TRẦN DOÃN NHO NGƯỜI DẪN NẮNG ĐI CHƠI



(TRẦN DOÃN NHO)
Photo: Nguyễn Huệ Chi

“Chạy: biết bao thảm cảnh, nhất là thảm cảnh thuyền nhân rúng động thế giới.
Chạy: một cuộc “bỏ phiếu bằng chân” vô tiền khoáng hậu.”
(Trần Doãn Nho)
Trần Doãn Nho, tôi không biết gì nhiều về anh, ngoại trừ những truyện ngắn trên Văn đọc được trước năm 75. Và chỉ biết mang máng anh đã từng là nhà giáo như chúng tôi.
Nhưng có lẽ, ấn tượng nhất phải kể đến bài viết của anh, có tựa Khuôn mặt chiến tranh trong tác phẩm Y Uyên ký tên Trần Hữu Thục (Văn số đặc biệt Thương nhớ Y Uyên, số 129 ra ngày 1.5.1969). Nói ấn tượng, bởi trước cái chết của một nhà văn trẻ đã để lại niềm thương tiếc cho nhiều người nhất là những người cầm súng viết văn.
Cùng với những “tên tuổi lớn” như Nguyễn Mạnh Côn, Thanh Tâm Tuyền, Châu Hải Kỳ, Trùng Dương…trong số báo này; khi phân tích các tác phẩm của Y Uyên, anh có cách nhìn khác hơn, gần và thật hơn khi phơi bóc bối cảnh và các nhân vật trong truyện (YU) theo độ sáng tối rõ ràng và chân thật như người trong cuộc, so với cách nhìn “phán xét” của các cây bút đàn anh; bởi anh cũng đang nhìn thấy rõ ràng khuôn mặt ấy, tay chân cũng sắp rờ chạm vào cây súng và đôi giày bot.
Chính vì anh đã sống với nên có phần hiểu rất rõ những nhân vật trong các tác phẩm của người vừa ngã xuống khi đặt bút lên trang giấy, như anh đã thú nhận: “…Trước mặt Y Uyên có lửa, sau lưng anh cũng có lửa, chung quanh đầy máu, chúng ta ở giữa ngây ngất, tê dại. Tôi viết để tưởng niệm Y Uyên trong khung cảnh hừng hực đó. Tôi không viết những lời phê bình anh. Tôi chỉ viết lên những xúc động về chính tôi, một người như bao người khác, đang chấp chới giữa thực trạng chiến tranh” (Văn số 129, trg 39).
Trần Doãn Nho cuốn hút tôi từ đó, chỉ vì anh viết phê bình văn học mà như đang làm thơ, mỗi câu chữ đều xoáy động tâm can người đọc (là tôi): một chút thê thiết, một chút hờn tủi về thân phận con người trong cõi nhân gian khi anh khẳng định “Y Uyên chắc không buồn, nhưng dòng suối, những đám cỏ lơ thơ, xơ xác ở đó buồn” ở đoạn mở đầu bài viết về tác phẩm của một nhà văn cùng thế hệ! Anh không đẩy niềm uất hận đau thương lên cao như Lê Văn Chính, sướt mướt như Mang Viên Long, Trần Huiền Ân hay Cao Thoại Châu… (Văn cùng số); anh cũng không đổ lỗi cho ai và đặt những câu hỏi tại sao; chỉ vừa đủ, chừng mực. Thoạt đọc tưởng anh đứng ngoài những rung cảm đau thương, nhưng kỳ thực len xoáy đến cả những vật vô tri là ngọn cỏ dòng suối. Thời đó, còn là sinh viên bậc cao học, tôi nghĩ anh có cách phê bình lạ, mới mẻ, có vẻ dửng dưng lạnh lùng khi chỉ mới lướt qua, nhưng kỳ thực mang tính “ẩn dụ” rất cao trong cách diễn đạt. Xin dẫn lại phần mở đầu bài viết của anh: “Lúc bây giờ, cái chết nào cũng đột ngột như đốm lửa tàn thuốc chợt tắt ngúm khi vứt vào vũng nước trong bóng đêm. Vừa sáng lóe lên đó và hết. Bốn viên đạn, và Y Uyên đã chết như thế. Chết bên một dòng suối. Y Uyên chắc không buồn, nhưng dòng suối, những đám cỏ lơ thơ, xơ xác ở đó buồn. Những người quen anh buồn. Những người không quen anh cũng buồn…” (Văn, 129, trg 30).
Chỉ chừng đó thôi về một Trần Doãn Nho trong tôi, không có gì để nhớ đến sau những biến cố đau thương, dồn dập đổ ập xuống xứ sở này.
Mãi cho đến khi tạp chí Thư Quán Bản Thảo thực hiện số chủ đề 20 năm Văn Học Miền Nam (số 63), ông chủ bút Trần Hoài Thư giao cho tôi điều hợp Những Ý Kiến Chung Quanh 20 Năm VHMN với sự tham dự của Luân Hoán, Trần Văn Nam (đã bước qua Bờ Bên Kia), Trần Doãn Nho, Trần Hoài Thư, Nguyễn Vy Khanh, Lữ Quỳnh, Phạm Văn Nhàn, Trần Thị Nguyệt Mai… tôi mới có dịp liên lạc với anh và trò chuyện qua email.
Đến lúc này tôi mới “tá hỏa” khi anh tiết lộ rằng “tôi bị động viên khóa 6/70 Thủ Đức”! Đó là khóa dài nhất (hơn 10 tháng) tại quân trường Thủ Đức. Trong khóa có rất nhiều các “cây bút trẻ” thụ huấn: Tôi cùng Cao Huy Khanh, Viêm Tịnh, Nguyễn Chí Kham, Nguyễn Thanh Trịnh (tức Đoàn Thạch Biền), Vũ Đức Sao Biển và nhiều anh em khác… Chúng tôi hay gặp nhau ở bãi tập, khu Dân sinh… Nhưng tuyệt nhiên chẳng ai biết có một Trần Hữu Thục cùng khóa?
Trong thư mới nhất, Trần Doãn Nho cho tôi biết thêm vài chi tiết: “ Tôi vào Sài Gòn ghi danh Cao Học đầu niên học 1968-1969. Viết lăng nhăng ở vài báo hàng ngày (Chính Luận, Điện Tín, Công Luận) kiếm tiền ăn. Đầu năm 1969, được tuyển vào VOF(Voice of Freedom) qua một kỳ thi do Dương Nghiễm Mậu giới thiệu; trong ban biên tập, có Nhã Ca, Dương Nghiễm Mậu, chị Tâm (vợ VĐSB)…Cuối năm 1969, được Đại Học Văn Khoa Huế gọi về làm Phụ Khảo Triết một thời gian. Khi hết hạn hoãn dịch, thay vì chọn gia hạn, tôi chọn nhập ngũ để rồi biệt phái. Vì thế mà đi khóa 6/70. Ra trường, vì trục trặc giấy tờ, họ chuyển về Hành Chánh Quân Y một thời gian (3 tháng), sau đó biệt phái về Đại Học Văn Khoa Huế dạy học cho đến tháng 4/75. Tóm lại, đời quân ngũ ngắn.
Tuy nhiên, nhờ qua trường Bộ Binh và trở thành sĩ quan, mùa hè đỏ lửa năm 1972, tôi tự nguyện ở lại Huế, đóng góp một phần với chính quyền Huế trong công tác dân vận và sinh viên trong khi cả thành phố di tản vào Đà Nẵng.(thư ngày 22/9/2018).
Cuộc đời lắm “gian truân” của Trần Doãn Nho lôi kéo theo một Trần Hữu Thục xơ xác sau ngày 30/4 bi thảm, như bao triệu con người khác ở miền Nam. Không còn hơi sức với chữ nghĩa. Cho đến khi anh an cư trên đất khách (năm 1993), không còn bị theo dõi, dòm ngó canh chừng của đám công an mật; có công ăn việc làm, Trần Doãn Nho mới kéo Trần Hữu Thục ra trên các trang mạng, trên báo giấy…
Anh cầm bút trở lại. Viết đều và khỏe. Đủ các thể loại, từ tản văn, truyện ngắn, truyện dài, tùy bút chí đến biên khảo, phê bình văn học. Và thể loại nào cũng đậm vẻ tài hoa; đặc biệt là phê bình, sắc nét và bén như thanh quất trong tay Bát Lê ở truyện Chém Treo Ngành của Nguyễn Tuân.
Sau khi Trung Niên Thi Sĩ Bùi Giáng Giúi rong chơi ở xứ sở Đười Ươi (Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi/ Đi lên đi xuống đã đời du côn), ông Đoàn Tử Huyến mới gom nhặt tất cả các bài viết của các ông nhà văn nhà báo phe ta lẫn phe địch, nhét vào tập Bùi Giáng Trong Cõi Người Ta (1) dày gần 700 trang giấy, phần đầu trích thơ Bùi Giáng , phần sau là nhận định, phê bình của 44 vị cầm bút có tên tuổi hẳn hoi; và thảy đều vận dụng tất cả các mỹ từ có và không có trong tiếng Việt, hết lời ca ngợi cõi thơ của riêng Bùi Giáng “làm thơ chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác” thì duy chỉ có Thụy Khuê và Trần Hữu Thục là có đủ tỉnh táo để đánh giá cõi thơ Bùi Giáng một cách đúng đắn của một nhà phê bình văn học.
Trần Hữu Thục vẽ chân dung Bùi Giáng qua các nhân vật Kim Dung: “Bùi Giáng thân xác đã tiêu tán, nhưng Bùi-Giáng-như-một-hiện-sinh vẫn còn đâu đó, nghêu ngao ca hát, làm thơ và sống hồn nhiên trên các đường phố Sài Gòn. Một Sài Gòn có Bùi Giáng và một Bùi Giáng có Sài Gòn… Ngẫm mà xem, ta có thể tìm thấy ở Bùi Giáng khi thì một chút cuồng ngạo nghịch thường hoàngdượcsư, khi thì lém lỉnh hoàngdung, khi thì ngờ nghệch quáchtỉnh, khi thì đầy cả trào lộng lãongoanđồng, khi thì chân chính, hào sảng, trượng phu hồngthấtcông, khi thì quái đản kiểu mấy quái nhân luyện võ trong hang động, khi thì điên tàn, thống hận tạtốn…Ngẫm mà xem, ông sống đó cũng như ông mất đi. Ông như có đó mà như không hề có đó. Kẻ sĩ hay người điên. Nhà thơ hay triết nhân. Ông sống giữa thế kỷ này hay một ngàn, hai ngàn năm trước….” (Bùi Giáng giữa chúng ta – http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=344&rb=0103).
Anh cũng không ngần ngại chỉ ra: “Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay – chưa hẳn là rất hay -, còn lại hầu hết thơ ông đều dở. Tôi có cảm tưởng rất nhiều câu thơ ông làm chẳng khác gì những câu thơ ngây ngô của mình khi mới bắt đầu tập tễnh làm thơ hồi còn học trò. Thậm chí có nhiều câu hệt như các em “ma-ri-sến” làm thơ tặng tình nhân. Vần điệu ráp nối tùy tiện, ý tứ lại tầm thường. Chúng ta thử đọc lại một vài câu:
ngô nghê:
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi.
gượng ép chữ cho có vần:
Thưa em ngôn ngữ quặt què
Làm sao nói được nghiệp nghề người điên
lập lại (vần):
Non nửa thế kỷ xa quê
Mà chưa có dịp về quê một lần
nói nhăng nói cuội:
Một hôm gầu guốc gầm ghì
hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm
Nhưng Bùi Giáng có cái dở riêng, phải nói là rất riêng, của Bùi Giáng. Và ông không che dấu cái dở của mình. Không bao giờ. Chẳng những thế, ông lại còn cố ý phô bày nó ra, phô bày một cách chân tình, hồn nhiên, toàn diện” (đường dẫn trên). Điều này Trần Doãn Nho có lý, nếu như chúng ta thử đưa ra so sánh giữa 2 câu thơ của Bùi Giáng và Thu Bồn đều viết về Huế; nhưng rung cảm với Huế, mỗi người mỗi vẻ khác nhau:
Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
(Bùi Giáng)
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
(Thu Bồn – Tạm Biệt)

Trên trang Diễn Đàn Thế Kỷ, số 29/9/2018 kỷ niệm 3 năm ngày mất của Võ Phiến, anh có những nhận xét khá chính xác về văn phong của “nhà văn lớn” này, mà trước đây nhiều người đều nói Võ Phiến ngồi “chẻ văn thành sợi tóc làm tư”. Dĩ nhiên, có người không đồng ý về lối nhìn nhận như trên, nhưng đa phần, từ truyện, đến viết ngắn, dài của Võ Phiến cứ nha nhẩn không đầu đuôi, như cuộn rơm ngồi tháo ra từng sợi, thấy đầu này còn hột lúa, chỗ kia cái gié bị dập, chỗ nọ dính chút bùn… Ông dắt người đọc lơn tơn đi trong sáng sớm dày sương, qua giữa trưa bốc khói đến tận chiều tối… có khi chưa thấy đường ngõ!
Và Trần Hữu Thục đã chỉ ra: “Thế giới trong tác phẩm của Võ Phiến là thế giới bề bộn chi tiết: việc có, sự việc có, vật có, sự vật có, rồi những ý nghĩ thoáng qua, những nhớ, những tiếc, những trạng thái tâm lý tủn mủn tỉ mỉ, chợt buồn chợt vui, chợt băn khoăn, chợt xao xuyến. Đọc văn ông, chúng ta sốt ruột đợi một chuyện gì đó đáng đồng tiền bát gạo xảy ra: một cuộc tình, một tấn thảm kịch hay ít nhất cũng là một biến cố có ý nghĩa nào đó. Nhưng không. Ông nhẩn nha, nhẩn nha kể chuyện “trong nhà ngoài phố” y như thế giới này cứ thế, chẳng có gì quan trọng lắm, ghê gớm lắm. Võ Phiến bắt ta nhìn vào vật này, rồi nghe thứ âm thanh gì ở một xó xỉnh nọ. Ông bắt ta rờ cái này, thoắt cái, nhớ đến chuyện khác. Chuyện con kiến, tiếng thở, cái hắt hơi, tờ báo nằm trên đỉnh mùng, bàn tay đè trên sống mũi, mấy cái hủ mắm, vân vân…” (https://www.diendantheky.net/2018/09/tran-huu-thuc-vo-phien-tam-va-canh.html).
Rồi thì, để chứng minh có cái gọi là “bề bộn, nhẩn nha”, chuyện nọ xọ chuyện kia là có thật, anh bắt đầu dẫn một số đoạn trong các văn bản của Võ Phiến để chứng minh. Đó là cách làm việc cẩn thận của anh, chứ thật ra, những ai đã từng đọc Võ Phiến đều dễ dàng nhận ra sự “con cà, con kê” của ông, vì ông cũng tự nhận “tiếc là không chẻ được làm tám”. Mới chỉ làm tư thôi mà đã làm mệt nhoài ngòi bút phê bình của Trần Hữu Thục rồi, huống chi là tám hay mười?
Đọc những bài phê bình của anh, tôi mường tượng anh cần mẫn, làm việc rất khoa học: đọc, ghi chép, đánh số vào thẻ, xếp loại… cẩn trọng, để khi cần, chỉ thò tay vào ngăn là có ngay.

Tôi cũng có dịp đọc loạt bài phỏng vấn Phạm Phú Minh và Trần Hoài Thư về văn học miền Nam và hải ngoại. Các câu hỏi anh đặt ra cho hai nhà văn trên, tôi cứ tưởng tượng như tôi đang được cùng ông nội dẫn đi gát cu hồi nhỏ. Con cu mồi là anh, đứng trên cầu nó cứ túc, gáy lúc khoan lúc nhặt; khi thách đố khi như khuất phục, làm như vấn đề đó anh hoàn toàn mù tịt, hỏi lại cho rõ nhưng kỳ thực anh muốn biết rõ hơn về thái độ của hai ông nhà văn kia trước những vấn đề có liên quan, buộc họ phải nói ra trên giấy trắng mực đen. Tôi gọi cách phỏng vấn của anh thuộc loại “tra khảo văn học”, hỏi cho đến nơi đến chốn, cho ra chuyện mới thôi!

Rồi, trong những thư từ qua lại, Trần Doãn Nho cho hay, trong những năm ngăn sông cấm chợ bo bo sắn mì… anh buộc phải đi buôn chuyến từ Huế vào Sài Gòn để nuôi vợ con (Nói tới buôn chuyến trên tàu hỏa thời bao cấp khiến tôi rùng mình: mua được tấm vé, mồ hôi như tắm, áo quần tả tơi, và thê thảm hơn là cảnh chen chúc trên tàu, chỉ có chỗ để đứng một chân, chân kia co lại như con cò già giữa muôn vàn mùi xú uế; lúc xuống được ga mình biến thành kẻ khác, như tên tù biệt giam, rách bơm, hôi hám). Anh nói, lượt ra, tàu ngừng rất lâu ở ga Tuy Hòa, anh thường xuống tàu giãn chân tay, ăn cơm dĩa ở ga này, cơm trắng thơm ngon, thịt gà vàng ruộm và nói “đâu có biết anh cũng ở Tuy Hòa!”.
Điều anh nói khiến tôi nhớ, lại có một sự trùng hợp: Một người có thật là anh, nhà văn Trần Hữu Thục nhiều lần ăn cơm ở ga xép Tuy Hòa trong thời kỳ gạo châu củi quế, và nhân vật nữ xưng tôi trong truyện ngắn Thư Từ Tuy Hòa của Cảnh Cửu giữa thời chiến tranh (1964), cũng có đoạn: “Anh có nói hồi đi ngang đó (ga Tuy Hòa – ghi chú của người viết) thấy người ta bán cục cơm vắt và cái đùi gà to tướng mười đồng. Sự thật cũng có như vậy anh à. Nếu anh muốn tôi ra ga mua gửi cho anh. Cục cơm đó không biết có ích dụng chi cho anh không, chứ ít ra nó cũng tố giác với anh vài điều về quê hương tôi… Sự nghèo khó đến gõ cửa thường xuyên, cơm thì gạo ít mà ngô khoai nhiều. Đậu mè, đậu phụng trộn với muối ran là món ăn đắt giá… Chắc khi đọc thư này anh có ăn cục cơm và miếng thịt gà tôi gửi theo thì dù cho cơm đã thiu thiu, thịt gà đã dai nhách cắn không bể nhưng chắc cũng đỡ hơn cái sống ở đây nhiều. Nó là cái tinh hoa của xứ sở tôi đãi du khách đấy” (Văn số 45).
Có lẽ, chính những năm tháng khốn khó, phải bấm bụng nhét bút giấy vào một xó để “chạy chợ” nuôi vợ con nên anh có thừa chất liệu để viết Dặm Trường (2). Chỉ mới chương đầu, đọc cảnh nhân vật Hạnh phải chịu để cho thằng tài xế đè ngửa trên cabin cũng đủ nhìn thấy cảnh đời ngang trái và tàn nhẫn, về thái độ của nhà văn trước thực tế xã hội đương thời mà nước mắt đắng cay nhiều như sông suối: “Trong bóng tối nhờ nhờ của buồng lái, nàng thấy bàn tay anh tài xế đặt lên bụng nàng. Bàn tay kia luồn vào ngực. Nàng lấy tay đè lên tay anh ta, giữ lại. Nhưng anh ta dùng một tay giữ chặt tay nàng, còn tay kia tiếp tục sờ soạn. Tay chân anh tài xế bây giờ như những gọng kềm siết lấy nàng. Hàng nút áo bung ra. Sức nàng yếu dần, ý chí chống cự tan biến. Nàng lơi tay, người mềm đi, phó mặc… Nàng đột ngột cắn vào vai anh tài xế. Nụ cắn sâu, sâu thẳm… Trong ái ân, Lục điệu nghệ, nhẹ nhàng, tỉ mỉ. Như một bài học thuộc lòng, bao giờ anh cũng đi từng bước một, cẩn thận, cố gắng không bỏ sót một chi tiết nào. Dù có nhậu nhẹt, quá chén hoặc có xa vắng nhau lâu ngày, anh vẫn thế, từ đầu chí cuối. Người đàn ông này khác hẳn. Hắn hấp tấp, cuồng bạo. Nàng khẽ thở dài, than thầm, mình hư quá, hư thật rồi. Trong thoáng chốc, mọi chuyện lật qua một trang khác…”. (Dặm Trường, trg 22).
Đọc lướt Dặm Trường của Trần Doãn Nho, tôi mãi ám ảnh về đoạn này. Anh không nói về sex, về dục tính như Nguyễn Mạnh Côn đã viết trong Tình Cao Thượng: “Vì, như em đã nói với anh, Tư Giỏn làm cho em hoàn toàn thỏa mãn. Cũng in hệt như đối với anh, lúc rung động của y lên đến tột độ thì rung động của em cũng lên đến tột độ… trong mọi cuộc giao hoan, chính người đàn ông mới là phương tiện!” (Tình Cao Thượng, trg 88 và 104) mà mặt nào đó, anh muốn dựng lại thực trạng xã hội thời đốn mạt và bi thương nhất của con người (VN). Những người dân vốn lương thiện đã bị “lịch sử” biến thành những tên lưu manh về phẩm giá, đạo đức, cách sống…mọi mặt. Không viết trực tiếp, nhưng qua các nhân vật, những cảnh đời một thời đã bị phủ bóng đen u ám, anh đã vẽ nên một phần “đổ vỡ” dưới chế độ hoang dã và hoang tưởng. Và, chữ nghĩa buộc phải “mửa” lên mặt chúng, là theo cách tôi nghĩ, cảm!

Sau khi phát hành Thư Quán Bản Thảo số 63, Trần Doãn Nho có thư hỏi tôi có còn Văn số 129, nếu còn giữ được sao cho anh 1 tập. Tôi hứa sẽ cố gắng, vì trong tủ sách không còn số này. Tôi chạy xuống thị xã, hỏi vài người bạn, ai cũng lắc đầu. Nhưng rồi cuối cùng cũng tìm ra được nơi người bạn vong niên. Tôi vội vã mang đi photo rồi tìm cách gửi qua cho anh. Khi nhận được anh viết thư cảm ơn rối rít, vì theo anh, bài viết về Y Uyên là bài đầu tiên anh viết về phê bình văn học, nó là kỷ niệm khó quên, bởi sau khi đăng bài viết này, ông Thư ký tòa soạn Văn Trần Phong Giao có nhã ý mời anh cộng tác thường xuyên về phê bình, biên khảo… cho Văn và Tân Văn. Cách đây mấy tháng, tình cờ tôi đọc ở đâu đó trên một trang mạng, có đoạn anh viết về tờ Văn photo này, đại ý nhờ NgLu photo gửi qua, nó còn đẹp hơn bản gốc.
Nửa năm 2015, Trần Doãn Nho về thăm quê nhà, từ Huế, anh gửi nhờ Viêm Tịnh tặng tôi quyển biên khảo Ẩn Dụ, Cuộc Phiêu Lưu Của Chữ do Người Việt ấn hành. Thú thật, tôi phải mất đến 5 ngày vừa căng mắt vừa căng đầu mà đọc nhưng không “thấm” nổi. Sau Văn Việt post lại từng kỳ, tôi nhẩn nha đọc mới rõ được đôi phần, mở ra lắm điều thú vị mà bấy lâu cứ ù lì trong đống sách giáo khoa của các thầy bên Văn Khoa thời xa xưa.
Tôi và Trần Doãn Nho, Trần Hữu Thục chỉ chừng ấy, không hơn.

