng ta nên tránh con đường này, nên né cái quán ăn kia.

Em là khu rừng của những cây cao su mâu thuẫn.

Em có còn nhớ tối hôm nào hai chúng ta uống ly expresso bên vỉa hè của Newport Beach? Trời mùa hè nóng, nhưng đêm ở Newport Beach sao mà lạnh như mùa đông. Bên kia bàn hai người nói tiếng Tây Ban Nha đang hôn nhau và em hỏi tại sao ta không thể làm như họ. Rồi khi anh ôm và hôn em, em bảo: “Đừng! Đừng anh!” Không! Có lẽ chúng ta không yêu nhau, chẳng qua chúng ta yêu cái hạnh phúc mong manh của mỗi chúng ta. Chúng ta chỉ là những người thợ săn vụng về bắn những viên đạn bộc phá vu vơ vào một con vật vô hình trong khu rừng lạ vào đêm ba mươi.

Khi anh lái xe trở về, trên con đường mang tên Tình Cờ, anh đã vượt qua đèn đỏ ở ngã tư Euclid, và anh đã lãnh một cái giấy phạt. Không, Hazard không chỉ có nghĩa là Tình Cờ, nó còn là May Rủi, là Nguy Hiểm. Có phải vì anh đã không chịu hiểu hai nghĩa sau của chữ Hazard mà anh bị cái ticket chăng? Ôi, vi phạm luật lệ lưu thông ở Mỹ là một điều thường như ăn cơm bữa, như tình yêu của chúng ta. Phải không? Người ta nói ở xứ này có hai điều đáng sợ, đó là cảnh sát và thuế vụ. Đúng. Nhưng theo anh, còn một cái đáng sợ hơn nữa đó là sự vô tình của con người. Ôi, sao con người ta lại có thể lạnh tanh, lạnh lùng, lạnh lẽo, lạnh cảm đến như thế!

Chắc em không còn nhớ cái đêm trên Thủ Đức, chúng ta đi quanh trong bóng tối ở ngã tư để tìm một quán nước mua cho em chai soda. Chai soda? Em còn nhớ không? Lần đầu tiên anh biết có một thứ thuốc trị bệnh nôn mửa là soda. Chuyến dạo chơi phải chấm dứt vì em quá mệt mỏi. Em đã ngả trên tay anh suốt dọc đường về và tay lái anh đã bị chao đi khi chúng ta qua xưởng xi măng Hà Tiên. Chúng ta đã thoát được cái chết trong đường tơ kẽ tóc, nhưng em có biết gì đâu. Nếu lúc ấy anh không giữ được tay lái và giả sử như xe bị mất đà tông vào một chiếc xe “be” chở gỗ từ Bù Gia Mập về, có lẽ chúng ta đã chết bằng hai cái chết khác nhau. Em chết mà không biết là mình đang chết. Còn anh, cái chết được nhìn thấy như một tia chớp trước khi cả bầu trời tối sầm lại. Anh chờ đợi thần chết và chờ đợi lưỡi hái của nó. Ôi ghê gớm biết là chừng nào giữa cái sống và cái chết, giữa cái ánh sáng mong manh sắp tắt và cái bóng tối rộng lớn như thiên la địa võng chụp phủ xuống anh trong giây phút định mệnh kia!

Barbara, đã mười năm qua rồi, người sĩ quan “trẻ tuổi và ngang tàng” của em, kẻ thoát chết trên trận Đông Hà, kẻ vượt qua được con đường hãi hùng số Bảy, kẻ vội vã chen nhau đi trên một chuyến bay có xác người nằm dưới bánh phi cơ, đã tìm đủ mọi cách để trở về với em và rốt cuộc chỉ nhìn thấy căn phòng trống trơn, với tấm ảnh đã tháo ra khỏi khung, hai câu thơ từ biệt và một cuộn băng cassette chỉ thu có mỗi bài Sombre Dimanche.

Barbara, nơi trú ngụ sau cùng của anh là em, nhưng sau khi anh hay qua đại lộ kinh hoàng của một cuộc chiếc tàn bạo, con thuyền trú ngụ ấy đã nhổ neo.

Barbara, tám năm trong các nhà giam dạy anh một điều là hãy yêu cuộc sống một cách mãnh liệt hơn cuộc sống vốn có. Hãy nhìn mọi sự bằng con mắt của lòng tha thứ và bao dung. Hãy cao hơn kẻ thù ta, phải luôn luôn cao hơn cả kẻ đã làm ta đau khổ. Hãy tôn trọng phẩm giá con người.

Có một nơi chứa đầy mâu thuẫn, đó là trái tim của chúng ta. Bởi vì trái đất này là một nơi chốn lạnh lẽo, và chúng ta yêu nhau là một cách làm cho trái đất ấm lên. Phải không?

Nguyễn Xuân Hoàng
Springfield 1986 – Santa Ana 1987

Advertisement

Người bạn bất ngờ trên xe BART

1.

Tôi quen anh tình cờ trên xe BART. Tôi lên trạm Fremont, còn anh lên trạm thứ hai, trạm Union City. Hôm đó xe không đông lắm. Không hành khách nào phải đứng. Anh ngồi vào chỗ trống bên tôi. Trời lạnh. Xe qua các trạm South Hayward, rồi Hayward, Bay Fair, … Người lên rồi người xuống, anh vẫn ngồi yên, mắt chăm chú nhìn vào cuốn sách đặt trên đùi. Khi xe vừa qua khỏi San Leandro, anh giật mình quay sang hỏi tôi “Xin lỗi ông, xe đã qua trạm Fruitvale chưa?” Tôi ngạc nhiên nhìn thấy một chàng Mỹ đen nói tiếng Việt sỏi như thế. Tôi trả lời rằng tôi nghĩ là chưa. Xe mới vừa qua San Leandro. “Cám ơn ông. Vậy là còn một trạm nữa.” “Anh xuống Fruitvale à?” “Không. Tôi xuống Coliseum.” Không biết tại sao anh hỏi Fruitvale vì đến trạm Fruitvale là xe đã qua Coliseum rồi. Lúc đó là hai giờ năm mươi ba phút chiều. Tôi nói còn bốn phút nữa xe sẽ ngừng ở Coliseum. Anh gắp trang sách đang đọc dở dang, và thấy tôi cũng đang cầm trên tay cuốn sách, anh hỏi: “Xin lỗi, ông đang đọc gì?”

Tôi chìa bìa cuốn sách về phía anh. Cuốn Testaments Betrayed của Milan Kundera*. Anh hỏi tôi “Tay này là ai vậy?”

“Một nhà văn.” Tôi không biết trả lời anh cách sao.

Trời lạnh. Trên xe người nào cũng mặc áo khoác mũ trùm đầu. Một vài thanh niên da đen mặc quần áo sậm, rộng rinh, đầu quấn khăn giống như nông dân Việt Nam, cười nói ồn ào ở dãy ghế cuối. Ở cửa ra vào, một người áng chừng gốc Mễ, ngồi với chiếc xe đạp. Một phụ nữ Á châu đang áp tai vào cái điện thoại cầm tay. Không thấy ai cười. Những khuôn mặt lặng lẽ. Trạm xuống của tôi còn xa. Khi nào qua Ashby, tôi mới chuẩn bị xuống Berkeley.

Thấy tôi nhìn cuốn sách còn đặt trên đùi, anh cười: “Tôi đang đọc cuốn The Unwanted của Kiên Nguyễn. Ông đã đọc cuốn này chưa?”

“Có. Tôi có đọc qua.”

“Anh thấy sao?”

“Thấy sao là sao?”

“Ông có thích cuốn sách đó không?”

“Tại sao anh hỏi tôi?”

“Tại vì tôi rất thích. Cuốn sách đó nó nói một khía cạnh của đời tôi. Tác giả lai Mỹ trắng, còn tôi lai Mỹ đen. Tác giả có một bà mẹ Việt Nam giàu có, còn tôi có một bà mẹ Việt nghèo khổ. Tác giả được đi học đại học, tôi chưa hết trung học đã phải đi làm….” Và đột nhiên anh hỏi tôi “Ông làm gì?”

Tôi nói công việc của tôi hiện đang làm, anh cười:

“Làm báo có nói láo không?”

“Anh nghĩ là tôi nói láo sao?”

“Xin lỗi, tôi không có ý nói vậy đâu. Tôi chỉ muốn biết báo có nói sự thật không?”

“Cũng tùy.” Tôi nói.

“Sao ông không làm một nghề nào khác?”

“Nghề làm báo xấu lắm sao?” Tôi hỏi lại anh.

“Không. Tôi không có ý nói vậy.” Anh lập lại đúng câu anh vừa nói với tôi lúc nãy. “Tôi muốn nói làm báo khó mà trung thực lắm. Có nhiều điều cần nói thì không nói và có nhiều điều không cần nói mà cứ viết ra.”

Xe ngừng ở trạm Coliseum, anh đứng dậy.

“Tôi tên là Randy. Mong có dịp gặp lại ông. Chào!” Anh nói.

“Chào!” Tôi nhìn anh. Ngạc nhiên. Tôi thấy anh bước qua cửa, xách vải mang trên vai, cuốn sách của Kiên Nguyễn trên tay, đầu ngoái lại, vẫy tay.

Xe tiếp tục chạy. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời mù. Mưa.

Ba năm đã qua, nhưng Bắc Cali đối với tôi vẫn là một thành phố xa lạ… cho đến khi tôi quen biết Bart tôi mới khám phá ra một khía cạnh của vùng đất Thung Lũng Điện Tử. Tôi thích những chuyến đi trên xe bart. Nó giúp tôi nhìn thấy một một lớp người của thành phố thung lũng. Nhiều người da mầu tôi gặp trong các chuyến đi. Những khuôn mặt không quen biết nhưng gần gũi với tôi. Họ là những người trẻ ồn ào hoặc những người trung niên lặng lẽ. Đập vào tai tôi là một thứ ngôn ngữ đường phố mà tôi phải cố gắng lắm mới nắm bắt được. Có người ngồi lặng thinh, mắt nhắm bất động như một bóng ma, chỉ bừng mắt dậy đúng ga muốn xuống và âm thầm bước qua cửa. Dù họ có là ai, nhưng tôi biết đám đông ấy cùng một giuộc với tôi. Họ là tôi, và tôi cũng chính là họ. Sau lưng chúng tôi là một quê hương đã và đang xa. Và trước mặt chúng tôi là một quê hương muộn màng đang gần. Như người tình cuối cùng trong đời, quê hương đó sẽ ở lại mãi mãi với tôi.

Những chuyến xe bart cho tôi cái cảm tưởng tôi đang bắt đầu là người của vùng đất này. Cũng như tôi, một người đến từ Việt Nam, những người da mầu kia đến từ Mễ Tây Cơ, Nhật Bản, Ấu châu, Trung quốc, Đài Loan, Đại Hàn, Phi Luật Tân, Ần Độ, Pakistan, Trung Đông, Phi châu,… Chúng tôi trộn vào nhau, quết vào nhau trong một mẻ bột. Chúng tôi trang trí cho một đất nước vĩ đại thứ màu sắc chủng tộc, mang đến sức lao động và trí óc của những sắc dân còn tươi mát vẻ lãng mạn của những vùng đất hoang dã, những trái tim khao khát mới lạ. Và sau cùng là tự do. Tự do, tiếng réo gọi của những chuyến đi.

Và chính ở đây, tôi đang bắt đầu có thêm những người bạn mới. Nguyễn Hữu Liêm, Lê Thị Thấm Vân, Quế Hương, anh chị Nguyệt Cầm-Peter Zinoman,… Căn nhà của Nguyệt Cầm và Peter ở Berkeley nhỏ mà gọn. Mấy tủ sách dựa tường, ở phòng khách và phòng ăn treo nhiều tranh của các họa sĩ Việt Nam trong nước, những bức tranh đẹp. Nguyệt Cầm có giọng nói nhẹ, êm và rất ngọt. Có lần họp mặt ở nhà Vũ Huy Quang, tôi còn được dịp nghe chị đàn và hát, một tiếng hát còn tươi như cá vừa vớt từ dưới ao lên, nhưng là một tiếng hát tràn ngập hơi thở của một trái tim. ..

Tôi quen Bart sau khi đã có thêm những người bạn mới. Và giờ đây là người thanh niên da đen tên Randy.

2.

Mấy tuần sau, những ngày thứ Năm, mỗi khi xe dừng ở trạm Union City, tôi bất chợt nhớ anh. Có những người, ta chỉ gặp một lần và ta không muốn gặp thêm một lần nào nữa. Và ngược lại. Tôi nghĩ có thể Randy đang ngồi ở một toa khác. Hoặc có thể anh đi vào một chuyến khác. Cũng có thể anh chỉ là người một lần tình cờ lên xe bart. Ở vùng này, con đường từ San Jose đi Oakland, Berkeley hay đi San Fran, người ta chọn cách tự lái xe hơn là chọn đi bart. Tôi có cảm tưởng bart là phương tiện di chuyển chỉ dành cho những người ngại lái xe, người da mầu và….. người nghèo.

Cho đến một ngày giữa tháng Hai vừa qua. Đúng ra là ngày 14 tháng Hai. Một ngày thứ Năm. Vừa bước lên xe ở trạm Fremont, tôi nhận ngay ra anh. “Hello, Randy!” tôi nói. Người thanh niên da đen đang cúi xuống trang sách đặt trên đùi, ngẩng đầu lên.

“Chào! May quá. Tôi đang có ý gặp ông.”

Tôi ngồi xuống cạnh anh, mở ba lô kéo ra cuốn Testaments Betrayed của Milan Kundera.*

“Anh vẫn đọc cuốn The Unwanted phải không?”

“Thì The Unwanted đó. Tôi đọc chậm lắm. Chỉ đọc khi đi xe thôi. Ở nhà nhiều việc, không có thi giờ đọc. Còn ông?”

Tôi nói về cuốn sách của Kundera, cuốn sách ở cuối phần ba Improvisation in Homage to Stravinsky giải mã cho tôi những ẩn số của một người cầm bút không còn ở trong nước [lưu vong, tị nạn, hải ngoại?]. Dưới tiểu tựa Số Học Của Sự Di Tản, Milan Kundera viết: “Cuộc sống của một người di tản, là một vấn đề số học.” Và ông nhắc tới Joseph Conrad bằng những con số: sống 17 năm ở Ba Lan, và 50 năm còn lại của đời ở Anh. Ông sáng tác bằng tiếng Anh, đề tài Anh, tính chất Ba Lan nơi ông không còn nữa, ngoại trừ sự dị ứng chống Nga của ông, sự thù ghét của ông đối với Dostoyevsky; Vladimir Nabokov sống 20 năm ở Nga, 21 năm ở châu Ấu, (ở Anh, ở Đức và Pháp), 20 năm ở Mỹ, 16 năm ở Thụy Sĩ. Ông sử dụng Anh ngữ trong viết lách. Mặc dù tiểu thuyết của ông có nhiều nhân vật Nga, ông vẫn luôn luôn tuyên bố mình là công dân Mỹ, và là nhà văn Mỹ. Kundera cũng nhắc tới tên một vài tác giả mà tôi chưa hề nghe bao giờ: Kazimierz Brandys, sống 65 năm ở Ba Lan, năm 1981 định cư ở Paris sau vụ đảo chính của Jaruzelski. Ông chỉ viết bằng tiếng Ba Lan, về đề tài Ba Lan, tuy nhiên sau năm 1989, dù không còn lý do chính trị để ở lại nước ngoài, ông vẫn không trở về Ba Lan. Gombrowicz một tác giả khác, đã sống 35 năm ở Ba Lan, 23 năm ở Argentina, 6 năm ở Pháp. Tuy nhiên ông chỉ viết bằng tiếng Ba Lan, và các nhân vật trong tiểu thuyết của ông đều là Ba Lan. Năm 1964, trong thời gian ở Berlin, ông được mời về Ba Lan. Ông đắn đo, rồi cuối cùng từ chối. Khi ông chết, hài cốt ông được chôn ở Vence, miền nam nước Pháp.

Tại sao Gombrowicz từ chối không về Ba Lan, dù chế độ cộng sản của Ba Lan đã phân rã, và hầu hết những người hoạt động văn hóa đã tham gia phe đối lập.

Những người cầm bút di tản (lưu vong, tị nạn hay hải ngoại) của chúng ta, theo cách nói của Kundera, mà những điều kiện chính trị và văn hóa khác người Ba Lan hay người Nga, nhưng cũng có thể có một mẫu số chung là ngoài nỗi đau khổ nhớ tới quê hương, chúng ta còn thêm một nỗi đau khác, lớn hơn, nỗi đau khi gặp lại, nhìn lại quê hương sau bao nhiêu năm xa cách, nhận ra những gì trước đây gần gũi thân mật và giờ đây bỗng trở nên xa lạ, lạnh lẽo, trong khi vùng đất và con người xa lạ mà ta ngỡ ngàng khi mới đặt chân đến định cư giờ đây ngày càng gần gũi gắn bó, thân mật.

Đâu là lý do đích thật của sự từ chối trở lại quê hương của Gombrowicz. Chắc không phải là lý do chính trị. Đó là vấn đề con người, sự đụng chạm vào cái phần sâu xa nhất của trái tim. Sự từ chối trở lại quê hương của Gombrowicz là điều ông không thể thổ lộ được. “Có những điều (người ta] chỉ có thể [dùng ngôn ngữ của sự) nín lặng.”

Randy ngồi im lặng nghe tôi nói, và nhìn đôi mắt anh tôi biết anh có vẻ như chẳng hiểu tôi ba hoa cái gì. Đột nhiên anh hỏi:

“Thế ông đã về nước lần nào chưa?”

“Có, một lần, vào năm ngoái. Đó là lần đầu tiên sau 17 năm xa quê của tôi.”

“Vậy là ông nghĩ khác ông Gombrowicz phải không?”

“Mỗi người có một cách của nhìn cuộc sống khác nhau. Tôi nghĩ Milan Kundera nói đúng.”

“Tôi không hiểu Milan Kundera. Ông nhà văn đó phức tạp quá. Tôi chỉ muốn biết ông nghĩ sao sau khi về Việt Nam?”

“Tôi thấy mình xa lạ. Tôi nôn nao, hồi hộp. Tôi đã chảy nước mắt khi bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi đã về thăm mộ mẹ tôi, cha tôi và anh tôi. Tôi đã đứng trước căn nhà của tôi, giờ đây đã có người chủ mới. Tôi lạc lõng trên con đường phố mà xưa kia quen thuộc thân mật với tôi biết là chừng nào.”

Câu chuyện giữa tôi và Randy còn dài, mãi tận đến Richmond là nơi cả tôi và anh không ai muốn đến.

3.

Anh/chị ở San Jose đã lâu, hay vừa mới tới, có bao giờ đi xe BART chưa? Nếu chưa, tôi nghĩ anh/chị nên đi một lần cho biết. Xe bart có vẻ gần với xe metro. Ga xe bart ở Fremont không rộn rịp như các ga metro ở Paris. Có vài nơi xe bart chui qua hầm, nhưng phần lớn xe bart đi giữa những gò cao. Ban đêm từ phía bắc Richmond trở về Fremont, anh/chị có thể nhìn thấy những thành phố sáng đèn ở phía dưới: Bay Fair, Hayward, Union city,…

Suốt hai mùa đi xe bart lên xuống Fremont – Berkeley , tôi khám phá ra giai cấp của những người đồng hành: Rất ít người da trắng, người da màu chiếm đa số, đặc biệt là người da đen và nâu. Da vàng cũng vừa thôi. Càng về tối, xe càng vắng. Đôi lần, tôi thấy hình như… chỉ có một mình mình ngồi giữa toa tàu trống trơn.

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

ĐÊM MƯA NGHE HÁT BÀI THƠ CŨ

nguyenxuanhoang

Mưa là một người khách cẩn trọng báo tin trước bằng những đám mây đen và những ngày âm u oi bức rung động trong một thoáng gió như tiếng chuông leng keng của người thầy lễ dẫn đầu đám rước.
Mỗi ngày bầu trời như muốn thấp gần những mái nhà.
Rồi một buổi chiều nào đó trong một ngày nào đó, mưa đến, ung dung và khoan thai đến, gõ đều đặn những nhịp tay trên cánh cửa nhà ta.

Và như thế mùa nắng đã hết.

Tối hôm qua mưa ào ạt tới hai lần. Một lần vào lúc nửa đêm và một lần vào lúc gần sáng. Mưa bay qua cửa sổ tạt ướt chỗ nằm ta đánh thức cơn mê ngủ quá khứ, khơi dậy những hoài niệm tưởng đã chết. Mưa là cây kim nhọn đâm thủng cái nhọt bọc căng kỷ niệm, mưa là đốm lửa của đầu điếu thuốc làm xìu quả bóng trên tay đứa bé.
Mưa, chính là cơn gió lớn xô sập cánh cửa dĩ vãng.
Ta đốt một điếu thuốc. Nhớ nhà, Nhớ nhà châm điếu thuốc.

Hồ Dzếnh,
Phải rồi, đó chính là Hổ Dzếnh. Một Hồ Dzếnh thi sĩ được khói thuốc âm nhạc của Dương Thiệu Tước phà vào tâm hồn ta.
Kỳ lạ thay, mưa đêm làm nhớ nắng chiều
Ta tưởng như đang nghe vọng lại đâu đó tiếng thơ của Huy Cận qua những tiếng khua động tí tách của giọt mưa trên mái tôn.
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
những chân xa vắng dặm mòn lẽ loi
Rơi rơi dìu dịu rơi rơi….

Nhưng không, đó chỉ là Hồ Dzếnh, một Hồ Dzếnh làm thơ cho Dương Thiệu Tước được yêu mến hơn và một Dương Thiệu Tước làm cho Hồ Dzếnh gần gũi chúng ta hơn.

Một người bạn nói với ta rằng thơ hay chỉ được đọc trong đầu và âm nhạc tuyệt diệu nhất chính là sự im lặng.
Nhưng tại sao gọi là Thi Ca?
Âm nhạc phải chăng là thứ ngôn ngữ phổ quát nhất còn thơ vốn là thứ ngôn ngữ đặc thù nhất.
Hình như ta chỉ có thể yêu được nhạc của Võ Đức Thu trong Tống Biệt của Tản Đà, yêu thêm một tình yêu nữa tiếng thầm thì Phạm Duy trong Ngậm Ngùi của Huy Cận, và nhìn khuôn mặt Phạm Đình Chương rõ hơn một chút trong Mộng Dưới Hoa của Đinh Hùng.
Và ngược lại, tại sao không phải là “hình như” một Đinh Hùng chỉ thức dậy với Phạm Đình Chương, một Huy Cận chỉ làm xao xuyến tâm hồn ta bởi Phạm Duy và một Tản Đà được nâng cao vóc dáng lên nữa bằng âm nhạc Võ Đức Thu?

Phải, tại sao không?

Chiều.
Đó là bài thơ của một người không giống một người nào và âm nhạc của họ Dương không phải là âm nhạc của ai.
Nhưng ta cảm thấy có lẽ họ Dương đã hiểu quá rõ Hồ Dzếnh, và âm nhạc của chàng đã thẩm thấu thơ của người.
Dương Thiệu Tước là người nói lớn hơn giọng nói của họ Hồ, là người phóng rọi to thêm nữa cái tâm hồn hồn nhiên của thi sĩ. Và hơn tất cả những điều đó, Dương Thiệu Tước làm thơ của Hồ thơ hơn, cũng như thơ của Hồ Dzếnh làm nhạc của Dương tràn đầy nhạc tính hơn.
Vả lại, dường như (?)âm nhạc tuyệt diệu đó trong dòng thơ phi thường kia được nghe lại trong đầu ta đêm nay không phải là cái gì khác ngoài tính cách kêu gọi, tham dự, can thiệp của vật xúc tác tốt nhất, giống như thìa nước trà tan những vụn bánh Madeleine của Marcel Proust hé mở tấm màn sương mù của ngày cũ.
Phải rồi, đó là những ngày ta lạc trong rừng, tuổi nhỏ và núi cao và chiến tranh. Bộ đội Nam Long, Hòn Lớn, Sông Ba, những ngày trốn giặc Pháp, những đêm lửa trại ca hát, những âm nhạc, thơ và kịch.
Phải rồi, đó chỉ là ta, chạy lúp xúp trong rừng sâu; trầm mình trong lá cây và tiếng chim.
Phải rồi, đó chỉ là điếu thuốc đầu tiên hút lập bập trong tiếng cọp gầm và tiếng súng.
Phải rồi, đó là tuổi nhỏ ta lạc trong chỗ không người. Nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ anh em và nhớ nhà. Mây trên trời, hoa lá trên cây, lo sợ trong đầu.

Chiều.
Đó là ta. Chỉ là ta. Trong một buổi chiều buồn rầu tâm hồn lãng đãng, điếu thuốc đắng, hơi thở khô.
Kỳ lạ thay. Hồ Dzếnh và Dương Thiệu Tước chỉ là cái cơ hội để nhớ đến cái ta đầy tội nghiệp.

Nghe lại một lần nữa bài Chiều để ta còn nhìn lại ta.

Có kỳ cục không, người ta không nhớ đến sự vật, người ta không nhớ đến âm nhạc, người ta không nhớ đến thi ca, người ta chỉ nhớ đến chính mình mà thôi.
Ai đã nói thế?
Chẳng cần nữa.
Chỉ là cái ta trong suốt qua sự im lặng của âm nhạc, hơi thở của bài thơ và tiếng mưa rơi thánh thót trong đầu.

Nguyễn Xuân Hoàng
(Trích trong ” Ý Nghĩ Trên Cỏ”. Nguyễn Đình Vượng xuất bản, 1971)

NHÀ TỪ ĐƯỜNG

nguyenxuanhoang

Tôi trở về Nhà Từ Đường sau 15 năm đi xa. Thật ra con số 15 năm là không đúng. Nó chỉ đúng tính theo ngày tôi bỏ nước ra đi, chứ không đúng tính từ ngày tôi trở lại Nhà. Hồi còn ở trong nước chẳng mấy khi tôi lên ngôi Nhà Chung này. Tôi thấy mình lúc nào cũng bị cái hiện tại lôi cuốn theo như một hạt bụi giữa cơn lốc. Học hành, thi cử, bạn bè, nghề nghiệp, chiến tranh, tình yêu…. Hết Đà Lạt rồi Sài Gòn. Giữa hai thành phố ấy còn có Huế, Cần Thơ, Mỹ Tho, Rạch Giá, U Minh, Cái Sắn…Trong cái mớ chằng chịt về con người và địa danh ấy, tôi thấy mình như một người bị quấn cuốn giữa những chiếc vòi của con bạch tuộc.

A, anh hỏi tôi chuyện chiến tranh hả? Chiến tranh? Ừ, thời của tôi ai mà chẳng bị chiến tranh chi phối. Tuổi tôi chỉ là tuổi bản lề, thời của ông anh tôi là một cuộc chiến, và thời kề cận tôi là tiếp tục một cuộc chiến sắp tàn. Tuổi trẻ tôi cũng thở cái không khí sặc sụa mùi tử khí. May sao, thế hệ kế đó vừa mặc bộ treillis vào người thì chiến tranh cũng vừa kịp kết thúc. Anh nói anh không biết chiến tranh hả? Năm nay anh bao nhiêu rồi? Mới hai mươi bảy à? Phải. Anh nói anh mới hai mươi bảy, có nghĩa là anh quá trẻ để biết cuộc chiến Việt Nam.

Anh nói lúc mẹ bế anh xuống tàu ở Bến Chương Dương trong một ngày Tháng Tư 1975, anh chưa đầy tháng tuổi phải không? Ừ. Tuổi ấy thì biết gì? Nhưng anh có biết là anh đã chào đời trong những giây phút của một cuộc chiến sắp tàn – chứ vẫn chưa tàn không? Anh có biết là mẹ anh bế anh chạy trong khi ven đô súng còn nổ và cả thành phố Sài Gòn chìm trong cơn hỗn loạn không? Còn bây giờ? Trên cái đất nước tưởng là yên ổn này, hải đảo của hòa bình, thiên đàng của hoan lạc, có thật là chúng ta đang đứng bên ngoài cuộc chiến không? Sau cái vụ 911, nước Mỹ có thật sự bình yên không? Còn tình hình Trung Đông hiện nay, vùng đất ngày nào cũng khét lẹt thuốc súng, ngày nào cũng có khủng bố và người chết. Và Iraq? Và bán đảo Triều Tiên? Và trước đó không lâu là Afghanistan. Liệu nước Mỹ có tấn công Iraq không? Liệu nước Mỹ có còn bị khủng bố chơi những đòn nặng như vụ Tháp đôi ở New York nữa hay không? Và liệu rồi đây con cái của anh có phải ra trận không?

Chiến tranh là ngu dốt. Nhưng liệu khi người ta muốn hòa bình thì có hòa bình được không?

Có lẽ, không một người Việt Nam nào không có kinh nghiệm về chiến tranh. Sài Gòn hay Hà Nội có chiến tranh theo cách riêng của nó. Những cuộc xuống đường. Những trái hỏa châu chiếu sáng khu ngoại ô hằng đêm. Lựu đạn cay trên đường phố. Mìn nổ ở một quán ăn. Bom phá sập một cao ốc. Và Hà Nội những ngày hoảng hốt vì bom Mỹ. Những lo sợ của người dân trước cuộc chiến leo thang. Đường mòn Hồ Chí Minh. Đường Trường Sơn “ào ào lá đổ”… Đâu cần phải nhích chân ra khỏi vòng đai thành phố người ta mới biết được thế nào là khói lửa và súng đạn.

Mới năm tuổi, tôi đã biết thế nào là chiến tranh. Những người lính Nhật đã trói Cha tôi bắt ông đi đâu. Má tôi bồng em tôi đi tìm chồng. Anh tôi đã vào rừng đi kháng chiến. Tôi đi suốt từ căn nhà này đến căn nhà khác gõ cửa tìm mẹ và xin ăn. Đôi khi người ta cho ăn [đôi khi người ta đuổi đi] … Mỗi ngày tôi đi xa vào các làng quê. Tôi có khóc nhiều không lúc đó? Chiến tranh chỉ có chết chóc và đói khổ. Người ta đói khổ đã nhiều, người ta không muốn gánh thêm một miệng ăn và nổi khổ nào nữa, dù rất nhỏ. Tôi đi mãi, từ nhà này sang nhà khác, từ làng này sang làng khác.

Trong một cuộc hành quân của lính Pháp, một người lính già Lê Dương nhặt được tôi ngoài ruộng mang về nuôi. Đó là thời gian tôi có những phút giây gần với súng đạn và cận kề chết chóc hơn, bởi vì cha nuôi tôi – mà tôi gọi là papa Chopin – là một sĩ quan phụ trách vũ khí và cả bataillon luôn luôn di động. Cho đến ngày ông chết trong một trận phục kích, tôi lại bơ vơ. May sao, một người thông ngôn giúp tôi tìm lại được gia đình. Một cuộc trùng phùng đầy nước mắt. Má tôi ôm tôi khóc rấm rức. “Má tưởng không bao giờ gặp lại con.” Mái tóc bà có những sợi bạc. Hai gò má hóp. Hai đứa em gái tôi ngồi hai bên cũng khóc. Sao hồi đó tôi không khóc, tôi nhớ như vậy! Đôi mắt má tôi luôn nheo lại, như lúc nào cũng cười, nhưng là một nụ cười buồn bã, và cái dáng đi của má sao mà tất bật, vất vả. Quê má tôi xa hơn quê cha tôi nhiều. Đó là khoảng cách của hai thành phố. Hai ngọn đèo. Hai dân tộc.

Tại sao hai dân tộc? Dì tôi – bà chị của má tôi – như những người Hoa trong vùng cắt tóc bôm-bê – nói tiếng Hoa và ở trong ngôi nhà gạch rộng thuộc loại dư ăn thừa để trong cái thị trấn heo hút nghèo nàn. Anh Bảy, con dì tôi, cao lớn khỏe mạnh, tóc quăn, có một chiếc răng vàng, làm chủ một tiệm chạp phô, nói tiếng Việt bằng cái giọng lơ lớ. Thỉnh thoảng, tôi nghe anh nói tiếng Hoa với má tôi, thứ tiếng mà bà không bao giờ nói với các con một lần nào.

Tôi trở về gặp mẹ, nhưng không gặp Cha. Cha tôi ở đâu? Bà nói suốt mấy năm nay, ông đã đi tìm tôi và giờ đây, ông đang ở trong một căn chòi dưới chân Hòn Lớn, một ngọn núi khá cao, cách xa nhà cả một ngày đường. Anh tôi thời đó như những thanh niên cùng lứa tuổi đã vào chiến khu chống Pháp. Và mãi đến khi ông Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống cha tôi mới trở về. Anh tôi đi Thủ Đức. Nhiều năm sau tôi rời Nha Trang vào Sài Gòn học tiếp… Chiến tranh có lúc như lắng xuống, nhưng có lúc ồ ạt… Chiến tranh là không khí của thành phố, chiến trận là không khí của thôn quê. Bạn tôi, nhiều đứa hôm trước còn ngồi với tôi nói nói cười cười, tháng sau, tuần sau, hôm sau đã không còn thấy mặt nữa, không bao giờ trở về nữa.

Trở về Việt Nam sau 15 năm, tôi quyết định trở lại nhà Từ Đường. Tại sao à? Bởi vì giờ đây, mộ Cha tôi, và mộ Anh tôi đã dời về đó. Hai ngôi mộ song đôi, nằm giữa một vườn cây xanh lá. Trong một buổi sáng tháng Tám nắng vừa lên, tôi ngồi bên mộ Cha và Anh, nghe tiếng chim hót trong bụi cây, tưởng như thấy lại khuôn mặt khắc khổ của Cha, cái vẻ lặng lẽ lầm lì suốt ngày không nói một lời của ông. Và khi ông phải nói, tôi nghe rõ cái âm thanh sấm sét mang theo hơi rượu nồng nặc từ miệng ông phả ra trong cơn bùng nổ của một hỏa diệm sơn. Tôi cũng thấy lại anh tôi, người đàn ông to lớn, khỏe mạnh, cười to, ăn mạnh, nói lớn, lúc nào cũng giam chật trong bộ quần áo trận. Một người đàn ông khỏe mạnh và quyết liệt, nhưng cũng tình cảm và lãng mạn biết là chừng nào. Anh yêu những người lính của anh như anh yêu gia đình mình. Và anh yêu những người nghèo khổ khốn cùng như anh yêu chính bản thân anh. Tôi chưa thấy ai có một trái tim phóng khoáng và quảng đại như anh. Ba đứa em của anh, không một đứa nào có được một chút lòng quảng đại và tính lãng mạn của anh.

Mộ Anh nằm cạnh mộ Cha, dưới bóng mát những tàng cây chôm chôm. Đứa con trai lớn của anh từ trại tù cải tạo về, được nhà nước báo cho biết khu nghĩa trang trên lưng một ngọn đồi gần đèo Rù Rì phải giải tỏa, đã mang hài cốt ba cháu về chôn cạnh mộ ông nội trong vườn Nhà Từ Đường. Còn hài cốt má, vốn được chôn cất cạnh bên đứa con trai, sau cùng theo ý nguyện của bà phải đưa về quê ngoại để nằm bên cạnh những người chị em của bà. Khi sống Cha và Má tôi là hai người khắc khẩu, và lúc ra đi, mỗi người trở lại với nơi chốn riêng tư của mình.

Sau 15 năm trở lại ngôi Nhà Từ Đường, thăm lại mộ Cha và mộ Anh, tôi mới nhìn ra cái ngôi nhà đầy ánh nắng, lúc nào cũng ấm tiếng cười kia nay sao mà lạnh lẽo!

Chiến tranh đâu còn nữa. Nhưng cái gì làm cho ngôi nhà kia âm u, khu vườn cây ăn trái kia trở nên buồn bã?

Ngôi Nhà Từ Đường ấy, mặc dù vẫn còn cái sân tráng xi măng nằm dưới dàn cây thanh long, và vườn sau nhà là những cây mãng cầu Xiêm, cam và bưởi, tôi nhìn thấy nó đang xuống cấp. Cái vẻ lạnh lùng và ảm đạm của ngôi nhà quạnh hiu không còn chút sức sống như thân thể của một người già máu đã rút dần ra khỏi thân xác, chờ ngày chia tay…

Ông chú bà thím tôi cũng đã ra đi. Những người con của chú thím cũng đã người ở Úc, người ở Pháp. Ngôi nhà bây giờ trao lại cho hai vợ chồng người cháu gái, người phụ nữ trẻ đứng trước mặt tôi phải nhắc mãi tôi mới nhớ ra ngày xưa chị chính là con bé tóc ngắn, mặt mũi trắng trẻo xinh đẹp đứng thập thò bên chại nước mưa hái cho tôi những chùm chôm chôm.

Chiến tranh Việt Nam đã qua rồi. [Qua thật chưa?] Cha tôi nếu còn sống, chắc thuốc lá và rượu cũng sẽ giết ông. Và anh tôi, một người cương trực, ghét sự ác, yêu cái thiện, người tranh đấu không hề mỏi mệt cho những bất công xã hội. Và một con người như thế vốn là một sinh vật hiếm hoi trong thế giới loài người.

Này anh bạn, anh có bao giờ nhìn thấy cảnh một chiếc xe nước to tưới cho cả một cánh đồng chưa? Chưa bao giờ thấy à? Nếu anh có dịp xem phim Chúng Tôi Muốn Sống anh sẽ thấy xe nước đó. Nó nằm trên thửa ruộng thuộc Nhà Từ Đường của dòng họ nhà tôi.