Những năm gần đây, sức khỏe giảm. Hai ông bạn đốc tờ khuyên phải thuốc thang đều đặn, nghỉ ngơi, chớ suy nghĩ, chớ viết, đọc vừa vừa… tóm lại là phải tĩnh dưỡng, phải an nhiên, tự tại, tốt nữa là thiền định, quán niệm hơi thở… phải và phải… đủ thứ. Nghe thì nghe vậy, nhưng không bỏ được, vẫn cứ dòm ngó với chữ nghĩa, vẫn cứ mở máy và đọc. Và, tôi đọc văn chương của bạn quen, bạn dưng theo cách đó.
Với Trần Doãn Nho, Trần Hữu Thục cũng “nhẹ” như vậy. Mà kiểu đọc này, lại có nhiều cái hay khi ta từ từ không vội, để có thể nhận ra lắm điều bất ngờ. Ví như trong tùy bút Nắng trên trang mạng Da Màu. Chỉ có nắng thôi, một hiện tượng tự nhiên của thời tiết; vậy mà anh khéo léo và duyên dáng dẫn cái nắng ấy rong chơi khắp chốn: từ chỗ nhà quê qua thị thành phồn hoa, ngoài ngõ nhà anh phú nông đến sân nương nương quý tộc, từ âm nhạc qua thơ, qua cầu, qua sông suối, ruộng đồng, sa mạc… dẫn từ các ông nhà thơ, nhạc sĩ tên tuổi để tổng kết lại thành một thứ Nắng đa màu sắc, hương vị, biết đi đứng, biết hỉ nộ ái ố, có hình dạng mập ốm nghiêng thẳng điệu đà, là người yêu, kẻ thù, biết đi biết nằm, biết hờn dỗi …nghĩa là trên cõi đời này có bao nhiêu nguồn cơn cớ sự thì Nắng của anh đều có mặt, khi dịu dàng lúc hung tợn. Thích chí và đồng cảm, tôi gọi bà vợ nằm toòng teeng trên chiếc võng gai đang đọc Già Sao Cho Sướng của ông đốc tờ Đỗ Hồng Ngọc. Dừng lại, nghe cái này. Tôi đọc hết tùy bút Nắng, cả hai vợ chồng già đều bật cười như được gãi ngứa: “Vẫn còn đủ thời gian để nhà văn nhà thơ sáng tạo ra thêm hàng triệu thứ nắng khác nhau nữa để làm vui cuộc đời. Này nhé: nắng trào, nắng tưới, nắng xanh, bẻ nắng, chôm nắng, bửa nắng, bắt nắng, trồng nắng, gặt nắng, hái nắng, gọt nắng và thậm chí…liếm nắng. Đã có sân nắng, vườn nắng, rừng nắng thì chắc cũng phải có: ao nắng, hồ nắng, phố nắng và vũng nắng, hố nắng. Đã có “nắng xiên vào nỗi nhớ” thì cũng sẽ có: nắng đâm, nắng chọc, nắng cắt hay nắng cứa….vào nỗi buồn. Đã có hạt nắng, vệt nắng sao lại không: viên nắng, hòn nắng, miếng nắng và …cục nắng” (https://damau.org/archives/44610).
Với truyện ngắn, tính ẩn dụ cao hơn; thường gây cho người đọc những ảo giác trên bề mặt văn bản, nghĩa là điều anh muốn nói đến không phải là những hàng chữ sắp hàng ngay ngắn trên trang giấy như hàng quân mà, phải tự lật ra phía sau, nó ẩn sâu bên dưới mới tìm ra “nhân dạng”.
Hầu hết những truyện tôi đọc được của anh luôn là những bất toàn, xung đột, mâu thuẫn, mất mát… xoáy sâu vào những “niềm đau nhức” về thân phận, quê hương phải đành đoạn bỏ lại phía sau cùng những giọt nước mắt chảy thầm (truyện nào cũng thấp thoáng, dẫu không có hình hài rõ ràng).
Một Chút Việt Nam như một điển hình cho cách phơi bày tâm trạng u uẩn của những con người “bị biệt xứ”. Từ đầu tới gần cuối truyện là cuộc gặp gỡ, trò chuyện qua lại giữa chàng thanh niên tên Hưng và cô gái tên Miên Tâm trên đất khách. Cô vượt biên theo dạng gửi kèm khi mới lên tám. Sống trên đất Mỹ cho tới lúc có chồng, cô không có một khái niệm nào rõ rệt về quê nhà. Cô bị những người thân, những bạn học đối xử khá tệ. Miên Tâm cô đơn và lạc lõng giữa những người không cùng màu da, ngôn ngữ, văn hóa…để cuối cùng anh chàng người Honduras trở thành bạn rồi thành chồng cô. Cuộc hôn nhân với Garcia chỉ là cách trả ơn, cô giải thích: “Em biết anh giận. Nhưng em nói thật, anh có quyền tin hay không tin. Em muốn yêu một người Việt Nam, nhưng em lại chẳng quen một người Việt Nam nào cả… Em đã trải qua tuổi thơ, mà người ta cho là đẹp nhất đời, không cha, không mẹ, không bà con, không bạn trai, không bạn gái. Em không biết yêu. Có ai đâu để em yêu!”.
Gặp Hưng, cô như người chấp chới dưới làn nước lạnh ngắt, với được khúc gỗ mục. Cô thoát hiện thoắt biến trước Hưng như một cái cớ để có thể ngửi được chút mùi, mùi Việt Nam!
Đỉnh điểm của “chút mùi” ấy là cái đêm trước khi vợ chồng cô chuyển đi nơi khác. Cô đến phòng Hưng với những tâm trạng rối bời, những khao khát cháy bỏng “muốn yêu một người Việt Nam nhưng không quen ai là người Việt Nam cả”. Đích thị là cô chơi vơi với tuổi thơ đã mất như cô đã mất quê hương, gia đình, người thân yêu từ tuổi ấu thơ. Và Hưng là hiện thân của sự mất mát-đang-được-nhìn-thấy. Hành động của cô là muốn kiếm tìm cái đã mất, một chút, một chút thôi : “Anh chưa kịp phản ứng gì thì nàng đã vật anh xuống giường, hôn tới tấp. Nàng cắn. Nàng liếm. Nàng rờ rẫm. Hơi thở nàng nóng hổi. Anh nghe mùi tóc, mùi nước hoa, mùi da thịt nàng tràn trề trên người. Những nụ hôn và những ngón tay. Nàng thành thạo. Dữ dội. Cuồng nhiệt. Đắm đuối. Anh đờ đẫn, run rẩy, bàng hoàng, không biết phải làm gì. Tóc nàng rối tung. Cái áo ngủ gần như tuột hẳn xuống…Hưng, em muốn một kỷ niệm Việt Nam. Đừng trách em, tội nghiệp. Em muốn … em muốn … một chút mùi … mùi Việt Nam. Em muốn … enjoy a little taste of Vietnamese … Một chút hương … Việt Nam, một chút … một chút …Anh chồm lên người nàng. Như một con thú hoang. Không còn là một Hưng e dè, thận trọng nữa. Không còn Miên Tâm. Không còn Garcia. Không còn trời. Không còn đất. Hai sức trẻ quấn vào nhau như chưa từng. Một lần. Chỉ một lần thôi. Căn phòng rung rinh. Chao đảo. Từng hồi.
Và rồi tất cả lắng xuống. Hai người nằm lặng lẽ nghe hơi thở của nhau”. (http://www.hocxa.com/Truyen/MotChutVietNam_TranDoanNho.html).
Truyện khép lại ở đây. Có thể người đọc sẽ lầm tưởng dục tính là có thật ở truyện này, vì trước đó ít phút, Miên Tâm đã tâm sự với Hưng: “cái kiểu make love của Garcia … ghê quá!… Ghê quá là dữ dội … là … Garcia đêm nào, ngày nào cũng bắt em xem phim sex, rồi thì là … dày vò em, bắt em chiều … đủ kiểu. Em sợ …”. Nhưng tôi nghĩ rằng, Trần Doãn Nho không hề viết về dục tính. Giây phút “hai sức trẻ quấn vào nhau như chưa từng” chỉ là cái cớ. Bởi truyện này anh viết năm 1995, chỉ hơn hai năm, sau khi anh phải rời bỏ Việt Nam, mang theo quê nhà trong nỗi nhớ ngắt ngoải. Vậy thì anh nhắm tới điều gì? Phải chăng những hoan lạc và rung động mà họ tìm thấy của nhau, chính xác là với Miên Tâm nhiều hơn, là những cảm xúc thông qua thân xác để chụp nắm về một quê hương đã mất? Cô đã nắm giữ được hình ảnh quê hương trong thoáng chốc với người bạn trai trên giường…Quanh không gian hẹp đó là cánh cửa mở rộng để có thể nhìn thấy những gốc rạ vừa gặt, là mùi khói đốt đồng, mùi cá lóc nướng trui, là hương vị ngọt chát của trái bần quẹt mắm tép rong, cá tràu kho nằm cong trong om đất…? “Nghe hơi thở của nhau” có lẽ là nghe lại hương vị quê hương đã mất sau cuộc “bỏ phiếu bằng chân” của hơn 2 triệu dân miền Nam!
Trong Vết Xước Đầu Đời trên Da Màu và Diễn Đàn Thế Kỷ số tháng 7/2017 được Văn Việt đăng lại trong chuyên mục Văn Hải Ngoại sau 1975 (kỳ 68), với nội dung khá đơn giản: Tâm bị tù cải tạo được thả về, đến ở nhà mẹ con Ánh trên dưới 1 tháng, bởi trước khi là “lính ngụy” hai người đã yêu nhau, nhưng không lấy được nhau. Ánh lấy chồng để trả thù Tâm, chồng chết do tai nạn máy bay. Bữa nọ hai chú cháu đi chơi, về trễ (tối), Ánh “tra hỏi” với con gái và với Tâm, người yêu cũ. Cú “tra gạn” kia hình như làm tổn thương khá nhiều đến người gạn hỏi là Ánh.
Motif truyện không mới, chủ đề không lạ. Trước năm 1975, chuyện chú cháu, rung động đầu đời yêu thương, nhớ nhung sương khói… đã được các nhà văn khai thác đến tối đa, nơi đón nhận và tập trung là tuần báo Tuổi Ngọc của Duyên Anh. Và tiêu biểu cho loại truyện này là Hoàng Ngọc Tuấn với Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau, Cô Bé Treo Mùng, Buổi Chiều Hạ Lan, Hình Như Là Tình Yêu… trở thành loại sách luôn nằm trong cặp sách vở của các cô cậu lứa tuổi “Ô Mai”.
Nếu như Vết Xước Đầu Đời bị “rơi” vào tay các nhà văn theo trường phái lãng mạn hay feuilleton trước 75, chắc chắn sẽ mùi mẫn như Bên Dòng Sông Trẹm của Dương Hà, Chú Tư Cầu của Lê Xuyên hay hàng loạt tiểu thuyết của bà Tùng Long…Nhưng với Trần Doãn Nho thì khác hẳn, bởi tầm vóc của truyện “to lớn” hơn theo cấu trúc ngôn ngữ bình dị với những ẩn dụ vừa đủ để người đọc không dụng công suy nghĩ, mò đoán nhiều; cũng không đưa đẩy đến sướt mướt, éo le… nhưng có cái gì đó nhột nhạt, ngưa ngứa tận chân tóc như khi ta nhai phải trái ớt hiểm cay xè; không chảy nước mắt, nhưng mọi chân tóc đều tưng tưng dựng lên!
Ngay ở đoạn hai chú cháu quay về, nhà văn đã khéo léo phối một gam màu hoàn hảo lúc hoàng hôn, tạo thành vẻ hư hư thực thực trong thứ ánh sáng nhập nhoạng, để độc giả có thể hiểu được cái “nhập nhoạng” ấy ở cô bé và mẹ cô. Trước hết là vật thể có thật: bóng tối vừa đủ, ánh sáng vừa đủ để có thể nhìn ra “dáng cao lớn, chênh vênh như muốn ngã về phía trước” của chú Tâm và cảm giác “cả một khoảng trời chao đảo theo bước chân chú” của Lan. Bức tranh này là của cô bé vẽ nên bằng những cảm nhận từ đáy lòng qua bàn tay nhào nặn của nhà văn. Toàn cảnh trong bức tranh là sự so sánh có cảm giác của Lan tưởng có thể cầm nắm được trong tay: “Nắng tắt. Cả vùng ngoại ô lặng xuống. Cây cối như kết vào nhau thành từng chòm, rải rác. Hai người im lặng bước đi. Lan cố đi chậm lại đàng sau. Tự nhiên, cô cảm thấy bối rối. Chú Tâm bước, dáng cao lớn, chênh vênh như muốn ngã về phía trước. Lan có cảm giác như cả một khoảng trời chao đảo theo bước chân chú. Chú, đàn ông trông vững, lớn và đáng tin cậy. Khác với mẹ. Mẹ bao dung, chu đáo, nhưng có cái gì không ổn. Bao giờ mẹ cũng thu vén, tém tủm, tránh trút. Mẹ ngăn, mẹ chặn. Trước và sau. Mẹ sợ mọi thứ. Mẹ đúng, dĩ nhiên. Nhưng Lan buồn”.
http://vanviet.info/van/van-hai-ngoai-sau-1975-ky-65-tran-don-nho-vet-xuoc-dau-doi/
Sự “giam cầm” tình cảm của mẹ lúc dạy dỗ con gái về người đàn ông, tất cả những người đàn ông khiến cô cảm thấy chơi vơi lúc bên chú Tâm: “Lan cắn môi. Cô muốn khóc. Trời sẫm. Đường vắng. Cô bỗng muốn ngã vào lòng chú Tâm. Nhưng cô giật mình, nhẹ gỡ bàn tay thô nhám của chú Tâm vừa đặt lên bàn tay nhỏ nhắn của cô. Mùi áo quần từ nơi chú Tâm tỏa ra khiến cô ngây ngấy. Cái mùi lạ hoắc! Thơm không thơm, hôi không hôi, lại nồng nồng. Cô bồn chồn, lạc dạ, quay mặt đi chỗ khác”.
Suốt dọc câu chuyện, cứ nghĩ nhà văn tạo ra cô bé và Tâm là hai nhân vật chính. Nhưng thật ra, nhân vật dẫn đến mọi cớ sự lại là Ánh, mẹ cô bé. Đó mới là nhân vật trung tâm, xuất hiện gần cuối để đưa câu chuyện thành cao trào, có kịch tính: “Đời mẹ đã khổ vì đàn ông, con biết không. Đàn ông không có gì đáng tin hết. Họ luôn luôn phỉnh phờ, luờng gạt. Họ không hề biết yêu như đàn bà. Có họ mình cũng khổ, mất họ mình cũng khổ. Mẹ không muốn con gần đàn ông vì không muốn con khổ, con hiểu chưa?”
Tất nhiên cô bé đã hiểu qua lời mẹ: “Một chút gì tái tê, một chút gì đăng đắng, nghèn nghẹn của mùi vị cuộc đời lan vào trong cô. Chỉ là một vết xước. Vết xước đầu đời, nhẹ nhưng buốt. Cô chợt nhận ra một mẹ khác, một mẹ lạ hẳn, một mẹ cô chưa hề biết, chưa hề thấy. Và cô, cô cũng khác. Cô trở thành một người khác”.
Thành một người khác bổng trở nên đậm hơn lúc nhìn thấy cái áo của chú Tâm bỏ quên, “Lan chợt nhớ đến mùi đàn ông phảng phất đâu đây”.
Tâm chỉ là cái cớ cho Ánh nhớ lại 20 năm về trước và cũng là cái cớ cho cô bé Lan ngập ngừng với cái mùi đàn ông phảng phất đâu đây. Người đàn ông xuất hiện đúng lúc và ra đi đúng lúc để lại cho hai mẹ con, mỗi người một tâm trạng khác nhau.
Gấp lại truyện, tôi có thêm cảm giác nhồn nhột, cồn cào gai gai trong đầu giống như cảm giác cánh tay vung ra, đụng phải dề gai bàn chải non!
Nhưng đến Bữa Ăn (http://vanviet.info/van/bua-an/) thì không còn cảm giác bàn tay chạm phải “dề gai bàn chải non” như các truyện khác mà, tựa như có hàng trăm ngàn mũi kim nhọn xoáy vào tận tim gan. Hơn 10 trang viết hiển hiện tràn đầy nỗi thống khổ, đau đớn, quặn thắt… đến tận cùng của một kiếp người trong một xã hội đốn mạt nhất. Sự đốn mạt ở Làm Đĩ, Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng thời Pháp thuộc, không thấm vào đâu so với thời mạt pháp trong xã hội cùn mạt ở truyện này. Cảnh người cha (từng là ông giáo làng, dẫu là ông giáo Ấp Tân Sinh thời Việt Nam Cộng Hòa) phải ngồi nhìn những đứa con bán trôn nuôi sống cả gia đình với nỗi-hân-hoan-đau xé, với những tê-điếng-cam-chịu diễn ra hàng ngày trước mắt ông và vợ như những ngọn roi vô hình đập nát những ai còn lại chút lương tri: “Ông nhắp một hơi rượu, rùng mình. Ông nhìn quanh. Ôi, những rượu, những trà, những đồ ăn, thức uống, những cột kèo, cửa sổ, cửa lớn, bàn ghế, áo quần, và chính cả thân xác ông, tâm hồn ông bây giờ đều xuất phát từ thân xác mấy đứa con gái. Ông cảm thấy lợm giọng, buồn mửa. Hai mắt mờ đi. Trong thoáng chốc, ông bỗng nhìn thấy đồ đạc trong nhà, hết thảy đều uốn éo, quằn quại, lăn lộn. Bộ xa lông biến thành con Loan, cái tủ lạnh biến thành con Dục, tủ áo quần biến thành con Lài. Chúng trần truồng, hoang hóa, chịu đựng và thảm thương vô cùng tận. Chúng giương mắt nhìn ông ngơ ngác, bất lực”.
Cả truyện, từ đầu đến cuối, Trần Doãn Nho không hề có một từ nào đổ lỗi, anh chỉ dựng lên một sân khấu nhỏ (nhưng lại là biểu tượng vô cùng to lớn cho xã hội hiện tại) là vợ chồng cha con ông Tám. Cả 6 người đều nhập vai và vai nào cũng tròn trịa làm “rúng liệt” mọi chân tơ kẽ tóc người đọc! Truyện không kể lể, chỉ thủng thẳng mô tả những sự việc và sự vật từ từ diễn ra trước mắt có lớp lang, thỉnh thoảng chen ngang những suy nghĩ, dằn vặt nội tâm nhân vật. Chừng đó thôi, nhưng từng con chữ làm nhói đau tận xương tủy người đọc. Gia đình gồm 6 con người khốn khổ và khốn nạn đó là bộ mặt xã hội hiện tại được Trần Doãn Nho thu nhỏ lại. Tất cả họ đều phải chịu đựng và chấp nhận, xem như là chuyện bình thường hàng ngày, không có gì ghê gớm khiến phải “nôn mửa”.
Anh phác họa các nhân vật của mình qua vài nét ký họa nghuệch ngoạc và những nhân vật đó y như mẫu đất sét bọn trẻ con nặn con trâu, con vịt, chiếc xe… là những chiếc mặt nạ biết đi đứng, nói năng:
Thằng Vụ: “… tảng sáng là thức dậy đi. Với đôi dép nhựa cáu bẩn, đứt quai, bộ đồ lính bạc màu, chiếc mũ lưỡi trai, hắn lang thang đâu đó suốt ngày trong mấy cái chợ, khu bến xe, trên đường phố, khi thì giả què, khi thì giả bệnh để xin xỏ, và tìm mọi sơ hở của người ta để chụp giựt, chôm chỉa”.
Còn ba cô con gái: “suốt ngày chỉ lo chuyện phấn son, lụa là. Các cô tỉa lông mày, nhổ lông nách, hoặc chăm chút hết bộ áo quần này này sang bộ khác. Khi áo dài, khi áo đầm, khi đồ bộ. Ðủ dạng, đủ loại. Khách vào, khách ra. Những õng ẹo, gạ gẫm, trả giá, vỗ mông, sờ ngực, cười cợt”.
Ông Tám, người chủ gia đình như một khán giả (bà vợ chỉ là cái bóng, thui thủi, cam phận “ẩn nhẫn, nhịn nhục”), hàng ngày phải nhìn các hoạt cảnh trên bằng những tâm trạng khác nhau: “Người cựu giáo viên ấp tân sinh cứ thế, nhìn mọi sự diễn ra trong nhà mình hàng ngày như xem những màn biểu diễn trên sân khấu”. Đôi lúc ông lại cay đắng, chua chát: “Biết thế này, đẻ thêm chục đứa nữa để đáp ứng nhu cầu… Những cắng đắng, đau khổ lúc đầu, chịu riết rồi cũng nguôi ngoai. Dẫu vậy, không có khách thì thôi, hễ có khách mang đi một cô, lòng ông lại nhói lên một chút. Ông cảm thấy đau tê tê ở một nơi nào đó trong người, khi ở bụng, khi ở ngực, khi ở trong đầu”.
Để cho màn kịch có thêm mùi vị đắng cay, Trần Doãn Nho thêm vào hai vai phụ, không lờ mờ mà sáng lóa thời đại ma quỷ, ngay ở tầng-sâu-địa-ngục-dương-gian: Một anh công an khu vực đến “thu hụi chết” và một ông cán bộ tập kết đương chức trưởng phòng thương nghiệp huyện tuổi bằng cha ba cô gái. Một người thì hàng tháng thu giá bán thân của ba cô, người kia thì gạ tình.
Bữa Ăn chính là những tan nát của bộ mặt xã hội hôm nay. Bộ mặt ấy không như chapeau của Văn Việt: “ Khi người chủ gia đình/người cha, đã không thể bảo vệ và che chở con cái, phải để chúng lao ra đường kiếm tiền theo cách đó mà không còn thấy đau khổ, nó bộc lộ một sự thật: khi gia đình rã tan, xã hội cũng sẽ rã tan…”, bởi gia đình rã tan chỉ là hiện tượng phơi trần bản chất xã hội đã mục ruỗng, rã tan!

*
Trong bài Tạp Ghi Tháng Tư: Vết Thương, Trần Doãn Nho viết: “Trong đời tôi, tính ra, tôi trải qua …bốn lần chạy. Mỗi lần chạy là một kinh nghiệm rất riêng”. Rồi anh kể lại kinh nghiệm bốn lần chạy đó, lần lượt từ thời bé con khi Việt Minh nổi lên tổng khởi nghĩa năm 45-46, chạy Mậu Thân, chạy Mùa Hè Đỏ Lửa và chạy dài… theo chiều dài trên phần đất bên này vĩ tuyến 17, lần cuối cùng, 30/4. Bốn lần chạy là chạy trốn cộng sản, những con quái vật hình người!
Cảnh chạy lần đầu khi còn là bé con: “Thay vì chạy và đi, thì tôi được gánh. Tôi một đầu, ngồi trong thúng. Đầu kia là một ít gạo và đồ đạc. Cứ thế, mẹ, chị và anh tôi thay nhau gánh, theo đoàn người, tản cư về một nơi vô định”.
Cảnh chạy tết Mậu Thân: “Cả gia đình tôi dắt díu nhau, không chỉ chạy, mà là chui, rúc, lăn, trốn từ vùng bộ đội Cộng Sản chiếm đóng về vùng quốc gia. Đoạn đường không dài, chỉ 5,7 cây số nhưng là một biên giới sinh tử”.
Rồi đến Mùa hè đỏ lửa: “Kinh nghiệm Mậu Thân đã mang cả Huế ra đi. Ngay lập tức. Không chần chừ. Không đắn đo. Không tiếc nuối. Khi nghe tin bộ đội Cộng Sản vượt sông Bến Hải, là Huế đã bắt đầu chạy. Hối hả chạy, bằng mọi cách, mọi giá. Mang được gì thì mang, không mang được thì bỏ lại”.
Và 3 năm sau, khi miền Nam bị xoá sổ: “Chạy. Hễ còn chạy được là chạy. Đi bộ, đi xe, đi thuyền, đi tàu, đi máy bay, đi, đi, đi, đi đâu, miễn là thoát khỏi Cộng Sản. Chạy: biết bao thảm cảnh, nhất là thảm cảnh thuyền nhân rúng động thế giới. Chạy: một cuộc “bỏ phiếu bằng chân” vô tiền khoáng hậu”.
Lần chạy nào cũng có nước mắt thậm chí cả máu… của những người dân vô tội. Anh lơn tơn kể, độc giả vừa đọc vừa ngẫm lại bản thân và cả thế hệ của mình phải gánh chịu quá nhiều đau thương tang tóc qua những biến cố trên. Ở lần chạy “bỏ phiếu bằng chân” cuối cùng: “Lần này, ra đi, trong thâm tâm, ai cũng đau đớn nghĩ rằng: Huế sẽ mất vào tay Cộng Sản. Thành thử, chạy là chạy…luôn, không bao giờ trở lại. Là bỏ Huế. Bỏ Huế! Chao ôi, hai chữ “bỏ Huế” nghe như nhát dao đâm ngay giữa trái tim. Nhưng làm sao được. Đành thôi, Huế ơi”. (https://damau.org/archives/49337)
Anh ghi lại từng chi tiết nhỏ của những lần “chạy” nó trung thực đến độ tàn khốc, đến nỗi người đọc cảm thấy tim như bị bóp nghẹt, băm nát: “Chao ôi, những người lính! Trong lúc cả nước miền Nam chạy thục mạng, chạy hớt hãi, chạy trối chết…thì nơi đây, vào những giây phút cuối cùng của cuộc chiến, những người lính nhảy dù này vẫn cứ làm nhiệm vụ, sẵn sàng chiến đấu, như …bình thường. Cũng như tôi, nhất định họ biết rằng Sài Gòn sắp mất. Nhưng họ vẫn ở đó, cầm súng canh gác. Tôi bước tới, muốn làm một cử chỉ biết ơn, nhưng anh bạn tôi cản lại. Tôi vẫy tay. Một người lính vẫy tay lại. Trong nhá nhem tối, nhìn nhau ngậm ngùi. Đọc lịch sử, những tưởng chuyện phế hưng chỉ là của ai đó, thế mà bây giờ, mình ở trong cuộc!”.
Những ngày cuối cùng này, anh đang ở trong cuộc… Tất cả mọi người dân miền Nam đều ở trong cuộc. Và thảy đều đều nát tan sau cái ngày khốn nạn nhất của lịch sử! Dân tộc Việt Nam tiếp tục chạy kể từ buổi bình minh lịch sử; chạy từ bờ nam sông Dương Tử dạt mãi xuống phương Nam… mà chưa hết! Sẽ còn những “Thủy Mộ Quan” cho dân tộc này sao? Đọc đoạn cuối anh viết về cái vẫy tay của mình với người lính nhảy dù đang trong tư thế chiến đấu ở giờ phút cuối cùng trên đường phố Sài Gòn, tôi bật khóc thầm, bởi những ngày cuối cùng đó tôi cũng dáo dát trên các ngả đường Sài Gòn hy vọng tìm thấy cha mẹ và hai đứa em bắt đầu lưu tán từ Tuy Hòa trước đó! Còn gì bi thảm hơn không? Và có lúc nào đó, những người dân chạy giặc kia tự hỏi: Tại sao khi chỉ mới nhắc đến hai chữ cộng sản thôi là mọi người đều phải bỏ chạy, chạy bán sống bán chết; biết chạy là chết mà vẫn cứ chạy. Ôi, họ mỉn cười chọn cái chết thay vì chọn cộng sản! Anh gọi cuộc chạy cuối cùng của dân miền Nam là cuộc “bỏ phiếu bằng chân”, một cụm từ đã lột tả đầy đủ và chính xác mà từ trước tới giờ tôi mới thấy, tuy có nhiều nhà văn nhà báo cũng viết về cuộc tháo chạy này, nhưng chưa có từ nào nói lên tính chất bi thảm của dân tộc Việt Nam như một cuộc bỏ phiếu bằng chân của anh!
Từ những gì đọc được, tôi trở thành “bạn” trên từng trang viết của anh lúc nào không hay, chẳng qua vì cách viết của anh rất đời thường, gần gũi mùi khoai sắn trên từng góc phố, ngọn gió, giữa đẹp và xấu, giữa những giằng xé nội tâm, giữa những xô đẩy té nhào và đứng lên. Cách viết ấy, với nhiều thể loại khác nhau, tôi ví anh như người dẫn nắng đi chơi khiến ai cũng ngắm nhìn cái sự lạ lùng này: hân hoan và đắng cay, hạnh phúc và đau khổ, thiên đường và địa ngục, lấp ló những thống hận. Vậy đó, như Nguyễn Mộng Giác từng viết về anh: “anh thích đặt nhân vật vào những cảnh ngộ thử thách, và cách nhân vật ứng xử với những thử thách ấy rất “người”, nghĩa là chênh vênh giữa tốt và xấu, yếu đuối mâu thuẫn nhưng vẫn có đủ nghị lực để chấp nhận bất hạnh và thích nghi với đời sống”. (https://nguyenmonggiac.com/phe-binh/508-vet-xuoc-dau-doi-cua-tran-doan-nho.html)

Nguyễn Lệ Uyên
(Quê nhà tháng 9/2018)
*Ghi chú: bài viết theo yêu cầu của tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 82 chủ đề nhà văn Trần Doãn Nho, đã được nhuận sắc tháng 10/2018.
__________________
(1) NXB Lao Động & TT VH Ngôn Ngữ Đông Tây, HN, 2012)
(2) Dặm trường, TÂQ, HK, 2018

Advertisement

LÃM THÚY, TỪ THUỞ TRĂNG ĐI

Thuở đi trăng vẫn chưa tròn
Đến nay trăng úa, vẫn còn xa xôi
Sầu trông nhau, bặt tiếng cười
Chiều hôm gió tạt, bóng đời tịch liêu
Người ơi, ly biệt đã nhiều
Còn xa chi nữa cho hiu quạnh đời
Về thôi, trăng úa lâu rồi
Về thôi, mòn mỏi lắm, người chờ mong
Về thôi, sầu đã thành dòng
Về thôi, gió đã lạnh lùng từ lâu

Mười tám năm trước, tôi đọc được bài thơ này từ một người bạn ở Seattle gửi về, lồng trong một bức điện thư “than vãn” về thân phận của anh ấy ở xứ người. Cả bài thơ là tâm trạng kẻ cô đơn đến tận cùng; một sự chia ly mất mát không lấp nổi. Bài thơ không thấy ghi xuất xứ, chẳng đề tên tác giả nên tôi cứ ngỡ đó là những cảm hoài của bạn bật lên thành tiếng thở nao lòng. Nghĩ vậy và để bụng.