Từ thành phố Nha Trang, muốn lên Nhà Từ Đường của họ nhà tôi nếu đi xe đò, cũng phải mất cả tiếng đồng hồ. Xe bỏ anh ở một góc đường đầy ổ gà và bụi. Anh phải xuống xe đi bộ một quãng nữa. Băng qua những bờ ruộng và sau cùng là một con đường mòn nhỏ giữa những hàng rào những bụi cây. Tốt nhất là anh nên đi xe gắn máy hay xe đạp.

Hồi trước, người trông coi Nhà Từ Đường là chú thím tôi. Ông là một người đàn ông nho nhả, khuôn mặt trắng hồng, môi đỏ, dáng dấp nhẹ nhàng như một thầy đồ; còn bà thím tôi là một phụ nữ cao lớn, da ngâm đen, khuôn mặt có những nét thô cứng. Bà có vẻ khó tính, nhưng là một phụ nữ tốt bụng và quán xuyến. Tôi có cảm tưởng tất cả chuyện trong nhà ngoài ngõ đều do một bàn tay bà. Ngôi Nhà Từ Đường ba gian. Những cây cột to lên nước đen bóng. Mái ngói đỏ, cửa lớn rộng, chạm trỗ những hoa văn kỳ lạ. Có lần chú bảo tôi, lẽ ra cha mày phải là người trông coi Nhà Từ Đường, nhưng ổng đã không làm công việc đó. Chú không nói cha tôi bỏ làng ra đi từ hồi nào? Ông giang hồ bốn phương tám hướng, trong làng từ lâu không ai nghe tên ông. Ông quen má tôi và cưới bà trong trường hợp nào, và tại sao ông không đưa bà về quê, không ai trong nhà biết chuyện đó. Tôi tưởng tượng ra cảnh một người đàn ông giang hồ, một hôm lạc vào một thị trấn nhỏ, gặp cô thiếu nữ xinh đẹp con một nhà buôn người Hoa, anh chàng phải lòng nàng dừng chân ở lại. Nhà gái chắc là không ưng chàng rễ vì nó là người Ố Nàm, và đặc biệt nó không có vẻ gì là con nhà làm ăn buôn bán. Chắc má tôi phải yêu lắm sự ngang tàng của ông mới chịu lấy ông. Và bên ngoại tôi chắc cũng không cho của hồi môn. Chúng mày yêu nhau thì ráng mà sống với nhau như thế cho biết đá biết vàng. Như thế Cha tôi không đưa Má tôi về Nhà Từ Đường. Hai người quyết sống với nhau như thế – bất cần mọi thứ trên đời – coi có chết con giáp nào không. Không ai nói cha tôi là con một ông Kinh lược của triều đình. Cũng không ai nói với tôi rằng Má tôi con một chức sắc ngoại giao người Bắc kinh làm việc ở Luân Đôn vì đâu lưu lạc đến một vùng quê nghèo khổ nhất miền Trung Việt Nam làm ăn buôn bán?

Phải chăng đó chỉ là một câu chuyện hoang tưởng do một đầu óc không được khỏe mạnh của tôi bịa đặt ra.

Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi trở lại thăm nhà, thăm lại khu vườn nơi chôn cất Cha tôi và Anh tôi. Hai ngôi mộ nằm sát nhau, được xây cất rất sơ sài. Vôi hồ gạch đã vữa nát. Đất giữa mộ đã chìm xuống, lá cây rơi ngập úa nhão nhớp nhúa không ai dọn dẹp. Những dòng chữ trên mộ bia màu đỏ kia đã phai. Tôi đọc được ngày sanh ngày mất của Cha và Anh. Tôi tưởng tượng mỗi ngày Cha và Anh trò chuyện với nhau như hai người bạn. Có lẽ Anh sẽ là người được Cha tâm sự nhiều nhất. Anh là người biết rõ mối tình của Cha, biết rõ người phụ nữ xinh đẹp gốc Hoa kia vì sao chịu lấy một anh chàng Việt Nam giang hồ không một đồng xu dính túi, đi lang thang như một tên du thủ du thực, không ngày mai. Và tôi tưởng tượng một ngày nào đó khi tôi ra đi, liệu tôi có được một chỗ bên cạnh Cha và Anh tôi không? Thật ra tôi có được cái quyền ấy không? Khi người ta không làm được điều chi tốt đẹp trong cuộc sống, người ta không thể đòi cuộc sống một điều chi hết. Khi người ta không nợ nần nhau, người ta không phải trả.

Mười lăm năm sau khi ra khỏi Việt Nam, tôi đã trở về thăm lại ngôi nhà xưa, ngôi nhà mà lẽ ra Cha tôi phải ngồi đó thay mặt cho cả một dòng họ, nhưng ông đã bỏ đi giang hồ khi ông vừa mới lớn. Ông đã xuống tàu viễn dương đi khắp năm châu bốn bể như một thủy thủ, đã sống ở Pháp những năm của tuổi trẻ, đã có con với một người phụ nữ bản xứ, đã đi lính Pháp, đã bị Nhật bắt, đã vào rừng sống như một Lỗ Bình Sơn thời chiến, đã yêu một phụ nữ Trung Hoa, đã đẻ ra một bầy con, và sau cùng đã trở về ngôi nhà của tổ tiên khi hai tay ông đã buông xuôi….

Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi quay trở về như một người xa lạ. Thành phố tôi đã ở thời tuổi nhỏ như nhỏ lại, những con đường quen đã xa lạ, tiếng sóng biển vọng lại âm thanh đều đặn kỳ quái của một vùng biển chết nào. Bãi cát không còn cái màu của thời tôi mới lớn và rừng dương đã bị xóa khỏi bản đồ của trái tim.

Tôi nhớ những trận mưa bão thổi mù trời, nước dội xuống ngập thành phố, những hàng cây trụ điện gẫy gục, và sóng biển thổi táp lên tận nhà hàng Frégate, nơi có cô bé đầm lai tên Odette chờ tôi mỗi khi tan lớp ra về.

Tôi nhớ bà Dì của bạn T.T.L. người thường xuyên cho tôi được đến nhà hàng của Dì “ăn cho bỏ những ngày cơ cực”. Tôi nhớ tôi là đứa học trò không có sách cầm tay, đi lang thang từ nhà ông chú này đến nhà bà cô khác. Ngồi ăn một mình dưới ngọn đèn điện tối ám hơn cả ngọn nến leo lắt nhất của ai đốt trên ngôi mộ nghĩa địa. Tôi là một đứa trẻ lớn lên không có tình yêu. Và tôi hiểu tại sao tôi yêu tất cả mọi người, kể cả những người không yêu tôi.

Mười lăm năm sau trở lại thăm thành phố, nơi đã nhìn tôi lớn lên như một thứ cỏ cây, tôi muốn tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao tôi đã không đập phá nổi loạn thời gian đó? Tại sao tôi đã không nắm dao đâm thẳng vào những kẻ quyền thế hà hiếp kẻ khốn cùng? Tại sao tôi đã không cầm súng lia vào cái đám hãnh tiến khốn nạn vẫn thường vênh váo, dửng dưng trước nỗi đau của người khác? Tại sao tôi đã không cho nổ tan xác cái bọn phè phỡn trong khi những bà mẹ những bà chị những người em còng lưng trên những gánh hàng rong suốt ngày, suốt đêm, suốt đời vẫn không đủ tiền nuôi nổi một miệng ăn…Tại sao tôi đã không là một tên du đãng?

Mười lăm năm sau ngày ra đi khỏi nước, tôi trở về nhìn lại biển xưa thấy không còn lại chút dấu vết nào của những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh phúc nằm trên bãi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đấp mặt bằng cành lá dừa, ngủ một giấc chờ đến giờ tan học lủi thủi trở về … Trở về nhưng không biết về đâu. Nhà ông chú hay nhà bà cô. Và ngôi nhà nào sẽ mở cửa cho tôi bước chân vào?

Nguyễn-Xuân- Hoàng

Tự Truyện Một Người Vô Tích Sự

nguyenxuanhoang

Tôi là đứa con thứ mười hai trong một gia đình mười ba anh chị em. Mười ba người con trong một gia đình, con số ấy đâu có nhỏ, phải không? Nhưng biết làm sao! Có ai trên đời này được quyền chọn nơi chốn, gia đình hay dân tộc để chào đời đâu. Tóm lại, tôi là một người Việt Nam ra đời ở miền Trung, trong thời chiến, dưới một mái nhà “đông dân” và “kinh tế gia cảnh” đang hồi sa sút.
Phải nói là nhà tôi đông người quá, đông đến nỗi tôi không thể nào nhớ hết tất cả những anh chị em của tôi. Cha tôi, má tôi, đôi ba ông anh, đôi ba bà chị, một vài cô em… chỉ chừng đó người thôi cũng đủ nằm chật trong ký ức tôi rồi.
Vậy thì, có lẽ, tôi chỉ xin nói trước một đôi điều về đôi ba người trong gia đình tôi thôi. Tôi nghĩ rằng khi vẽ lại chân dung những người thân thích ruột thịt của mình, tôi cũng đã tự vẽ phần nào chân dung mình. Tuy có hơi nhợt nhạt, nhưng chắc là sẽ không xa sự thực lắm đâu!
Cha tôi, tất nhiên đó là người mà tôi muốn nhắc đến trước nhất trong bản tự truyện này. Ông cao lớn, quắc thước, vạm vỡ. Ngay giờ đây, khi hồi tưởng lại hình ảnh của ông, điều mà tôi có thể nhìn thấy lại trước nhất và rõ nhất là đôi mắt của ông. Đôi mắt ấy đầy thần lực, hơi lạnh và có một vẻ gì như tàn nhẫn. Khi nhìn ai, đôi mắt kia như phát ra một mệnh lệnh buộc họ phải phục tùng. Rất nhiều màu nâu đen, rất ít lòng trắng, đôi mắt ấy khá gần với loài hổ báo. Cũng có khi tôi tưởng đôi mắt ấy là con dao cau phạt ngang, có thể cắt đứt cổ tôi như chơi.
Tôi rất sợ cha tôi. Và tôi không biết rõ lòng mình là có bao giờ tôi yêu ông không.
Má tôi thường nói cha tôi là một con sâu rượu. Quả thật, ông uống như hũ chìm và không bao giờ tôi thấy ông say. “Tao mà say rượu à, rượu say tao thì có!” Cha tôi nhiều lần nói như vậy.
Mỗi ngày bốn bận, cha tôi uống rượu theo chu kỳ “sáng – trưa – chiều – tối”. Sáng uống theo lối sáng, chiều uống theo kiểu chiều. Sáng đánh răng súc miệng, uống ít thôi. Tối cần giấc ngủ, uống khá khá được. Trưa, chiều thì tùy hứng.
Má tôi nói rượu là độc được. Cha tôi nói rượu là thuốc an thần. Cha tôi tích trữ rượu. Má tôi giấu rượu. Cha tôi ít nói khi đã uống nhiều. Và má tôi không phải là loại đàn bà lắm lời.
Nói chung, gia đình tôi đông, nhưng buồn và lạnh. Chúng tôi cử động, ăn uống, đi lại, học hành, trò chuyện như những người khách trọ trong một căn nhà nấu cơm tháng.
Có một thời gian, tuy hơi bất ngờ, nhưng mà cũng ngắn thôi, tôi thấy cha tôi không uống rượu nữa. “Sáng – trưa – chiều – tối” ông chỉ uống trà. Cái thói quen mà ông không thay đổi, đó là bao giờ cũng thức dậy sớm hơn tất cả mọi người trong nhà. Ông nấu nước trong một chiếc ấm màu đen quánh, pha trà trong một bình đất nung màu đỏ gạch cua bóng lưỡng, và uống trong một cái chén nhỏ cũng bằng đất nung da màu lông thỏ đỏ. Cái chén ấy ông trang trọng gọi nó là Thố Hào Trản. Cha tôi rất quý cái chén này. Có lúc tôi nghĩ là ông quý nó còn hơn đứa con của ông là tôi nữa. Ông thường đem khoe với mấy người bạn của ông cái chén đất và nói rằng nó xưa lắm, “bảy trăm năm tuổi đấy!”. Nếu đời sống con người chỉ kéo dài có năm mươi năm thôi thì cái chén này đã áp vào môi của mười bốn đời người. Nó “chạm” đến bảy thế kỷ của nhân loại. Có lần tôi hỏi ông tại sao cha biết cái chén này xưa tới bảy trăm năm. Ông nói chính một ông bạn làm quản thủ công nhựt ở viện bảo tàng vườn Bách Thảo Sài Gòn nói như vậy.
“Cha à! Ông ta căn cứ vào đâu mà nói như vậy?”
“Tao không biết, nhưng tao tin ông ấy. Ông ta là một nhà chơi đồ cổ lừng danh. Lời ông ông ấy rất có giá trị.”
“Nhưng tại sao bảy trăm năm thì quý?”
“Cái gì trên cõi đời này mà lâu đời đều quý cả.”
Tôi biết cha tôi trả lời lấy lệ. Và tôi vẫn không tin là hễ cái gì lâu đời cũng đều quý cả.
Nhưng đột nhiên, cũng bất ngờ như lần chừa rượu, ông bỏ trà không một lời báo hiệu. Tôi nhìn thấy cái chén đất nung, da màu lông thỏ đỏ, nằm lăn lóc dưới gầm tủ; bình trà bỏ ở góc nhà; còn cái ấm đất màu đen quánh nằm ở chái hiên.
Ông uống rượu trở lại.
Thời gian sau đó rất tình cờ có lần tôi nghe ông nói “mấy cái thằng ăn không ngồi rồi, dư tiền dư của, bày đặt chén Tiểu Tống với Đại Tống, Thán Hào Trổ với Thố Hào Trản!” Theo ông, rượu tốt hơn trà, và cái quan trọng chính là “nội dung” chứ không phải là cái “hình thức”. Chén nào cũng được, rượu là đủ.
Tôi không giống cha tôi về mặt này.
Tôi uống rượu nhưng không mê rượu.
*
Má tôi là một phụ nữ có cái chiều cao “hơi cao” so với chiều cao trung bình của một phụ nữ Việt Nam. Da trắng, tóc đốm màu bạch kim, mũi cao nhỏ, mắt xanh hơi nghịch ngợm, cái vẻ bề ngoài của bà nổi bật giữa những người phụ nữ Việt Nam. Những buổi đi học về, tôi thường chui xuống bếp với má tôi và đôi khi cả bà chị kế tôi cũng xuống bếp theo. Thỉnh thoảng, bà kể cho chúng tôi nghe về những mảnh đời của cha tôi. Chấp vá lại những câu chuyện hở đầu hụt đuôi của bà, tôi hình dung ra cuộc đời của ông, bằng cách thêm mắm dặm muối cho nó liền lạc.
Là thủy thủ của những thương thuyền, cha tôi trôi nổi từ hải cảng này sang thương cảng khác. Nay Hồng Kông mai Tân Gia Ba, mốt Marseille, bữa kia Amsterdam… ông như một con cá mập giang hồ vẫy vùng giữa trời và nước. Những hình xâm xanh lè còn đầy trên chiếc ngực vạm vỡ và lông lá của ông, cùng với dòng chữ lăn quăn trên hai cánh tay ông, làm chứng cho những lời nói của má tôi. Trước khi lấy bà, cha tôi đã có một đời vợ. Mẹ trước tôi là một phụ nữ Pháp, tên Suzanne, sinh trưởng ở Marseille, thành phố mà đã có thời cha tôi tưởng chừng sẽ chôn chân vĩnh viễn lại đó như quê hương thứ hai. Nhưng cũng theo lời má tôi kể, ông phải bỏ đi vì một chuyện “lỡ tay” của ông. Một hôm ông bước vào quán rượu quen, gọi thức uống như thường lệ, nhưng chờ mãi vẫn không thấy người bồi mang lại, trong khi đó thì tên chủ quán người Pháp cứ đi ra đi vào ngó ông khinh khỉnh. Ông sốt ruột, nắm cổ áo hắn hỏi tại sao. Hắn nói ở đây không có chỗ cho một dân “Mít”. Ông giận điên lên, quật tên chủ quán xuống sàn nhà và tấn công hắn bằng một thế võ cực kỳ hiểm độc. Tên chủ quán chết không kịp lời trối trăn. Để trốn tránh pháp luật, ông dắt bà Suzanne chạy lên Paris. Paris đâu phải đất sống của ông. Ông quẩy đuôi trở lại sông hồ, bỏ lại thành phố ánh sáng lộng lẫy kia người đàn bà với một giọt máu của ông. Sau này, vẫn theo lời kể của má tôi, có lần bà Suzanne gửi thư cho cha tôi nói về giọt máu rơi của ông nay đã là một thiếu nữ tên Marthe. Má tôi muốn tự tay biên thư cho bà Suzanne, nhưng cha tôi không bằng lòng. Ông nói đó là chuyện của ông, má tôi không được xen vào. Chị Marthe của tôi có thời nổi tiếng là một trong số những người mẫu lừng danh của Paris. Người ta gọi chị là Marthe Nuyen (lẽ ra phải viết là Marthe Nguyễn mới đúng, nhưng chuyện này đâu có ăn nhằm gì). Tôi biết chi tiết này vì lúc hơi lớn một chút có lần tình cờ tôi nhìn thấy trong cuốn nhật ký của bà chị kế tôi có một tấm ảnh in hình một cô gái Pháp ăn mặc thật đẹp như một tài tử điện ảnh. Sau lưng tấm ảnh là lời đề tặng cho cha tôi có chữ ký rất rõ là Marthe Nuyen. Nhật ký của chị nói rằng Marthe làm nghề người mẫu. Và cha tôi biên thư phản đối bà Suzanne tại sao để con tự do làm nghề này. Nghề người mẫu thì đâu có gì là xấu, nhưng tôi không hiểu tại sao cha tôi nói vậy. Cho đến bây giờ, thật tình mà nói, tôi không biết gì nhiều hơn về người chị có cùng chung với tôi một người cha này. Bỏ Paris, cha tôi đi Hương Cảng, lại theo một số tàu buôn khác, lại giang hồ kỳ hiệp, nay thương cảng này, mai hải cảng kia. Đó là thời gian cha tôi gặp má tôi.
*
Bà là người Trung Hoa, nhưng có dòng máu của dân Hồng Mao. Bà thường nhắc đến ông ngoại tôi một cách kính cẩn như nhắc đến một vị thần đầy quyền lực: “Ông ngoại con không phải là người phàm. Ổng là con nhà quý tộc chớ không phải dân giang hồ tứ chiếng như cha mày đâu.”
“Má, con nhà quý tộc thì sao?” Tôi hỏi.
“Dân quý tộc không lấy con nhà thường dân.”
“Vậy sao má chịu lấy cha?”
“Không biết! Đừng nhiều chuyện! Nhưng má thích tụi con ăn học đàng hoàng, hơn là lang bạt kỳ hồ.”
Bà không muốn chúng tôi giống cái thời tuổi trẻ của cha. Ước muốn của bà, sau này, tôi thấy hình như không đạt được bao nhiêu phần trăm.
Ông ngoại tôi người Bắc Kinh, con một gia đình quyền quý có chức phận, được gởi sang Anh du học. Ông lấy một phụ nữ người Anh và sinh ra má tôi. Không hiểu vì sao ông bỏ bà ngoại tôi ở lại Luân Đôn, về nước chỉ mang theo cô con gái là má tôi. Nhưng rồi, ông cũng không nuôi má tôi. Ông đem gửi bà cho một gia đình người Hoa khác ở Hương Cảng, cung cấp ít tiền bạc và thỉnh thoảng mới đến thăm bà. Cuộc tình duyên giữa má tôi và cha tôi ra sao, không ai trong đám con cái chúng tôi biết. Mà má tôi cũng không bao giờ hé môi nói rõ tại sao một thiếu nữ “con nhà quan xinh đẹp thế kia” (tôi vẫn luôn luôn nghĩ má tôi là người đàn bà đẹp nhất mà tôi đã gặp trong đời) lại đi phải lòng một người đàn ông giang hồ như cha tôi. Dù sao khi tôi bắt đầu nhận ra mình là đứa con của một gia đình đông đảo, tôi có thể nói má tôi là ngưòi đàn bà tần tảo lo cho chồng cho con trong cái xã hội bình thường của chúng ta. Quần quật suốt ngày với con cái nhà cửa, chạy ăn từng bữa, tất tả, ngược xuôi, đắp cái này, vá cái kia, nhưng không bao giờ thấy bà hé răng kêu một lời than thở. Về ngôn ngữ, tôi không biết nói sao cho đúng. Má tôi nói tiếng Hoa cũng sõi như tiếng Việt. Phần tôi, tôi chỉ ăn cắp được của má tôi và cha tôi một chút chiều cao của thân thể, nhưng tiếc thay, tôi không lấy được một tí nào về sự chịu đựng lớn lao của bà và cái cang cường dũng cảm của cha.
Tuy vậy hình như tôi là một đứa con được má nuông chiều quá đáng trong một gia đình đông đúc. Cha tôi lạnh lùng. Anh chị em tôi dửng dưng. Nhiều khi tôi có cảm tưởng như chẳng có sợi dây gia tộc nào ràng buộc được chúng tôi lại với nhau.
Nói nào ngay, mấy ông anh bà chị tôi không ai ghét bỏ tôi, nhưng hình như cũng không ai yêu tôi. Riêng tôi, tôi nghĩ là mình thù ghét tất cả mọi người, trừ một người, tất nhiên, đó là má tôi. Tôi đâu có cần gì phải làm ra vẻ lạnh lùng. Tôi có thừa sự nhạt nhẽo để có thể chia xẻ cho tất cả mọi người. Cái phần ấm áp, tôi chỉ dành riêng cho mỗi một mình má tôi.
Thật ra, chị Thảo tôi, mà tôi có lần nói rất giống má tôi, là người mà tôi cũng yêu lắm, gần bằng tình yêu mà tôi đã dành cho má tôi. Nhưng giữa chị và tôi có một khoảng cách vô hình. Không bao giờ hai chị em tôi nói với nhau quá câu thứ hai mà không cãi nhau. Đúng với cái tên mà má tôi đã đặt cho chị, chị là một thứ cỏ hoang mọc trên một vùng đất khô cằn là cái gia đình tàn tạ của chúng tôi. Và cái sắc đẹp man dại của chị làm cho má tôi lo lắng buồn bã hơn là làm cho bà hãnh diện mừng vui. Chị Thảo là một kết hợp kỳ lạ giữa cha tôi và má tôi. Chị có cái nhan sắc của má tôi và cũng có cái lạnh lùng đôi khi tàn nhẫn của cha tôi.
Năm mười bảy tuổi, chị bị một tên thanh niên con nhà giàu trên tỉnh theo đuổi. Hắn mang tặng chị hết món này đến thứ khác, toàn là loại đắt tiền. Lúc đầu chị cười cợt, coi như trò đùa. Về sau chị vất tất cả những thứ ấy ra cửa. Hắn tên là T. và theo chủ quan tôi, lúc ấy hắn là một thanh niên khá đẹp trai. Cao lớn, để ria mép, ăn mặc chải chuốt, hắn đẹp theo kiểu một công tử. Hắn khôn khéo, tìm mọi cách để chiều lòng mọi người trong nhà tôi. Kín đáo mang rượu đến cho cha tôi mỗi tuần, tặng vải vóc cho má tôi, đồ chơi cho tôi và các em tôi. T. đi lòng vòng chung quanh trước khi chinh phục tâm điểm là chị Thảo tôi. Tôi có cảm tưởng như nếu bắt hắn phải quỳ xuống để xin chị Thảo chút tình yêu, chắc hắn cũng sẵn sàng không do dự. Nhưng chị Thảo nhất mực không hề cảm động hay thương hại hắn nói gì đến thương yêu. Tôi không biết là lúc đó chị có đang yêu người nào không. Hình như là không. Thật ra tôi cũng không chắc lắm. Nhưng rõ ràng là chị vất cái thứ tình yêu đầy quy lụy, say đắm và mù quáng của T. xuống cống rãnh. Nhiều buổi chiều, tôi thấy T. đứng bứt rứt bên kia đường, dưới gốc cây muồng hoa vàng nghệ, ngó chăm vào nhà tôi. Hắn đau khổ thấy rõ. Và thú thật, tôi có thương hại hắn. Tôi thấy chị Thảo tàn nhẫn. Cha tôi không giờ uống một giọt rượu của T. Còn má tôi vào những ngày năm cùng tháng tận, cần mua sắm ít vải may quần áo mới cho chúng tôi, vậy mà bà cũng nhất quyết gói gửi trả tất cả vải vóc lại cho T. Một lần cha tôi cho gọi T. vào nhà, rót rượu cho hắn uống. T. nói không biết uống rượu. Cha tôi bảo “Nam vô tửu như kỳ vô phong” đàn ông không uống rượu như cờ không gió. Hắn nhìn cha tôi như cầu khẩn. Cha tôi cụng ly. T. bưng lên nốc cạn một hơi. “Khá!” cha tôi nói, và rót tiếp một ly thứ hai. Cứ thế hết ly này đến ly khác. Khi cha tôi đứng dậy, T. ói thóc ói tháo, đầu gục xuống bàn, người mềm như sợi bún.
Khi người Pháp trở lại Việt Nam sau cuộc chiến, T. làm thông ngôn trong một tiểu đoàn Lê dương. Hắn lúc bấy giờ nổi tiếng như một hung thần. Nhiều người đã chết dưới tay hắn. T. háo sắc đến độ gần như vùng nào mà tiểu đoàn hắn đi qua đều có vài ba thiếu nữ là nạn nhân của hắn. Đi bên cạnh T. luôn luôn có hai tên lính người Ma Rốc rạch mặt. Nhiều cô gái sau khi bị hãm hiếp, còn bị tên Ma Rốc dùng dao cắt vú và đâm nát cửa mình.
Thời gian này gia đình tôi đã tan thành nhiều mảnh. Tôi theo cha tôi chạy lên Hòn Lớn, một địa danh ở miền Trung, nằm dưới chân một ngọn núi khô cằn, nhà cửa giống như những căn chòi cất vội vàng trên một nền đất chưa được phẳng. Tiếng súng còn khá xa chỗ ở của cha con tôi.
Lúc đó, tiểu đoàn của T. đang bố ráp càn quét ở một vùng quê khác, nơi má tôi và chị Thảo đang ẩn náu. Sau này má tôi kể lại: Một buổi tối T. xông vào nhà với hai tên lính Ma Rốc rạch mặt. Hắn ung dung ngồi hút thuốc để hai tên Ma Rốc đè chị Thảo ra cột lên giường và trói má tôi chặt vào cột nhà. Ở thôn quê hồi đó, phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn chỉ là một. Má tôi hãi sợ lắm. Hắn hỏi chị Thảo:
“Em có bằng lòng lấy tôi không?”
“Không!” Chị trả lời.
“Tại sao?”
“Không tại sao gì cả.”
“Chừng nào mới chịu lấy tôi?”
“Không chừng nào hết!”
“Sợ tôi không?”
“Tại sao phải sợ?” Chị Thảo hỏi lại ương ngạnh.
T. rút khẩu súng ngắn đeo ở thắt lưng ra, kê vào đầu chị, nhắc lại một lần nữa. Chị Thảo không nhìn hắn. Má tôi la lên, sợ T. bắn thật. Hắn tát vào mặt má tôi. Xong hắn xé quần áo chị Thảo ra, hãm hiếp chị ngay trước mắt chừng ấy con người. Lúc đó, má tôi nói, hắn như một con thú say mồi. Má tôi phát bệnh nặng sau khi chứng kiến cái cảnh tượng hãi hùng giáng xuống đời chị Thảo. Chị Thảo, sau tai nạn khủng khiếp kia, âm thầm bỏ má tôi đi biệt vô âm tín. Mặc dù chỉ nghe lời kể của má tôi về những hành động dã man của tên T., tôi không bao giờ quên hắn. Tôi sẽ nhắc hắn ở đoạn sau.
Phần tôi, kể từ khi bắt đầu va chạm cuộc sống, tôi khám phá ra rằng con người ta không thể nào sống mà thiếu người khác được. Tôi thấy tôi là kẻ đói tình thương trong một gia đình thừa mứa những liên hệ ruột thịt. Nói giản dị, khi tôi nhận thấy mình cần một bà chị như kiểu chị Thảo để yêu mến thì chị ấy không còn trong gia đình nữa. Có lẽ là chị ấy vẫn còn sống đâu đó mà không muốn trở về gia đình chăng, tôi không rõ.
Tôi giữ lại trong trái tim mình hai người anh. Một ông anh cả và một người anh kế.
*
Anh cả tôi bỏ nhà đi giang hồ khi mới mười bốn tuổi. Năm đó tôi chưa chào đời. Má tôi nói anh đi Sài Gòn. Sau đó là Cà Mau, Rạch Giá, Năm Căn, Cần Thơ, Châu Đốc… Có lần trong bữa cơm má tôi nói anh mày ở Vạn tượng bên Lào mới gửi thư và tiền về cho má. Lần khác trả lời câu hỏi của chị Thảo, má nói anh cả đang ở Savanakhet. Khi cha tôi bỏ trà, liệng lăn lóc cái Thố Hào Trản, là lúc ông nói anh đang ở đồn điền Chup bên Nam Vang, Căm bốt. Nói chung là tôi rất lơ mơ về nơi ăn chốn ở của anh ấy. Còn mặt mũi của anh ra sao thì mãi lâu về sau tôi mới có dịp nhìn thấy.
Người anh kế tôi, tuy cao lớn, nhưng dáng người thanh nhã. Ấy vậy mà khi vừa đậu xong cái bằng tú tài toán anh đã chọn đời lính như một nghề nghiệp. Anh thi vào trường Võ Bị Đà Lạt nhưng khi ra trường chuyển sang binh chủng Không Quân. Khi Sài Gòn thất thủ, anh đang mang lon trung tá, bị bắt đi học tập cải tạo và chết trong lao tù Cộng Sản. Anh là người lính ưa văn chương chữ nghĩa. Anh có nhiều bạn là nhà văn nhà thơ, mặc dù anh không hề viết một truyện ngắn hay làm một bài thơ nào. Sở dĩ tôi có biết mặt quen tên một ông nhà văn, một bà nhà thơ nào đó, chẳng qua cũng là do ông anh tôi dắt về nhà thôi. Anh che chở cho một nhạc sĩ trốn lính, bỏ tiền trợ cấp cho một bà ca sĩ có bầu “với ai đó”. Anh luôn luôn hào hoa rộng lượng. Tôi thích nhìn anh trong bộ đồ bay, chữ Tổ Quốc Không Gian trên ngực áo, chiếc nón lưỡi trai che ngang cặp kính Ray Ban rất là thời thượng. Anh có nhiều bạn gái, phần lớn là ca sĩ phòng trà, và anh không yêu một cô nào quá lâu. Anh nói với tôi anh không có tình yêu. Mãi đến năm Bảy Hai, sau mùa hè đỏ lửa, trước ngày má tôi qua đời, anh báo tin cho tôi biết là anh quyết định lấy vợ. Chị là một cô giáo dạy Vạn Vật và là người rất xa lạ với thế giới đầy buông thả của anh. Nếu cái vẻ hào hoa phong nhã của anh là thứ vũ khí sắc bén chinh phục các cô ca sĩ thì khi gặp chị, vũ khí ấy trở thành thừa thãi, vô hiệu. Chị nói chị lấy anh vì tánh thật thà của anh, chứ không phải vì “cái mã bề ngoài” của anh. Hôn nhân đã ép anh vào một khuôn khổ, không kẽ hở. Nhà cửa, vợ con, gia đình, hàng xóm đâu ra đấy. Anh không còn luông tuồng như xưa nữa. “Tình yêu có thật!” Anh vẫn nói với tôi như vậy khi đã có với chị một đứa con. Tuy vậy mỗi khi có dịp về Sài Gòn, anh như một con cá gặp nước. Bạn bè, ăn nhậu, nhẩy nhót như điên. Vũ nữ, ca sĩ, phòng trà, âm nhạc, rượu chè… anh sống vội vã như thể ngày mai trái đất này sẽ trở thành tro bụi. Tuy vậy có lần anh nghiêm chỉnh nói với tôi rằng không biết cuộc chiến tranh này rồi sẽ đi về đâu. Có nhiều điều anh không hiểu. Tình hình chính trị ngày càng xấu. Các thành phố lớn có vẻ như co rúm lại. Chiến tranh đâu chỉ có ở một mặt trận, nó nằm cùng khắp đất nước thành thị, thôn quê, ruộng vườn rừng núi. Ngay trong hơi thở ta, trên da thịt ta, trong thành phố hiền lành chiến tranh cũng đầy chật. Anh nói đến những ánh đèn nhấp nháy của nhà cửa làng mạc, nói đến rừng núi sông ngòi… những nơi anh đã bay qua. Anh nói đến những đám mây như những tảng bông trắng xốp, đến bầu trời xanh lơ mênh mông. Anh thích nhà văn phi công người Pháp, ông Saint Exupéry trong tác phẩm Terre Des Hommes. Và câu nói của một nhân vật trong cuốn sách này ám ảnh anh là: “Cái mà mình đã làm, mình nói thật, không một con vật nào làm được.” Anh muốn có cái cơ hội thử thách điều đó.
Khi hay tin anh chết trong lao tù cải tạo, nhớ đến lời nói của anh, tôi tự nghĩ không biết anh đã chiêm nghiệm ra điều ấy hay chưa.
Nghĩ cũng hay, một gia đình đông đảo đến là như thế mà chiến tranh đến, chiến tranh đi, vô tình cướp mất của tôi lúc này một ít ông anh, lúc kia một ít bà chị, để rồi rút cục con rắn dài mười ba khúc chỉ còn lại có khúc đầu, khúc giữa và khúc đuôi.
Tôi muốn giới thiệu về ông anh cả tôi trước khi nói tiếp về ông anh trung tá.
*
Cũng giống như cha tôi, anh cả tôi cao lớn vạm vỡ khác thường. Anh có một khuôn mặt bạnh, chân mày rậm xếch, mũi to, miệng rộng, cằm vuông, râu quai nón, đen sạm. Một vết sẹo dài chạy từ khóe mắt đến mang tai. Mắt anh không lớn nhưng lì lợm và dữ dằn như mắt cha tôi. Tóc anh xoắn chảy xuống gần phía ót một chùm mịn quăn tít. Cổ anh tròn cứng, vai ngang, hai bàn tay to lớn phốp pháp. Trên khuôn mặt anh, người ta có thể nhìn thấy một sự kết hợp kỳ lạ, mâu thuẫn đến tuyệt vời giữa sự cứng rắn và mềm mại, dễ ghét và dễ thương, hận thù và thân ái… Tất cả những hình nét mà tôi có thể vẽ được về anh chỉ là nhờ vào những tấm ảnh anh gửi về cho má tôi. Tôi còn nhớ Tết Nguyên Đán một năm nào đó, lần đầu tiên tôi giáp mặt anh. Tôi thấy những đường nét mà tôi đã hình dung về anh là không xa lắm. Hồi đó tôi mới bốn tuổi, má tôi bắt tôi ra mừng anh ở xa mới về. Tôi đứng nép bên má nhìn anh, thấy anh tưởng như một người đã quen nhau từ lâu lắm. Nhưng tôi không chào anh. Anh là người quen trong trí tưởng tôi, hơn là người anh có mặt trong đời sống thực tôi. Anh ở nhà không lâu và lại ra đi hồi nào tôi cũng không nhớ. Tôi chỉ biết thời gian đó gia đình tôi tạm coi như sum họp nhất, mặc dù lạnh lẽo vẫn là khí hậu chính của mọi người. In hình như là trong nhà ai cũng linh cảm sắp có một điều chi đó xảy ra, như chờ đợi một cơn bão vậy. Và tôi thấy người anh cả tôi lúc ấy rất quan tâm đến chị Thảo. Anh nói chuyện khá lâu với chị và loáng thoáng tôi nghe nhắc đến tên T., người thanh niên vẫn theo đuổi chị. Một buổi tối, cả nhà ngồi quanh bàn ăn, cha tôi gợi chuyện để anh cả tôi kể những biến cố đời anh. Anh cười, hàm râu quai nón giãn ra như một ông tây con. Anh nói ít, cũng như má tôi vậy, về nơi ăn chốn ở của anh: rừng cao su, những người phu được mộ từ miền Bắc, những tên chủ đồn điền người Pháp hách dịch phách lối, cách tra tấn dã man những người trốn việc mà bọn cai vẫn thường đối xử với đám phu phen… Anh kể chậm rãi về nhiều người, nhiều việc, nhưng không ai biết chút gì thêm về đời tư của anh. Khi anh đứng dậy thì thầm với chị Thảo điều gì đó, cha tôi tuyên bố một câu khó hiểu: “Thằng này giống tao!” Về sau tôi biết là anh đã “làm thịt” một tên cai phu tàn ác vì hắn hành hạ dã man một người phu đồn điền.
Một năm sau, Cách mạng Tháng Tám bùng nổ trên toàn quốc, anh tôi bị con lốc thời cuộc cuốn theo, thổi bay từ núi rừng này sang núi rừng khác, mặt trận, chiến khu, và biệt tích biệt tăm, cho đến sau tai nạn buồn thảm của chị Thảo tôi.
Tôi quên nói là sau khi trái lựu đạn nội hóa đầu tiên nổ tung trong một ngày mùa Thu ngay trước cửa nhà tôi thì gia đình tôi giống như một tổ ong bị vỡ. Chúng tôi, những con ong bay tán loạn, tơi tả, lạc loài, vô định. Má tôi và chị Thảo một đàng, các ông anh bà chị khác một ngõ. Chỉ có riêng mình tôi, theo cha chạy qua những làng xa tận cùng một chân núi. Tôi biết những cánh đồng xanh lá mạ, những vườn xoài vườn mận, những hệ thống dẫn thủy nhập điền thô lậu, những con sông dài phơi mình ngái ngủ giữa trưa hay trôi lặng lẽ dưới bóng trăng đêm… Tôi được thấy những đàn bò gậm cỏ buồn nản, những con trâu lười biếng trầm mình dưới đầm nước tù ngầu đục… Nhưng cuộc chiến ngày một đuổi nà những người thành phố. Tiếng súng lúc đầu còn xa, càng về sau càng gần hơn. Trước mặt chúng tôi là ruộng vườn, thôn xóm. Sau lưng chúng tôi là núi đá, rừng cây. Cùng đường rồi, chạy đi đâu nữa. Cha tôi nói như vậy. Và ông vừa làm tiều phu, vừa làm nhà nông. Cha tôi nói đất đai chỉ nuôi sống che chở những ai yêu nó, sống với nó, làm việc với nó. Cha tôi là một người tháo vát. Ông nói tận trong máu huyết của mỗi người Việt Nam đều có chứa đựng dòng máu của một nông dân. Đây là thời gian cha tôi trở lại với ấm trà và chén đất. Không còn cái Thố Hào Trản của thời Đại Tống Tiểu Tống gì đó, mà một ông bạn già của cha tôi từng nói. Chén đất nung thứ thiệt màu đỏ gạch cua, cha tôi làm lấy. Ông vẫn là người dậy sớm, nấu ấm trà. Và tôi trở thành người bạn hiền bé nhỏ đối ẩm cùng ông. Cuộc sống của hai cha con tôi nơi sơn cùng thủy tận hạnh phúc một cách bắt buộc. Cha tôi nhắc má tôi và chị Thảo ít hơn là nhắc đến hai ông anh tôi. Cho đến một hôm, một người liên lạc đến báo cho cha tôi biết anh cả tôi ở chiến khu về muốn gặp ông. Tôi mừng lắm. Nhưng cha tôi trầm ngâm không nói chi. Tôi còn nhớ cuộc gặp gỡ của chúng tôi diễn ra dưới chái hiên của căn chòi lợp lá phên. Buổi chiều ở núi lạnh tê. Anh tôi đứng trước sân căn chòi. Vẫn cao lớn, hơi gầy, râu cạo nhẵn, tóc vẫn xoăn tít bám sát da đầu. Vết sẹo dài từ khóe mắt trái đến mang tai. Cha tôi và tôi đứng dưới dàn bầu nậm. Tôi hết nhìn anh lại nhìn cha. Anh gầy càng giống cha nhiều hơn. Hai người đàn ông đứng im sững như hai người thợ săn đang rình mồi, nhìn ngó nhau trân trân. Tôi thấy những đốm sáng cuối cùng của ngày lóng lánh trong đôi mắt anh. Sau cùng, tôi nghe thấy tiếng cha tôi kêu tên anh trai tôi. Tối hôm đó, ba chúng tôi ăn cơm chung bên bếp lửa. Cơm trộn bắp chan nước mắm bằng nước muối pha đường thẻ. Bữa cơm rất ngon miệng, mặc dù tôi đã quá ngấy với những hột bắp nhiều hơn gạo trong chén cơm. Anh ôm tôi vào lòng, lấy khẩu súng ngắn ở thắt lưng ra, tháo đạn, cho tôi mượn. Anh đọc cho tôi nghe một bài thơ của một tác giả mà sau này tôi biết là Quang Dũng:

Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng

Đó là những câu thơ mà tôi sẽ còn nhớ mãi. Một lúc, anh ngập ngừng nói với cha:
“Con đã gặp thằng T.!”
“Thằng T.?” Cha tôi hỏi gặng. “Mà ở đâu?”
“Ở Tân Hưng. Gần Gò Quít, cha nhớ không?”
“Nhớ. Rồi sao?”
“Con hỏi nó có biết con là ai không? Nó nói biết. Con hỏi nó sợ không? Nó nói không…”
Anh ngừng lại, trầm ngâm.
“Cha biết con đã làm điều gì phải làm cho em Thảo.”
Cha tôi im lặng rót trà vào chén đất, uống một hơi cạn.
Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, anh đã ra đi từ hồi nào. Cả cha tôi nữa, ông cũng đã vào rừng đốn cây làm thêm phên cửa, sửa vách và dành củi cho mùa đông.
Người anh sinh trước tôi vài năm, cũng như tôi, lớn lên cuộc chiến tranh Việt Nam đi vào một khúc quanh khác. Người Pháp đã ra đi sau khi thất thủ Điện Biên Phủ. Người Mỹ vừa đến, Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa thành lập. Gia đình mười ba anh em chúng tôi chỉ còn cô út ở nhà với má tôi. Anh cả tôi cũng như chị Thảo đều biệt tăm. Ông anh kế của tôi theo học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Còn tôi, sau đó vào Quang Trung rồi đi Thủ Đức. Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Các tướng lãnh thay nhau cầm quyền. Cha tôi qua đời đúng vào dịp Tết Mậu Thân. Bốn năm sau má tôi cũng “đi theo”, khi một tay nhà báo Pháp viết về “đại lộ kinh hoàng” ở Quảng Trị, nơi người bạn Thủy Quân Lục Chiến của tôi làm bài thơ Cổ Thành tặng tôi trước khi hy sinh. Cô em gái út nhà tôi lấy chồng. Ngôi nhà tôi ở đã bán. Tôi là người lính sống ở văn phòng nhiều hơn chiến trường. Tôi luôn luôn là kẻ được nuông chiều trong một xã hội không phải ai cũng may mắn được như thế. Ông anh Không Quân của tôi tuy vẫn hào hoa bay bướm, nhưng là một người cha gương mẫu, một người chồng tốt. Anh được bạn bè đồng đội quý mến và quả tình anh cũng rất yêu mến con đường anh đi. Một lần chúng tôi gặp nhau ở Sài Gòn, anh nhắc tên người anh lớn và chị Thảo của chúng tôi. Không biết bây giờ anh chị ấy ở đâu, ra sao. Sống chết thế nào. Anh nói chiến tranh ghê tởm và anh hỏi tôi nghĩ sao. Tôi nghĩ sao? Tôi là một người vô tích sự. Nhưng bây giờ hiểu ra, tôi yêu tất cả mọi người. Tôi không thù ghét ai. Người anh Không Quân của tôi cũng nói vậy. Anh chờ đợi và mong muốn hòa bình. Anh nói anh không phải là một nhà chính trị, nhưng anh tin rằng anh chiến đấu cho tự do của dân tộc. Anh nói anh không hề mù quáng nghĩ rằng anh đang sống trong một xã hội tốt đẹp, nhưng anh tin rằng anh đang chiến đấu trong một xã hội để làm cho nó tốt hơn cái hiện có.
*
Tháng Tư Bảy Lăm, Sài Gòn thất thủ, trong “những người chiến thắng” trở về có ông anh cả tôi, nay là một cán bộ chức sắc, một thứ công thần. Anh có tìm gặp tôi trước ngày tôi bị gọi đi học tập cải tạo. Tôi thấy anh khác xưa nhiều. Vết sẹo trên mặt có vẻ như nhạt đi, những bắp thịt gân guốc đã mất. Anh gầy và trầm ngâm. Anh không gặp người anh Không Quân của tôi. Tôi không nghe anh giải thích tại sao. Cô em út của chúng tôi đã theo chồng rời bỏ Sài Gòn trong một ngày áp chót của cuộc chiến. Tôi không hiểu tại sao có phương tiện trong tay mà người anh Không Quân của tôi không ra đi. Cũng như những sĩ quan thua trận cấp úy khác, tôi thu xếp ít quần áo và lương thực cho mười ngày học tập. Nói là mười ngày, nhưng ba năm sau tôi mới được trở về, khi ông anh Không Quân của tôi vẫn còn ở lại trong một trại cải tạo ngoài Bắc. Ra tù tôi sống lang thang làm đủ thứ nghề, đi khắp mọi nơi, nhưng tôi vẫn không gặp và không nghe chút tin tức gì về chị Thảo tôi. Làm như chị là một người không có thực trong gia đình tôi.
Ông anh cả tôi sau đó có đến thăm tôi trên một lần nữa, sau khi tôi vượt biên bị bắt ở Rạch Giá vừa được thả về. Ông nói đừng làm chuyện bá láp, vượt biên là phản quốc. Đó là thời gian chế độ mới đánh tư sản, đổi tiền. Ông nói học tập cải tạo là rất tốt cho những đầu óc vô tích sự như tôi. Phải như thế thì tôi mới “sáng mắt sáng lòng” ra được. Mãi đến năm thứ mười sau ngày Sài Gòn thất thủ tôi mới vượt biên thông suốt. Tôi đến được Pulau Bidong, trong một chuyến đi không đến nỗi bi thảm như những người khác. Tôi luôn luôn là một người may mắn. Một năm sau nhờ sự bảo lãnh của cô em út, tôi được Mỹ nhận cho định cư.
Khi còn ở đảo tôi hay tin người anh lính Không Quân đã chết trong trại giam. Ông anh cả tôi cũng không còn nữa. Một lá thư từ bên nhà gửi qua cho biết ông ấy chết hơi khác thường: tự tử bằng một viên đạn bắn qua đầu. Qua thư từ tôi biết thêm sau khi ông đi thăm người anh lính Không Quân bị bệnh nặng nằm chờ chết trở về, ông đã chọn cái chết của chính mình như một cách nói lời tuyệt vọng. Mười năm sau khi lấn chiếm miền Nam, đất nước ngày càng tan nát, đời sống người dân ngày càng xuống thấp, trong khi máu mủ ruột thịt bỏ đi xa hay vẫn còn nằm trong lao tù của chế độ mà mình phục vụ, có lẽ đã là động cơ thúc đẩy họng súng quay về phía ông. Đôi khi tôi nghĩ cái lẽ sống mới quan trọng hơn sự sống. Có phải vì thế mà ông anh cả tôi hành động kiểu đó chăng? Đó là tôi suy nghĩ vậy, chớ tôi không chắc lắm đâu.
Hôm qua tôi vừa được thư bà chị dâu từ Cabramatta Úc Đại Lợi gửi sang cho hay chị đã lập gia đình. Người chồng chị hiện nay cũng là một người Việt Nam. Hai vợ chồng mở một tiệm ăn. Cả hai mời tôi có dịp sang chơi, sẽ đài thọ vé máy bay và nơi ăn chốn ở.
Tôi không biên thư trả lời. Tôi gọi điện thoại viễn liên chúc mừng chị. Tôi nói muốn đón các cháu sang Mỹ chơi. Chị hứa.
Đời sống ở Mỹ thật tiện nghi. Tôi đủ ăn đủ mặc và tôi giàu tự do. Tuy nhiên vào những buổi sáng cuối tuần, đi bách bộ trong khu công viên Mile Square Park ở Quận Cam, tôi như thấy mình đang trở lại thời sống với cha ở một vùng núi miền Trung, và văng vẳng bên tai vẫn như còn nghe lời cha nói: “Thằng này đúng là đồ vô tích sự!”
Buổi sáng sớm rừng còn đầy sương mù, gió thổi luồn qua những vòm cây lạnh. Trên những ngọn cây cao, tôi nghe tiếng chim kêu từng hồi. Giẫm trên những ngọn cỏ ướt sương, bập bập điếu thuốc lá chưa kịp khô, tôi thấy mình già hẳn. Như giờ đây, gần bốn mươi năm sau tôi thấy tôi mới già bằng thuở đó./.

NGUYỄN XUÂN HOÀNG
California, Tháng Bảy, 1987
Biên tập lại tháng Mười Một, 2009

Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu

nguyenxuanhoang

Em đừng hỏi giờ này tôi đang làm gì và đang ở đâu. Lúc này đây, khi viết những giòng chữ này cho em, tôi đang ngồi trong tòa soạn của một tạp chí nằm trên con đường Phạm Ngũ Lão. Con đường ấy, khá nhiều nhà in, nhà báo, nhà phát hành, chắc em đã biết, là một con đường nhỏ, đầy bụi và nhiều xe. Trên bàn làm việc của tôi hiện có một lá thư của “nhà-làm-kịch-không-bao-giờ-dựng-kịch” gửi cho tôi, nhưng tôi không hiểu gì cả. Có lẽ ông ta lầm tôi với một người nào khác có một cái tên tương tự. Những cái tên tương tự! Có bao nhiêu cái tên tương tự như tên của tôi, và tên của em trong cõi đời này. Và em, Vy của tôi, tên em phải viết i ngắn hay y dài? Và tại sao phải là y dài mà không là i ngắn?

Lúc viết những giòng này cho em, những người thợ sắp chữ vừa vỗ bản in truyện ngắn của tác giả Rừng Mắm đặt trên bàn tôi, cây quạt trần đang xoay theo một tốc độ chậm nhất, và mưa rơi ngoài kia. Mưa ào ạt như tiếng kêu thất thanh của một người bị săn đuổi, chờ chết.Tại sao lúc nào tôi cũng thích nhìn những trận mưa thúi trời thúi đất. Mưa điên cuồng, man dại; mưa ập xuống như cái thúng chụp không thương tiếc ngậm ngùi…

Thế còn em, nơi em ở hiện giờ trời đang có mưa không? Những trận mưa đầu mùa nắng là những dòng nước được đợi chờ. Mưa luôn luôn làm tôi nhớ em. Nhớ những hôm nào em ngồi sau chiếc xe lambretta màu bạc của tôi. Hơi thở tình yêu của em đã thổi ấm xuyên suốt lưng tôi, hâm nóng một trái tim tưởng chừng đã nguội lạnh, thổi bay đi những đám mây buồn bã từ bấy lâu nay vẫn ám mãi xuống đời tôi. Ôi những trận mưa hân hoan tầm tã; mưa biển mưa rừng, mưa cao nguyên, mưa đồng bằng. Mưa chảy trong tôi tình yêu muộn màng, mưa xối trong em tình yêu vừa mới lớn. Những giọt nước mưa hy vọng đang ướt sũng cuộc đời chúng ta.

Bữa qua có tin từ mặt trận về cho hay chiến trường miền Trung đang hồi ác liệt, một bạn tôi vừa mất xác. Sáng nay trên cao nguyên báo xuống, một người bạn khác nữa của tôi mới vừa tử trận. Những tin tức ấy đã làm tôi chảy nước mắt. Bao nhiêu người ở tuổi tôi đang đối mặt với cái chết, tại sao tôi vẫn ngồi đây yên ổn. Và tại sao tình yêu của chúng ta? Có phải tôi là một người may mắn bất hạnh. May mắn mà sống sót, nhưng bất hạnh thay chưa sống đủ kiếp người.

Có phải là một điều nhảm nhí không khi ta nói đến tình yêu trong một thời đại mà người ta chỉ đề cập đến sự chết. Tôi vẫn nghĩ rằng con người càng đến gần với tình yêu chính là tiến gần đến cái chết. Yêu là chết. Và trước cái chết, người ta bao giờ cũng ham muốn sự sống. Và sự sống là gì nếu không là tình yêu? Ngụy biện quá, phải không?

Vy yêu, cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào mường tượng ra nổi nơi ăn chốn ở của em. Thành phố trên cao ấy đã một thời nhìn thấy tôi lớn lên, đã nghe tôi thở, đã thấy tôi yêu, đã chứng kiến những trận đòn thù trên Đồi Cù, đã dí tôi trong quán cà phê Huyền nửa đêm về sáng. Và giờ đây những dấu chân em in trên con đường đất đỏ dưới những cơn mưa tầm tã đang làm tôi thương nhớ em. Cánh cửa sổ từ căn phòng em ở mỗi sáng mở ra có thể nhìn thấy chăng đỉnh núi Langbiang? Quyển sách nào em đang đọc? Và tờ thư nào em đang viết dở cho tôỉ … Tôi đang nghĩ đến em, đến hơi thở em, khuôn mặt thần thánh em… Sẽ buồn biết bao nếu trí tưởng tôi không còn cái khả năng tưởng tượng ấy nữa, cái khả năng khiến cho đời sống tình cảm chúng ta giàu có hơn, màu sắc hơn…

Em có còn nhớ những quán nước quán ăn mà chúng ta đã đến: một chỗ sang trọng, một nơi tồi tàn; những cuốn phim ta đã cùng xem: đam mê, hung bạo, hay dịu dàng và thơ mộng; những khúc nhạc mà chúng ta đã từng nghe chung với nhau trong một tối nào: quyến rũ và lôi cuốn. Và hơi thở em tràn ngập trong lồng ngực tôi. Thân thể em trong vòng tay cuồng dại tôi.

Ừ, nhiều khi tôi ước phải chi chúng ta là cỏ cây hay loài vật, chúng ta sẽ yêu nhau như loài thú hoang giữa đất trời mà không sợ bóng dáng của Thần Tuyệt Vọng. Như loài thú, chúng ta rong chơi trong rừng, nằm dưới bóng mát của những tàn cây và ngủ an nhiên trên xác lá khô. Như cỏ cây ta không thèm mọc vội vàng. Ta lớn theo gió, và nắng và mưa sẽ làm ta rắn chắc hơn. Cái vòng tròn vàng óng buổi sáng sẽ đánh thức ta dậy, mặt trời đỏ hực buổi chiều sẽ gọi ta về, và trăng sao trên cao sẽ soi thấu tình yêu của chúng ta.

Vy yêu, bây giờ là mười giờ. Buổi sáng trong một tòa soạn báo. Tiếng máy chạy ì ầm. Những bản vỗ ướt mực và ướt nước. Cơn mưa đã dứt. Trời trong suốt và nắng đang thổi luồn những hơi thở nóng hổi trên thành phố tôi đang ở. Có lẽ những con đường rợp bóng cây mà chúng ta đã đi sau trận mưa lớn đã ngập nước, vòm cong của những tàn me cụm đầu dài đến cổng trường Saint-Paul còn óng ánh chút nước mưa đã rơi trên đầu chúng ta theo từng cơn gió nhẹ. Giờ đây, tôi không biết mình đang đốt đến điếu thuốc thứ mấy trong ngày nhưng tôi biết là tôi đang nghĩ đến em.

Vy yêu, em có còn nhớ cái lối quảng cáo của người Nhật về những sản phẩm đặc chế của họ. Bất Cứ Lúc Nào, Bất Cứ Ở Đâu Cũng Chỉ Có Hai Ta. Ừ, cũng chỉ có hai ta.

Ngày mai, tôi sẽ phải vào bệnh viện trở lại. Những dấu hiệu tái phát của căn bệnh cũ đang bắt đầu lộ diện và đang hành hạ tôi. Bạn tôi bảo: “Mày chưa chết đâu. Đừng sợ..Sống thì khó chứ chết thì ai mà chẳng có phần.”