Bảy năm sau, anh PVN gửi về gói sách, trong đó có tập Còn Nguyên Nỗi Ngậm Ngùi do chính tác giả đề tặng. Đọc hết tập thơ và nhớ lại những câu thơ đã đọc, hóa ra bài thơ trên là của Lãm Thúy!
Phải mất cả tuần thư từ qua lại, mới biết tác giả tập thơ hiện cũng định cư ở Mỹ, bạn thân của Nhàn.
Lãm Thúy. Một bút danh nghe rất miệt vườn Nam bộ như tên của một trong các cô gái của nhà văn Bình Nguyên Lộc trong cuốn tiểu thuyết Đò Dọc.
Thực ra cái tên chẳng nói lên điều gì, nhưng những câu chữ trong thơ của Lãm Thúy thì đậm đặc màu đỏ phù sa, vàng bông điên điển, khói đốt đồng trắng trời cho đến trái bần xanh, mắm tép rong, trái cóc, cá lóc nướng trui… và đờn ca tài tử. Nhưng chúng không gần bên chị, chỉ hiện hữu trong tâm thức của kẻ biệt lưu thấp thoáng hình bóng quê nhà trong tâm tưởng để sau đó bật nức những câu chữ và rồi thành hình hài thơ ca mà giới phê bình văn học gọi là thi giới!
Và quê nhà luôn là nỗi ám ảnh, đeo bám bên chị!
Cứ tưởng tượng, một người buộc phải tách khỏi một vùng văn hóa đã thành hơi thở, máu thịt từ một nửa cuộc đời một cách đột ngột, để đến với một vùng văn hóa xa lạ thì chắc chắn, đời sống tinh thần và vật chất sẽ đụng chạm nhau một cách dữ dội trước khi thích nghi. Nó là mẫu số chung cho tất cả những người xa xứ, sống trong tâm thức của kẻ lưu vong, của những người con bị đẩy ra khỏi mùi bùn non, hương cau, hương lúa trổ đòng; và cuối cùng bị khép vào vòng tuyệt lộ.
Thơ ca đối với những trường hợp này là sự giải bày tâm trạng, là những tiếng kêu thảng thốt trong những cơn mê vàng đục những ưu uất. Vậy nên đọc thơ của chị là đọc những tiếng kêu thầm hiển lộ hình hài. Đó cũng là những hồi ức về tuổi thơ đầy ắp những âm thanh của con nước lên xuống, tiếng bìm bịp đâu đó bất chợt vang lên từ trong lùm đước, lùm mắm; trong bụi ô rô cóc kèn… ở một nơi tuyết phủ trắng trời.
Quá khứ được chị lấp đầy trong hiện tại đến dày đặc.
Nhưng những điều này, liệu có phần nào giải tỏa những muộn phiền, ẩn ức đối với những người làm thơ như chị hay không; riêng với độc giả cùng một cảm thức, có thể, một lúc nào đó, chữ nghĩa trong thơ ca sẽ xô đẩy nhau, len vào tận cùng những ngóc ngách cô đơn của kẻ lạ trên đất khách biệt lưu như một thổn thức bùng vỡ.
Ta – Một kẻ tha hương
Chiều nay đứng bên đường
Ngó quanh trời đất lạ
Bụi mù che cố hương

(Tha hương)
“Cố hương” trong nỗi nhớ nhung tận cùng của chị, giờ đây sẽ không còn phơi bày bằng những hình ảnh ẩn dụ mà, cụ thể là con đường, trời đất, bụi mù… tất cả được đẩy xa trong tâm tưởng ngắc ngoải, dày vò, đau khổ đến tận cùng của cảm xúc lúc nhớ về. Đó là nỗi nhớ nhung nghìn trùng xa cách; nhớ nhung đến thê thiết hơn nhiều trong những câu ở bài Đoản Khúc sau đây:
Quê hương ngàn dặm còn xa
Ngõ sau không thấy, nhớ nhà đứng đâu?
Đổ quyên khản giọng kêu sầu
Những hồn ứa máu còn thâu đêm chờ…
…Chín chiều đau khúc phân ly
Bờ sông, cố quận, trời chia nghìn trùng…
…Đành thôi xứ lạ quê người
Xót thân lưu lạc, lệ ngùi đêm thâu.

Đọc những câu thơ này, tự dưng tôi nhớ đến hình ảnh một Tô Đông Pha áo đẫm bụi đường, giày vẹt gót, lầm lũi dặm dài gập ghềnh gió mưa qua những chặng biếm trích nhiêu khê; hay một Lý Bạch rày đây mai đó và Tứ Xuyên luôn hiện trong tâm tưởng thi sĩ như một quê nhà chính thức của ông, đến nỗi mỗi khi nhìn thấy trăng ông lại nhớ đến trăng trên núi Nga Mi thời niên thiếu khiến ông nhớ đến quay quắt khôn nguôi, và phóng bút viết nên bài Tĩnh Dạ Tứ bất hủ, đã trở thành thi hứng cho các thi sĩ đời sau:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Và nữa, một Lamartine với bài Milly Ou La Terre Natale khiến người đọc cũng quặn thắt cõi lòng:
Pourquoi le prononcer ce nom de la patrie ?
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi ;
Il résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.
(Tiếng cố hương vì đâu nhắc đến ?
Lòng xa quê xao xuyến khôn nguôi,
Vẳng nghe vọng lại hồn tôi,
Bước chân quen thuộc, tiếng người bạn thân)

Dẫn ra là để minh họa chứ không phải để so sánh với các bậc thầy trong văn chương. Bởi có cả ngàn bài thơ từ cổ chí kim viết về quê hương, nhưng không bài nào giống bài nào theo cách mượn ngoại giới hay tâm giới để tạo ra thi giới, như Đặng Tiến đã nhận định: “Ý trong thơ, khác với ý trong văn xuôi, ở chỗ nó không có giới hạn, không có kích thước. Tạm nói là nó mông lung, bất định” (Đặng Tiến, Thơ thi pháp & chân dung, NXB Phụ Nữ, HN, 2009).
Cái “không giới hạn, không kích thước, mông lung bất định…” mà nhà phê bình Đặng Tiến đặt tên, dường như luôn thấp thoáng phía sau “nỗi nhớ” của chị. Chẳng hạn:
Vẫn tưởng như ta còn ở đó
Vàm sông ráng nhuộm, tím hoàng hôn
Mẹ nấu cơm chiều, đang nhuốm lửa
Mái nhà khói quyện, ấm cô thôn
Cuối vườn, có cội bằng lăng nở
Chiều nao rụng cánh, tím nương bèo
Nhà ai hoa giấy bay trong gió
Cánh mỏng manh buồn, nước cuốn theo…
(Cành hoa tím cũ vẫn chưa phai)

Trong những phút xuất thần chị có những câu thơ rất đẹp, bên trong chứa cả hội họa và âm nhạc, rất gần gũi với trường phái thơ lãng mạn Việt Nam với những Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu… giữa cuối thế kỷ trước:
Chiều ấy quê nhà mây xuống vai
Bến sông hong tóc nắng thu cài
Trong gió chợt nồng hương dã thảo
Quyện vị cơm chiều khói bếp ai
…Ở đó vườn trăng lá dát vàng
Đêm nhòa sương khói trắng không gian
Mái chèo chạm vỡ dòng sông bạc
Con thuyền về muộn chở đầy trăng
(Một cõi bồng lai)

Có điều, trong thơ Lãm Thúy, chúng ta không hề nhận ra sự cố tình làm mới câu chữ, cũng chẳng hề sắp đặt ngôn ngữ theo trường phái Tân hình thức, Hậu hiện đại hay Hậu hiện sinh gì cả để người đọc phải dùng lý trí mà khám phá ra “thế giới mông lung” kia. Ngôn ngữ thơ của chị hồn nhiên, chơn chất như bản tính vốn có của người dân đồng bằng Nam bộ:
Nhà nghèo, rách mặc, thiếu ăn
Cha đi câu cá, phơi thân nắng hè
Rô mề mẹ nướng gắp tre
Giầm nước mắm hạnh còn mê tới giờ
Miếng ngon gắn với tuổi thơ…
(Cha và tuổi ấu thơ)

Nếu gọi đây là câu thơ theo đúng với cách nhìn của các nhà phê bình văn học cổ điển, hẳn họ không chịu công nhận đó là thơ. Vậy nhưng loại trừ tính chính thống chính danh của phê bình cổ điển, lật ngược ra phía sau, đọc một cách tự nhiên như đọc một câu văn nói và… để cho sự đọc đó thấm dần tựa như thịt con cua đồng nướng, tan chảy trên đầu lưỡi vừa khi cời cua ra khỏi lửa rơm, hẳn ta sẽ cảm nhận được mùi vị của khói, hương thơm của đất trời trộn lẫn với mùi mồ hôi quen thuộc từ thuở chập chững trên cầu ao, ngoi ngóp trong đìa nước mát. Những hình ảnh câu cá, nướng gắp tre, giầm nước mắm… có thể bắt gặp bất kỳ miền không gian nào, nhưng với tuổi ấu thơ, chúng gây những ấn tượng khó phai. Chúng ngủ yên trong miền ký ức; rồi một hôm bổng bật dậy sáng rỡ,. hiện về trong con người ở tuổi 40, 50 thành một cô bé, cậu bé bên đìa nước, bên vàm sông, bên bếp lửa rực rỡ tuổi thơ.
Câu thơ trần trụi tựa lời kể cho bạn nghe về tuổi ấu thơ khốn khó, nhưng vượt lên trên cái trần trụi của lời kể thông thường lại là những âm sắc gợn xoắn đến nao lòng.
Trong rất nhiều bài thơ của chị đều viết dưới dạng này, mà tôi tạm đặt tên là dòng thơ tự sự, mượn ngôn ngữ để chia sẻ những tâm cảm của nhân vật thơ trước cái nhìn, suy nghĩ, cảm nhận của nhà thơ.
Viết ra một bài thơ hay đã khó, nhưng viết một bài thơ không gọi là hay, mà khiến mọi người phải vật vã, bật lên những rung cảm như người đồng điệu trong những cảnh ngộ bất ngờ tìm thấy bóng dáng mình, người thân của mình, những cảnh vật quen thuộc ở mỗi câu chữ, mỗi dòng… thật không dễ.
Viết về cha, về mẹ, về những người thân yêu thường được chị viết từ một khoảng cách xa, thời gian xa bằng những hồi tưởng ngậm ngùi gần gũi. Và ở đó, luôn mang âm hưởng của ca dao, của những câu hò điệu lý, điệu ru Nam bộ.
Lòng già như ngọn sầu riêng
Gió lay hiu hắt, muộn phiền, nhớ nhung

Chiều chiều ra đứng bờ sông
Ngó con đò dọc, nước ròng thêm xa
Chiều chiều, Cha vọng ngả ba
Nước đầy sông rộng, nhạt nhòa đò ngang
(Hoàng hôn trong mắt cha già)

Và viết về người mẹ:
Buổi sáng ra nhìn hoa bí nở
Ngùi thương quê cũ nắng vàng bông

Chiều nắng tắt sau vườn biếc
Mẹ thường ra quét lá bờ sông
Đò ngang, đò dọc người qua hết
Mẹ đứng buồn im, lệ ngập ngừng…
(Trồng rau nhớ mẹ)

Viết về con, với những mất mát đớn đau đến tận cùng của người mẹ, chị đã mượn ngôn ngữ, lời thơ để thay cho nước mắt; những dấu câu, ngắt dòng để thay cho trái tim lần hồi tan chảy;
Xe tang
dừng lại trước thềm
Đóa hoa cúc lạnh
im lìm dưới mưa
(Đưa con hỏa táng)

Chưa thấy ai, khi mất một đứa con yêu dấu lại bình thản như thể thịt da, xương cốt kia thuộc về kẻ lạ? Đến như Đỗ Hồng Ngọc, một nhà thơ, một bác sĩ vừa là “thiền giả” với hàng chục quyển sách viết về Đạo về Người… trước cái chết của con, ông cũng kêu lên tiếng thầm thì đau điếng:
Ba viết trăm lần lý lịch
Cứ mỗi lần viết đến tên con
Ba lại ngẩn ngơ
Như một kẻ mất hồn
Biết trả lời sao
Câu hỏi
Hiện con đang làm gì?
Ở đâu?
(Đỗ Hồng Ngọc – La Ngà 2)

Cả hai, Đỗ Hồng Ngọc và Lãm Thúy đều cùng chung một tâm trạng về sự mất mát đến tận cùng nỗi đau, nhưng một người thì tự hỏi “ở đâu?” còn người kia là “đóa hoa cúc… im lìm…”. Cách dùng từ ngữ, cách thể hiện tuy khác nhau nhưng khi câu thơ vẳng lên không khỏi khiến người đọc có cảm giác ngậm ngùi, đồng cảm với nỗi đau của người trong cuộc.

Nếu như thơ là tiếng nói riêng của thi sĩ, thì việc phác họa chân dung nhà thơ chỉ là sự phác họa mông lung tiếng lòng gắn liền giữa nội tâm và ngoại giới; là vẹt lá đan chéo nhau trong rừng sâu để tìm dẫn lối đi ra chốn phong quang. Và giữa chốn mông lung rậm rạp kia, ta có thể bất ngờ nhận ra mùi hương thoảng đâu đó, chút vạt nắng xiên khoai cùng sự im lặng đến khó lường của tận cùng ý thức. Vì vậy, mỗi câu thơ đều mang mùi hương khác nhau, màu sắc khác nhau và âm thanh khác nhau, phong vị khác nhau…để người đọc có thể khám phá điều mới lạ trong cái bình thường nhất.
Cả trăm bài thơ của Lãm Thúy đều có bóng dáng mới lạ trong cái bình thường đó. Nghĩa rằng, chị không cố công đào sâu ý thức của cái tôi để làm tình làm tội lời thơ và ý thơ. Những tâm cảm trong thơ chị gắn với ngoại giới theo phong cách dân gian mà tôi tạm gọi là thơ tự sự nêu trên: Bởi những hình ảnh, âm thanh, màu sắc trong từng câu thơ, bài thơ của chị rất gần gũi với đời thường. Chị sống trong, thở với, rờ chạm vào… với những cảnh vật quen thuộc, những sự kiện, tình cảnh dung dị ở vùng sông nước… nằm sâu trong tiềm thức, rồi lúc nào đó bổng bật ra tiếng thở… Tiếng thở của thi ca.
Những câu sau là một sự chia sẻ rung bật từ ngoại giới đã ngủ yên lâu nay trong tiềm thức:
Thương những “hàng thần lơ láo” ấy
Áo trận thay ra, mặc áo tù
Đêm tàn mộng gửi ngoài biên ải
Núi rừng Tây Bắc lạnh thâm u
(Đọc thơ Trần Hoài Thư)

Giữa trào lưu văn học Hậu hiện đại, Hậu hiện sinh, Tân hình thức với nhan nhản những cái Tôi dung nạp đầy ắp lý trí trong câu chữ, thậm chí mang cả tính dục vào nỗi cô đơn, như một ý thức phản kháng (và làm dáng), thì Lãm Thúy vẫn chọn con đường riêng, một lối đi đầy hoa cỏ, rộn tiếng chim hót, vang nhẹ tiếng mái dằm khua nước… thênh thang một cõi xưa nay và bước tới. Rất nhẹ nhàng, thanh thoát:
Ta về tịch mịch đường xa
Có trăng khuya dõi theo và cô đơn
Dường như đêm lạnh lùng hơn
Hỏi mùa đi gió có còn xuân không ?
(Thì thôi giã biệt)

Tôi nghĩ, mùa xuân vẫn còn trong thi giới Lãm Thúy (và của tất cả chúng ta, những con người luôn hướng về cái đẹp) như ánh nắng ấp áp đầu đông. Đó là kích thước của nhà thơ không ngừng nghỉ khắc họa những cảm xúc chân thật từ tận cõi sâu thẳm của tâm thức trước mọi vật, mọi việc.

Nguyễn Lệ Uyên

(xứ Xương Rồng,Tháng 8.2018)

Lãm Thúy sinh tại làng Nhơn Ái, Phong Điền, Cần Thơ. Tốt nghiệp ĐHSP/CT khóa 6.
Dạy học tại Cần Thơ và Huế. Định cư tại Gaithersburg Maryland HK từ năm 1992.
Viết trên các báo: Làng Văn (Canada), Đẹp, Trầm Hương, Kỷ Nguyên Mới, Tiền Phong, Thư Quán Bản Thảo, Đa Hiệu…
Tác phẩm đã XB: Còn Nguyên Nỗi Ngậm Ngùi, Thâm Tình, Từ Mẫu, Từ Biệt.

CƯỜI LÊN, HỠI NHỮNG THẰNG GIÀ

 

 

Ngôi nhà lá mái chữ đinh. Khu vườn um tùm cây trái. Hàng rào là những phiến đá chồng lên nhau. Tất cả đều có màu tối, nhuốm vẻ già nua, như ông bây giờ, đã 70! Tuổi xếp dãy như những phiến đá ngoài bờ rào. Sự sống sinh học, vẫn tồn tại hàng ngày, dễ thấy: Bờ rào có những lớp tảo xanh bám lên, còn ông thì màu muối tiêu lốm đốm trên tóc. Có điều quanh quẩn ra vào, chỉ mình ông. Sự cô đơn của tuổi già cứ lục bục, trầm trầm trong cổ họng, khiến tách trà nóng buổi sáng cũng lạnh ngắt. Bữa trưa kéo qua bữa chiều. Chai rượu và chiếc ly như người bạn thiết của ông lúc này. Đôi lúc dòm vào đáy không, lại thảng thốt kêu nho nhỏ “buồn như ly rượu cạn”. Rồi bổng dưng cười khan.

Không phải là ông không có bạn. Nhưng những người bạn đó hầu hết đã thay tâm đổi tính, đã lột xác để trở thành những con vật nửa cừu nửa dê hay con chó thích gặm xương, được xã hội mới thuần dưỡng. Hễ gặp nhau, đầu tiên là nói đến chuyện tiền bạc, giàu có; đến con cái thành đạt, chỗ đứng trong xã hội. Rồi thì khen nức nở đời sống người dân sung sướng hơn bốn mươi năm trước… Nghe một hồi, ông cười thật to và cảm thấy như mình lạc vào khu chợ uế tạp, đầy tiếng mặc cả, ó ré lồng trong tiếng ruồi nhặng bay vo ve.

Cực chẳng đã, ông cũng phải châm nước trà mời họ mà nhấp ngụm nhỏ nhưng sao nó lạc thếch. Những trận thăm viếng ấy, ông ngồi chịu trận, ừ hữ cho qua buổi và cầu mong sao họ đứng dậy cáo từ sớm hơn. Nhìn những con tắc kè đó, ông nhếch mép cười ruồi!

Tuy mỏi mệt với những ông bạn láng giềng ngô khoai tự mãn với cuộc sống hiện tại, nhưng họ cũng là những con người tốt bụng, hay giúp nhau những việc lặt vặt: dựng giàn bầu, cột phên cửa, sắp lại những viên đá xô lệch, chỉ cách trồng cây cà dây bí sao cho nhiều trái…

Khi bọn họ đi rồi thì ông chùi người vào phòng, thừ người trước đống sách và nghĩ bọn họ chẳng qua cũng chỉ là những con người ngây thơ, những nạn nhân khốn khổ từ những tư tưởng rất “thổ tả” của người trước trước kẻ sau cách nhau cả ngàn năm, là di họa kéo dài cho cả một khu vực dân cư rộng lớn, chẳng khác nào bầy tù khổ sai về tinh thần và thể xác. Tận thâm tâm, ông khinh bỉ lũ đầu xỏ cai trị man rợ này, khéo uốn nắn những cây tre cây trúc thành những ngọn cỏ lau rợp trên mặt đất! May mà nỗi buồn tủi ấy được bàn tay cô chủ nhỏ xoa dịu, dẫn ông trở lại trạng thái bình thường bởi những săn sóc nho nhỏ nửa em nửa tình nửa vợ nửa người dưng, chẳng ra cái giống gì, nhưng cũng làm ông khuây khỏa, vui lên, nở nụ cười, lúc tươi lúc như mếu.

Một ông bạn xa xứ, quanh quẩn trong nhà ra sân, muốn tán gẫu với bất kỳ ai cũng không có người để tán bởi tất cả mọi người thi nhau chạy từ mờ đất cho đến tối mịt, khiến ông có lúc bị trầm cảm và rồi thốt lên được câu thơ “lẫy lừng”, làm ấm lòng hiếp mắt những thằng già như ông “Thèm rượu mà ta không uống được/ Bạn thì xa tri kỷ cũng đi rồi/ Tay với trời cao không thấu nổi/ Tuổi già mất bạn cũng mồ côi”.  Đọc được mấy câu này ông sướng rơn, sướng đến lịm người tê tái, như chìm trong tri âm tri kỷ và cõng bốn câu trên lưng chạy đi khoe với cô chủ nhỏ. Cô ngước mắt nhìn ông, ấp tay ông lên ngực, chia sẻ với tất cả nỗi niềm.

Sáng nay, vừa cầm cuốc vun luống đất trồng rau, có tiếng chuông leng reng. Ông vội trật lưng quần, lôi ra chiếc điện thoại cùi bắp, áp vào tai. Tiếng lào khào: Anh làm gì đó, chạy qua em uống ly rượu.

Hả, lại rượu, mới bảnh mắt mà bia rượu nỗi gì?

9 giờ rồi, thì súc miệng đánh răng chút anh. Của thằng bạn “khúc ruột ngàn dặm” gửi em uống tết. Tết sớm đi anh. Tới nghen.

Ừ.

Đó là ông bạn nhỏ hơn ông 4 tuổi, chủ quán ăn, trước cũng thầy giáo nhưng biết cách sống với cái đầu rất thực dụng và có tài điều hành, nấu nướng nên phất lên sau 10 năm khói lửa trong bếp. Phất nhưng buồn, buồn đến “thúi ruột”, nhiều lần thốt lên nghẹn ngào, khi nhìn lũ con cứ lần lượt vuột khỏi vòng lễ giáo. Cả hai đều có tâm trạng chung là sự vuột mất đạo đức của đám con cháu bây giờ như thể nhìn lên bàn thờ tổ tiên phủ đầy mạng nhện, bụi bặm, những chân nhang lỏng chỏng, những bài vị nghiêng ngã…

Cây cuốc móc chéo qua cành mận sà ngang. Đưa cần vọt kéo nước lên chà chân, vục nước rửa sơ sịa khuôn mặt cả tuần chưa cạo râu, nham nhám. Ông thả cần vọt đánh rầm, chút xíu nữa là chiếc gàu sắt tán vào mặt. Ông ngó xoáy vào chiếc gàu đung đưa, bổng nhớ bạn, nhớ Triều Nghi, nhớ Sơn Đẩu rất nhiều lần kéo nước từ cái giếng sâu xối lên người, kêu “mát quá, mát quá, đã đời…”. Mới đó thôi, Triều Nghi đã bay qua bờ bên kia, Sơn Đẩu phải cột dây vào xương cổ, đi đứng khó khăn, thỉnh thoảng ném lên không vài bài ngắn nhưng bén hơn gai mắt ó! Nhớ bạn, ông tủm tỉm cười với thềm giếng rong rêu, với chiếc gàu sét, chiếc cần vọt chuẩn bị mục, rồi vào nhà xỏ chiếc quần bạc màu, lôi chiếc xe máy mà ông gán cho cái tên bọn trẻ không hiểu ra: “con ngựa già của chúa Trịnh” ra cổng.

Già thì cái gì cũng trục trặc, từ đồ vật chí đến con người. Đạp đến chục bận mà nó vẫn không chịu nổ, chỉ khàng khạc rên như người bị cảm cúm. Mồ hôi tứa ra. Ông nhìn chiếc xe rồi nhìn xuống đôi dép nhựa ngã màu, mòn vẹt. Mày rệu đến nước này sao? Đâu có được. Á à… là do tao không chăm sóc, vô dầu mỡ. Cứ lôi xài thí mạng sắt thép nào không mục? Tiếng cười phát ra từ cổ họng dính bợn đờm không trong. Mà có phải đây cũng là liệu pháp thể dục không nhỉ? Ông chống chế cho qua chuyện với bàn chân phải lăn tăn, mỏi nhừ.

Cuối cùng máy cũng nổ, nhưng không phải từ sức đạp của ông mà là thằng cháu hàng xóm nhìn thấy ông vật lộn với chiếc xe. Nó chạy lại, cong người nhấn bàn chân lên cần đạp thật mạnh như thể người ta đạp vào mặt kẻ thù. Tiếng nổ ọc ạch, khói xịt sau đít mù mịt, khét lẹt.

Nó nhăn răng cười: Ông để lâu quá. Cái gì mà để lâu không đụng tới dễ liệt lắm ông ơi! – Nói và nhăn nhở cười, nửa giễu nửa thật.

Mà nó nói cũng đúng, lâu lâu mới sử dụng nên bị liệt là phải. Cả con người và máy móc đều một giuộc mà!

Thôi, ổn rồi, ông chạy đi.

Ờ cảm ơn cháu nghen. Lo học hành tử tế còn ra làm quan, sướng! – Nói và ông bỏ chân qua yên. Con ngựa gục gặt chở ông một cách miễn cưỡng. Nó cũng đã trên 43 rồi còn gì?

Khi xe chạy gần tới rìa làng, ông lại nghĩ đến sự nhỏ lại ở tuổi già; văn hoa một chút thì là sự biến đổi của cơ thể từ các tế bào bắt đầu già cỗi. Lần đầu tiên ông khám phá ra sự thay đổi này khi ở trong phòng tắm. Trắng xóa từng nhúm. Cứ tưởng xà phòng chưa sạch, càng vặn nước xối ào ào, màu trắng càng rõ ràng hơn. Ông bật cười, nhủ thầm “thì có sao”. Cái sự thun nhỏ của các bộ phận trong cơ thể nó từ từ hiện ra, y như những cây nấm dại mọc trên thân cây mục! Có người đã hỏi: Chú có sợ tuổi già không, tôi thì thèm được trẻ lại. Ông cười, sợ gì chú. Mọi thứ như chiếc đồng hồ vậy thôi, nó chạy hết ngày rồi tới đêm, rồi có lúc hết pin. Hết thì sạc. Sạc không vô thì ném. Tuổi tác cũng vậy. Tôi chẳng sợ mà trái lại thấy yêu nó, yêu mấy sợi tóc bạc, yêu cái mục kỉnh trễ xuống sống mũi phải nhấc lên để đọc được sách, yêu cả tiếng trẻ thơ gọi tôi nội ơi, ngoại ơi, ông ơi. Sướng lắm.

Có bữa, từ xa, ông bạn bác sĩ “tuổi hườm hườm, chín rục” gọi tới hỏi thăm sức khỏe vì nghe loáng thoáng ai đó mách ông lâm trọng bệnh. Ông cười ha hả: Bệnh hoạn gì anh? Chuyện nhỏ, trục tặc tí xíu đó mà, tuổi này ai không bị này nọ? Nhưng nghe bạn bè nói… Không có gì nghiêm trọng, anh. Tôi “rua” và bắt tay cầu hòa rồi. Hai bên sống trong hòa bình hữu nghị. Mà này, anh viết còn thiếu nghen, lẽ ra tuổi 70 trở đi, không thể gọi là hườm hườm hay sắp tới chín rục mà là “dậy thì tuổi 70”. Tiếng cười ở đầu bên kia vang lên nghe sướng lịm tai… Thật tình, thốt lên câu này với bạn, lúc ông đang ngồi trước giàn mướp say sưa nhìn chéo qua hông tường rêu ám ngoằn ngoèo, chìm đắm với hình dạng cô gái khỏa thân rong rêu, nằm chéo chân, tóc phơi dài trên nền đen, bộ ngực nhô lên, khuôn mặt ngó mông phía trước, xa xăm và liên tưởng đến vợ mình mấy mươi năm trước, đến cô chủ nhỏ hiện giờ, đến tất cả một nửa của loài người. Rong rêu cũng tạo nên cái đẹp thuần khiết đến bất ngờ, huống chi con người, đôi khi xô cái đẹp trần gian đi quá xa? …

*

Đến quán đã thấy hai ông bạn trẻ ngồi đối ẩm, trong khi mấy đứa nhỏ phụ việc còn chổng cẳng ngủ trên gác. Chủ quán í ới gọi tên từng đứa. Chúng bước xuống thang với bộ dạng ngái ngủ, nặng nhọc. Chúng nó ngủ nướng là phải, trung bình mỗi đứa chạy đến 30 cây số từ xế trưa đến gần nửa đêm để hầu các quan ngài “lưu linh” ăn nhậu từ tiền thuế của dân, chớ dân dã ai dám bán lúa non để bia bọt? Ông bạn trẻ giáo sư nhìn chúng rồi nhìn chủ quán cười ngất. Không hiểu giáo sư cười gì.

Ông kéo ghế chưa kịp đặt mông lên mặt nhựa, giáo sư nghiến răng:

Giáo sư với tiến sĩ ở xứ này đông như trấu nên bây giờ lần lượt từng ông bị tâm thần rồi. Mẹ cứt!

Ai? Tâm thần giống gì – Chủ quán hỏi.

Thì cái thằng cha gs ts đòi cải cách chữ viết đó.

Tầm phào, để bụng làm gì ba thứ lăng nhăng đó. Chẳng qua cha này muốn nổi tiếng. bèn tung ra cái đề án quái gỡ để cộng đồng ném đá chơi. U đầu mẻ trán thây kệ, miễn được nhiều người nhắc đến tên là khoái tít cung mây rồi. Được chửi để nổi tiếng. Chả bắt chước lũ mad bên Mỹ ấy mà – Quán nói và khum người ho khọt khẹt.

Xứ này, không chuyện gì là không thể xảy ra – Ông thêm – Cứ tưởng tượng như người phụ nữ góa chồng giữa đám lý trưởng, chánh tổng, ông thủ, ông biện lại, thậm chí cả thằng mõ. Cô ta trẻ trung, tươi mát, hoang dã bởi vì là gái quê; nên mỗi người, nhân có cơ hội thì véo một chút, sờ một chút. Chánh tổng giữ từ vòng ba trở xuống, lý trưởng vòng một… còn mõ với biện lại thì mút ngón tay chân, đến khi no chán chê thì cô ta không còn cọng tóc, cọng lông. Tất cả đều lép xẹp, tan nát. Nói đụng chạm chú, chớ cả mấy ông đầy bồ chữ thánh hiền cũng lén lén, lút lút. Cuối cùng ai cũng phỡn ra, bụng căng phồng, mặt mũi nhẫy bóng.

Thì anh cứ nói mẹ nó ra đất nước này nát hơn tương bần vì lũ khốn nạn đó – Chủ quán nhăn nhó.

Thôi, sáng súc miệng, chớ nói thêm những điều khó nghe.

Mà sao lâu nay không thấy anh viết gì – chú giáo sư hỏi.

Viết gì nữa chú! Thứ nhất bệnh, bác sĩ cấm thức đêm, suy nghĩ. Thứ nữa, thời buổi này đụng vào không khéo bị mời lên hỏi xuống, có khi ăn cơm chảo bóc lịch nữa ấy chứ. Thằng cha bạn “Đĩ Thúi” của tôi bị hành xách đến độ tóc rụng sạch, còn vài cọng thì bạc trắng!

Viết rồi nhét vào đáy thùng carton cho mối nó đọc – Chủ quán đùa.

Có xứ sở nào mà khi viết phải lén lén lút lút, lại phân vân lằn ranh lề phải với lề trái! – Ông than – Thà về nhà ôm mông vợ để có bữa cơm, đỡ nhục hơn.

Nay còn đẻ ra đám 47!

Ông ngửa cổ uống hớp rượu. Nó không làm ông tỉnh ra mà gần như mụ mị hẳn đi. Nghe con số 47, đầu ông ong ong như tiếng chuông gõ chan chát. 47, bạn ông đã phục vụ ở Trung đoàn này sau khi thi rớt Tú Tài, bị vỡ xương chậu trong trận đánh ở ngôi làng ven thị xã, thành phế nhân. C         àng buồn hơn khi nghe tin cô vợ một thời là hoa khôi của tỉnh ngày ngày thấy ông chồng Trung úy què chột như hiện thân của cái xấu vật chất, tương phản với nhan sắc trời cho, cuốn gói dông mất. Sự thay đổi mặn đắng đó khiến ông buồn cả tháng trời.

Ông quay qua ông giáo sư hỏi: Năm nay chú 40 tuổi đảng rồi. Như vậy chú đứng trong hàng ngũ từ hồi 14 tuổi, chú cảm mỏi mệt chưa?

Ông giáo sư nhăn nhó: Anh truy xét cứ như đám hình sự, khiếp. Đó, cái ông M. Djilas, một tay lý luận gạo cội của Nam Tư, cuối đời không thốt lên đại loại 20 tuổi không theo CS là người không có trái tim, 40 tuổi vẫn còn ở trong đảng CS là con người không có cái đầu.

Chủ quán: Đúng chú có cái đầu lệch, chàng hảng hai chân.

Ông thêm: Xét cho cùng, nói chú đừng giận, trí thức thời nào cũng hèn. Bọn lưu manh chính trị nắm được cái thóp đó, ban phát chút bổng lộc thì trở thành trí nô, sử nô, văn nô… các loại. Chán.

Ông giáo sư chống chế: Thời buổi này biết làm sao đây?

Chủ quán: Làm sao cũng chẳng làm sao. Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi. Làm chi thì chẳng làm chi. Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao. Đọc mấy câu cũ rích của cụ Phan Khôi, quán cười khà khà, nâng ly một vòng – Nào, uống và cười lên đi hỡi quê hương tan nát!

Ông nhỏ giọng: Hỏi chú câu này, không phải chú bỏ qua, chớ để bụng; rằng, hồi chiến tranh, chính nghĩa của các chú cao hơn Thái Sơn, nhưng sao tôi thấy, hễ súng đạn hai bên nổ ầm ầm thì y như rằng tất cả mọi người dân già trẻ lớn bé, trai gái cũng đều gánh gồng, bồng bế chạy theo “ thằng Mỹ-Thiệu” mà không chạy ngược trở lên, ở đó có tự do độc lập hạnh phúc? Rồi tới giữa 75, có người còn liều mạng đu càng máy bay để mong thoát cái tự do độc lập đó?

Ông giáo sư: Thì cái sự mọi người chạy xuôi đã nói lên mọi điều rồi còn gì? Cái ông nhà văn trên rừng (*) đã thổ lộ đại khái, “phải chi đừng có đại hội Tours diễn ra vào năm 1920…”

Chủ quán: Cứt, cứ nói toẹt ra là chạy ngược chẳng khác nào đi đến thiên đường chết… đem thân vào lò hỏa thiêu! Va…a…à…

Ông kêu lên: Hai chú thôi đi, đừng đi quá đà – Nói và ông tự mỉa rằng mình mới là người đi quá đà trước tiên.

Buổi sáng mới thật gớm. Tiếng cười trộn lẫn trong nỗi buồn uất. Tất cả đều tê điếng, nhoi nhói như cảm giác khi đạp phải dề gai xương rồng bàn chải trên bãi cát khô cháy. Con người ở xứ này cũng vậy, giống như đám xương rồng bàn chải, cố mà chịu những đụn cát rang nóng để sống.

Ông dòm vào chai Martell Cordon Bleu lưng đáy, cảm thấy gờn gợn sống lưng. Ở xứ sở, ở thế hệ bị ném vào lửa, bị bỏ rơi này hình như rượu là người yêu sau vợ con. Rượu để giấu nỗi buồn, để khơi gợi tiếng cười, để nhấn lút mọi cảm giác cay đắng lẫn những hạnh phúc hân hoan lóe lên như đốm lửa trong đêm tối. Rượu vui, rượu buồn, rượu đám đông và rượu một mình. Nó là liều thuốc an thần vừa kích thích, làm tiêu tan và tăng cường độ cảm xúc. Xem ra con người mới chính là những kẻ yếu đuối nhất trần gian chứ không phải cỏ lau như ông triết gia phương Tây từng nói.

Chủ quán bổng hỏi: Cô chủ nhỏ của ông anh sao rồi?

Sao là sao?

Là gắn chặt hơn hay lỏng lẻo?

Lỏng – Ông trả lời gọn lỏn.

Uổng – Quán thêm – Cô em xinh đẹp, bao nhiêu người nhỏ dãi còn ông anh thì dứt tình đoạn nghĩa ngang xương!

Chú cứ tưởng tượng khi trái tim chứa quá đầy máu sẽ bị vỡ, là nói về bệnh lý. Tôi chẳng sợ vỡ, nhưng suy cho cùng chẳng tới đâu. Tình tang sương khói thì có vẻ trẻ con, còn nghiêm túc thì không thể. Sự ấm áp trong vòng tay nhau rồi sẽ lạnh ngắt khi mỗi người mỗi nơi, bởi biết là không thể đi xa hơn.

Ông anh nói cứ như trong thánh thi  – Giáo sư chêm.

Chú nhầm. Tôi cũng phàm phu trong vụ này.

Ha ha… Ông anh phỡn bụng rồi… – Chú quán cười rung cả bàn.

Rồi cả ba cùng cười to như thể vừa khám phá ra điều gì ghê gớm, đổi thay cả thế giới.

Già đó. Lung tung đủ chuyện chẳng đâu vào đâu. Rồi buồn chút xíu. Cười lên chút xíu. Ở ngoài nhìn vào thấy rất trẻ con, đâu có già, đâu có bệnh tật gì.

Nguyễn Lệ Uyên

(viết đầu năm 2018 trên giường…)

____________

(*) Nguyên Ngọc

  PHẠM CHU SA MÊNH MÔNG CÕI TÌNH

 

 

“Quá nửa đời anh đi tìm một nửa
Một nửa nào thất lạc của anh xưa
(Phạm Chu Sa)

Phạm Chu Sa có thơ đăng trên các báo văn nghệ Sài Gòn từ 1970, khi ông đang theo học Đại Học VạnHạnh, cùng lúc làm biên tập và là thư ký tòa soạn tuần báo Tuổi Ngọc của Duyên Anh, từ 1971 đến cuốinăm 1973 thì bị bắt quân dịch, bị đẩy lên Tây Nguyên, đến đầu năm 1975, ông đào ngũ trốn về SàiGòn.

Cả ba tập thơ của ông xuất hiện trước công chúng có một khoảng cách khá dài, Những Nụ Tình Xanh do cơ sở Đồng Dao xuất bản năm 1972. Đến tháng 2 năm 1975, ông tự xuất bản tập Trên Đồi Sương Phủ, lúc mà cuộc chiến bùng nổ ác liệt và đến hồi gần kết thúc, nên tập thơ bị bỏ ngỏ, không thể tới tay độc giả.

Tuy khoảng cách xuất hiện khá xa nhau về thời gian, nhưng thơ của Phạm Chu Sa trước sau vẫn là cõi mộng mênh mông tình. Đó là những cuộc tình lỡ, tình say, tình ảo… Cho tới khi ngã rẽ cuộc đời ông là lính thú – quân dịch – trên vùng đất Tây Nguyên heo hút. Heo hút, nhưng không thiếu tiếng đạn bom. Vì vậy, thơ ông vẫn vang vọng âm sắc của những mối tình uất nghẹn, chia lìa vượt thời gian như đang hít thở khói trời lồng lộng. Và ông làm thơ không phải mang tâm thức của kẻ lưu đày mà, vượt lên trên khói lửa vẫn là những vần điệu ngọt ngào đến cay đắng của chàng thư sinh đang bước nốt đoạn đường của mộng, của say cùng tỉnh thức theo trăm ngả phân ly để hoàn tất nốt cuộc lữ trong nỗi cô đơn cùng tận.

Bắc Phương Hành, ông viết vào tháng 2.1973 sau ngày ký hiệp định Paris, tràn đầy cảm xúc như mâu thuẫn nhau: Vừa khấp khởi mừng vui vì hòa bình sắp lập lại trên quê hương đã quá đỗi điêu tàn, vừa ngậm ngùi thương nhớ bao nhiêu người đã nằm xuống.!…  Đó là những người bạn, người tình, là nhân thế nổi trôi bềnh bồng quanh ông, trên quê hương ông, để những giờ khắc khơi vơi, một mình đâu đó, nơi đèo cao dốc thẳm, chốn núi rừng thâm u kéo dài những u hoài chồng chéo nhau:

Hai mươi năm nối thành bi khúc

Bài ca buồn bã nối điêu tàn

Những ngựa ngủ vùi lòng đất chết

Những đời nằm xuống vẫn hoang mang

Màu quê cũ rưng hồn lữ khách

Chút lòng lận đận với quê hương…

(Một Nửa, trg 12)

Thời khắc ông viết bài hành này là lúc ông tưởng tượng ra một cuộc hành trình từ Nam ra Bắc khi quê hương ngưng tiếng súng (vì hiệp định đã ký), hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, không còn giòng sông chia cắt, non sông nối liền một dải:

Ta đi biển thét lời giông bão

Sá gì chút gió mặn chiều hô

Mà không dựng thẳng cờ minh đạo

Soi một giòng sông nối một giòng…

Mới dợm bước chân khởi cuộc lữ hành (mới chỉ là tưởng tượng) thi sĩ đã nâng chén rượu nhạt chia tay người tình – chia tay một cuộc tình:

…Ví thử đời ta men rượu nhạt

Mời em nhân buổi tiễn đưa này

Chắc cũng buốt môi người cúi mặt

Còn chút tình xưa như khói bay

(Một Nửa, trg 7)

Tôi nghĩ, khi sử dụng thể hành, thì nhà thơ có thể giãi bày trọn vẹn tâm cảm gần xa, nên trước kia, những Trần Huyền Trân, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Bính đã đẩy câu thơ chuồi dài tới tận sau này với những Độc hành ca, Hồ trường, Hành Phương Nam… nên Phạm Chu Sa đã chọn thể hành như để gửi gắm tấc lòng, để giãi bày những ưu uất sâu kín, ông đã mang theo cùng năm tháng?  Ông thản nhiên đón nhận số phận đẩy đưa. Thản nhiên đến mức lạnh lùng trong bài hành thứ hai: Trường Sơn hành như một định mệnh khắc nghiệt đời ông được báo trước.

Núi chẻ đèo cao rừng thăm thẳm

Núi tiếp rừng xanh nắng trải thảm

Chân bước dò trên xác lá khô

Hồn mở vào cửa mộng hư vô

(…)Mang trên vai nửa đời tuổi trẻ

Nhìn quanh ta chập chùng bóng xế

Bước vội, nhưng nhịp nhàng nhịp nhàng

Đầy ắp hồn thơ điệu cuồng vang

(Một Nửa, trg 32)

Giữa đại ngàn Trường Sơn thâm u, tâm hồn và bản thân ông vừa chìm ngập vào thiên nhiên hùng vĩ mà gờn gợn để tiếp tục, vừa thản nhiên quan sát và liên tưởng đến số phận “tàn xiêu, mây trôi” của mình trong thời gian biếm trích nơi vùng đất chết:

Trường Sơn núi dài hằn vết chém

Nát bấy hồn ta làm muôn mảnh

Máu đỏ ngầu sông núi thân yêu

Ta nhìn ta bóng đổ tàn xiêu

Trường Sơn núi biếc trời đứng bóng

Rền vang tiếng bước thời gian vọng

Lắng chìm hơi thở thời gian xuôi

Đời ta như một bóng mây trôi

(Một Nửa, trg 37)

Trong buổi nhiễu nhương, tâm cảm nơi ông chừng như là những mộng mị trôi nổi có không từ “thời gian vọng” đến “thời gian xuôi” như cách gắn liền quá khứ xa tới hiện tại gần, là nỗi cô đơn của kẻ lưu đày trên chính ngay mảnh đất ông đang bước tới, gắn chặt, thở khói trời u uẩn. Ông chìm khuất và mất tăm giữa cái ồn ào trống rỗng, là tiếng kêu bi thiết của con chim gục ngã trên tổ rơm thông thống lỗ méo nụ hoang hoác:

Bằng hữu lang thang người mỗi ngả

Mình ta đứng gọi thấu trăm năm

Ông gọi ai đến nỗi phải mang theo nỗi trống trải dặm dài, ông thở với lớp lớp mây trắng đùn quanh chóp núi trống trơn, nghêu ngao với những cuộc tình nhân thế dẫy đầy ảo mộng?

Thật ra, không phải tới tận bây giờ Phạm Chu Sa, (khi Một Nửa đến với độc giả như một cuộc tương phùng sau chừng ấy năm dài im lặng) mới hé lộ những rơi rớt tang thương những cuộc tình lỡ, mà trước đó, ông đã khơi gợi như một phiên thư âm bản ở hai tập: Những nụ tình xanh (1972)  Qua đồi sương phủ (1975). Đó là những âm tiết khởi đầu bật lên nỗi hoài nhớ mênh mông một kiếp người, một cuộc tình như khói như sương và rồi đọng lại trong tâm trí ông như một bức ảnh hoen nhòe màu thời gian.

Tình em cuộn tròn như con mèo ốm

Vo viên đời anh như điếu thuốc

(…)

Anh cũng muốn hỏi em biết điều gì không

Đêm và bóng tối

Đã quanh quẩn trong anh nửa đời mộng thực

(Những Nụ Tình Xanh, trg 54-55)

Đó là những lời tự thú ngọt chát và cay sè nơi cõi lòng ông, liêu xiêu nơi hai bờ mộng thực. Nhớ lại những năm trọ học cùng ông trên căn gác gỗ đường Nguyễn Huỳnh Đức (nay là Huỳnh Văn Bánh), Phú Nhuận, nhìn bờm tóc ông nhuốm ráng chiều màu nắng quái ngoài hành lang, nhìn cái dáng xiêu xiêu thẫn thờ dưới cột đèn ngã chúi về đêm trong con hẻm nhỏ và hai tay trong túi quần và ánh mắt như màu tối đậm trên bờ tường thấp loang lổ, tôi đã tự hỏi: ông tự tìm kiếm chính mình trong nỗi cô đơn hay hoài nhớ về những gì ông đã đánh rơi đâu đó, là những hình bóng nhập nhòa, hiển hiện trên bờ tường đá ong, những mất mát luôn vây bủa, bi lụy không ít đến cuộc đời ông?

Những thứ rơi vãi dọc đời ông, không hình hài rõ nét. Chúng chợt bật lên trong ông, có khi là một cơn mưa dầm, một ngày nắng cháy. Cũng có khi đang có chút se lạnh trong lớp khí trời từ phương bắc tràn về, xám đục đến ảm đạm:

Ở Sài Gòn thèm một ngày mưa bụi

Thèm nhạc sầu của gió bấc heo may

(…) Mưa ở đây mưa quá đỗi bất thường

Và nắng gắt cháy cả tình mới chớm

(Một Nửa, trg 15)

Khoảng không gian trơ khấc và nhão nhoét kia bất chợt trườn vào tâm trí ông, để cuối cùng chỉ còn là nỗi trống không, mà khởi đầu là những nhớ-nhung-trong-mất-mát-không-cùng:

Ở Sài Gòn chiều không em mây nổi

Nhớ em nghe giá buốt dậy trong hồn

(Một Nửa, trg 16)

Bài thơ này (Ở Sài Gòn), ông viết xong vào tháng 6 năm 1973, nửa năm sau hiệp định Paris. Nỗi hoang mang và nhớ nhung hỗn độn nơi ông, trong chính nội dung bài thơ không để người đọc khám phá điều gì về thời cuộc. Nhưng ẩn giấu phía sau những ngày Sài Gòn anh bỏ quên mộng tưởng/ Đêm đèn màu rực sáng nỗi ưu tư/ Cơn mộng nhỏ môi dậy thì thiếu nữ/ Sao niềm đau chợt buốt nhức không ngờlại dẫn ta đến những liên tưởng về những hoang mang của ông trong khoảnh khắc “còn một chút Sài Gòn” trước khi ông trở thành gã đào binh. Ông giấu cái thực trong mộng tưởng. Ông cất nỗi ngậm ngùi trên vai áo, để mấy chục năm sau, cũng Sài Gòn ấy lại khơi gợi hình ảnh Sài Gòn trước, vẫn là những tâm trạng Ở Sài Gòn bây giờ có những sớm mai buồn muốn khóc/ Mặt trời mù cơn ngái ngủ bình minh/ Những giọt cà phê buồn rơi lặng lẽ/  Sóng sánh màu mắt em (Ở Sài Gòn bây giờ, trg 52). Những hình ảnh của Sài Gòn trước và bây giờ vẫn cứ nguyên vẹn trong ông, vẫn là sớm mai buồn, giọt cà phê buồn, vẫn rơi lặng lẽ và dồn nén thành màu mắt em, chiếm trọn tâm hồn ông, không thay thế, không ai khác ngoài em.

Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó Dostoevsky viết, đại ý rằng: “Cả đời tôi chỉ muốn đẩy tới tận cùng những gì người khác chỉ làm được có một nửa”. Phạm Chu Sa thì không đủ lực để làm cái công việc vĩ đại của đại văn hào Dostoevsky. Ông không tuyên bố hoàn thiện cuộc đời bị xáo tung, mà đơn giản là tìm trong chính mình, đi tìm một nửa của cuộc đời mình bị rơi lạc nơi đồi hoang núi sâu hay giữa lòng thành phố tràn ngập ánh đèn? Chuỗi dài quẩn quanh tìm kiếm cái đã mất trong con người chính mình đến mệt nhoài những hơi thở dốc. Và khi tìm thấy thì hệ quả là:

Quá nửa đời anh đi tìm một nửa

Một nửa nào thất lạc của anh xưa

Khi tìm được thì nửa anh vụn vỡ

Nên làm sao ta ráp lại cho vừa.

Hàn gắn lại em ơi đời tạm bợ

Một chiều say một sớm tỉnh một khuya buồn

Một giọng hát một điệu cười khúc khích

Cũng tràn đầy cả hạnh phúc đau thương

(Một Nửa, trg 104).

Nhà thơ Du Tử Lê có một nhận xét về Phạm Chu Sa, theo tôi là chính xác: “… và người đọc đã bắt gặp một cái gì đó, một cái gì đó có thể nhìn như một Phạm Chu Sa. Một cái gì không thể mang một tên gọi khác… Tôi muốn ví thơ ông như một giòng sông xanh, nhưng dưới đáy lại ẩn sẵn khá nhiều sóng ngầm”.

Cuộc đời ông chưa bao giờ yên ả. Và thơ ông cũng vậy, ẩn bên dưới sự phẳng lặng là những giòng chảy ngầm cuồng phẫn, chờ chực bùng lên những đợt sóng gầm gào. Thoạt lướt qua, tưởng chừng như những câu thơ kia dung dị, đôi khi mang hơi thở chung của những chàng thi sĩ trước năm 1975, là những buồn chán, cột đèn vàng, giọt cà phê đen… tâm trạng của một thời tan tác. Nhưng ẩn bên dưới ngữ nghĩa tầng sâu lại là những cuồng khích, bung vỡ sôi sục, đôi khi nhuốm màu sắc phản kháng của tuổi trẻ:

Bằng màu đen của bóng tối cạm bẫy

Trốn chạy nỗi căm hận khô đắng

Trốn chạy niềm cô đơn

Cuồng loạn những điệu kèn da đen buổi dạ hội hóa trang

Sự bất lực của âm thanh

Và bóng tối đồng lõa

(Một Nửa, trg 63).

Thời nhiễu nhương, tuổi trẻ phản kháng, tuổi trẻ gào rống, tuổi trẻ xuống đường, buồn nôn, phẫn nộ, chán chường… không phải là điều mới lạ. Thời nào và ở đâu tuổi trẻ cũng nhạy cảm trước các vấn đề xã hội, thời cuộc… Xã hội và thời cuộc nhớp nhếch như là mệnh đề tiên thiên xô ngã con người vào “vũng trống”, và họ bất lực gào lên:

Đêm thành phố thật buồn

Mười giờ tối còi giới nghiêm reo vội vã

Đêm chợt im vắng trong niềm sôi sục

Sẽ vỡ tung một sớm mai nào

(Những Nụ Tình Xanh, trg 72).

Có lẽ, sẽ rất thừa thãi khi các nhà đạo đức, trong bối cảnh xã hội suy đồi, phong hóa, lên tiếng chỉ trích sự mất cân bằng trong suy nghĩ và hành động của giới trẻ. Thời kỳ đó, Phạm Chu Sa thuộc lớp tuổi hai mươi, nhưng không tĩnh yên để lắng nghe, để nhìn, đọc những lời rao giảng như Thiền sư Nhất Hạnh đã từng viết: “Tôi rưng rưng nước mắt, vì tôi được nghe chính tiếng nói của lòng tôi, tiếng tự thú của lòng tôi… Nếu các em biết thương yêu và tha thứ thì hồn nước cũng sẽ giật mình, đời chúng ta sẽ lên sức sống, tủi hờn sẽ lắng xuống và niềm kiêu hãnh sẽ vươn lên. Nếu các em biết thương yêu và tha thứ thì súng đạn cũng sẽ phải thở dài, tàu bay cũng sẽ phải khóc, lựu đạn sẽ phải im tiếng, và quê hương ta sẽ không còn là một bãi chiến trường” (Nói Với Tuổi Hai Mươi). Nhưng khốn nỗi, đó chỉ là cách nhìn của thầy Nhất Hạnh. Tuổi trẻ không còn đủ tỉnh táo để bước đi trên những con đường gập ghềnh, hỗn độn. Đó cũng là nét chung với đa phần. Phạm Chu Sa không tự tách mình ra khỏi đống bùng nhùng kia, ông viết:

Khép kín trái tim.

Hai tay vo tròn quá khứ

Hồn chết lịm từng phiến băng tan

Ta cúi đầu bỏ trốn

Ngôi mộ đời cỏ úa xương người

(Những Nụ Tình Xanh, trg 30).

Lúc này, trong tay tôi chỉ còn hai tập: Những Nụ Tình Xanh và Một Nửa (Trên Đồi Sương Phủ, ngay chính tác giả cũng không giữ nổi), nhưng khi soi rọi lại, có vẻ như Một Nửa là sự nối dài từ tập thơ đầu tay. Vẫn giọng điệu ấy, vẫn tâm tình ấy. Hơi thở từ thơ ông tưởng chừng như mong manh khói sương, nhưng đằng sau lại là những ẩn ức, những bất lực, trắc trở… cả đời ông cất công tìm kiếm, ráp nối cho trọn vẹn. Khốn thay, thảy đều không theo đúng ý ông:

Lang thang trong rừng vắng

Hái một cụm hoa sầu

Ồ khắp trời mây trắng

Biết lối về nơi đâu?