Buổi sáng hôm nay, sau cơn mưa mặt đường trước tòa soạn sạch trơn. Nhưng sao mà lòng tôi vẫn còn đầy chật hình bóng em. Nhớ em, nhớ những sợi tóc dài buộc chết đời tôi, nhớ hai con mắt màu nâu thầm lặng, nhớ cái mũi hếch kiêu căng, nhớ giọng nói sao mà ngọt ngào kỳ lạ. Nhớ nụ cười em tràn ngập cơn mê tôi, nhớ đôi chân dài quấn quýt, nhớ bờ ngực nặng, nhớ hơi thở nóng, nhớ hai bàn tay hốt hoảng của em,… Nhưng sao tôi vẫn có cảm tưởng như rồi ra chẳng bao giờ chúng ta còn có cơ hội gặp lại nhau nữa. Bởi vì, giữa tôi và em, chúng ta có bao nhiêu là sông núi, bao nhiêu là hố thẳm, bao nhiêu thung lũng, bao nhiêu biển trời. Có cả sương mù và sấm sét. Có đêm và ngày. Có cả “Khổng tử” và gia phong. Và…

Thư từ làm cái gì, chữ nghĩa cũng sẽ chỉ là điều vô ích, một khi người ta không còn muốn đọc nhau nữa.

Phải không?

Nguyễn Xuân Hoàng
Tháng Chín 1968

HUẾ MÀ TA SẼ TRỞ LẠI

nguyenxuanhoang

1.
Huế. Tại sao?
Huế. Huế có nghĩa là gì nếu nó không gắn liền với những con người và cảnh vật của thành phố đó?
Thói quen của chúng ta nói rằng Huế là tất cả miền Trung, cũng như Hà Nội là Bắc, Sài Gòn là Nam. Cái để người ta buộc chùm với Huế là sông Hương, núi Ngự, là chùa Thiên Mụ, là lăng tẩm, là Vĩ Dạ, là Đập Đá… là Công Tằng Tôn Nữ, là Nguyễn Phúc, Vĩnh, Bảo, là cảnh trí, là những trận mưa liên tu hồ tận, là…
Những người Việt Nam tị nạn gọi California là Sài Gòn nhưng gọi Hoa Thịnh Đốn là Huế. Cali thì hiểu được, nhưng Hoa Thịnh Đốn, tại sao?
Người Hoa Thịnh Đốn kiểu cách chăng? Hay Hoa Thịnh Đốn có con sông Potomac chảy qua thành phố như con sông Hương lướt thướt dưới cầu Tràng Tiền? Hay Hoa Thịnh Đốn đầy dẫy những di tích lịch sử để làm cho người ta liên tưởng đến những lăng tẩm của triều đình nhà Nguyễn?
Cách chi thì cách, lòng tôi sáng nay tràn đầy xứ Huế.
Tại sao?
Nào tôi có biết!
Huế. Thành phố ấy tưởng như đã chìm mất trong sự quên lãng, thật ra vẫn còn quanh quẩn nguyên vẹn trong trí nhớ tôi.
Huế. Thành phố của tuổi mười sáu gắn chặt tôi vào với Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Huế, thỏi nam châm tình ái của con đường đi qua Đập Đá và ánh nắng mới lên trên những hàng cau quạnh hiu của một mặt đường xỉn bụi.
Huế trước hết là khuôn mặt tuyệt vời, là đôi mắt hạnh nhân, là giọng nói ngọt ngào quyến rũ, là nụ cười bão tố.
Huế thổi trong tôi hơi thở thơm ngát của sông Hương.
Huế, tình nhân của tôi thời mới lớn.
Tôi đã thấy gì ở Huế hồi đó? Một chiếc hộp giấy bìa kín bưng bên trong là con dế nhỏ. Và tôi, cậu bé tìm trò chơi trong mùa mưa. Con dế dễ thương, tiếng gáy dòn tan, nhọn như kim. Và đứa nhỏ đứng lớ ngớ bên ngoài, chọc thủng cái lỗ nhỏ tí xíu nhìn vào.
Cách biệt. Ao ước. Sung sướng. Hồi hộp.
Nhưng một hôm bỗng nhiên Huế trôi đi như những cánh lục bình dưới gầm cầu sau cơn mưa lũ.
Tưởng vậy thôi, thực ra Huế không chìm mất hẳn. Như cái phao của chiếc cần câu có sợi dây tơ quá dài, Huế nổi lên, Huế trở lại trong tôi.
Trở lại trong tôi với tất cả nỗi đau đớn và xót xa.
Trở lại trong tôi với hình ảnh của một thành phố máu lửa. Huế giẫy giụa và bi thương. Huế nghẹn ngào và nghẹt thở.
Huế là người bệnh bị máu xối xả tuôn từ lục phủ ngũ tạng. Huế hấp hối.
Huế trở thành thành phố của bạo động và căm phẫn.
Huế trí tuệ.
Huế chôn xong người tình nhỏ bé, để hóa thân trở thành một nhà cách mạng cực đoan.
Huế khóc bằng nước mắt của dân tộc.
Chiếc cầu nối liền hai con đường chính của Huế đã gẫy. Con sông vẫn nghiêng bóng. Huế của trầm lặng đã trầm lặng trở lại sau những tiếng súng.
Trong cái ánh nắng chói chang của Huế, sao tôi chỉ nhìn thấy cái mù mịt của một đời sống xót thương?
Huế đầy hầm hố và xác chết, và tử biệt sinh ly?
Huế đòi lại người chồng người con đã bị vùi sâu trong đất đai và biển lửa.
Trên khuôn mặt xanh xao của Huế đang giàn giụa nước mắt là một Huế dũng mãnh.
Cả hai lần đến Huế, Huế đều dìm tôi xuống tận đáy vực của đau thương.
Lần đầu Huế là đôi mắt đen sâu như vực thẳm của tình ái. Lần sau Huế chính là ngọn lửa bốc cao tiếng khóc xót xa của một thời băng giá. Huế của địa ngục.
Như con chim sải cánh bay trên trời cao, ngó xuống tình cờ một thành phố ngổn ngang những di tích của một lịch sử, la liệt xác chết của một trận chiến ngu xuẩn, thấp tè những mái nhà tối tăm của một đời sống chậm chạp thiếu ăn và đen đúa.
Tôi bị cay mắt vì những cột khói mù của một thành phố cháy.
Huế hết chưa thời rêu rong và cổ kính?
Huế có còn không con đường hàng me đầy kỷ niệm?
Huế thơ ngây của tôi đã đầy chăng sự già dặn?
Huế của núi thấp và sông cạn.
Huế của tình yêu và thù hận.
Huế chỉ là nơi để nhìn ngắm và chiêm ngưỡng hay để sống và thở?
Huế, đó chính là thành phố mà tôi sẽ trở lại, mặc dù tôi biết là chẳng có ai chờ đón tôi ở đó.
Cũng chẳng làm sao, phải không? Bởi vì tôi đâu phải người khách lạ và Huế đâu phải là một miền đất không quen!
Huế cổ tích và hiện đại.
Huế với thời tiết kỳ quái, cách mạng xung động và trầm lặng khó hiểu.
Nhưng Huế, xin hãy chờ!
2.
Những cửa sổ của Huế
Mùa hè ở Huế, mặt trời xuống rất gần, đêm đứng gió, nóng bốc khói từng lỗ chân lông. Huế như chiếc hỏa lò lớn thiêu tro tất cả.
Trời xụp thấp. Và đám mây bồng, đã cũ xì.
Tôi ao ước mưa và tôi đang nghe thấy được mùi khói đất lượn qua mũi. Mưa. Cơn mưa tuyệt vời giữa mùa nắng cháy của Huế.
Tôi đang nghe hơi đất ngái xông lên, cơn mưa kỳ dị đang rơi xuống.
Hình như tôi ngửi thấy được mùi vị Huế, cái mùi cách đây lâu lắm tôi đã bắt được qua những bãi cát trắng chạy dọc đường từ sân bay về trạm ga, cái mùi đặc biệt Huế thoảng ra từ mái tóc gội bồ kết em, từ giọng nói ngọt ngào quyến rũ em, từ màu áo tím than buồn bã em.
Trong cơn gió nhẹ thổi tới mặt trong hạt mưa bay đọng trên cánh tay đặt ở bờ cửa, trong sự mệt mỏi của thân xác, tôi tưởng nhìn thấy lại khuôn mặt của một người với nụ cười dịu dàng, chiếc cổ cao, đôi mắt màu nâu sáng…
Nhưng không phải là cơn mưa phùn của mùa Xuân Đà lạt để khơi lại cái quá khứ đã nhòa nhạt, không phải là ngọn gió mềm Nha Trang để thổi bay chút phấn thông dĩ vãng đã phai màu. Chính là những giọt nước vỡ òa như cái bong bóng căng bị ép cực mạnh, chính là trận mưa tàn bạo bất thường, cơn gió thốc xoáy quái dị cuốn tung khuôn mặt ngày xưa của Huế. Chính là những căn nhà tôn lụp xụp, kiến trúc vuông vức phẳng lì hình hộp, san sát như những viên gạch để đáp ứng cho nhu cầu chiến tranh mà Huế trở nên nghẹt thở. Chính cái màu xám xịt của đoàn xe dày đặc đầy nhóc những lính trận, đạn dược và súng ống, chính những chiếc thiết giáp nặng nề nghiến nát mặt đường với bụi đất đỏ bết chặt thành xe, chính cái áo tơi quá rộng trùm kín những đôi vai gầy nhỏ, chiếc nón sắt cứng nhắc ép xuống cái đầu mềm nhũn của người lính trẻ làm Huế trở nên người lạ mặt.
Huế mà tôi đang nhìn thấy (chìm trong sương mù của tấm vải thô đục đan bằng những giọt nước mưa to) xa xôi như một vùng đất chưa hề một lần đặt chân đến.
Huế mà bây giờ ta đang nhìn thấy huyền ảo mong manh như một cái gì không có thực.
Huế tối tăm trong những bong bóng mưa vỡ tung khi chạm thành cửa kính, mũi xe, mặt đường.
Và như thế Huế chào đón tôi.
*
Tôi xuống xe ở nhà ga tàu lửa — những nhà ga tàu lửa của hầu hết những thành phố còn sót lại miền Nam này đã trở thành những trạm đi và đến của đường hàng không – nhớp nhúa hơn, lạc lõng hơn và tội nghiệp hơn cái nhà ga mà tôi đã nhìn thấy, đã chờ đợi, đã đưa đón, đã ra đi và đã biệt ly hồi đó.
Chiếc xắc trên tay, không còn thứ hành lý nào khác để chờ lãnh, tôi đứng chơ vơ một mình ở sân ga.
Huế đó sao?
Trên sân ga này một buổi sáng tôi đã đến, len qua cánh cửa người soát vé, chạy băng trên nóc những toa tàu, gặm khúc bánh mì khô trong khói than.
Trên sân ga này, trong một buổi sớm mai lạnh buốt tôi đã nhìn thấy mắt em nhỏ lệ ngậm ngùi, nơi chúng tôi đã chia tay nhau không một lời từ biệt, và chúng tôi, ngầm hiểu với nhau rằng như thế là tình yêu đã hết.
Huế đó sao?
Hòn sỏi dưới chân tôi cũng lạ mặt giống hệt như tôi đang đứng trên bờ cát, những con sóng xô vào, rút nhanh, xóa tan hết cái vết chân ai vừa mới dẫm lên.
Người phu xe thở dốc khi đưa chúng tôi băng qua những con đường ổ gà — trận lụt bữa trước đã cuốn trôi tất cả — lên một chiếc cầu, nép tránh một chiếc xe hàng ọp ẹp, chúi nghiêng khi chùi xuống một lỗ trũng.
Bao Vinh xa không thể tưởng.
Chẳng hiểu là bạn ta có thấy được đường xa và cơn mưa buồn bã của tôi không?
Bạn đã nói đến quê nhà của bạn, thời thơ ấu của bạn, con đường mà bạn đã băng qua để đến trường học lớn nhất miền Trung, chiếc cầu (mà chúng tôi đã đi ngang qua đây) là nơi mà mỗi buổi chiều dân chúng thẩn thơ lên đó hóng những ngọn gió mát từ mặt sông thổi lên.
Tôi đã ngủ lại đêm ở nơi này. Bao Vinh ba giờ khuya nước sông lớn theo cơn mưa xoáy đứt neo trôi đi những thuyền buôn của mấy người Quảng. Và ta đứng trên bao lơn Bao Vinh nghe thấy Huế than khóc, rên rỉ, trôi trên sông một đời buồn bã.
Huế đó sao?
Sáng hôm sau khi Bao Vinh còn ngái ngủ tôi đã rời bỏ nó để trở về thành phố. Dù sao tôi vẫn ưa nhìn Huế tận mặt, tận mặt trong cái vẻ nguyên vẹn không màu sắc và phấn son của nó, tận mặt vì ở đó — những con đường Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu… đầy người hay con đường Lê Lợi, Phạm Ngũ Lão, Trần Thúc Nhẫn… vắng vẻ đến dễ sợ — tôi có thể thấy được cái mà ít ra Huế có thể phô bày. Thành phố Huế là khuôn mặt của Huế, những cái khác chỉ là tay chân. Cầu Trường Tiền và sông Hương là mạch máu và trái tim của Huế. Những chiếc cầu khác, những nhánh sông khác chỉ là những mạch máu nhỏ tiếp dưỡng và bồi bổ cho mạch máu lớn.
Thành Nội là vầng trán của Huế, trên đó người ta có thể nhìn thấy những nếp nhăn cổ tích, con đường hẹp ngập đầy bóng mát và lá úa của những tàn cây lớn đứng tuổi trước những thành quách rêu phong là dấu vết của một thứ quá khứ vàng son không bao giờ long lanh lại nữa.
Óc não Huế là khu Đại học trẻ trung chẻ ra bằng những con đường đá xanh, rợp bóng cây của những cuộc dạo chơi tình cảm, đứa con muộn màng của mối tình kỳ cựu nhất là chàng trai tơ Quốc Học và nàng kiều nữ Đồng Khánh.
Ruột gan Huế là chợ Đông Ba ngổn ngang xô bồ bên ngoài ngôi nhà tối tân không được tận tình sử dụng.
Và Vĩ Dạ bên kia Đập Đá chính là Tình Ái Huế.
*
Bỏ lại Bao Vinh một buổi sáng tôi nhớ gì?
Có phải câu ca dao mà bạn ta đã đọc (và ta đã không nghe rõ lắm).
Bao Vinh cao bực (?) thẳm bờ
Ghe thuyền năng đậu, mẹ nhờ duyên con
Thế nào là cao bực, là thẳm bờ? Tôi chỉ có thể giải thích được một điều là chốn ấy có người qua kẻ lại, và cái duyên của con gái có thể làm thay đổi cuộc sống của bà mẹ.
Bỏ lại Bao Vinh, sau một đêm gần như không ngủ, tôi thấy Huế dần dần hiện ra trong lặng lẽ im lìm, bất động.
Còn quá sớm để đánh thức một dĩ vãng đang yên ngủ, nhưng hình như quá trễ để pha một cốc nước trà cho người già nua?
Phải không Huế?
*
Như vậy đó tôi nhìn thấy Huế.
Suốt mấy ngày trời Huế mưa dầm mưa dề mưa tầm mưa tã.
Huế nhốt tôi trong trường Quốc Học. Cửa kính sỉn mờ, hành lang u ám, và tiếng trống vào lớp buồn xưa.
Huế trầm lặng, nghiêm trang như phòng thi với những khuôn mặt xanh, mắt lo âu, trán ưu tư. Huế kêu réo ký ức của một hoài niệm.
Mưa rơi trên sân trường, mực đầy trang giấy trắng. Và niềm im lặng cổ kính.
Chính là khuôn mặt dịu dàng em, đôi mắt tròn đen hơi ngơ ngác em, nụ cười buồn rầu và mái tóc ướt huyền em… xô đẩy cánh cửa thần thoại cổ tích…
Trận mưa da diết và kỳ diệu của Huế làm ướt đẫm tâm hồn tôi.
*
Còn nhớ buổi chiều đầu tiên của một ngày có nắng sau trận mưa liên tu hồ tận ở Huế, một người bạn hỏi tôi:
“Nóng chưa?”
“Cái gì nóng?”
“Thì trời nóng đất nóng chứ còn gì!”
“Nóng!”
“Vậy thì đi”.
“Đi đâu?”
Bạn ta không trả lời. Hắn dẫn tôi ra trước Kỳ Đài (A! Chỗ này đây đã có trận đánh lớn, ngưòi ta giết nhau để cắm một ngọn cờ. Bao nhiêu người đã chết ở bãi cỏ xanh này. Bao nhiêu tuổi trẻ đã nằm gục vắt ngang khẩu đại bác cũ kỹ này? Một tấm vải. Một lá quốc kỳ. Và máu chảy xuống. Có phải là tôi đang nghe lại tiếng đạn réo ngang mang tai, một trái lựu đạn vừa nổ, một hơi thở vừa thoi thóp? Có phải tôi đang nhìn thấy lại trong trí tưởng cái hình ảnh quằn quại của người lính trận? Có hay không điểm khác nhau giữa sự đau đớn thân xác của người chiến sĩ này và người chiến sĩ bên kia sông? A! Chỗ này đây…) Đẩy tôi xuống một bờ dốc. Bước lên một tấm ván gỗ. Leo qua một khoang đò. Bạn ta cười cái cười kỳ cục.
Đêm trên sông Hương. Tôi tưởng thấy tất cả cái lóng lánh của một trang sách, mê say của một truyện kể… Nhưng chẳng có gì hết. Đò san sát nhau tấp dọc bờ. Người đàn bà tháo dây, chống sào. Đò lướt ra, không xa lắm, neo lại.
“Thế thôi?”
Đêm đó mát thật nhưng tôi buồn cười. Suốt đêm tôi buồn cười. Chẳng là vì tôi chờ đợi tiếng phách gõ của những thuyền nhỏ bán quà trên sông. Một người bạn ở Sài Gòn nghe tôi sắp ra Huế bèn nói cậu nên ngủ đò. Có gì hay không? Có. Gì? Tiếng động trên sông Hương đêm. Ra sao? Hắn nói đến tiếng phách gõ có nhịp điệu đặc biệt là một thứ ngôn ngữ mà người ta có thể truyền cho nhau được trên sông. Chẳng hạn như chè có lối gõ khác với cháo. Bún bò có một nhịp động khác với hột vịt lộn. Và những nàng kiều nữ nữa… Nhưng bây giờ đây, nghĩ đến thứ âm thanh trong trí tưởng đó làm tôi tức cười muốn chết. Tôi đâu có đi tìm một chút gió mát trên sông Hương. Tôi tìm nghe tiếng động của Huế ban đêm. Và tiếng động đó không có thực. Chỉ có tiếng người ơi ới rao hàng và tiếng mái dầm ì òm trên mặt nước.
Huế đó sao?
Trong bóng tối của trời đất, trong hơi thở của sông nước, tôi tình cờ nghe được tiếng thở dài của Huế. Phải, và trong cái tỉnh táo của đầu óc, trong sự lặng thinh của trái tim, tôi nhìn thấy lại khuôn mặt dịu dàng em, sự chết nằm trên vành khăn tang trắng cuồng bạo lạnh lẽo, nhưng trong đôi mắt nai em chứa chan một đời sống êm đềm, nồng nàn.
*
Trước khi dời bỏ Huế, tôi đã ra ngồi bên bực thềm Lăng Miếu trước trường Đồng Khánh. Vũng nước của trận mưa bữa qua còn đọng trên mặt đất. Ngày thì đã qua nhưng mùa hè vẫn còn. Chẳng làm thế nào để thấy được những con bướm trắng bay ra từ ngôi trường đó, rộn rịp nhởn nhơ trước mặt tôi khua guốc trên đường lộ, hót như chim, xuống đò qua sông mang theo chút ngây dại còn sót lại của đời tôi.
*
Ôi! Huế rêu phong buồn bã, thành quách cuồng tín, mưa dầm, nắng cháy!
Ôi, Huế bạo động và trầm lặng như em.
3.
Huế, Xin chào!
Xin chào thành phố buồn thiu, con sông lặng lẽ.
Xin chào Bao Vinh phố hẹp nhà đông, thuyền bè đứt neo, tiếng động ban đêm.
Xin chào bạn bè mà tôi đã gặp trên chuyến đi, ngôi trường nổi tiếng mà quá khứ vàng son của nó còn ngự trị nơi tôi cả một triều đại. Xin tạm biệt mùa thi, mùa hạ của Huế.
Xin chào mừng những chiếc đò xếp lớp như cá mòi đóng hộp, một chút gió sông, một trời đen ám, một đêm lạ lùng.
Xin chào những đóa sen trắng nở thơm quanh hào Thành nội, con đường bóng mát lởm chởm đá xanh dẫn đến ngôi nhà người họa sĩ trẻ đã một thời cùng tôi chung học dưới mái trường.
Xin chào bạn tôi, người đã sanh ra và lớn lên trên đất Thần kinh nghe thấy quanh quẩn đâu đó một điều tuyệt vọng.
Xin chào bóng tối của những cây nhãn trong quán Ngự viên, những giọt mưa phả ướt mặt tôi trên đường về chỗ trọ, tối ám quạnh hiu.
Xin chào những cây me thở diệp lục tố nơi bạn tôi đang ở mà tôi không đến được, xin chào nhà sàn Trần Thúc Nhẫn vườn kín lá cây xanh, nơi người bạn gái tạm trú với một mối tình đã chết.
Xin chào người anh em làm thơ viết văn tình ái và cách mạng của một Huế bi phẫn và cuồng nộ.
Xin chào mảng nắng sáng góc phố Lê Lợi, màu trời chiều tháng Sáu Vĩ Dạ. Xin chào hơi thở thơm hương cau hương bưởi em. Xin chào mùi bồ kết và chanh, tẩm đầy mật ong rừng trên mái tóc em.
Xin chào Kỳ đài chưa treo cờ, những khẩu đại bác bảo tàng viện bóng lưỡng sẽ không bao giờ còn thở khói, bờ cỏ mướt sương buổi sáng còn ướt chân tôi.
Xin chào Đập đá thấp, với chiếc cầu vòm cao trong trí tưởng, dẫn ngang những làng xóm khô cằn vừa trẻ lại bằng những chùm nắng lóng lánh trên hàng cau, bờ cỏ.
Xin chào Thuận An cát vàng bẩn xỉn, chiếc phà khô kệch chòng chành, người đi ngơ ngẩn.
Xin chào những bàn thờ, những nén hương ngạt ngào dọc bờ sông bị vây ám trong cơn mưa vào ngày kinh đô thất thủ làm sống dậy trong tôi một Tôn Thất Thuyết đảm lược, một Hàm Nghi vĩ đại can trường.
Xin chào nỗi đau khổ trong chiếc nón bài thơ, trong màu áo, trong mắt nhìn của những người mẹ ở chợ Đông Ba.
Xin chào một người trong trường Jeanne d’Arc với cổng kín tường cao, chiếc xích đu đong đua cả một chiều chờ đợi.
Xin chào đôi mắt to đen, vành khăn tang trắng, áo lụa vàng, nụ cười buồn, nhìn ai không nói trong sân trường Quốc học mùa thi.
Xin chào những trái cây còn non trong ngôi nhà cổ, nơi bóng tối nhiều hơn ánh sáng, chỗ nát tan nhiều hơn lành lặn, nơi tôi đã đến đốt một ngày dài kỷ niệm.
Xin chào những cây sầu đông không nở trái để tôi hái tặng em, xin chào những con đường em đã đi mà tôi không biết nơi nào để giẩm lên đó những dấu chân muộn màng, xin chào ngôi nhà em đã ở cùng với những người thân yêu mà tôi chưa một lần gặp mặt, xin chào những kỷ niệm riêng tư của em mà tôi không hề muốn nhìn ngắm.
Xin chào những dấu đạn, những hố bom, những xác chết, những vườn không, nhà trống, những chia lìa và tủi nhục của một thành phố tai ương.
Xin chào những chùm hoa phượng nở đỏ như máu trong trường Đồng Khánh, trái tim của hăng nồng và sắt máu, xin chào mãi mãi những tâm hồn vĩ đại đã không ngừng nhúm ngọn lửa đấu tranh không ngừng chống mọi gian trá, bất công và đàn áp.
Xin chào những người đang yêu, những mối tình đang lớn -hay đã chết trong Huế.
Xin chào mặt trời trên cao, con mắt duy nhất đã nhìn thấy tội ác và đau khổ của một vùng đất khô cằn, nghèo đói, gầy ốm, bệnh tật và thiên tai.
Xin nghiêng mình trước một xứ Huế của những con người chịu đựng bền bỉ dẻo dai mãnh liệt hơn bất cứ một người dân nào trên thế giới.
Xin chào con đường mòn nhỏ dọc bờ sông với cỏ xanh đưa tới những bậc cấp của những Lăng Miếu trước trường nữ trung học, nơi tôi đã đi dạo mỗi buổi chiều với em, ghế đá nhám bẩn nơi tôi đã ngồi một mình nhìn con sông lặng lờ và những bậc cấp bằng gạch nung đã rêu xanh, nơi tôi tưởng đang nghe thấy tiếng cười rộn ràng của tình yêu Huế.
Xin chào các em nhỏ ở Huế, những đứa con được nuôi dưỡng trong một bầu khí đe dọa, bú mớm bằng thứ sữa thử thách, đầy cay đắng và kinh hoàng, các em sẽ lớn hơn mọi trẻ em trên thế giới vì các em có đủ căm thù để tranh đấu và đủ yêu thương để tha thứ và sống với kẻ khác.
Xin chào một tuổi trẻ hiện tại và dũng cảm Huế.
Xin vĩnh biệt quá khứ vàng son và xa cách Huế.
Xin chào một thành phố mà chắc chắn là tôi sẽ còn trở lại dù không ai chờ đợi.
Hãy làm bộ vĩnh biệt Huế, nghe.

Nguyễn Xuân Hoàng
* Trích Căn Nhà Ngói Đỏ của Nguyễn Xuân Hoàng, Văn Nghệ xuất bản 1989.

Mang Mang

nguyenxuanhoang

từ xa phố chợ đến giờ
chân quen bỏ lệ gõ bờ lộ quen
hoang vu chín đến độ thèm
lạnh tàn nhẫn rót vào đêm lên đường
mùa sương phố núi mù sương
nhịp buồn hút gió hồn nương sao rừng
chuyện linh hồn với bản thân
bàn tay thượng đế mộ phần chiêm bao
đồi thông xanh tóc nghẹn ngào
ngập ngừng lạnh xuống từ bao lâu rồi
còn tôi, còn chỉ mình tôi
mây bay đầu núi kéo trời lên xa
bàn tay thoáng nổi da gà
thẳm sâu lòng đất nhà ga luân hồi

Hoang Vu
(Nguyễn Xuân Hoàng)

Ở QUÁN CÀ PHÊ STARBUCKS

nguyenxuanhoang

Người đàn ông tôi gặp trưa nay ở quán cà phê Starbucks tên B.
Ông và tôi quen nhau tình cờ từ hơn sáu tháng nay cũng ở quán cà phê này. Hôm nay ông ăn mặc khá giản dị, cái áo choàng lạnh màu xanh đã cũ, quần màu vàng kaki hiệu Dockers hơi rộng, bàn tay ông to bè, những ngón tay ngắn và thô, móng tay dài cáu bẩn, như một người vừa làm vườn. Ông đứng xếp hàng trước tôi chờ mua cà phê.
-“Chào ông.”
Tôi lên tiếng trước.
-“Chào!”
Ông trả lời, giọng mệt mỏi.
Buổi trưa, nhiều nhân viên các cơ sở quanh vùng sau khi ăn lunch xong thường lấy cà phê trước khi trở lại sở làm. Hàng người chờ lấy cà phê khá dài. Ông B. quay mặt lại hỏi tôi hôm nay uống gì. Tôi cám ơn. Tôi nói để tôi vì tôi còn tiền trong thẻ Starbucks.
Nhớ lần đầu gặp ông, cũng đúng vào lúc xếp hàng mua cà phê vào buổi trưa. Ông đứng sau lưng tôi và hôm đó bất ngờ ông hỏi tôi một câu bằng tiếng Anh “Xin lỗi, ông có phải là người Việt Nam không?”
-“Phải”,
tôi trả lời bằng tiếng Việt.
-“Tại sao?”
Tôi hỏi lại.
Ông nói mấy lần trước đi cà phê ở đây thấy tôi ngồi một mình nhưng ngại không dám hỏi sợ tôi không phải người Việt Nam. Người Việt mình ít ai uống Starbucks lắm. Cà phê Việt Nam dù gì cũng hợp gout hơn là cà phê Mỹ. Thấy tôi đeo sợi giây mang thẻ sở làm một toà báo, ông hỏi, tôi làm việc gì ở sở này. Tôi nói dối, tôi làm janitor, nghiã là lau chùi bàn ghế, quét dọn rác rến trong một toà soạn. Ông nhìn tôi thương hại.
-“Qua Mỹ hồi nào? Làm janitor sống đủ không? Vợ con ra sao?”
Tôi trả lời cho qua chuyện, tôi biết mình đã lỡ nói dối không thể tiếp tục thêm. Tôi nói tôi qua Mỹ năm 1985, vợ tôi thất nghiệp cả năm nay, tôi có bốn đứa con, đứa út mới vào đại học, ba đứa kia đã có việc làm.
-“Vẫn ở với con cái à?”
-“Không”,
tôi nói,
-“vợ chồng tôi sống riêng, giống như hai con khỉ già chờ ngày ra đi.”
-“Đi đâu?”
Ông hỏi.
Tôi cười,
-“thì ra đi đó mà. Ai sống mà chẳng có lúc sau cùng phải ra đi.”
Ông cũng cười,
– “nói bậy. Lương bổng sao? Đủ sống không?”
Ông ta nhắc lại câu hỏi.
Tôi nói
-“à thì cũng sống vậy vậy.”
-“Qua Mỹ năm nào?”
Đây là lần thứ hai ông hỏi tôi.
Tôi nhắc lại:
-“Năm 1985”.
-“Mà ở thành phố này lâu chưa?”
-“Ồ chỉ mới sáu năm thôi.”
-“Trước ở đâu?”
Tôi nói ở Quận Cam.
-“Hồi đó làm gì?”
Tôi nhắc lại:
-“À, thì cũng lau chùi bàn ghế, nhà cửa, phòng ốc, hốt rác rưới cho một toà soạn báo.”
-“Vậy sao?”
Ông hỏi mà như nói.
Tôi hỏi lại ông, vậy chứ ông đến Mỹ từ bao giờ? Ông cho biết ông đã qua Mỹ từ trước 1975, đi du học rồi do biến cố tháng Tư 75, ông ở lại luôn. Ông hiện làm kỹ sư cho một hãng nhu liệu điện tử ở đây. Gần 10 năm sau ngày 30 tháng Tư, ông mới lo được giấy tờ cho vợ con qua, và bây giờ… ông bỏ lửng câu…
-“Tôi và vợ tôi không hợp nhau. Mấy đứa con đã lớn, đứa nào cũng có công ăn việc làm. Tôi hiện sống một đời sống khác.”
Tôi muốn hỏi ông thế nào là một đời sống khác, nhưng tôi nghĩ lại, hỏi để làm gì?
-“Ông dùng loại nào?” Tôi nghe cô thu ngân hỏi ông. Ông gọi món frappucino và quay sang nói với tôi -“hôm nay không mang tiền lẻ, ông trả hộ ly nước của tôi nhé!”
-“Không sao.” Tôi gọi một double expresso, và như thường lệ, tôi đưa cái thẻ Starbucks cho cô thu ngân .…
Lấy cà phê xong, chúng tôi ra ngồi ở chiếc bàn trống ngoài sân…

Trời mùa hè vùng Thung Lũng năm nay không nóng như mọi năm. Tôi ấp hai tay vào ly cà phê. Tôi hỏi ông sao lúc này ít ra quán cà phê vậy? Ông nói hồi này ông uống cà phê Việt Nam nhiều hơn ở cái quán quen, chỗ đó thiếu chịu được. Tôi hỏi công việc của ông, ông nói ông tính về hưu. Ông là người thích du lịch. Nhưng chuyện chưa tính xong, còn nhiều chuyện phải giải quyết trước khi nghỉ hưu sao cho có lợi. Ông hỏi tôi hôm nay có phải về sở lau chùi bàn ghế ngay không? Tôi nói còn sớm, tôi có thể ngồi nán thêm ít phút nữa.
Ông B. than hôm nay ông buồn quá.
-“Tại sao?”
-“Tay kỹ sư làm cùng sở tôi vốn là một tay hiền lành, bỗng nhiên hôm nay nó chửi tôi là đồ khốn nạn.”
-“Tại sao?”
-“Đời sống tinh thần tôi mấy lúc sau này không ổn. Tôi nhìn đâu cũng thấy người ta nói xấu tôi, âm mưu hãm hại tôi. Tôi không tin ai, cái khổ của tôi là tôi thấy chung quanh mình ai cũng ngu dốt, đứa nào cũng có ý xấu với tôi. Một câu nói bình thường của bọn nó cũng làm tôi điên đầu suy diễn ra trăm nghìn ý nghĩa thâm độc.
Tôi có cảm tưởng cả thế giới này đều nhắm vào tôi. Cái tay kỹ sư ấy mới qua Mỹ chưa đầy 20 năm mà giữ cái chỗ tốt trong khi tôi sống ở đây đã hơn 30 năm, ăn học đàng hoàng mà vẫn cứ còn lẹt đẹt. Nếu không phải nó bắt tay với thằng phụ tá chủ tịch công ty thì làm sao có đươc chỗ đó.”
Tôi hỏi ông B., hay là tay này nó có bà con họ hàng gì với ông chủ tịch công ty?
-“Làm gì có chuyện đó. Chủ tịch công ty là người Mỹ, còn nó là người như mình, mũi tẹt da vàng mà!”
-“Không”,
ông B. tiếp,
-“không có bà con cô bác gì đâu. Tôi nghĩ là nó nịnh thằng manager Việt Nam, thằng này cất nhắc nó lên. Tôi biết thằng đó dốt bỏ mẹ, tài năng gì! Tôi sẽ nói cho bàng dân thiên hạ biết tay đó là một thằng dốt. Anh làm nghề hốt rác lau chùi nhà cửa thì không biết gì chuyện của những người trí thức như tôi đâu.”
Và đột nhiên, ông B. đổi đề tài:
-“Ở Việt Nam ông ở thành phố nào?”
Tôi nói Sài Gòn.
-“Hồi đó ông làm ngành nghề gì?”
Tôi ấp úng,
-“tôi làm thợ mộc. Nhà tôi có hai anh em, anh tôi là lính Biệt Động Quân, còn tôi…làm thợ mộc.”
Tôi đã lỡ nói dối nên tới luôn.
-“Còn tôi, tôi rời nước sớm quá, tôi không biết gì về tình hình đất nước những ngày 30 tháng Tư.
Anh có bị tù không?”
-“Không, thợ mộc không bị tù, nhưng tôi cũng ở tù vì tội vượt biên.”
-“Tù ở đâu? Có cùng chỗ với ông Đại Học Máu không?”
-“Ông Đại Học Máu là ông nào?”
-“Ồ, xin lỗi.”
Ông nói,-“tôi quên ông là người hốt rác lau chùi nhà cửa. Đại Học Máu là tên một cuốn sách viết về người tù cải tạo. Ông không biết đâu! À ông nói ông bị tù vì tội vượt biên, nhưng tù ở đâu?””
-“Tôi ở tù dưới Rạch Giá, U Minh.”
-“Vậy là ở chỗ của ông Hương Rừng Cà Mâu chứ gì?”
Tôi nói tôi không hiểu ông muốn nói gì.
Ông cười,
-“xin lỗi, anh không bao giờ đọc sách báo à?”
-“Sách thì không, nhưng báo thì cuối tuần nào mà tôi không đọc, báo Việt ngữ bỏ đầy ở các tiệm ăn Việt Nam.”
Ông B. nhìn tôi:
-“Mặt mũi anh trông không đến nổi nào mà sao không chịu học hành gì cả. Tìm một nghề nào khá hơn không?”
Tôi ậm ừ không trả lời. Tôi đang chán vở kịch tôi đang đóng.
-Ông B. lại hỏi-“Lương bổng anh sao? Đủ sống không?”
Tôi nói
-“12 đồng giờ. Cũng sống được.”
Ông B. bỗng nghiêng qua bàn, kê sát miệng vào tai tôi thì thầm:
-“Anh có cần tiền không?”
Cái miệng kinh khủng với đôi môi thâm xì, hai hàm răng vàng khè và hơi thở ông khét mùi thuốc lá làm tôi khó chịu.
-“Tiền hả? Tiền thì ai mà không ham. Nhưng tiền ở đâu ra?”
Ông B. rút trong túi áo ra một tấm ảnh cắt từ một tờ báo.
-“Đây là thằng X. cái thằng kỹ sư ngu dốt mà tôi đã nói chuyện với anh, nó là thằng dám nói tôi là đồ khốn nạn. Tôi sẽ đưa anh một ngàn nếu anh làm nhục nó trước mặt đám đông.”
-“Làm nhục bằng cách nào?”
-“Anh chỉ cần chửi nó là đồ ngu, đồ dốt nát, đồ khốn nạn trước mặt đám đông ở một tiệm phở mà nó hay đến. Tôi chịu trả anh một ngàn đồng.”
Tôi không trả lời. Tôi nhìn ông B., ngạc nhiên hơn là khinh bỉ, khinh bỉ hơn là giận dữ.
Tôi đứng dậy, cầm xâu chìa khoá xe. Ông B. kéo giật tay tôi,
-“anh ngồi xuống đây với tôi chút nữa thôi. Tôi sẽ trả anh hai ngàn. Chịu không? Tôi đang có những ngày tháng không vui. Những ngày tháng mà bỗng dưng giữa đám bạn bè ai cũng nhìn tôi như một con quái vật mang hình dáng người. Một con quái vật trở mặt, thoắt một cái từ mặt người thành mặt thú, thoắt một cái từ cái dáng vẻ lương hảo thành tay lưu manh xảo quyệt, thoắt một cái từ sự thanh tao trở nên thô lỗ cục cằn… Con quái vật có đủ mọi thứ bề ngoài của một con người bình thường, nhưng khi nó há miệng ra cho người ta thấy những chiếc răng nanh nhọn hoắc đầy máu me của mình. Con quái vật có những ngón tay cầm bút nhưng khi nhìn kỹ đó chỉ là móng vuốt của một thứ Dracula đang bấu vào cổ người. Tôi vốn không tin có Dracula trong đời sống này. Chẳng qua đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Thật ra bây giờ tôi mới biết tôi đã có một ý nghĩ sai. Thế giới chúng ta quả thật có ma quỷ, có hồ ly, có Dracula. Dracula sống trà trộn giữa chúng ta. Chúng nói cười đi đứng sinh hoạt như chúng ta. Chúng luôn luôn than van thiếu thốn nghèo túng mặc dù chúng không hề túng thiếu. Chúng thích vơ vét, bốc hốt, thích dí mũi vào đời sống người khác may ra moi móc chút đời tư để kể lại bằng giọng hả hê. Chúng giống như con dòi ngúc ngoắc từ một đống phân. Chúng đóng vai một tên có chút kiến thức nhưng là một thứ kiến thức ăn đong cóp nhặt từ những trang báo, những cuốn sách chưa kịp tiêu. Những con quỷ Dracula không thể sống nếu không hút máu của người khác. Nhưng nó sẽ không hút được máu ai nếu trước hết nó không làm cho người khác tin nó là một con người tử tế. Người ta cứ tưởng nó mềm như một miếng bông gòn, nhưng thực ra nó là một cục chì, đất sét. Nó là một con vật thông minh chứa đầy nọc độc. Tôi đang có những ngày không vui, khi bỗng dưng một hôm phát hiện ra con quỷ Dracula mà lâu nay tôi cứ tưởng là người nào khác lại chính là tôi. Anh đừng bỏ đi, tôi sẽ cho anh mười nghìn đồng, mười nghìn chứ không phải hai nghìn, anh làm nhục tên kia dùm tôi. Tôi xin anh, chỉ khi nào anh làm được như thế con quái vật Dracula kia mới ra khỏi đầu óc tôi, ra khỏi trái tim đầy lòng hoài nghi của tôi.”
Ông B. nói một hơi không nghỉ. Ông làm tôi ngạc nhiên, quá sức ngạc nhiên…..
Hôm nay là thứ Sáu, buổi chiều cuối tuần, công việc ở sở tương đối nhẹ nhàng, tôi có hai ngày nghỉ ngơi trước mắt.
Tôi nói với ông B. là ông cứ moi hết những rác rưới trong đầu ông ra đi tôi sẽ đổ dùm ông. Ông cứ móc hết sư nhơ bẩn của cống rảnh ra khỏi trái tim xấu xa của ông đi tôi sẽ dội nước sôi dùm ông. May ra…..
Tôi cầm xâu chìa khoá dứt khoát bước ra khỏi tiệm Starbucks.
Cà phê Starbucks nhạt và dở trừ phi uống một cái double expresso. Nhưng hôm nay cả ly double expresso cũng nhạt phèo hơn nước lả!
Chiều thứ Sáu tuần này là một buổi chiều không vui của tôi.