(NNTX, trg 59)

Trời cao trăng nở rộ

Lữ khách trên đường khuya

Bóng nhòa trong sương lạnh

Nhớ nhà, đâu lối về?

(NNTX, trg 74)

40 năm trước ông không tìm ra “lối về” cho riêng mình, thì đến 40 năm sau ông vẫn loay hoay tự tra vấn:

Như đời ta vốn đã quá ngu ngơ

Đi tìm mãi những điều không có thật!

Cám ơn đời từ niềm tin thứ nhất

Thứ hai, ba, tư… cho đến cuối cùng

(Một Nửa, trg 103)

Cuối cùng thì đâu là “lối về” của ông?

Có lẽ, xin tạm mượn mấy dòng sau của nhà thơ Du Tử Lê nhận xét về tác phẩm Phạm Chu Sa để kết thúc bài viết này:

“Phạm Chu Sa, với những bài thơ mới, nơi nửa sau của thi phẩm “Một nửa” đã cho thấy ông vượt qua được ngưỡng cửa ngáng trở tàn khốc của thời gian. Thơ của họ Phạm ở những năm tháng sau 1975, tuy căn để, đa số vẫn là những thao thiết về tình yêu. Nhưng đó là một thứ tình yêu đã ra khỏi hố, hầm ẩn náu của những xung động tình cảm đôi lứa thuần túy. Mà, tình yêu, trong cõi giới thi ca Phạm Chu Sa hôm nay, là những vấn nạn được cất lên từ những tâm bão nhân sinh. Những cật vấn tử / sinh. Kiếp / đời. Theo tôi, đó là những câu thơ được chắt ra từ những chiêm nghiệm đời sống đã sắc xuống. Để tự thân, thơ có được chiều sâu và, độ rộng… Trong ‘Một nửa’ của họ Phạm, cá nhân tôi rất thích những câu thơ như, ‘Tự đào huyệt chôn mình / như một tên tử tội / a ha ta hóa trang / làm anh hề múa rối.’ Hoặc, ‘Hạnh phúc trơ vơ trên dây thong lọng / em kịp mua về đốt hết nhân gian.’ Hoặc ‘Dã quỳ thắp nắng / chìm dần trong sương / nhặt bóng tà dương / ném vào vô tận.’ Hoặc nữa, ‘Một chân thò lỗ huyệt / một chân nhảy lò cò / đi tìm phương bất diệt,’ vân vân…”    (dutule.com)

 

NGUYỄN LỆ UYÊN

__________

Tên thật: Phạm Đình Thống.

Sanh năm 1949 tại Bình Định, Trung phần VN.

Cựu sinh viên ĐH Vạn Hạnh.

Trước 1975, cộng tác với Tuổi Ngọc, Vấn Đề, Văn, Khởi Hành…

Sau 1975, làm nhiều nghề kiếm sống, rồi làm Phóng viên, Biên tập viên các báo: Thanh Niên, Gia Đình & Xã Hội; Phụ trách phía Nam tạp chí Ngày Nay ( Hiệp Hội UNESCO-VN). Cộng tác với các báo, tạp chí: Tuổi Trẻ, Người Lao Động, Phụ Nữ TP.HCM, Kiến Thức Ngày Nay, Xưa & Nay …

Thơ đã xuất bản:

– Những nụ tình xanh, NXB Đồng Dao (1972)

– Qua đồi sương phủ, Tác giả XB (tháng 2-1975)

– Một nửa, NXB Thanh Niên (2011)

KHẮC KHOẢI ÂU THỊ PHỤC AN

 

 

 

“Tôi dướn người về phía trước làm như đáp trả lại nụ hôn vội vàng của Vị  nhưng thật ra để tránh cho phiến lưng bị chàng ép mãi vào vách”.

(Phục An)

Truyện ngắn đầu tay của Âu Thị Phục An có tựa “Những Ngày Không Định Trước”, do Mai Thảo chọn đăng trên giai phẩm Văn số ra ngày 19.10.1974. (Sau truyện ngắn này, tạp chí Văn liên tục đăng 3 truyện khác của chị: “Thăm Viếng”, “Màu Áo Hẹn” và “Bên Kia Mùa Hè”).

Trước đó, chị có thơ, văn đăng rải rác trên Tuổi Ngọc, nhật báo Dân Chủ và các báo văn nghệ ở Sài Gòn, nhưng phải đợi đến lần xuất hiện này, độc giả mới biết thêm một cây bút nữ còn trẻ là Âu Thị Phục An. Nói biết thêm, bởi cách viết của cô sinh viên ban Triết, Đại học Văn khoa Sài Gòn không có kiểu cách làm dáng, khô cứng thường thấy ở các cây bút mang khuynh hướng dùng ngôn ngữ “triết học tra tấn văn chương”. Văn chị cứ “tỉnh queo” đến lạnh lùng trong những tình huống mà lẽ ra là đón đợi những vồn vập, rực cháy, những háo hức nồng nàn… Đọc những truyện ngắn của chị, nhiều khi tôi nghĩ, chị như một kẻ lữ hành trên con đường vắng, không có người đồng hành để trò chuyện, đành phải dồn nén lại. Sự dồn nén đó cứ lướt thướt trôi theo dòng suy nghĩ chảy xọc vào ngòi bút, giống như một thỏi băng tan chảy.

Truyện ngắn đầu tay “Những Ngày Không Định Trước” có cấu trúc dạng nhật ký nhằm giãi bày tâm trạng của một cô gái trẻ, chính xác là một nữ sinh bậc cuối trung học đang bước vào những ngày cuối cùng của kỳ thi Tú Tài và đang đón đợi người sẽ là chồng tương lai. Lẫn lộn giữa chuyện thi cử, đậu rớt “chẳng mừng lắm” và “chẳng hề buồn hoặc toan tính…” là tâm trạng chờ đợi và chẳng chờ đợi gì về chuyến gặp mặt người yêu, ở một nơi đóng quân nào đó, sẽ đến nhà thăm gia đình nàng. Tình yêu của cô nữ sinh trung học với anh chàng quân nhân tên Thăng lơ lửng một cách lạnh lẽo. Họ gần bên nhau mà như xa cách nhau, không hề biểu lộ một tình cảm đặc biệt của những kẻ khao khát yêu, khắc khoải đợi chờ những nụ hôn cháy bỏng. Cứ giả định rằng, nếu Thăng không đến, hẳn cô gái kia cũng chẳng băn khoăn đặt những câu hỏi tại sao. Bởi có gặp hay không thì cũng như chuyện đậu và rớt Tú Tài vậy thôi trong suy nghĩ của cô trước đó.

Trong khoảng thời gian chờ đợi, quanh quẩn trong đầu óc nàng là những hoài nghi. Nàng cố gắng lý giải về mối tình đầu. Mối tình này có “tồn tại” hay không “tồn tại” trong cô. Thăng có thật là chồng tương lai? Và cô, cuối cùng chỉ còn lại mối hoài nghi cứ ngày càng trương phình lên: “Tôi chịu không biết ra sao cả cũng như nhiều lần tự hỏi tôi yêu Thăng, chúng tôi có thật yêu nhau hay mỗi đứa chỉ yêu những điều lý thú do cuộc tình này mang lại”.

Cách lý luận, suy nghĩ của cô gái hơi lạ và ngược đời khi tách tình yêu thành hai mảnh thật và không thật. Hai mảnh đó nảy sinh ra “những điều lý thú do cuộc tình này mang lại” như là mệnh đề tiên quyết để biết “có thật yêu nhau”. Như vậy, cô gái trẻ đã phân thân với những thắc mắc, những cật vấn về mối tình, mà ngay cả chính bản thân cô ta cũng không chắc chắn lắm!

Trong truyện không hề thấy có một dòng chữ nào, theo dạng “lỡ mai anh chết em có buồn không”, hay: “Mai anh về trên đôi nạng gỗ / Bại tướng về làm gã cụt chân – Linh Phương”. Các chi tiết trong truyện không đẩy lên theo kết cấu kịch. Nó cứ lặng lẽ chảy như một dòng nước nhỏ, vừa vặn cho kích thước tra hỏi. Bóng dáng vật vờ giữa yêu hay chưa yêu luôn xuất hiện trong đầu cô gái trẻ, đôi lúc như một trò chơi, có cũng được, nếu không cũng chẳng mất gì. Mà cũng đúng thôi, bởi truyện được viết xong vào tháng 7 năm 1974 tại Bạc Liêu, khi mà bối cảnh cuộc chiến miền Nam đang lúc cao trào cho những đợt tấn công, phản kích sau khi hiệp định Paris bị vất sang bên để cả hai phía bắt tay nói với nhau bằng súng đạn. Tâm trạng hoài nghi, nỗi thất vọng, mệt mỏi có dịp bùng lên ở cách sống, cách ăn nói, suy nghĩ của thanh niên thời bấy giờ. Ngay chính những tình cảm liên quan đến cuộc sống và bản thân, họ cũng không hề tin là có thật: “Thăng vẫn không thay đổi thế ngồi, thế ngồi làm chúng tôi gần như đưa lưng về nhau”.

Thế hệ trẻ thời đó đã đánh mất niềm tin chăng? Họ mệt mỏi chán ngán chăng? Họ lúng túng một cách khá vất vả khi tìm kiếm và đối mặt với những sự thật chăng? Có thể là vậy, bởi đời sống bên ngoài đã lấy đi của họ tất cả, chỉ chừa lại nỗi hoài nghi sưng tấy lên, ngày mỗi đầy trong đầu óc: “Có phải yêu nhau là tổ chức những đuổi bắt miệt mài là tìm kiếm một điều đã gặp nhưng không cho là điều tìm kiếm. Tôi chợt rùng mình sợ hãi khi chợt nhận thấy mình như một con kiến bò quanh quẩn mãi trong một vòng tròn rất rộng”.

Truyện không có gì mới, vẫn theo motif chàng là quân nhân, nàng là nữ sinh, yêu nhau. Nhưng có cái lạ là sự lạnh lùng ở cả hai nhân vật cân bằng nhau, đến độ gần như dửng dưng, tàn nhẫn. Họ có vẻ như già trước tuổi. Già ở tính cách và già cả tâm hồn! Đọc lại lần nữa, mới hay chị luôn đặt bên cạnh ngòi bút của mình những dấu hỏi to tướng, chẳng có câu trả lời: “Đậu, rớt, những tên gọi, những dấu hỏi vẽ lên không hề đem theo được một hình ảnh vui buồn nào. Lạ không?

 

Nhưng phải đợi đến 4 tháng sau, khi truyện ngắn “Thăm Viếng” đăng trên giai phẩm Văn, số đặc biệt Văn Chương Nữ Giới ra ngày 1.2.1975, cùng với các đàn chị Nguyễn Thị Vinh, Trần Thị Tuệ Mai, Hoàng Hương Trang, Trùng Dương, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Trần Thị NgH. thì độc giả mới thực sự chú ý đến cái tên Âu Thị Phục An. Nói chú ý bởi cấu trúc và nội dung câu truyện càng lạnh hơn; lạnh như một thỏi thép bỏ vãi đâu đó sau chái nhà.

“Thăm Viếng” thuộc thể văn kể chuyện. Nhân vật chính xưng tôi (cùng em gái người yêu) đi thăm vị hôn phu đang thụ huấn tại quân trường Thủ Đức. Ngay những dòng đầu tiên của truyện, dường như chị đã báo trước cho người đọc sẽ có điều gì đó khác hẳn những cuộc thăm viếng thông thường của những cặp tình nhân với bao nỗi chờ mong, khao khát, nhớ nhung… bằng những dòng chữ tỉnh táo đến sắc lạnh: “Lần đầu tiên, cùng với Viên lên thăm Vị ở quân trường ngày chủ nhật, lúc ấy tôi đã là vợ chưa cưới của chàng rồi”. Tính cách của “tôi”, hoặc vì quá thông minh, hoặc được thụ hưởng tính cách giáo dục của một gia đình nền nếp, nên “tôi” chỉ quan sát, đứng ngoài mà quan sát, rồi để cho cảm xúc trườn qua sự quan sát ấy với một ý thức xẻ ngang giữa tỉnh táo và đông cứng, đôi khi như tách biệt, đứng hẳn ra ngoài rìa sự thăng hoa của loại tình cảm bị dồn ứ của các nhân vật phụ “tôi chỉ thấy tội nghiệp cho mọi người”, khi tận mắt nhìn thấy: “…những bóng mát tạm bợ và một vài chiếc lều được dựng vội vã nên trống trải và xiêu vẹo che giấu một cách hời hợt những cặp tình nhân nằm với nhau bên trong. Những cặp tình nhân hôn nhau, vuốt ve một cách tự nhiên như chung quanh họ là một nơi riêng biệt vậy”. Ngoại cảnh đã tạt gáo nước lạnh buốt vào tâm giới “tôi”, để nảy bật ra thứ tình cảm không mấy thân thiện. “Tôi” bị nhìn thấy về mọi sự diễn ra bên ngoài cho đến lúc “tôi” tự nhìn lại “tôi” trong một khung cảnh đầy bất ngờ không kém. Đó là lúc Vị tách “tôi” ra khỏi em gái anh ta, đưa vào một gian buồng và “tôi” đã dùng sức mạnh lý trí đến mức tối đa để làm co quắp tình cảm đang cháy bùng trong người. Bởi “tôi đủ thông minh hiểu để không hỏi han gì”. Có thể và không hẳn là mặc cảm phạm tội, nhưng trước đó “tôi” đã nhìn thấy cảnh phô diễn thứ tình cảm “nhếch nhác” rất tự nhiên ngoài khu tiếp tân khóa sinh, khiến sự liên tưởng càng trở nên mạnh mẽ hơn với chỗ hai người đang đứng: “Một căn phòng tắm lộ thiên, có thùng đựng nước, có quần áo lót của đàn bà vắt bừa bãi trên dây”. Cú chạm mặt hơi bất ngờ vào vị trí hai người sắp yêu nhau khiến “tôi” càng lúc càng rơi vào trạng thái căng cứng đến khó chịu. Ngay cả khi hai người đang hôn nhau nơi không mấy sạch sẽ và thơ mộng kia, thì sự tỉnh táo trong con người “tôi” vẫn luôn chiếm ưu thế. Những rung động thân xác khi trao đổi nhau những nụ hôn khắc khoải đợi chờ của Vị đã bị “tôi” đẩy xuống, nằm bẹp dí ở chỗ cái khóa soutien. Cảm giác đau nổi lên thật mạnh mẽ, thế chỗ cho những ngọt ngào, nồng cháy… Nó lấn át cả sự háo hức, đón đợi nơi người bạn trai để cuối cùng tạo thành mối tương quan cộng hưởng giả tạo ở động tác “dướn người”: “Vị quay lại. Chàng hôn tôi. Bỗng tôi cảm thấy đau nhói lên ở phía sau lưng vì chiếc soutien bị cấn vào vách ván. Tôi dướn người về phía trước làm như đáp trả lại nụ hôn vội vàng của Vị nhưng thật ra để tránh cho phiến lưng bị chàng ép mãi vào vách”.

Viết một cách trần trụi như thế này, nhất là một nhà văn nữ, hẳn nhiên sẽ gợi sự tò mò đối với người đọc. Nhưng để cho sự trần trụi không làm “tổn thương” đến các nhân vật trong truyện, chị đã khéo léo che giấu đi những nhục cảm khi “tôi dướn người về phía trước”. Động tác ấy không phải là sự cộng hưởng, đáp trả mà tác động bởi khóa móc soutien. Vị thì không nhận biết ở chỗ một đằng cái khoái cảm bị đè xuống, đằng kia thì cứ bốc cao lên. Một sự lừa dối ngọt ngào!

Trong quyển Văn học miền Nam, tập Tổng quan, Võ Phiến có nhắc nhiều lần cái cynique trong văn học và ông cho trâng tráo là cách viết, cách nói cực đoan của tinh thần hoài nghi, thể hiện rất rõ thông qua các nhân vật của Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị NgH., Lệ Hằng… Và, đấy là hậu quả của “chiến tranh và hỗn loạn, hoàn cảnh xã hội của giai đoạn 64-75 tạo cho người ta một lối sống khác hẳn trước” (sđd, trg 292). Nhận xét này cũng có phần có cái lý của nó, khi mà tầng lớp thanh niên có học luôn tự dằn vặt về những tha nhân, thượng đế, tồn tại hay không tồn tại, những khách thể và chủ thể, sống và chết… trong bối cảnh đất nước loạn lạc, đều ít nhiều ảnh hưởng bởi trào lưu triết học hiện sinh của Pháp từ giữa thế kỷ XX.

Hiện tượng này cũng dần lấp ló nơi một Âu Thị Phục An bắt đầu bước chân vào làng văn với cái cynique đầu tiên trong truyện ngắn đầu tiên của chị, tuy có nhẹ nhàng hơn, kín đáo hơn các nhà văn nữ đi trước. Mà cũng có thể là chị biết điểm dừng, biết kềm chế, không để cho sự “nổi loạn”, cái trâng tráo của bản thân đi quá xa, khiến người đọc (thuở đó) bỗng có chút giật mình như cái kết ở truyện thứ hai này? “Thăm viếng lần nữa? Ồ, không ai đủ can đảm đưa tay đập vào vết thương của mình lần thứ hai. Không bao giờ. Căn phòng tắm lộ thiên. Cái móc soutien bị cấn và trăm ngàn nỗi cùng quẫn trong đầu… Không bao giờ. Tôi im lặng nghe Viên an ủi. Im lặng vì không biết phải phân bày như thế nào. Mà dù có phân bày chắc Viên cũng không thể nào tin được việc ấy đã xảy ra”.

Cả giới văn nghệ lẫn độc giả chờ đợi ở sự bứt phá của Phục An, như họ đã từng trông đợi sự thành công của những Túy Hồng, Trùng Dương, Nhã Ca… và gần hơn là Trần Thị NgH., Lệ Hằng. Nhưng tất cả đều đặt dấu chấm hết, kể cả người viết mới lẫn những nhà văn đã thành danh, sau ngày 30.4. Một quãng lặng khá dài, không ai cầm nổi bút, ngoại trừ một số rất ít…

Phục An cũng nằm trong số đó và chị chỉ viết trở lại chừng 5, 3 năm nay với hơn 10 truyện ngắn, nhưng phong cách thì không còn giữ được như trước 75! Tất cả các truyện ở giai đoạn này, hầu như nói về bạn bè một thời. Vị trí của họ bị thay đổi. Họ lao vào các công việc chân tay để mưu sinh; họ thất chí, rượu chè bệnh tật và cái chết (“Dù Chỉ Một Lần Cũng Không Thể”, “Trạm Cuối”), hoặc về mối tình lỡ kể chuyện người thì chồng chết vì tai nạn, kẻ thì tự ái về cách đối xử của vợ, bỏ nhà ra đi. Họ tình cờ gặp nhau, tìm đến với nhau, chia sẻ nỗi bất hạnh, cô đơn và rồi hạnh phúc bên nhau (“Mùa Thu Ẩm Ướt”)…

 

Nhưng thay vào chỗ khuyết trên, Phục An chuyển sang làm thơ, với một bút lực khá mạnh mẽ. Thơ chị xuất hiện khá đều đặn trên các trang mạng văn học. Yếu tính trong thơ chị vẫn là phận người, nỗi cô đơn chồng chất, những bất hạnh, sự bất lực và chút hạnh phúc mong manh. Đọc những dòng thơ của Âu Thị Phục An, tôi có cảm giác như đang ngồi thiu thiu nghe những khúc nhạc đồng quê theo dòng Bluegrass, bởi chị luôn lồng vào đó là những câu chuyện, đôi khi như một truyện ngắn rút gọn:

Nàng đang tắm.

Nàng đang khỏa thân trong phòng tắm.

Nàng đang ngồn ngộn sức sống trong kia.

Chàng đẩy cửa bước vô.

Nàng đang kỳ cọ liền khựng lại. Anh muốn tắm? Không, anh muốn nhìn em thôi, em cứ tắm đi. Nàng nói. Coi chừng ướt anh. Không sao mà. Nàng cười rồi vô tư tắm táp.

Bỗng dưng nàng quay lại nhìn chàng. Anh muốn… không? Chàng ngập ngừng. Nếu có thể.

Nàng chống hai tay vào tường, đưa lưng về phía chàng. Nếu anh muốn, thì có thể mà.

Chàng lả đi trên giường. Cơn mệt lại đến.

Bất lực trước cái chết, hai dòng nước mắt trào ra, ngoằn ngoèo chảy loang trên khuôn mặt hốc hác của chàng.

Nàng đã cố gắng giúp đỡ chàng thật nhiều. (Lần Cuối Cùng Trong Phòng Tắm).

Có dịp ngồi bàn về thơ Âu Thị Phục An, nhiều bạn trẻ và nhiều trung niên cho rằng chị khai thác sex đến mức tối đa. Sex như là hơi thở trong thơ chị. Tôi không nghĩ vậy. Bởi sau khi đọc những bài thơ chị đăng trên các trang mạng, sex chỉ là cái cớ để chị bày tỏ thái độ, cảm xúc của cá nhân trước những vòng xoáy thời cuộc. Vì ngay chính chị cũng phải hứng chịu cảnh ngộ cay đắng đó. Chị không sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh sex như một thứ tình dục luôn đắt hàng (chữ dùng của Nguyễn Thị Hải Hà trên văn chương việt, rằng: “Sex Sells. Người Mỹ thường hay nói thế. Cái gì có dính líu đến chuyện chăn gối thường dễ hấp dẫn người nghe người xem người mua bán, như tôm tươi thường đắt hàng. Các nhà văn Hoa Kỳ khá dạn tay khi viết về tình dục. John Updike, Philip Roth, Paul Auster, Joyce Carol Oates đều mang tình dục vào tác phẩm”

Thơ Phục An cũng không dung tục như Vệ Tuệ trong tác phẩm “Điên Cuồng Như Vệ Tuệ” (Trung Quốc), hay sàm sỡ thô bỉ như “Sợi Xích” của Lê Kiều Như. Đó là những thứ cặn bã, rác rưởi của loại văn chương hạ cấp!

Tính dục trong thơ Phục An trong veo như giọt sương mai, chỉ để diễn đạt nội tâm, giãi bày những ẩn ức về mặt tâm lý, không hề có sự ức chế sinh lý.  Những hình ảnh chúng ta bắt gặp trong thơ, thông qua từ ngữ mang tính ẩn dụ nhiều hơn. Chị không dùng ngôn ngữ nhằm phô diễn sức nặng vốn có của hình ảnh thông thường, mà hơn hết là để chuyển tải tứ thơ. Vì, theo ông Đặng Tiến: “Nói đến lời trong thơ là nói đến từ ngữ, hình ảnh và nhịp điệu, nói đến cả khoảng im lặng bên trong câu thơ, hoặc chung quanh bài thơ…” (Đặng Tiến, Thơ, thi pháp và chân dung, trg 58, nxb Phụ Nữ, HN, 2009). Và: “Ý trong thơ, khác với ý trong văn xuôi, ở chỗ nó không có giới hạn, không có kích thước. Tạm nói là nó mông lung, bất định” (sách đd, trg 60).

Đọc nhiều lần, cảm quan của tôi về thơ Phục An vẫn là: sex phi sex. Xin dẫn một bài thơ của chị:

bám vào lềnh bềnh vỉa hè

những bộ xương người cúi xuống nâng ly

bám vào phù hoa

những bộ xương người cúi xuống nâng bi

da thịt em trắng ngần

ướp nhầy nhụa máu trinh

dâng anh một lần

toang hoác bình minh

con gái

run rẩy lột xác trên những mép giường

em trượt trên chất nhờn

cay đắng

của em

nụ cười em hóa đá

cứng đờ lút vào dung nham

cơn hứng lậm vào khuya

chờ giờ hóa thạch

em muốn bám vào cội nguồn

lần nữa tái sinh

vỉa hè ủ em

hằng đêm

và anh đẩy em

tuột trôi vào lỗ cống muộn phiền

em muốn ngậm vào em

con vật nào

có thật.

(Thả Trôi)

Cách dùng từ ngữ (langue) như lời nói (parole) để diễn đạt ý như kiểu bài thơ “Thả Trôi” trên đây rất dễ gây ngộ nhận, hiểu lầm, chỉ vì chị mượn những thực thể, những hình tượng ngoại giới tạo chất liệu cho cái tứ sâu xa bên trong, là những phiền muộn, đau đớn không cùng của một kiếp người là thân phận bị xô dạt một góc “lỗ cống” nào đó chỉ có mình chị mới bị trói chặt chân tay?

Rồi đến cái nhếch nhác ở một góc phố nhỏ trong thành phố chị đang sống có những cái “phình phịch, hổn hển, leng keng” giữa một bên là thánh thiện và bên kia là sự trần trụi đến nao lòng. Nỗi buồn cuộn lên từ ngoại cảnh “bị nhìn thấy” là con đường nhỏ Huyền Trân “tai tiếng”, dội ngược vào trí não tạo thành những sắc màu, những âm thanh:

cái đầu chó gặm mất rồi

não văng tứ phía

mạch đập ở cổ còn phình phịch

cái lưỡi tuột lại le ra

trái tim tím tái còn thở hổn hển

hai cái chuông đồng treo hai đầu vú nhỏ

đung đưa bài thánh ca trên những sợi lông tơ

núp sau gốc cây đường huyền trân công chúa

áo xống tuồng tích hoa lá cành

nghiễm nhiên kiếm sống

phố chảy cuồn cuộn ánh đèn đêm

những con rắn lửa nhảy múa dưới háng

nàng và trong miệng nàng

cỏ ướt đẫm tinh trùng

người ta vẫn thấy khoái

khi ngồi tuốt trên gác chuông

nhà thờ đức bà

làm dáng

với những hình nhân cục cựa dưới chân đèn

luôn nẩy ngược và rên

thành phố không buồn ngủ

thành phố nằm ngửa nàng lại lắc leng keng

hai cái chuông treo trên hai đầu vú

nhỏ

muộn phiền

(Lắc Chuông).

Đọc những câu thơ này, nghe ra thơ không phải là thơ, càng không phải văn xuôi. Nó là sự sắp đặt cố ý của người viết, như trong các thập niên 50, 70 của thế kỷ trước, Thanh Tâm Tuyền đã cách tân thơ bằng cách “phá vỡ cái vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ… tháo gỡ guồng máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong văn bản mới” (Đặng Tiến, http://www.diendantheky.net/2012/03/ang-tien-thanh-tam-tuyen.html).

Không thể nói Phục An chịu hay không chịu ảnh hưởng của Thanh Tâm Tuyền, nhưng chắc chắn một điều là chị đã chọn lựa thơ tự do như là môi trường tốt nhất cho sự sáng tạo của mình, để hoàn thành chức năng “tra vấn và trả lời” như nhà văn Alain Robbe-Grillet đã từng khẳng định, rằng đó chính là thiên chức của nhà văn.

Không ai có thể ngăn cấm nhà văn: thôi đừng phẫn nộ, đừng chua chát, rời xa bi kịch đã rồi của dân tộc. Cái ngóc ngách đau đớn cùng tận kia, trước nhãn quan của nhà văn là thượng đế trên chính mảnh đất mình, được Phục An giải mã bởi những hình ảnh chồng chất nhau, níu kéo nhau, tạo thành những chuỗi âm thanh bi phẫn:

nàng xõa tóc
chạy dưới nắng tháng tư
hai cái mông tròn huyền hoặc
đung đưa
bình minh rọi những tia nắng đen
điên cuồng qua nách
cát nhảy dưới gót chân bất hạnh
máu ứa từ môi thâm
tháng tư đuổi từ sau lưng
xương rồng đâm lên vú
biển ôm nàng ngất ngư
nắng của tháng tư rơi từ một bình minh đen tối
nắng cũng rơi từ âm cung mê lối
chạy đi tìm bóng của ảo tưởng xưa xa
ngày về rất vội
về dù dòng sông quê hương chật chội…
chỉ muốn trần truồng gào khóc những điêu linh.

(Bình Minh Đen)

Và, dẫn thêm bài thơ khác để nhấn mạnh thiên chức nhà văn trong ngòi bút chị:

tôi rất buồn
khi đi trên những con đường không còn vỉa hè
khi
(…) ngồi rung đùi trong nhiều biệt thự
spa, resort, hotel năm sao, du lịch Thái Lan, Sing, Trung Quốc
những cái chợ tự phát bên lề đường không cần đóng thuế
những “gái chợ đông” ôm thúng co giò chạy khi thấy công an
những “trai giữa chốn ba quân” trơ mặt chạy xe ôm nám đen khuôn mặt

tôi rất buồn
khi đất nước tôi
chạy theo (…)
20 năm máu lửa chết chóc xảy ra.

(Năm Mới Vẫn Không Có Gì Mới)

Thế giới thơ của Phục An đa chiều, rộng nghĩa. Chị đã phá bỏ những luật lệ trong thơ cổ điển (như nhiều nhà thơ đi trước đã từng làm) để tìm kiếm cái đẹp, dẫu cho cái đẹp ấy hàm chứa bao nỗi nhục nhằn của một kiếp người. Tuy nhiên, khi đến với thế giới thơ Phục An, nếu chỉ lướt qua, một lần thì dễ bị những ẩn ngữ kia đánh lừa, bởi bề ngoài ngôn ngữ mang đầy chất phồn thực, lớp lớp những khoái cảm của tính dục là “những khắc khoải, thao thức về thân phận, khát vọng làm người của một con người” như chị đã từng tâm sự.

Đa chiều và rộng nghĩa chỉ khi nào người đọc chịu khó đào xới ở dưới tầng sâu để thấy được cái ý ẩn nấp trong lời, như một vì sao lạ giữa muôn ngàn tinh tú giữa tầng không mênh mông.

Chị là người đã miệt mài mang thơ đi tìm sự tự do tuyệt đối trong khoái cảm tính dục, vất vả lăn tới chân trời xa lạ, mà ở đó cái đẹp là những câu trả lời từ những tra vấn liên tục về phận người?

 

Nguyễn Lệ Uyên

 

 

BÊN LY CÀ PHÊ, LY RƯỢU… THẤP THOÁNG BÓNG LỮ QUỲNH

 

tản văn Nguyễn Lệ Uyên

 

Thế hệ chúng tôi không có tuổi trẻ và được gọi với cái tên rất mực mỹ miều nức nở: Thế-hệ-chiến-tranh. Thuật ngữ này vừa bi hùng lẫn bi hài. Và rồi chiến tranh cũng qua đi mà không có hòa bình, không cả đoàn tụ. Anh em bạn bè lưu tán tứ phương. Ngó tới ngó lui, cái thế hệ ấy cũng đã trên dưới 70! Nghĩa là đang ở lứa tuổi, nói theo ông bạn nhà thơ thiền giả Đỗ Hồng Ngọc, là bắt đầu hườm hườm, chuẩn bị chín rục. Thoắt nghe cũng gờn gợn thịt da trong vài lần chợt nghe tiếng chim rớt giữa đêm khuya khoắt.

Lòng chùng. Chân mỏi. Chẳng còn những ham muốn bay nhảy như thuở nào, rất xa qua những tờ lịch mà lại gần như một cơn mơ. Cuối cùng thì đành lui về căn nhà cổ xưa, nấp sau vườn cây rậm rạp như thể quy ẩn, đến nỗi ông bạn văn Trần Hoài Thư tận xứ người giá buốt, hạ bút vẽ nguyệch ngoạc chân dung tôi : “con sói già cô đơn giữa bãi xương rồng”! Mà cũng phải thôi, sáng sáng tự pha ly cà phê ngồi ngó trời nhìn đất; quay vào phòng vi vút với chiếc máy tính, lôi những sách báo cũ đọc và sống với cái quá khứ heo hút để gặp lại tất cả bạn bè trong đó, trên trang giấy ố vàng, qua những dòng chữ chi chít trên màn hình, mừng vui, buồn tủi hỗn độn chen lấn nhau.

Bạn bè chí cốt chí thân chẳng còn ai ở xứ xương rồng bàn chải này để chia sẻ. Nhưng cũng còn có chút may mắn, được hai người bạn trẻ năng lui tới, lúc ngồi cà phê, lúc trước ly rượu nhạt mà tình thì đẫm mặn như muối như gừng! Một bạn là giảng viên trường ĐH địa phương, một là chủ quán ăn, có phần hao hao giống với anh quán của cụ đồ Chiểu trong Lục Vân Tiên. Cả hai đều sính văn chương sách vở… Bữa nọ, trên bàn bia (loại bia tươi rẻ mạt), anh quán cảm khái chuyện nhân tình thế thái sao đó, cất giọng:

Tay với trời cao không thấu nổi/ Tuổi già thiếu bạn cũng mồ côi”. Anh quán ngập ngừng, nhìn về phía xa như đón đợi cái tuổi già, nay mai sẽ đến với mình. Tôi tiếp lời đọc lại  khổ thơ:

“…Thèm rượu mà ta không uống được

 Bạn thì xa tri kỷ cũng đi rồi

Tay với trời cao không thấu nổi

Tuổi già mất bạn cũng mồ côi”. Mất bạn chớ không phải thiếu bạn! Thời buổi này, chúng ta đã mất khá nhiều bạn, đủ kiểu mất: Đổ vỡ, ly tán sau 30.4, chạy theo danh vọng hão, đè cổ bạn bè để leo lên chiếc ghế được ban phát, thậm chí bán cả bạn cho bọn quỷ dữ…Có nhớ thơ của ai không? Quán trả lời, ông Lữ gì đó, thằng bạn ở Sài Gòn đọc cho nghe hồi hôm. Nó tâm trạng, anh. Là vì nó vừa chia tay vợ sau 30 năm chăn chiếu… Bài dài nhưng chỉ nhớ hai câu. Tôi nghĩ, thời buổi văn chương chữ nghĩa bị chìm lấp đằng sau bức màn kim tiền mà còn có năm ba độc giả chịu khó đọc và đồng cảm với tác giả, âu cũng là niềm hạnh phúc! Tôi nói với giọng điệu vui hẳn lên: Ờ, thơ Lữ Quỳnh, một trong những người sáng lập Gió Mai ở Huế, tiền thân của Ý Thức sau này. Anh quán nhảy chồm lên, em có đọc Lữ Quỳnh một truyện ngắn không nhớ tên, hình như một ông già chuyên gói xác, một chuẩn úy làm ở ban chung sự, và một người mẹ, một thiếu phụ đi tìm con, tìm chồng trong nhà xác… truyện đọc nghe buồn buồn, lạnh như chính người đọc đứng trong trong nhà xác thật!

Tôi nói: Có thể nội dung và tựa truyện ngắn (Mùa Xuân Hư Vô) chú không nhớ tường tận, vì đã trên 40 năm rồi còn gì, nhưng nhận xét ban đầu thì khá chính xác, bởi style của Lữ Quỳnh, từ truyện dài đến truyện ngắn… và cả thơ vẫn cứ lành lạnh như lớp sương ban mai, như tuyết tan ngoài hiên thềm. Đôi lúc, vẫn có lửa nhưng không phải loại lửa bùng cháy, hừng hực mà, là ngọn lửa chợt lóe lên, sáng một góc và tan vào lớp bụi như những cơn mưa mùa đông xứ Huế.

Cao hứng, tôi dông dài tán phét: Nếu chịu khó ngồi đếm nỗi buồn của các nhân vật (trong truyện và thơ) Lữ Quỳnh tạo ra thì có đến hàng trăm cảnh buồn khác nhau, trong một không gian và thời gian không cố định: “Nỗi u buồn như muốn thay hết ý nghĩa của cảnh vật. Làm sao để sống được phần đời còn lại của những kẻ đang nằm bất động trong các túi ni lông đó? Kiên quay trở vào đứng cạnh một chiếc quan tài. Hắn rút nắm hương thổ thổ trong lòng bàn tay, rồi châm vào ngọn nến” (Mùa Xuân Hư Vô).

Nhìn hai bạn trẻ, họ thuộc thế hệ sau, không tham gia vào cuộc chiến bẩn thỉu, nhưng chắc chắn họ đã nghe, đã thấy, đã sống…với chiến tranh; đã nhìn thấy những cái chết phi lý ngoài đời thực và qua sách báo; họ cũng phân biệt được rạch ròi hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, tuổi trẻ và già, chiến tranh và hòa bình?

Với thế hệ chúng tôi, trong chiến tranh, tuổi trẻ bị vãi ném và bị phung phí đến nỗi nhiều nhà văn đã phẫn nộ: “Chiến tranh là cái cặc chó gì”, ThảoTrường; còn Y Uyên: “Chiến tranh cái con mẹ gì  mà lâu quá vậy?”; Phan Nhật Nam thì gọi bằng hai từ “địa ngục”. Phạm Ngọc Lư tổng kết cuộc chiến bi thảm và bẩn thỉu kia bằng: “Trong cuộc chiến tàn khốc này, đứa nào sống sót là kẻ chiến thắng”. Hai chú thấy đó, chỉ vài ba từ nhưng quá là bi thống! Cho nên, người đọc dễ nhận ra, trong hầu hết các tác phẩm của các nhà văn trẻ miền Nam, thân phận làm người luôn được đặt lên trang giấy với những câu hỏi ngắt ngoải, không lối thoát.

Với Lữ Quỳnh, thân phận làm người trong thời buổi ấy, thường đặt ở những tình huống, không gian và thời gian khác nhau như một ám ảnh nặng trĩu khi phải làm người: “Là tuổi già nên phải chết, chết trận mạc, chết tự tử, chết vì chống tham nhũng… sau nầy hắn đã sợ mưa như sợ thần chết, vì mưa không làm hắn thấy đường, không thấy đường thì làm sao mà thấy địch? Không thấy địch thì địch thấy ta. Địch thấy ta, thì ta không bao giờ còn thấy bạn bè, cha mẹ, anh em nữa” (Người Ngồi Đợi Mưa).

Trong hầu hết các tác phẩm của Lữ Quỳnh, chúng ta không tìm thấy sự phẫn nộ hiển lộ qua những câu từ, nhưng nỗi buồn thì dư thừa. Ông buồn vì mất bạn, buồn vì hoàn cảnh khắc nghiệt trên mảnh đất ngày càng lụn tàn bởi chiến tranh, buồn vì xa xứ… Có hàng chục kiểu buồn như thế. Cho nên đọc Lữ Quỳnh là soi tìm nội tâm qua câu từ. Đó là nội tâm bị băm vỡ, bị tổn thương do những tác động khách quan oan nghiệt, đè lên từng phận người trong dòng lịch sử biến động không ngừng:

Ngồi tưởng quê nhà đang có bạn

Đứa nằm hiu hắt chốn trăng sao

Đứa đang chiếc bóng đêm mờ tỏ

Thế cuộc sum vầy nay chốn nao?

Có sống trong trận “cuồng phong sử lịch” này mới cảm hết nỗi đau xót trong 4 câu thơ trên.

Bửu Ý, Ng. Dg. Quang, Đinh Cường, Lữ Quỳnh và tác giả

(ảnh chụp tại điền trang Thân Trọng Minh

nhân triển lãm tranh ĐC tại Đà Lạt năm 2014)

 

Một sáng nọ, sau những trận mưa dầm dề như cầm chĩnh mà trút liên tu bất tận nhiều ngày ròng, bất ngờ sáng sau, trời bật nắng, loại “nắng rượn” khó mô tả chính xác. Mưa đã gội rửa mọi bụi bặm, nắng phớt lên chút hồng hào, đủ để mấy con chim sẻ rung rung rỉa lông cánh. mọi thứ đều đẹp, thơm tho như “em gái Mọi tắm truồng sớm mai”. Cảnh vật đã vậy huống con người. Anh bạn giảng viên gọi qua điện thoại: Em với anh Năm quán ngồi cà phê, có cả nhân vật em gái văn nghệ. Anh chạy xuống ngồi nói dóc.

Mất 7 phút chạy xe máy. Cả ba đang ngồi nơi hiên hóng nắng. Những giọt cà phê đen nâu nhỏ chậm. Bắt tay. Ngồi xuống ghế. Ngó cô em thấy bữa nay xinh xinh, mặc dù đang níu tuổi 50, miệng tôi bật ra:

…Tôi không còn trẻ để cầm tay em nữa

Nhưng lòng luôn sẵn lửa cho em

Để sưởi em ngày đông tuyết giá

Tội nghiệp những con đường xe qua buồn bã

Không bóng người chỉ bong bóng mưa xao…

Tay tôi nắm chặt tay cô em, lòng gợn lên những con sóng lăn tăn. Tôi không biết cái gợn kia là từ bàn tay ấm áp của cô em hay từ những câu thơ của Lữ Quỳnh rung lên như một sợi dây đàn ngân nga…? Nhưng dẫu sao, giữa bàn tay người sương phụ và thơ như có một liên hệ cồn cào nơi tôi. Nói khác, mấy câu thơ dẫn trên đã làm đẹp cho buổi sáng trong vắt, tôi nghĩ vậy.

Cô em hỏi: Anh nói chưa bao giờ viết nổi một câu thơ, vậy lấy đâu ra mấy câu hay vậy để “tán” em? Hiểu lầm rồi cô em ơi, thơ bạn anh, Lữ Quỳnh. Cầm tay em và đọc thơ bạn như để chào buổi sáng vậy mà? Chiếc muỗng khuấy tròn trong ly, cô em cười cười: Các anh hay thật, trong ngoài trên dưới gì cũng nói được tất bằng thơ. Đó là sự lôi cuốn với người nghe, lắm lúc đưa thiên hạ vào mê cung. Anh quán: Nếu ông anh đưa được cô vào mê cung càng… Tôi gạt: Chớ có làm vẩn buổi sáng rất dịu dàng này!

Một buổi sáng tuyệt đẹp. Nắng rượn, hưng hửng, có bạn tri âm lại thêm người đẹp ngồi quanh nói chuyện văn chương, là điều tuyệt diệu ở tuổi 70 – cái tuổi tôi hay gọi đùa là tuổi “dậy thì 70” gờn gợn những ngọn gió heo may trong lòng, theo nhiều nghĩa khác nhau…

… Nhiều đêm không ngủ được, lôi trên kệ sách, bất kỳ của ai đọc “tứa lửa từa lưa” để dỗ giấc, từ mấy ông Tàu đời Đường chí đến ông Tây Nga La Tư, Pháp, Mỹ… nghĩa là vớ được quyển nào đọc quyển đó, đọc đến mệt nhừ con mắt.

Có trận, Lữ Quỳnh thức trắng với tôi. Tôi dằn vọc anh ta, làm tình làm tội anh ta, bỏ lên bộ não xẻ thịt thơ anh ta. Mà thật lạ, mỗi lần dàn vọc, xẻ mổ như vậy lại hiện ra một Lữ Quỳnh rất khác trong từng ấy ngôn ngữ, từng ấy bài thơ… cứ như một cánh chim lạc đàn, không hốt hoảng mà lại ung ung vỗ cánh trong bầu trời xanh thăm thẳm, thênh thang.

Ấy là những lúc anh nhớ bạn bè, viết những câu thơ về bạn, như có lần tôi đã viết: “Với những bài thơ viết về những người bạn, có lẽ tâm trạng nhất, não lòng nhất vẫn là bài Người ngồi khâu di sản. Ngôn ngữ không chắt lọc, không ẩn dụ; chúng tự do như ngôn ngữ chụp hình, nhưng ông đã chọn đúng góc sống cho bố cục, nên chỉ lia qua, người đọc đã cảm thấy ngay hình ảnh một “ông đồ già”, nhưng xót xa cay đắng gấp vạn lần ông đồ của Vũ Đình Liên năm xưa, bởi ông đồ Thư đã cố nén những giọt lệ tủi nhục, kiên nhẫn, miệt mài ngày đêm gom góp những đứa con tinh thần bị “chôn sống”, bị “hỏa thiêu” còn sót để tái hiện hình hài dòng văn học miền Nam bị bức tử một cách oan ức.

Tóc bạn trắng, trắng như mây

Tóc bạn trắng như tuyết New Jersey

Cặp kính lão dày trễ xuống

Kim đâm vào tay không biết đau

Hai mươi năm di sản mây trôi

Chỉ mình bạn ngồi khâu, khâu mãi.

(Người ngồi khâu di sản)

Hay về những giấc mơ của anh: “…luôn là lớp mây trắng trôi bềnh bồng vô định trong thơ ông. Giấc mơ gần như xuyên suốt nửa đời làm thơ của ông. Nó không hình thù nhân dạng, mờ mờ bay qua mắt ông, tâm hồn ông như một ảo giác và bay thẳng, trôi mất, không đọng lại, để sau đó, từ Samudaya, thơ ông như giọt nước đọng trên phiến lá, rớt xuống và tan biến đâu đó giữa đất trời, cây cỏ, như có như không.

Ông ghi lại những cảm giác trống rỗng, những hình ảnh trống rỗng đã chạm khẽ vào ông và bay đi không để lại dấu vết. Tất cả đều phẳng phiu như một thấu kính một chiều trong suốt, trong hơn khí trời, không thấy, không rờ chạm được.

Trong những giấc mơ

Ký ức trắng

Như tấm gương soi

Không giữ lại bóng  

Hay:

Những giấc mơ nồng nàn

Lạ lẫm…

Sáng ra không nhớ gì.

(Mây trong những giấc mơ)

Ngồi nhớ anh, thích những bài thơ đầy tâm trạng với tôi, bèn lan man tản mạn đôi dòng; nhưng mà nói thế nào, phân tích thế nào thì những trang thơ lẫn văn xuôi của Lữ luôn là những thổn thức, khao khát… cứ như ngọn lửa cháy trong đêm đông giá buốt, như Du Tử Lê đã viết: “Hôm nay, đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi vẫn còn nghe thoảng hương thơm của lòng nhân hậu. Hay, tính-lành của một con người không bị ô nhiễm bởi lầm than, nguy nàn, tổ quốc.

Hôm nay, đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi vẫn còn nghe được tiếng reo vui, hân hoan của những con chữ búng mình trên mặt sông máu / xương gập ghềnh nghiệt, oan vận nước.

Hôm nay, đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi vẫn còn nghe được những hồi chuông, khánh tình yêu thao thiết. Hay, những ngọn nến cháy bằng tim bấc trăm năm, giữa nghìn sao rung động, thứ nhất.

Hôm nay, đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi cũng còn nghe được tiếng gọi rộn rã thanh niên, đi ra từ trái tim sóng sánh nhiệt-hứng-trẻ-thơ tình bằng hữu…”

 

Tuy Hòa tháng 7/20017

 

NHỚ PHẠM NGỌC LƯ

“Trong cuộc chiến tàn khốc này, đứa nào sống sót là kẻ chiến thắng”
(Phạm Ngọc Lư)

Trong nửa thập niên 60, 70 (TK XX), bên cạnh những nhà văn nhà thơ mà tên tuổi của họ đã được khẳng định, còn có đông đảo những người viết trẻ: Họ, đa phần là những người không có tuổi thanh xuân yên ấm, lần lượt bị vãi ném vào chiến trường; số ít còn lại là công chức, sinh viên… đã có những đóng góp không nhỏ cho dòng văn học miền Nam – dòng văn học được xem là tự do sáng tạo có giá trị về mặt thẩm mỹ và nhân văn trong mỗi tác phẩm – với nhiều khuynh hướng dị biệt (viễn mơ, dấn thân, hiện sinh, hiện thực đối kháng…)
Và, mặc dù dòng văn học này đã bị bức tử sau ngày 30.4.1975 bằng mọi cố gắng “tẩy xóa” của bên “thắng cuộc” dưới nhiều dạng thức khác nhau, nhưng nó, sau hơn 40 năm vẫn âm thầm và lặng lẽ chảy; vẫn đọng lại trong tâm thức độc giả những giá trị không thể đảo ngược. Nó luôn là cái mới của hôm nay, bởi đã tiếp cận với dòng văn học phương Tây qua các trào lưu nhưng vẫn giữ được hồn cốt văn hóa Việt qua biết bao biến động lịch sử.
Những người viết thuộc thế-hệ-chiến-tranh này, có những người bỏ cuộc, nhưng không ít người đã thành danh, đã được công chúng đón nhận như một hiện tượng mới, chững chạc tiếp bước các bậc đàn anh, làm rạng rỡ cho một miền văn chương luôn bị phía bên kia dán cho nhiều nhãn mác thô thiển: Đó là Trần Thị Ngh. Nguyễn Tất Nhiên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Hoài Thư, Vũ Hữu Định… Mỗi nhà văn trẻ đều mang một phong cách riêng, không lẫn lộn, không là cái bóng của các nhà văn đi trước, ít nhiều làm đa dạng, sáng đẹp cho thời kỳ này. Phạm Ngọc Lư trong số đó.

(từ trái: Phạm Ngọc Lư-Trần Hoài Thư-NgLu-Phạm Văn Nhàn
ảnh chụp năm 1969)

Anh xuất hiện lần đầu với những bài viết ngắn trong mục đoản văn trên tuần báo Nghệ Thuật (Mai Thảo chủ bút, Viên Linh thư ký toà soạn) vào cuối những năm 1966, ký tên Phạm Triều Nghi. Đến năm 1969, có thơ và truyện ngắn đăng tải đều đặn trên các tạp chí văn chương miền Nam: Văn, Vấn Đề, Bách Khoa, Trình Bày, Ý Thức… và ký tên thật.
Trong lời bạt tôi viết cho tập thơ Đan Tâm của Lư, có một đoạn trích từ tập tiểu luận Vũ Trụ Thơ (1) của nhà phê bình văn học Đặng Tiến: “Yêu một tác phẩm nghệ thuật giống như yêu một người đàn bà ở điểm là mỗi lần yêu, chúng ta khám phá ở người tình một trinh tiết mới. Yêu một tác phẩm là sáng tạo một trinh tiết mới cho tác phẩm”.
Tôi “yêu” những tác phẩm của Lư bởi sức sáng tạo không ngừng trong những câu chữ lấp lánh của anh! Riêng nhà văn Cung Tích Biền thì có cái nhìn sâu hơn, phân tích kỹ hơn: “Phạm Ngọc Lư khá điềm tĩnh trong hành trình sáng tác của mình, tuy sâu trong tâm khảm, từ biển rộng tâm linh, Lư vẫn cháy bỏng với những khắc khoải, tư duy. Trong bao năm Lư không chạy theo những trào lưu, trường phái, những hào nhoáng ồn ào của thị hiếu. Không làm con thiêu thân để chết non, tàn mùa theo những cám dỗ tức thời. Thơ Lư hình thức là mẫu mực, cổ điển. Vì ta cứ đủng đỉnh cái Riêng mình. Cái bình cổ sống rất lâu. Chính ở điểm này Lư thành công. Nói được rất nhiều trong biểu hiện điều Muốn Nói. Không cầu kỳ. Không đánh bóng ồn ào mặt ngoài bởi ngôn ngữ rỗng…” (2)
Điều đáng nói, mặc dù rất thành công với những bài hành, thất ngôn, lục bát cùng những truyện ngắn phản ảnh những góc khuất của bộ mặt xã hội đương thời, một xã hội đảo điên, chiến tranh bùng vỡ ở mức độ ác liệt, để đưa vào tác phẩm với những cảm thức được chắc lọc đến từng chi tiết nhỏ, hoặc dùng điển tích để chuyển tải – và đã thành công, được độc giả thời bấy giờ (cả sau này) đánh giá cao – nhưng không bao giờ tự mãn, khoa trương mà luôn tìm đến cái mới hơn, đẹp hơn.