Nguyễn-Xuân Hoàng

CHUYỆN KỂ TRÊN ĐỒI CAM

nguyenxuanhoang

1.

Cuối mùa hè rồi, tôi đem đứa con gái nhỏ xuống Cali. Thật ra, có lẽ tôi phải nói là dọn sang Cali mới đúng. Con tôi năm nay được tám tuổi. Bataan nói với tôi là con nhớ mẹ. Tôi hiểu điều đó nhưng đành chịu, không biết cách nào giải thích cho con.
Bataan là đứa con duy nhất của chúng tôi. Tôi lấy Nga cuối năm bẩy chín sau khi ở trại học tập cải tạo ra. Nga là em gái của một người bạn cùng trại tù với tôi. Anh ấy tên Ðông… Ðầu năm bẩy chín tôi bị đưa về Hàm Tân rồi được thả, còn Ðông bị đẩy ra Bắc.
Tôi đến thăm gia đình Ðông ngay khi ra khỏi tù. Ba má Ðông đã già. Ðó là một gia đình người Nam, rất Nam kỳ quốc. Lần đầu tiên gặp ba Ðông, tôi thấy ông mặc một bộ đồ bà ba trắng, đeo kính lão loại tròn như hai chữ O, thòng xuống sống mũi. Ông ưa nói chuyện thời sự thế giới và tình hình chính trị hơn là hỏi về con trai mình. Má Ðông thì rất ít nói. Bà chỉ lặng lẽ khóc khi dọn cơm cho tôi ăn và gợi tôi kể chuyện tù, thỉnh thoảng hỏi đôi câu về đời sống tù của Ðông. Bà nhắc những tật của Ðông như nói lắp, ưa cãi và làm biếng. Tôi cho bà biết Ðông tuy bệnh nói lắp vẫn còn, nhưng không phải là người ưa cãi. Anh ấy nhiều lúc im lặng như hòn đá. Còn cái tật làm biếng thì anh ấy nổi tiếng khắp trại. Ðông chỉ hay nói một câu mà tôi còn nhớ đời ”Cái ông gì gì đó cho rằng nếu phải nhổ một sợi lông chưn mà làm thay đổi cả thế giới thì ổng cũng không nhổ. Còn tao, thế giới nó đang thay đổi tao, mắc mớ gì tao phải nhổ lông chưn chớ!” Tôi được ăn một bữa cơm gia đình ngon không thể tưởng. Món mắm và rau của người Nam, tôi đã từng nhiều lần thưởng thức, nhưng chưa bao giờ tôi thấy ngon như hôm đó. Có lẽ thấp thoáng giữa câu chuyện trong tù- ngoài đời, tôi được hỗ trợ bằng đôi mắt trong sáng của Nga. Nga lúc đó mới mười tám tuổi, còn tôi đã ba mươi. Một tháng sau, chúng tôi lấy nhau.

2.
Ðầu năm tám mươi chúng tôi vượt biên. Vàng bỏ ra mua chuyến đi cho hai đứa là của gia đình Nga. Tôi có gì đâu. Cuộc hải trình rất là thuận buồm xuôi gió. Chúng tôi đến Phi Luật Tân, lên đảo Palawan, sau đó chuyển sang Bataan.
Tại đây Nga sanh cháu gái mang tên của trại tạm cư này. Chưa đầy một năm sau chúng tôi đi Mỹ. Người bảo trợ có bà con xa bên phía tôi. Nga chỉ muốn đi Mỹ, chớ không chịu đi Pháp, mặc dù Nga còn có mấy ông anh bà chị đi du học bên đó từ trước bẩy lăm.
Suốt gần bảy năm trời ở Virgina, tôi chỉ có một địa chỉ duy nhất, đó là căn nhà thuê trên đường Năm Mươi, thành phố Falls Church. Tôi làm đủ thứ nghề, nhưng không nghề gì ra nghề gì. Từ ”nghề” (tôi sợ mình lạm dụng chữ nghề này lắm) đi nhét giấy quảng cáo bán nhà cho một cơ sở địa ốc, cho đến ”nghề” thợ sơn, ”nghề” thợ điện vịn, ”nghề” lau chùi các cửa hàng trong khu thương xá người Việt, ”nghề” hầu bàn cho một tiệm ăn Tàu… ” nghề” gì tôi cũng làm. Tôi vẫn nghĩ bụng, tưởng đã chết rục trong tù, sống thế này đã là hạnh phúc lắm rồi! Chỉ có một điều cần làm là đi học ngay tiếng bản xứ thì tôi lười biếng. Có thể tôi vốn là thằng sợ chữ nghĩa. Từ nhỏ tới giờ tôi chưa bao giờ đọc hết một cuốn sách mà không ngủ gà ngủ gật. Nga trông cháu Bataan khi tôi đi kiếm tiền và khi tôi trở về mệt mỏi với những thứ công việc tay chân thì cô ấy giao cho tôi một công việc nhẹ nhàng khác là giữ con cho cô đi học. Nga học giỏi, đọc báo đọc truyện một cách say mê, nói tiếng Anh lưu loát, hội nhập đời sống Mỹ nhanh. Cô tốt nghiệp ngành điện toán về thảo chương trình. Ðó là Nga dịch ra cho tôi như vậy về chữ Computer Programmer.
Căn nhà chúng tôi ở ngó ra đường Năm Mươi. Ðó là một con đường khá nhộn nhịp. Nó chạy thẳng qua thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, nơi mà tôi đã từng nghe tiếng khi còn ở Sài gòn. Hai cha con tôi lúc rãnh rỗi có dịp vào xem các viện Bảo tàng Mỹ thuật. Hoa Thịnh Ðốn vĩ đại với những tượng đài và cả lịch sử hình thành của nó. Con sông Potomac mùa đông đóng băng. Chim chóc đi lại trên đó như đi trên đất liền. Mùa thu ở Virginia thì khỏi nói. Nó còn đẹp hơn trong tranh vẽ nữa kìa.

3.

Nga là một người vợ dễ thương. Cô ấy ít nói. Tôi thích người đàn bà ít nói. Cô ấy lại dịu dàng, chiều chồng và thương yêu con. Bao giờ cũng vậy tủ lạnh nhà tôi đầy bia và đồ nhậu. Nga không bao giờ để tôi phải đòi hỏi một thứ gì. Mà thật ra tôi không biết mình muốn gì để mà đòi ngoài tình yêu của vợ con. Tôi đang có một đời sống thần tiên so với những ngày trong tù cải tạo. Tôi tự do đi đứng. Tôi lao động có tiền, dù là số tiền ấy hơi khiêm tốn. Tôi có trong tay một người đàn bà thông minh, xinh đẹp và dịu dàng. Và tôi còn có một đứa con gái ngoan. Bataan luôn miệng nói con yêu cha nhiều hơn yêu mẹ.
“Tại sao?”
“Không biết!”
Bataan trả lời bằng tiếng Mỹ, lên giọng xuống trầm êm tai lắm.
Sau cùng Nga cũng tìm được một việc làm ở bên Ði Xi. Một việc làm nhẹ nhàng nhưng lương bổng hậu. Người chủ đối xử với Nga khá tốt. Nga ăn mặc rất hợp thời trang. Tôi có cảm tưởng như mỗi ngày Nga một đẹp hơn. Cái cảm tưởng ấy càng làm tôi thấy mình hạnh phúc hơn.
Ở Hoa Thịnh Ðốn có nhiều người da đen nghèo. Mùa đông năm rồi, có một người da đen nằm chết cóng trong nhà lồng bằng sắt giữa một công viên đầy hoa ngay phía trước Tòa Bạch Ốc. Nhưng một số người Ðại Hàn và cả người Việt Nam nữa thì lại khá thành công về mặt thương mãi. Lương bỗng thì ai cũng rõ, Nga hơn tôi nhiều. Tay hòm chìa khóa cô ấy nắm hết. Ðôi khi Nga đùa nói với tôi lương anh không đủ cho em mua son phấn quần áo. Tôi chỉ biết cười.
Tôi đi lính năm hai mươi tuổi. Ở tù bốn năm, lấy vợ khi chẵn cái tuổi ba mươi. ” Tam thập nhi lập”, cha tôi hay nói như vậy. Nhưng tôi có ”lập” được cái gì đâu. Những ngày ra tù sống lông bông lêu bêu trên hè phố nhiều hơn là trong nhà. Không có ”hộ khẩu” không có công ăn việc làm. Tôi là kẻ sống ngoài lề xã hội mới. Công an phường đưa giấy cho tôi, bắt đi kinh tế mới. Kinh tế mới? Ðó là những căn chòi xác xơ, nằm bên một con kinh đào khô nước. Nhìn quanh quất tứ bề chỉ thấy khổ nhục. Ngay cả những nụ cười cũng chỉ là gượng mà thôi.
Gia đình Nga đã cho tôi một đôi đũa thần tiên là Nga. Tôi bỏ lại sau lưng cuộc chiến tranh mà tôi đã từng tham dự. Tôi xin Nga hai tháng một lần cho tôi đóng thùng quà gởi về cho Ðông hiện đang ở trong một trại cải tạo trong Nam. Nga không phản đối (tất nhiên Ðông là anh ruột cô ấy chớ đâu phải anh ruột tôi) nhưng cô ấy có vẻ không vui. Tôi thì tứ cố vô thân. Gia đình không còn ai. Cha mẹ tôi đã chết từ năm Bẩy Hai. Tôi còn một bà chị, nhưng chị đã biệt tích từ năm Bảy Lăm.

4.
Một buổi tối cuối tháng Tám, tôi từ sở làm trở về (tôi đang làm việc lau chùi một khu thương xá người Việt có tên là Eden), Nga đón tôi ở cửa. Cô ấy ăn mặc đẹp và gọn như một người chuẩn bị đi xa. Tôi ngạc nhiên lắm. Nếu có người nào tình cờ thấy hai chúng tôi có lẽ họ khó mà nghĩ chúng tôi là một cặp vợ chồng. Tôi xuề xòa quá. Mà không xuề xòa cũng không được. Ði lau chùi sàn nhà, cửa kính cho người ta mà ăn diện như làm thư ký văn phòng thì coi sao phải, nhưng rõ ràng là Nga ăn mặc đẹp hơn thường lệ. Mà thường ngày thì cô ấy cũng đã diện lắm rồi. Áo quần, giầy dép vòng đeo bông tai, nước hoa, không thứ nào có trên người Nga mà không phải loại khá đắt tiền. Hôm nay Nga như một người mẫu trong một buổi trình diễn thời gian.
“Em muốn nói chuyện với anh”
Nga đặt cả hai tay lên vai tôi, nhìn thẳng vào mặt tôi nói nhỏ nhẹ có phần âu yếm hơn thường lệ.
“Em làm gì mà quan trọng dữ vậy?”
Tôi hỏi mà vẫn không hiểu gì hết.
“Em có việc phải đi xa một thời gian”.
Nga nói như thể tôi và cô ấy chỉ là hai người chưa hề sống chung với nhau, chưa hề có với nhau một đứa con, chưa hề là vợ chồng.
“Ði xa? Mà em đi đâu?”
“Anh không cần biết em đi đâu. Mà anh muốn biết, em cũng không nói đâu”.
Tôi gỡ tay Nga ra, đến ngồi xuống ghế ở bàn ăn bên nhà bếp… Nga đến ngồi đối diện với tôi. Cô đưa tay lên coi đồng hồ.
“Chừng nửa giờ nữa em sẽ lên phi trường Dulles. Anh sẽ không hỏi gì em, phải không?”
Tôi còn biết hỏi gì.
Nửa giờ sau có tiếng chuông cửa, Nga bật dậy. ” Bataan đang ngủ, anh đừng làm con thức. Anh trông con giùm em”.
Nga ôm mặt tôi hôn nhẹ nhàng như một người em gái hôn anh.
Như vậy đó chúng tôi chia tay.

5.
Cali đang mùa Thu.
Hồi đầu tháng Chín, khi hai cha con tôi vừa đặt chân tới Cali, trời nóng dễ sợ. Tôi nghĩ chắc là mùa hè sắp đến, nóng một trận chia tay để đi vào mùa Thu. Nhưng dân Cali thì nói khác. Họ cho rằng Cali sắp động đất. Bao giờ cũng vậy trước khi có động đất đều có một trận nóng dữ dội như vậy. Nó báo hiệu cơn thiên tai mà người dân Cali sẽ phải gánh chịu, vì sự phồn thịnh quá đáng của nó.
Ðộng đất đối với dân Cali là một người khách không được mời, nhưng người chủ nhà biết rõ là họ đang phải chờ đợi. Bởi vì trước sau gì ông khách quý ấy cũng sẽ đến.
Mấy bữa nay thực sự là Cali đang đi trong mùa Thu.
Buổi sáng đôi khi có sương mù, đôi khi có chút mưa phùn rẩy nhẹ bụi nước trên đầu trên tóc. Ðêm… đôi lúc trời mù sương lái xe phải mở to mắt lên mà nhìn nếu không muốn bị tai nạn hay bị lạc đường. Trời sáng trưng mà tôi còn bị lạc đường, nói chi là lái xe trong sương mù.
Bataan đã đi học. Tôi vừa xin được một việc làm cắt cỏ do một ông người Việt làm chủ. Bạn tôi bây giờ là những người Mễ. Cũng như tôi, tiếng Anh họ dở lắm. Tôi tin là nghề cắt cỏ có thể ở với tôi lâu được. Ít ra là lâu hơn thời gian tôi sống với Nga.
Những giờ rãnh rỗi tôi thường dẫn Bataan ra chợ Việt Nam lượm báo biếu đọc. Tôi thấy người Việt ở đây giàu có quá. Hơn trên Virginia, Hoa Thịnh Ðốn và Maryland nhiều. Tôi cũng biết thêm nhiều tin tức về Việt Nam. Tôi hi vọng Ðông đã ra khỏi tù cải tạo, và sẽ được đi Mỹ định cư theo một thỏa ước nào đó giữa Hoa Thịnh Ðốn và Hà nội.
Trong giấc mơ, Bataan thường kêu mẹ ơi, mẹ ơi. Tôi thì không thấy gì hết. Tôi nghĩ rằng Nga đang hạnh phúc ở một nơi nào đó với một người nào đó. Người nào có được trong tay một người đàn bà kiểu đó mà không hạnh phúc! Nhiều lúc ngừng tay cắt cỏ, tôi giật mình tự hỏi không biết tôi đang ở đâu và có thiệt là tôi đã từng có một người đàn bà sống chung mà xã hội gọi là vợ không?
Buổi sáng dậy sớm, nhìn Bataan còn ngủ say trên giường, tôi thấy sao nó giống Nga cách gì. Tôi tự an ủi mình là tôi đâu có mất gì. Tình yêu vợ đã mất, nhưng tình yêu con đã thay vào. Trước kia hai người sống với nhau, bây giờ cũng vẫn hai người. Biết đâu chừng, nếu Nga còn sống trong nhà, lại thừa ra một người chăng. Vả lại, từ ngày chia tay đến nay, tôi không hề nhận được thư từ hay điện thoại gì của Nga. Nhiều khi tôi nghĩ hạnh phúc làm người ta mất trí nhớ. Quên như Nga không chừng cô ấy hạnh phúc. Tôi không mong cô ấy gọi tôi. Yêu người nào là muốn điều tốt cho người đó. Chỉ có nỗi đau khổ và bất hạnh mới làm Nga nhớ đến hai cha con tôi.
Tôi đâu có muốn vậy. Dù sao đôi khi tôi vẫn nghĩ là sống như thế này vẫn hơn. Nhưng mà Cali mấy hôm nay nóng thiệt là nóng. Không chừng động đất tới nơi.

Nguyễn Xuân Hoàng
Tháng Tám 1986