* Thơ như một vết cứa vào tim người
Với thơ, anh có một phong cách rất riêng, không lẫn với những người cầm bút cùng thời. Cũng vết về chiến tranh, về thân phận con người, về tình yêu, nỗi cô đơn, khao khát, về mặc cảm đọa đày, khốn cùng…nhưng không sử dụng loại ngôn ngữ sáo rỗng, thời thượng, mà vận dụng các điển điển tích, tiếng Việt-Hán để chuyển tải nội dung. Vì vậy, sau khi khép lại một bài thơ, người đọc có cảm giác đang chìm đắm trong những câu từ cổ kính, lấp lánh như những chiếc bình cổ. Nói khác, với một thủ thuật tài hoa, anh đã làm mới dòng thơ cổ điển mà không dẫm chân lên khuôn thước thơ cổ điển. Điều này cũng dễ hiểu, bởi từ nhỏ, anh đã học chữ Hán với ông nội và cha; lớn lên theo học ban Hán-Nôm Đại học Văn Khoa Huế, nên câu từ luôn được nâng niu, trau chuốt cẩn trọng.
Nhà văn Đỗ Trường đã đưa ra nhận xét: “Thơ Phạm Ngọc Lư mang đậm chất cổ thi và sử dụng nhiều điển tích cũng như từ ngữ Hán Việt. Do vậy, thơ ông cổ kính sang trọng, nhưng khi đọc lên tưởng chừng rất dễ vỡ” (3).
“Em từ tình sử bước ra
Y trang yểu điệu đôi tà mộng bay…
Chờ nhau gác gió lầu mây
Nghìn đêm giọt nến rơi đầy trang thơ
Nghìn đêm sông lạnh trăng mờ
Trương Chi bạc tóc bên bờ Tương Giang
Chiều nao nhất kiến hồng nhan
Chiều nay xác bướm rơi vàng mộ hoa
Áo xưa mộng mị đôi tà
Đành thôi xếp lại Nam Kha gối đầu” (Thuyền Quyên).
Cách đây 15 năm, từ Đà Nẵng Lư gửi thư cho tôi, có đoạn: “Theo tôi, nhà thơ=lãng mạn+cô đơn+bi thương+kiêu hãnh, trong đó “cô đơn” là thuộc tính bi thảm nhất. Chính trong cái cô đơn cùng cực, tôi thấy mình chết, ra đi và đã viết:
Tâm hồn bật một tiếng kêu
Vỡ ra lênh láng giữa chiều tang thương
Âm ba đồng vọng mười phương
Có ai thiên cổ đoạn trường hồi âm?
Tay ai nâng nhẹ phù thân?
Dìu tôi đi giữa phù trầm khổ đau
Tôi và nước mắt dìu nhau
Bơi qua bể khổ muôn màu nhấp nhô
Tôi và cát bụi ngu ngơ
Bay quanh trời đất đợi giờ tương sinh” (thư riêng đề ngày 27.10.2002).
(Nếu nói rằng: Mỗi tác phẩm của nhà văn là những dự báo cho tương lai thì những câu thơ trên như một ám thị cho cái ngày định mệnh cuộc đời anh: Tôi và cát bụi ngu ngơ/Bay quanh trời đất đợi giờ tương sinh. Đó là ngày 26.5.2017 lúc 18h45 tại Đà Nẵng, gây bao thương tiếc cho bạn bè và độc giả hằng mến mộ anh, như lời anh Cung Tích Biền ghi trong thư: “Vắng bóng đời này, lại vĩnh cửu Chốn Kia. Mong Lư đời đời an nghỉ. CTB” (thư ngày 4/6).
Cả cuộc tồn sinh của Lư, lúc nào anh cũng cảm thấy bất toàn, cô đơn, đau khổ… Chúng luôn đeo ám vào những trang thơ văn của anh. Anh loay hoay với bốn bức tường lạnh trong nhà trọ khi dạy học tại Tuy Hòa, loay hoay với đời sống vợ con sau 75. Lư than thở với tôi: “Mình bất tài, bất lực, hèn… sao?” . Đó là khoảng năm 1983 (hay 1984?), anh không chịu nổi ngày ngày phải đi bộ non 2 cây số, gánh từng gánh nước tưới những vồng khoai lang giữa bãi cát cao ngất nghểu ở HTX NN quê anh với chỉ 200grs nửa lúa nửa khoai sắn cho một ngày công (?!) sao đủ nuôi 4 miệng ăn, đành phải gạt nước mắt gửi vợ con về quê ngoại (Qui Nhơn) vào Long Khánh (Đồng Nai) đào đãi vàng, đốt than; xuống tận Hồng Ngự (Đồng Tháp) nấu rượu lậu, bán trái cây độ nhật… và “nghề” nào cũng thất bại, khiến anh đau đớn, quặn thắt hơn trong cuộc mưu sinh ở thời buổi ngăn sông cấm chợ! Thất chí chồng lên thất chí.
Tuổi tác chừng này vẫn ngây thơ
Ma xui quỷ khiến ra ngồi chợ
Bán gió rao trăng… một núi dừa

Lúc chán, rửa môi dăm chén rượu
Lau chân mắc võng nằm lơ mơ
Mây cuốn nắng thiu lòng u uẩn
Tuồng đời như cảnh chợ ngày mưa

Thôi để ta yên bên chén rượu
Uống say… thành bại cũng bằng thừa
Uống say… ném áo lên nóc quán
Hết nợ hết duyên… vĩnh biệt dừa! (Ngồi Chợ)
Cuộc mưu sinh đối với Lư trong giai đoạn này không dễ dàng chút nào. Từ biệt những ê chề miền Đông, Lư xuôi về vùng đất phương Nam. Nhưng đất phương Nam mênh mông sông nước, bạt ngàn màu xanh vờn phủ tính phóng khoáng ấy cũng chẳng dung nạp được anh trong đời thường, nói chi đến tình đồng điệu? Trong cảnh mênh mông, bạt ngàn kia, dường như khiến Lư cô đơn hơn, quặn thắt tâm can hơn khi đưa mắt trông vời phương Bắc, chốn quê nhà xa xôi:
Chân trời giang rộng mênh mông
Cố hương thăm thẳm tịnh không lối về
Giang hà im bặt thuyền ghe
Tha phương nhật mộ… não nề bèo mây (Chiều Qua Châu Thổ)
Đó là bài thơ anh viết khoảng giữa năm 1986 lúc xuôi xuống Hồng Ngự. Ở đó cũng có vài người bạn, nhưng không phải bạn thơ mà là những bạn rượu tầm cỡ Tây Môn Khánh – theo lời anh kể lại! Những bữa rượu ấy không giúp anh nguôi ngoai nỗi cô đơn như một ám ảnh phải đeo mang. Hình ảnh những nơi anh ngụ cư ám vào tâm trí như những ám thị “bệnh hoạn” liên tưởng qua hàng cây, con sông, bến nước, đất đỏ ngấm vào tâm trí rồi đặt bút “tổng kết” trên mười năm lang bạt mưu sinh trong bài Bụi Đỏ viết năm 1994 và chú thích “sau chín năm ly tán”:
Quê người nương náu kiếp lưu dân
Bụi ba dan có phải hồng trần?
Đỏ quạch mồ hôi chua cơm áo
Cơm áo bạc tình… bán hết thanh xuân

Đi giữa rừng cao su trùng điệp
Lòng đau như vết cạo còn tươi
Mủ cứ chảy bám dày tâm sự
Tâm sự đùn cao như gò mối chôn người.
…Đi lơ ngơ vừa tròn một giáp
Mười hai năm lệ tủi đời câm
Rượu Nam phương uống cùng tứ xứ
Tứ xứ ly gia dễ mủi lòng
Cũng dễ quên nhau khi hết rượu
Cái ân tình có có không không
Chốn đất khách lắm hào sảng nhưng không thiếu những “phàm phu”. Bên cạnh những “hào sĩ” những kẻ “nhân từ” là những tay “ích kỷ, lếu láo, say sưa…” khiến anh cảm thấy mệt nhoài với bến nước mười hai đục ngầu bụi đỏ; để sau đó tự hỏi và tự trả lời:
Sao không quay về bến thứ mười ba:
Bến nước trong xanh… soi bóng quê nhà!
Mười hai năm lao thân lao trí đã đủ để anh vật vã những đau đớn, buồn tủi trong “hành trình” xuôi Nam, lang thang nơi đất khách kiếm tìm sự sống kể từ lúc xã hội bị đảo lộn, đạo đức, phẩm hạnh con người bị vãi tung ra lề đường; miếng cơm manh áo ẩn nấp trong những tráo trở. Cái bầy người được mệnh danh là quần chúng nhân dân, là nền móng cho một đất nước được chăn dắt bằng những tấm tem phiếu. Cái ăn cái mặc trở thành thước đo giá trị làm người. Cuộc tìm kiếm áo cơm cũng bình thường như bao con người khác cùng thời, nhưng đến phút cuối thì: Đỏ quạch mồ hôi chua cơm áo/ Cơm áo bạc tình bán hết thanh xuân. Hai câu thơ như hai vết cứa sâu hoắm lên thịt da, phơi lộ hết những bần hàn cơ cực trong một giai đoạn đau khổ tột cùng của bản thân anh trong giai đoạn cùng khổ của đất nước này. Ngoảnh lại, cả một đời làm người của Lư là hình ảnh con ngựa già đã chấm hết những hào quang một thuở!
Ngồi thất thế như con ngựa ốm
Nhớ đường trường thè lưỡi liếm chân (Tuy Hòa Năm Năm)
Lời thơ ẩn lời than đến nao lòng, con ngựa ốm kia cũng là thân phận của người trí thức đã cùng đường, tuyệt lộ trong một xã hội bị đảo lộn mọi trật tự sau biến cố 30.4. Nhiều bài thơ trong hai tập Đan Tâm và Mây Nổi (đều do Thư Ấn Quán, HK ấn hành) của Lư, luôn thấp thoáng bóng dáng của kẻ sĩ thất thế nhưng vẫn giữ lòng tự trọng, liêm sỉ chối từ mọi danh vọng, tiền tài… lui về quê chịu cảnh sống thanh bần chứ không chịu khuất phục, quỳ gối khom lưng.
Trong đời, khi tiếp cận với văn chương, tôi rất ngưỡng mộ và kính phục nhà thơ Hữu Loan sau Nhân văn giai phẩm, một nhân cách lớn trong hành xử với đời; đến cả cái giải thưởng “danh giá” của nhà cầm quyền, ông cũng phẩy tay, bịt mũi, nhắm mắt.
Với Phạm Ngọc Lư thì khác, anh thuộc thế hệ con cháu của Phùng Cung, Hữu Loan, Lê Đạt… sống trong hoàn cảnh xã hội khác xa với “Nhóm Nhân Văn”, được thụ hưởng một nền giáo dục tử tế “nhân bản, dân tộc, khai phóng” nên khó dung hợp với xã hội mới, trong đó có thừa những lọc lừa, dối trá… phi đạo đức, phi nhân bản. Một xã hội như vậy hoàn toàn xa lạ với những con người cũ (SG) ! Nhưng xem chừng xã hội thời cải cách ruộng đất và xã hội đánh vào tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp… không khác xa nhau trong cách “xử sự” với người dân!
Cuối năm 2005 là thời gian anh quay về cố hương không lâu, nhìn cảnh đời nhí-nhố-xum-xoe-lừa-lọc (chữ của Lư), anh thấy thất vọng, cay đắng hơn và đặt bút viết liền một mạch bài thơ Đề Thơ Trước Mộ Thanh Xuân (khi mà mọi bưng bít thông tin về nhà thơ Hữu Loan được công khai trên mạng). Bài thơ khá dài, bộc lộ khí chất và bóng dáng của một kẻ sĩ thời hiện đại “không thèm ăn thóc nhà Chu”:
“…Trèo lên xe trâu/ Lui về quê kiểng/ Mài răng gặm nhắm cái thanh bần!/ Lượm lặt nứa tre che căn lều nhỏ/ Phên cửa phong phanh suốt ngày no gió/ Người quen tâng bộc gọi mao lư/ Kẻ nôm na kêu đích danh nhà cỏ/ Chẳng hay ho gì cỏ với mao/ Thời bất lợi voi đành làm chó/ Phong tống thời lại giun dế hóa rồng/ … Tìm trong gia phong mấy lời răn dạy/ Hiểu đâu nhất thời/ Đâu là vạn đại/ Than ôi!/ Cái khôn mới hôm qua/ Hôm nay bổng trở thành cái dại/ Quay lưng với đời ư?/ Dòng đời cuồn cuộn/ Biển đời lợn cợn/ Bảy đục ba trong/ Quay mặt với người ư?/ Mặt người sắc nhọn/ Biển người sao mà ghê rợn/ Đua chen hôi lợi bòn danh/ Đâu dám ví mình với Đào Uyên Minh/ Tụng Quy khứ lai từ…” (4).
Có thể xem Đề Thơ Trước Mộ Thanh Xuân là những lời tự sự, bày tỏ thái độ của nhà thơ trước xã hội hiện tại, sau khi phải nếm trải mọi cay đắng mà anh đã dầm cả thân mình, lặn hụp vào lớp nát nhão sự đời đen trắng, vàng thau lẫn lộn.
…Phải ngươi ba chìm bảy nổi/ Bắt ta mười kiếp long đong/ Mây có – gió không/ tình câm – thơ điếc/ Giai nhân còn mà anh hùng hết/ Chưa mùa đông sao tóc xanh bạch tuyết/ Ngũ thập rồi, tay trắng xóa bạch vân/ Ô hô! / Thiên địa vô cùng/ Uống say mà khóc Đặng Dung – Thuật hoài/ Khóc rồi đập nát cơn say… (Túy Hoài)

Trong gần 100 bài thơ ở hai tập Đan Tâm và Mây Nổi, thì Biên Cương Hành là bài thơ gây ấn tượng mạnh cho độc giả từ ngày trước tới tận bây giờ.
Biên Cương Hành được Lư thai nghén từ khi anh đổi về dạy học tại Củng Sơn, một quận lỵ nhỏ xíu (của Phú Yên) giáp ranh Cheo Reo, bị rừng núi bao phủ bốn bề, trước mặt là sông Ba sâu hoắm; mọi liên lạc với bên ngoài đều bị đóng kín bởi những họng súng của hai bên. Anh thường gọi nơi đây là “biên khu”, vì mỗi khi muốn về thành phố phải đi nhờ trực thăng quân đội, hoặc theo đoàn xe mở đường. Với một khoảng không gian chật hẹp heo hút, chập chùng đồi núi nhấp nhô, lính đông hơn dân và ngày đêm phải nghe tiếng bom đạn gầm réo khiến anh tưởng như rằng chính mình đang có mặt ngoài trận mạc!
Tưởng cũng cần nhắc lại, một số bài viết về thơ Phạm Ngọc Lư, khi đề cập tới Biên Cương Hành, cho rằng Lư viết bài này khi anh tham gia hành quân trong chiến dịch Lam Sơn 719 vào mùa xuân 1971 của quân đội VNCH trên đất Hạ Lào và bị thất bại nặng nề. Hay như nhà thơ Viên Linh, trong bài viết “Thể hành trong thơ Việt Nam từ bài Tống biệt hành của Thâm Tâm”, đăng trên http://www.nguoiviet.com số August 21, 2013 cho rằng: “Nơi Phạm Ngọc Lư một nhà thơ trẻ thuộc lớp sau cùng của Miền Nam trước 1975, anh chiến đấu trên mặt trận Cao Nguyên miền Trung, nơi gió Lào tanh tưởi, mùa khô xào xạc, giặc nước rình mò , rừng xanh thắm máu. Người đi ở đây là lính ra trận, người theo dõi nơi quê nhà là thiếu phụ chờ mong: “Em đâu, quê nhà chong mắt đợi /Hồn theo mây trắng ra biên cương / Thôi em, yêu chi ta thêm tội / Vô duyên xui rơi lược vỡ gương / Ngày về không hẹn ngày hôn lễ / Hoặc ngày ta nhắm mắt tay buông.” (http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/The-hanh-trong-tho-Viet-Nam-tu-bai-Tong-Biet-Hanh-cua-Tham-Tam-2849/)
Điều này không đúng. Lư chỉ học quân sự 9 tuần ở quân trường Quang Trung và sau đó được biệt phái về trường cũ, chưa từng cầm súng ngoài chiến trường bao giờ.
Lư khởi viết bài thơ này từ cuối năm 1971, sau đổi sang thể “hành” và hoàn thành vào tháng 5.1972. Sau vài lần nhuận sắc, Lư gửi bản thảo cho tạp chí Văn. Ông thư ký tòa soạn Trần Phong Giao đọc bài lai cảo và không tiếc lời khen, cho đăng ngay vào Văn số (?) tháng 10.1972. Có thể nói đây là bài thơ hay nhất trong cuộc đời làm thơ của Lư, đến độ khi đọc xong bài thơ này, nhà thơ Du Tử Lê phải thốt lên: “Biên Cương Hành của ông, đã như một trận động đất lớn: Bất ngờ. Sửng sốt. Thốn buốt tâm can thế hệ”. (5)
Thế hệ đi trong chiến tranh “giải phóng và bảo vệ tự do” là bi kịch của dân tộc. Cuộc chiến tương tàn ấy đã gieo biết bao tang tóc cho triệu triệu người người dân hai miền. Lư đã sống trong những thời khắc kinh hoàng đó, nên anh không thể dửng dưng đứng bên lề. Không cầm súng bắn nhau, cũng không có mặt trên bất kỳ chiến trường ác liệt nào, nhưng hàng ngày, anh có thể “nhìn thấy” cảnh đầu rơi, máu đổ, thịt xương nát tan, lương dân gồng gánh chạy giặc, bỏ lại làng quê mịt mù khói lửa ngút cao và; hàng ngày anh còn chứng kiến những chiếc quan tài kẽm, những người vợ trẻ bồng con trong màu trắng khăn tang… Tất cả những hình ảnh có thật đó đã xoáy động tâm can anh để, cuối cùng phải bật ra những đớn đau trên trang giấy:
Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
(Vào đường dẫn này để đọc trọn bài thơ Biên cương hành:
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=8689 )
Biên cương hành mang tính khái quát cao cho cả một giai đoạn oan khốc của dân tộc. Những hình ảnh Lư mang vào thơ, từ núi, rừng, gió Lào, đá, người chinh phụ, núi vọng phu… đã khắc họa “một thời địa ngục của đất nước” (chữ của Du Tử Lê), không riêng cho bên này hay bên kia. Đó là xương cốt, là máu thịt của những người lính Quốc gia và Cộng sản bị hoài phí một cách oan uổng, dửng dưng máu lạnh.
Đầu năm 1972, khi viết xong Biên cương Hành, Lư đã đọc cho chúng tôi nghe bên chiếu rượu trong đêm gió Lào cuồng dại trên mái nhà, nghe đến sởn gai ốc, rờn rợn da gà, khắp người tựa hồ có hàng ngàn mũi kim nhức buốt thịt xương. Gần nửa thế kỷ, mỗi khi nhớ bài hành này lập tức nhớ nguyên giọng đọc uất nghẹn của Lư, người đã hóa thân chữ nghĩa cho định mệnh của dân tộc trong chất giọng hiu hắt nghẹn ngào, như thể đó là lời than oán của những chinh phụ, những tiếng kêu la đau đớn của những người dân vô tội, của các chiến binh hấp hối ngoài trận mạc!
Về mặt nào đó, Du Tử Lê đã chính xác khi đưa ra nhận định về bài thơ Biên cương hành của Lư: “Tôi gọi đó là “đoạn trường” bất thường của một bài thơ được sinh nở với định mệnh của một thứ cột tháp thảm họa khốc liệt. Mỗi con chữ không chỉ dính gân cốt, thịt, xương trăm ngàn đọa kiếp mà, còn cõng trên lưng cả những hồn ma oan khuất một thời địa ngục đất nước, quê hương nữa! Cho tới khi bài thơ, hội đủ những yếu tố để “đá vỡ, ngọc lộ,” ngời ngợi khí chất tư riêng, khắc họa Những hoắm, sâu thương tích phận người…” (link đã dẫn 5).
Sau Biên cương hành, Lư viết bài Trên Đèo Bình Đê vào năm 1973, lúc hiệp định Paris vừa ký kết, nhưng hòa bình đã không đến, hai bên lại tiếp tục gây ra thảm cảnh “chiến trường ném binh như vãi đậu” để giành nhau từng thước đất cắm cờ (sic). Trên đường về Huế, qua đèo Bình Đê, Lư nhìn thấy cảnh xóm làng, ruộng vườn, với Tam Quan, Bồng Sơn (Bình Định) phía nam và Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) phía bắc đã tan nát vì binh lửa trong các trận đánh mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972!
…Tháng tư/ Lửa bùng lên đâu chợ/ Lửa cháy quanh sông/ Lửa vây Hoài Đức/ Lửa đốt Bồng Sơn/ Người người tan xác giữa đồng/ Người người ngã gục bên dòng Lại giang/ Người người bỏ thân trên đường chạy loạn/ Đôi mắt trừng lên nỗi kinh hoàng/ Đôi mắt ngó về đâu chòng chọc/ Bốn bề khói lửa mù giăng/ Bốn bề binh đao cuồng nộ/ Bốn bề đổ nát tan hoang/ Chạy mau chạy mau người mẹ Hoài Ân/ Quang gánh trên vai chất đầy thống hận/ Máu bầm vướng víu bàn chân/ Chạy đi chạy đi người chị Hoài Nhơn/ Sao cứ nằm ôm con thơ đùm trong tay nải/ Máu khô đen khuôn mặt lạc thần/ Pháo tràn lan xối xả/ Lửa rần rật trên lưng/ Chạy về đâu ?
Lư đã đồng ý với nhận xét của tôi cách đây hơn 40 năm, trong một buổi trà dư tửu hậu rằng: Trên đèo Bình Đê, là những cảm xúc thật, về những cảnh tượng có thật đang xảy ra trước mắt. Những nát tan khói lửa ấy đã khơi dậy những cảm xúc chân thật để bật ra thơ, nhưng dẫu sao, khi đọc xong, tôi vẫn thấy nó (TĐBĐ) là cái bóng của Biên Cương Hành.
Để khép lại phần viết về thơ Phạm Ngọc Lư, xin mượn nhận định sau đây của nhà văn Đỗ Trường: “Có thể nói, Biên Cương Hành là một trong những bài thơ hay nhất viết về chiến tranh, không chỉ của thi ca miền Nam, mà cho cả nền thi ca đất Việt. Đa số những bài viết về đề tài chiến tranh, hay cổ động chiến tranh thường có giá trị nhất thời. Nhưng Biên Cương Hành lại có sức sống dẻo dai và sự lan tỏa mạnh mẽ, bởi ngoài sự thật tàn khốc của chiến tranh, nó còn chứa đựng giá trị nghệ thuật cao” (link đã dẫn 3).

Truyện là nỗi niềm thế hệ chiến tranh.
Phạm Ngọc Lư viết truyện không nhiều, khoảng gần 20 truyện, đăng trên Văn, Bách Khoa, Vấn Đề, Ý Thức, Tuổi Ngọc… Sau năm 75, anh không còn giữ được truyện nào trong tay (do sách báo bị tịch thu). Giữa năm 2016, khi Lư lâm trọng bệnh, anh em nhóm Thư Ấn Quán đã dày công sao lục trong các thư viện HK, hoặc còn lưu giữ được những số báo có đăng truyện Lư, chia nhau đánh máy và cuối cùng nhà văn Trần Hoài Thư đã ngồi “vá” lại những truyện thất lạc này thành tập truyện Sợi Khói Bay Vòng gửi về VN như một tấm lòng của anh em đối với Lư. Trong lời mở cho tập truyện, Trần Hoài Thư viết: “Lấy tựa đề truyện ngắn Sợi Khói Bay Vòng không phải nó là truyện ngắn đặc sắc hay tiêu biểu. Những truyện của Phạm Ngọc Lư đều hay, đều đẹp, đều buồn. Có truyện tình. Có truyện chiến tranh. Có truyện nói về thân phận lưu đày nơi đất trích. Nhưng Sợi Khói Bay Vòng là truyện có thể chuyên chở hết tất cả cái định mệnh của tuổi trẻ, dù nam hay dù nữ…”.
15 truyện trong Sợi Khói Bay Vòng, viết về nhiều đền tài khác nhau: tình yêu, thân phận làm người, nỗi cô đơn khắc khoải… nhưng tất cả đều lồng ghép trên tấm phông chiến tranh với nhiều gam màu ưu uất, có lúc như không tìm thấy lối thoát cho một tương lai tươi sáng với những chàng trai, cô gái thuộc thế-hệ-chiến-tranh này. Những thanh niên trên dưới 20 tưởng chừng như đang được thụ hưởng những chuỗi ngày tươi đẹp; nhưng thật ra đó chỉ là lớp vỏ che chắn bên ngoài khi những lời sấm truyền ngày càng lan rộng khắp làng quê, thành thị…: “Cả xóm người ta đồn rân: tháng Năm đổ máu, tháng Sáu hòa bình. Tháng Sáu âm lịch rồi đó cậu” . Hòa bình đâu không thấy, chỉ thấy máu tiếp tục đổ, nhà cửa ruộng vườn vẫn liên tục bị xới nát bởi bom đạn, lớp lớp thanh niên vẫn phải lao ra chiến trường: “Có thằng con chớ. Hắn bị bắt quân dịch hồi tết, nghe nói đang đánh giặc tận Cao Miên” (Cái Đuôi Sao Chổi, tạp chí Ý Thức, số 7). Và, hệ quả của nó là: “Cô gái bước lại mở hé cửa và bối rối xô Chấn lui. Nhưng anh cũng vừa kịp thấy cảnh tượng trước mắt: người đàn ông đang gục đầu trên cái rương gỗ khóc tức tưởi, bên cạnh bó nhang đang tỏa khói và mấy ngọn đèn cầy cháy leo lét, buồn thảm. Cô gái chảy dài nước mắt, nói mếu máo: Tội nghiệp anh tui phải nằm lại dọc đường đêm nay… Cái rương gỗ ấy đựng hài cốt anh tui!” (Cuối Ngày Cuối Đường, Văn số 223, 1973).
Lư là nhà giáo, hàng ngày anh phải chứng kiến hoặc nghe kể lại lắm chuyện thương tâm, tang tóc. Trong truyện Một Dòng Sông Trong Miệng Ngậm, đăng trên Văn số 148, ngày 15.2.1970, mô tả những thanh niên tuổi từ 16 đến 19 ở một làng quê tranh tối tranh sáng, có người cày ruộng, có người tham gia du kích địa phương. Họ từng chăn bò tắm sông thuở nhỏ, nhưng kể từ khi trái tim biết rung động, chủ nghĩa vu vơ chen vào, lòng thù hận được trao tay thì tình làng nghĩa xóm vụt tắt nhanh chóng. Đó là nhân vật Mộc, một du kích địa phương đã hành xử với Tương, bạn mình như một kẻ thù đúng nghĩa: “Tương bị đánh thức dậy theo hai người lạ ra khỏi nhà, “cấp trên cần gặp mặt”… Bụng Tương đụng phải vật gì cứng nhọn, chừng đưa tay nắm lấy chàng mới biết mũi súng/ -Trói nó lại! Cùng lúc Tương dợm người thối lui, kịp nhận ra giọng thằng Mộc…/ Mày bắt tao hả Mộc?/ … Mày có tội trạng rõ ràng, tự hiểu lấy…/ Tao tội gì? Có phải mầy tư thù việc con Vui không bằng lòng mầy?/ … Sự thật mầy đã phản bội. Mấy hôm nay mầy trốn lên tỉnh tiết lộ bí mật của ủy ban, tội Việt gian, rõ chưa?”.
Cuối cùng Tương bị đưa qua sông, bị bắn chết. Nhưng số phận Mộc sau đó cũng không hơn gì những người khác trong làng: “Sau này tôi mới nghe, thằng Mộc, thằng Giảng, thằng Chiêm đều bị bọn cán bộ cao cấp kết tội rồi hạ sát ngay phút đầu lính mình đổ bộ… Anh hỏi vì sao hả? Dã man thật, làm vậy cốt phòng ngừa việc mấy thằng ấy hồi chánh khai toạt những bí mật cơ sở… Những người trong làng bị chôn sống đều do tay thằng Mộc cả, bây giờ hắn chết rồi còn ai biết chỗ lấp xác mà tìm. Ghê quá anh à, hồi kháng chiến cũng có chôn tươi tụi Tây bắt được (chính mắt tui chứng kiến) nhưng đâu có tàn nhẫn ba bốn chục người một hầm bằng thời nầy…”.
Hình như không gian và thời gian mà Lư mô tả trong truyện là một làng quê nào đó ở Thừa Thiên-Huế hồi tết Mậu Thân khiến chúng ta nhớ lại thời kỳ kinh hoàng: Cách mạng văn hóa ở Trung Hoa, Cải cách ruộng đất ở VN. Cũng vẫn những đứa con nít ấy, từ ngây thơ trong trắng bị chuyển qua lòng thù hận bởi những lời ru ngọt-ngào-man-trá, giống như các nhân vật thiếu niên của Khuất Đẩu trong Người Giữ Nhà Thờ Họ, làm rung chuyển cả xóm làng, làm ông cha chồng và nàng dâu hết phen hoảng sợ này tiếp đến những thoi thóp dập dờn khác, bao trùm căn nhà lá mái luôn kín cửa như hầm mộ chôn lấp cả hai cha con trong đó. Truyện Khuất Đẩu viết sau (2004), còn MDSTMN của Lư trước đó 34 năm, nhưng hành động, thái độ thì không khác gì nhau trong cách trui luyện của Cách mạng: “Gìa như tôi sống trải qua biết bao năm giặc giã nhưng chưa có lúc nào loạn lạc bằng thời nầy. Cái bọn con nít nổi lên làm cha chú mình không” (ám chỉ những Giảng, Mộc, Chiêm… – chú thích của người viết).
Lớp thanh thiếu niên ấy, có người bên này, người bên kia do hoàn cảnh. Nhưng chắc chắn có điều rằng, không ai muốn lao vào chém giết nhau, trừ phi bị thúc ép, bị nhồi nhét. Rồi thì cũng có người tỉnh trí, nhận ra sự việc, có người mãi lú lấp vào những hào quang không thật. Và cũng có người vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng ám chướng vô định như lời kể nhân vật Cưu cho bạn mình nghe chuyện thật bi hài: “Tao đang bị quân cảnh truy tầm… Thằng con bác lớn tồng ngồng mà sửa khai sanh còn mười bốn tuổi. Tụi lính tóm được, lột quần nó lắc đầu chửi thề, đ.m 14 tuổi gì mà… khó coi quá. Nhưng tụi chúng không bắt nó đi quân dịch, lại nghịch ngợm bảo nó phải nhổ sạch lông mới được tha về. Thằng nhỏ cắn răng khóc ngất…” (Sợi Khói Bay Vòng (Văn, số 153 tháng 5.1970).
Truyện này Lư viết trong thời gian dạy học tại quận lỵ heo hút miền núi Củng Sơn và hoàn thành cuối năm 1969 (Sau đó Lư viết tiếp bài thơ nổi tiếng Biên Cương Hành). Có thể coi đây là truyện ngắn chắc tay nhất của Lư, phản ảnh đúng cách nhìn, suy nghĩ và cách sống của tuổi trẻ thời chiến; trong đó là những vòng tròn không lối thoát, là tình yêu bị mất mát cùng những cay đắng về cuộc đời đối với thời cuộc đảo lộn, chiến tranh lan rộng khủng khiếp. Thái độ chán chường mệt mỏi ấy của những nhân vật trong SKBV đã nói lên đúng thực trạng xã hội miền Nam thời bấy giờ. Họ tìm thấy nhan nhản những nhậu nhẹt, đĩ điếm, gái bán bar, lính Mỹ… như những vệt xám ngoét trong tâm trí trên một nửa đất nước này. Nhân vật Bồng tự dưng chán nãn, chạy trốn Cưu, chạy trốn khói thuốc từ người Cưu, nhưng lại mơ hồ nhớ đến những sợi khói ấy, sâu tận đáy lòng: “Bồng hy vọng khi lên tới bến xe sẽ thấy Cưu đứng sẵn ở đó dù nàng sợ vô cùng mùi khói thuốc ngây ngất cuốn lấy mình từng sợi dày hơn cả mảng lưới”. Và rồi một “hắn” nào đó xuất hiện cạnh Bồng trên băng ghế xe đò chạy về T. với gói thuốc đúng với loại thuốc Cưu hút khiến Bồng trở nên hoang mang. “Hắn” xuống xe ở đoạn nào đó cô gái không hay, chỉ còn trơ lại gói thuốc chỉ còn vài điếu lẻ. Cô giữ lấy như nhìn thấy bóng dáng Cưu quanh quất đâu đây. Truyện được đẩy lên thành cao trào ở đoạn cuối, khi “hắn” bất ngờ xuất hiện trong tấm áo choàng, nón nĩ, bị vải đến từ giã Bồng. Còn Bồng thì luôn có sẵn gói thuốc trong người phòng hờ khi gặp “hắn” sẽ trả lại. Hai người gặp nhau và Bồng nói: “Trả lại anh. Ngồi nói chuyện hút cho hết cả bao rồi hãy đi. Tôi thèm ngửi mùi khói này lắm” . Níu kéo chút thực tế để liên tưởng, để nhớ nhung chút khói sương ngày cũ. Nó có thật và cũng là ảo ảnh, không thể nắm bắt trong tay, như “hắn” mệt mói thốt ra với cô gái: “Phải rồi, đời tôi chỉ là một cụm khói, một sợi khói bay vòng. Chẳng tới đâu, chẳng được gì”. Chưa hết, bất ngờ trong một buổi sáng nào đó, Cưu chuẩn bị trình diện nhập ngũ thì gặp Bồng “mặc áo dưỡng thai” đang đi trên đường, coi như mối tình chấm dứt bằng những núi kéo mơ hồ: “Tôi tin rằng tôi chưa mất em dù em đã có chồng…”. Họ xa nhau có vẻ không ray rức, đau khổ mà tỉnh táo, lạnh tanh: “Cưu còn đứng lại rút tấm lệnh gọi cuốn tròn giả làm điếu thuốc giắt lên môi”.
Truyện rất kiệm lời thoại, chỉ là những suy nghĩ, những dằn vặt nội tâm đan xen vào nhau để xô đẩy tâm lý mỗi nhân vật ì ào như những lớp sóng vỗ mãi vào bờ đá… (Lối kết cấu truyện như vậy, bàng bạc đây đó trong các tác phẩm của những nhà văn trẻ trước 75. Đó là sự tỉnh táo ở Y Uyên, nức nở, bi phẫn ở Trần Hoài Thư, nhẩn nha mà dữ dội ở Hồ Minh Dũng, Phan Tấn Uẩn hay bình thản mà sâu lắng như Kinh Dương Vương.v.v. với những bối cảnh là làng quê nghèo khổ, là những người nông dân chất phác, ngơ ngác, là những thanh niên đang là lính trận, mất dần phương hướng, buông xuôi trong tình yêu và cuộc sống, cứ để cho dòng đời xô đi mà không cách gì chống chọi nổi với những cơn lốc tàn bạo của chiến tranh).
Thân phận làm người đã khó, lại làm người trong thời buổi lửa đạn ngút trời càng thê thảm hơn. Đó là truyện Tàn Đông (Bách Khoa số 344) như cuộc đời biếm trích của thầy giáo Kiền và cô bạn y tá trọ chung nhà bị giam hãm ở một quận lỵ miền núi (Củng Sơn) âm u đến ngột ngạt, chỉ có niềm mơ ước nhỏ nhoi là có ngày được về thành phố để thấy ánh đèn, những con đường nhựa, những chùm bông màu vàng… Cả hai đều có một tâm trạng như nhau. “ Chờ một ngày về lại thành phố, trốn thoát khỏi nơi rừng sâu nước độc nầy… phải có cánh mới bay vượt qua khỏi trùng lũy đồi núi chồng chất vây bủa chung quanh. Núi Cấm hiểm trở, núi Một vòi või, núi Lá rậm rì… và rừng Hòa Thán thâm u, rừng Hàm Long điệp điệp”. Sự mong ngóng có ngày được về thành phố như một ám ảnh nặng trĩu, như một hòn đá tảng đè trên vai hai người. Cô y tá: “Thì đành cười nói ra bộ thân mật với ổng một chút để tránh cảnh chầu chực đợi trực thăng cả tuần lễ không được sao?”. Còn thầy giáo Kiền, trong bức thư cho người bạn gái: “Em thử tưởng tượng da dẻ anh đang mốc meo, đóng vảy cá từng bợn dày, có thể lột ra được từng phiến mong mỏng như lớp lụa bọc ngoài củ hành củ tỏi… Em hãy gửi cho anh vài ánh mặt trời, một gói nắng, càng nhiều càng quý. Anh thèm lắm, thèm đến nỗi nhuốm bệnh…”.
Cả hai mang nỗi đều hoài nhớ, mơ ước từ ngày này sang ngày khác trong khung cảnh chật chội cùng những bất trắc có thể đổ ập đến không biết lúc nào, bởi chiến trường không xa mà sát ngay trong thị trấn: “Mé sông ngoài vòng đai chi khu, đạn nổ rát hơn. Súng cối bắn đùng đùng tới tấp, bay vèo vèo trên đầu. Vách nhà rung chuyển liên hồi…Anh lôi bạn xuống khỏi giường, nàng thất thần ngã vào người anh mềm nhũn như kẻ vừa trúng đạn chết không kịp ngáp”.
Sau trận tấn công vào quận lỵ, là quang cảnh đổ nát của ngôi trường Kiền dạy, những khuôn mặt “ngơ ngác” của đám học trò, và những xác chết “nhỏ thó, trẻ măng” ngoài bờ ruộng và kết thúc truyện: “Thằng này là học sinh mới trốn theo nẫu (6) dại dột chết uổng. Thầy nhớ nó chứ?/ Kiền nhìn khuôn mặt thâm tái dính đầy máu cục bùn đất, lắc đầu bỏ đi”.
Có người, khi đọc đến câu cuối ở truyện này đã phê phán tác giả tạo ra nhân vật thầy giáo Kiền đã đánh mất lương tâm khi nhìn thấy đứa học trò cũ bị bắn chết khi tấn công vào quận lỵ, với cái “lắc đầu bỏ đi” là thái độ dửng dưng đứng trên lương thức con người bình thường. Tôi nghĩ “Kiền nhìn khuôn mặt thâm tái dính đầy máu cục bùn đất, lắc đầu bỏ đi” không hẳn là thái độ có ý thức chính trị rạch ròi như Đỗ Trường nhận định: “…sự chối bỏ không nhận (ra) người học trò của thày giáo Kiền, là thái độ chính trị cũng như tư tưởng yêu ghét rõ ràng của tác giả. Và thông qua hình ảnh cái chết của người học sinh ấy, tác giả còn muốn gửi thông điệp đến người đọc, sự tàn nhẫn của những kẻ dụ dỗ, mua chuộc trẻ em, phụ nữ làm bia đỡ đạn, trong cuộc nội chiến thảm khốc này” (7). Hành vi “lắc đầu bỏ đi” theo tôi, không phải là chối bỏ mà, trước hết là nỗi chán ngán đến cùng cực cuộc chiến tàn khốc này. Hậu quả để lại chỉ là những cái chết oan uổng, những cái chết không đáng chết như đứa học trò kia. Anh không bày tỏ một thái độ chính trị ở đoạn này, và cũng chẳng cần đưa ra một thông điệp nào để lên án chiến tranh. Anh viết và bỏ lửng ở đó để người đọc tự tìm kiếm câu trả lời. Và điều này Lư đã thành công, bởi có nhiều ý kiến trái chiều nhau.
Chiến tranh thoáng hiện thoáng biến vô chừng trong các truyện ngắn của Phạm Ngọc Lư, nhưng bộ mặt thì không rõ rệt như một Phan Nhật Nam, Thảo Trường …hay một vài tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, những nhà văn đi trước Lư khá xa. Nó (CT) như một cái cớ để nói về thân phận làm người đang bị lọt thỏm vào vòng xoáy thời cuộc. Thân phận ấy là thanh niên, thầy giáo, công chức, học sinh và nhiều nhất là những người dân nông thôn, đang trong vùng tranh chấp: “Tới cầu sắt Đoan bữa kia.. Tui mới lùa bò qua giữa cầu, chút nữa chết tan xác rồi. Bò kêu rống chen nhau nhảy xuống sông…” (Xóm Ven Rừng, Văn số 170, ngày 15.1.1971).
Trong truyện ngắn Phạm Ngọc Lư, người đọc còn dễ dàng bắt gặp đây đó những lợn cợn tính dục được giấu kín đằng sau cảm giác bất chợt ập tới, nhưng nhẹ nhàng không òa vỡ, ngấu nghiến như các nhà văn trẻ cùng thời: “Cô vợ có chút ít nhan sắc, trung bình thôi, nhưng người tinh mắt ai cũng công nhận với tấm thân no tròn sinh lực ấy, với đôi vú chữ tâm(*), cặp mông no lẳng như thớt ngựa ấy cũng hứa hẹn sẽ đem lại cho ông vài đứa con…” (Xóm Ven Rừng, sđd). Có khi những dục tính được khơi gợi từ những tác động bên ngoài, như cái đêm hai bên đánh nhau trong phố: “…không chừng Cúc lường được mức độ tham lam quá đáng nơi bàn tay Huỳnh, nàng khẽ đẩy chàng ra giành lại tấm chăn cuốn quanh mình… Cúc ôm chầm lấy Huỳnh ghì đầu chàng vào ngực. Huỳnh thử lắng nghe nhịp tim Cúc đập hối hả, ngoạm lấy áo Cúc nhai kín miệng” (Nhà Hầm, Văn số 140. 1969). Và: “Bất ngờ nàng ôm chầm lấy anh lôi ngã sấp lên ngực, hơi thở nóng ran, hổn hển, dồn dập. Kiền nhúc nhích cựa nhẹ mình nhưng không dám gỡ vòng tay bạn đang quấn quýt siết chặt trên lưng” (Tàn Đông, Bách Khoa số 344). Những hành vi trên, phải chăng là tâm thức của những kẻ cô đơn, của những con người bị “lưu đày” nơi đất trích, của những số phận không có ngày mai, đang ở giữa lằn ranh sự sống và cái chết trong gang tấc?
Đôi lúc tác giả đặt lý trí lên trên để kịp dìm nhục cảm xuống và dựng nên một sự tỉnh táo thái quá trong thời khắc mà hai kẻ yêu nhau đang ở một nơi vắng vẻ, gợi tình: “Gió vẫn phơn phớt phe phẩy lá dương chạm vào mặt nhồn nhột, ve vuốt một khoái cảm không rõ tên. Tôi bò tới chỗ Nhan ngồi.
Thật tình em quá ngây thơ khi có ý ra đây Nhan à!
-Anh sắp làm gì tôi?” (Cái Đuôi Sao Chổi, sđd).
“Tôi” chẳng làm gì cả, mà “cầm lấy lon coca… uống từng hơi dài” như dằn cơn khoái cảm xuống. Vì vậy, dục tính trong truyện của Lư thường xảy ra do sự tình cờ ngẫu nhĩ, do ngoại cảnh đưa đẩy, tức quán tính trong tình thế “cuối đường”.
Trong số gần 20 truyện Lư để lại, với tôi, có lẽ Mộng Thấy Mình Đã Chết (Ý Thức số 7 ngày15.1.1971) là truyện hay nhất. Anh đan xen giữa hiện sinh và siêu hình cùng chút xa gần trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử khiến câu chuyện hư hư thực thực. Mộng và thực ẩn hiện qua từng suy tưởng của nhân vật. Mộng Thấy Mình Đã Chết phần nào phản ảnh tâm trạng lớp thanh niên thời chiến ở miền Nam. Họ hoang mang và tuyệt vọng. Họ luôn luôn đeo mang sự chết trong từng hơi thở, giấc ngủ. Đó là những cái chết tình cờ, có thể đến bất kỳ lúc nào với bất kỳ ai, bất cứ đâu. Nó là nỗi ám ảnh thường xuyên đối với nhân vật xưng tôi. “Tôi” và Muội yêu nhau, nhưng lúc nào “tôi” cũng thấy Muội đã chết. Nàng đến với “tôi” trong cuộc sống thực mà như từ cõi mộng. Mộng và thực luôn trộn lẫn vào nhau ở hai nhân vật này: “Tôi đã chết? Con đò đưa linh hồn thả về bên kia bờ quá khứ cháy bùng lên, chìm xuống mặt biển sóng gió trùng trùng nô giỡn nhẫn tâm giữa nỗi quên lãng mông mênh ngút ngàn thiên địa tận… Anh đã chết vào sáng sớm ngày mồng 7 Tết dưới gốc cây nêu trước ngõ”.
Có lẽ, thảm cảnh Mậu Thân ở Huế, với những gì đã chứng kiến khiến tinh thần Lư bị tổn thương, tạo nên những vết nứt toang hoác trong tâm tưởng anh, kéo dài khá lâu, hằn sâu vào tâm trí để bật ra câu chữ: “Em tưởng anh đã chết trong biến cố Mậu Thân ở Huế. Anh chết vỡ ngực, máu nhuộm đỏ cả chiếc sơ mi trắng nằm trước cổng nhà với cái tay nải còn rơi vướng cạnh đó”. Một đoạn khác: “Quả thật, tôi đã cầu mong cho cả thành phố ấy nổ tung lên. Ghê thay, tôi đã chết theo. Mẹ tôi, sau những ngày chạy loạn, đói, bệnh, thiếu cơm thiếu thuốc đã đau đớn lìa đời tại nhà một người bà con ở vùng quê. Bà chưa kịp về nằm giữa căn nhà đổ nát thở hơi thở cuối cùng như lời mong mỏi trăng trối lúc lâm chung, chưa kịp biết xác tôi có được chôn lấp đàng hoàng chưa hay đã bị heo chó rỉa rói mất rồi…”.
Những gì đã xảy ra ở Huế là những vết thương đen đúa, tím bầm, cứa mãi vào con tim lịch sử dân tộc. Khép lại những dòng cuối cùng, truyện toát ra chút khắc khoải, nghèn nghẹn, như thể chính người đọc bị hóa thân cùng các nhân vật của anh.
Với truyện ngắn, sau năm 1975 Lư buông bút, không viết một dòng nào (ngoại trừ thơ). Lý do cũng đơn giản, như trong thư viết giữa năm 2002 từ Đà Nẵng gửi cho tôi: “Con đường văn chương của tôi quá ngắn ngủi, sau 75, coi như tuyệt lộ. Đáng buồn. Tiếc thay giấc mộng của một thời thanh xuân! Bất phùng thời, đành vậy…không chơi, không tham dự gì với nền văn học nghệ thuật đương đại từ đó đến nay và mãi mãi… Muốn viết văn xuôi lắm nhưng chắc phải “học” lại đã, lâu năm quá, chữ nghĩa sét gỉ hết rồi…”.
Để khép lại bài viết, chúng tôi xin dẫn nhận định sau của nhà biên khảo văn học Nguyễn Vy Khanh về những tác phẩm của Lư: “chúng tôi có cảm tưởng tác phẩm của ông có điểm khác các nhà văn trẻ cùng thời đó. Có chiến-tranh nhưng không nhất thiết là đề tài chính, có tình-yêu nhưng không xuôi chảy, trơn tru, dễ dàng, có hiện thực đời-sống đang xảy ra nhưng rốt cùng chỉ là cái cớ, có triết lý nhưng cũng không phải để thuyết phục người đọc,… vì thiển nghĩ truyện và thơ ở Phạm Ngọc Lư đã đụng đến cái lõi nhân bản qua các phác thảo, nhận định, đã là những diễn biến tâm sinh lý ông trình bày để nhân-vật tự xuất hiện. Riêng lời văn con chữ mang thi tính đặc sắc, chọn lọc…” (Nguyễn Vy Khanh, Vài Cảm Nghĩ Về Thơ và Truyện Phạm Ngọc Lư, trg 104-105, TQBT số 70, tháng 6.2016).

(Viết những dòng này, như những lời vĩnh biệt, nhớ đến Phạm Ngọc Lư, người bạn thân của tôi, cả đời khốn khó).

Nguyễn Lệ Uyên

Tuy Hòa, tháng 6.2017

_________
(*)

Chữ Tâm viết thường – chữ Tâm cổ
Theo Phạm Ngọc Lư, vú chữ tâm (cổ) là loại vú đẹp của người con gái, giải thích của nhà văn Tô Thẩm Huy và TÂQ.

(1) Đặng Tiến, Vũ trụ thơ, NXB Giao Điểm, SG 1972
(2) https://vietbao.com/p112a268374/nghi-ve-nha-tho-pham-ngoc-lu
(3)http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:http://danlambaovn.blogspot.com/2015/06/pham-ngoc-lu-nguoi-van-giu-lua-cho-nen.html
(4) Đào Tiềm (365 – 427) tự là Uyên Minh, người đời Đông Tấn, Trung Hoa. Ông làm huyện lệnh ở Bành Trạch, chán cảnh phải luồn cúi quan trên, than thở “ta đâu phải chỉ vì 3 đấu gạo ( tức lương bổng)mà phải khom lưng ư?” bèn cởi trả áo mão cho triều đình, lui về quê ẩn cư, viết bài Quy khứ lai từ để bày tỏ chí hướng.

(5) http://dutule.com/a7597/bien-cuong-hanh-dia-chan-thi-ca-pham-ngoc-lu-ky-02-
(6) Nẫu: phương ngữ Bình Định, Phú Yên, đại từ ngôi thứ 3 chỉ số nhiều. Ở đây Nẫu chỉ những người lên núi theo VC.
(7)https://sangtao.org/2016/10/06/vai-suy-nghi%CC%83-ve-ta%CC%A3p-truye%CC%A3n-so%CC%A3i-khoi-bay-vong-cu%CC%89a-pha%CC%A3m-ngo%CC%A3c-lu/

Thơ như một định mệnh oan nghiệt

THÁNG NGÀY LẦY LỘI

 

 

(…)

Tôi bị giam giữ trong căn phòng bốn ngày liền, không bị trói hai tay như trước, cũng không thấy ai kêu lên hỏi han điều gì nữa. Duy nhất có những du kích thay phiên nhau canh gát, nhưng cũng hiếm khi thấy họ lảng vảng trước cửa phòng, trừ những lần họ đưa cơm tới. Ngay cả nhu cầu vệ sinh cá nhân hàng ngày dường như họ cũng quên bẵng. Tôi cũng không buồn yêu cầu họ mang đến dụng cụ vệ sinh, cố gắng kềm chế và chỉ khi nào không thể nhịn được nữa mới phải làm công việc không mấy lịch sự như cái ngày đầu tiên tôi bị giam trong căn phòng này. Mỗi ngày tôi chỉ nhận được chén cơm nóng nguội thất thường với mẫu cá khô bốc mùi, hay cục lương khô sản xuất từ Trung quốc. Nước thì chứa trong chiếc ấm nhôm méo mó, ám đen khói. Ăn uống với tôi, bây giờ không còn là điều cần thiết, khi mà không biết được số phận của mình sẽ ra sao.

Trong căn phòng, những người bạn thân thiết, san sẻ cho nhau lúc này là bầy muỗi. Chúng tha hồ bâu bám và đốt. Những tiếng vo ve khó chịu ban đầu, giờ nghe đã quen tai. Để chống lại chúng, tôi dùng những tờ giấy báo thắt thành hình chóp chụp kín xuống tận vai, khoét hai lỗ nhỏ ở hai mắt. Hai tay và chân thọc vào những hộp giấy. Dưới lưng và trên ngực là những tấm bìa carton. Dẫu không thể nhìn thấy được chính mình, nhưng với cách thức đó hẳn tôi giống một tên robot? Những khi nằm ngửa, nhìn lên phía trên, dàn rui kèo và mái tôn dính chặt như bầu trời sà thấp, sắp ôm choàng lấy tôi.

Những lúc hoang mang, tôi thường nghĩ về Hà. Không biết giờ này nàng ở đâu, làm gì? Có thể nàng đã xuống tàu cùng gia đình. Có thể nàng cũng trong tình cảnh như tôi bây giờ, cũng nháo nhác về số phận người cha và anh Tuyên. Cha Hà là công chức cao cấp ở Bộ Thông Tin Chiêu Hồi. Trong những ngày cuối cùng ở mặt trận Thành Sơn, Phan Rang tôi về Sài Gòn gặp ông, nói: “Tình hình có vẻ đen tối quá rồi. Bác liệu tìm cách đưa gia đình…”. Không đợi hết câu, ông gạt phăng: “Tuyên còn ngoài mặt trận, không biết sống chết thế nào, bác không thể bỏ nó. Vả lại, không thể trốn chạy một cách hèn hạ như vậy được. Bác biết chúng sẽ không tha thứ cho đối phương, nhất là những người như bác. Nhưng nếu có chết thì cùng chết, ngẩng cao đầu mà chết”. Một ông già dân khu 5, từng sống và chứng kiến trọn vẹn cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền của Việt Minh năm 45 hẳn ông sẽ biết mình cần phải làm gì hơn là lời khuyên của đứa con nít 25 năm trước chưa được sinh ra. Tôi chào ông bước ra cổng. Hà mở cửa. Trông Hà xanh xao vì mất ngủ. Tôi nói: “Em có thể đi loanh quanh đâu đó với anh một lúc không?”. Hà gật đầu. Từ bà Huyện Thanh Quan, chúng tôi đi bộ lên La Pagode. Hai ly cà phê trên bàn kính nhìn chúng tôi. Còn chúng tôi thì nhìn ra ngoài đường. Xe cộ vẫn đều đặn ngược xuôi. Chiến tranh không có mặt trong thành phố. Mọi thứ cứ bình thản trôi đi hay ít ra sự bình thản kia là vòng quay héo mòn, nẫu ruột được giấu kín bên trong không thể nhìn thấy?

“Tuyên bây giờ ở đâu?”. Hà xoay ly cà phê có bụi nước bám ngoài thành ly, buồn bã: “Thư cuối cùng ảnh gửi về là ở Nha Trang, Lần gọi điện cuối cùng về cho ba hình như ở cầu gì đó giữa Cam Ranh và Phan Rang. Em nhớ rồi cầu Du Long. Mẹ em lo quá, khóc suốt”. Tôi bóp nhẹ bàn tay mảnh mai của Hà: “Em chớ lo, anh hiểu Tuyên. Nó là đứa giỏi xoay trở trong những lúc bất trắc. Sống với nó từ nhỏ anh biết”. Hà ngước nhìn tôi với bộ mặt mệt mỏi, thất vọng: “Nhưng tình hình ngày càng đen tối. Sư đoàn nào cũng tan tác cả. Còn Liên đoàn của ảnh hết tăng viện cho chiến trường này lại tăng viện cho chiến trường khác. Ảnh mà có mênh hệ gì thì mẹ em không sống nổi”. Tôi an ủi: “Em chớ nghĩ quẩn. Tình huống xấu nhất là tù binh, mà tù binh thì không thể mang ra xử bắn được. Công ước quốc tế sẽ không buông tha cho những hành vi dã man kia đâu”. Hà bật khóc: “Cái quốc tế mà anh nói đó, lần lượt quay lưng lại với chúng ta khi quyền lợi không còn nữa. Đúng là bi thảm. Một đất nước bi thảm, một dân tộc bi thảm…”

Tiếng mở khoá lách cách cắt đứt dòng hồi tưởng. Cửa mở toang. Một chút ánh sáng yếu ớt hắt vào. Tôi bật dậy. Người du kích lùi lại vài bước, kêu lên khi nhìn thấy lớp bao giấy trên đầu, tay chân tôi:

-Cái gì vậy? Ông làm cái gì vậy?

Vừa tháo lớp giấy bao, tôi giải thích:

-Chống muỗi.

-Ngộ quá héng. Có kiểu chống muỗi thiệt ngộ! – Anh ta nói với giọng hết sức trẻ con và ngạc nhiên như chưa hề trông thấy bao giờ.

Một lát sau:

-Ông rửa mặt mũi, ăn tạm chút lương khô rồi chúng tôi đưa ông lên C.

Tôi không hiểu C là nơi nào, nhưng chắc chắn không phải là chốn bình yên ban đầu, như căn nhà trọ, như ở băng ghế giảng đường. Tôi không buồn hỏi tiếp, bước tới phía khạp nước người du kích dẫn lại, dùng chiếc lon rỉ sét múc từng lon nhỏ. Quấn áo bốc mùi. Nhưng muốn tắm thì không thể, biết vậy nên tôi dùng chiếc khăn tay nhúng nước kỳ cọ khắp người.

Người du kích khoát súng trên vai, miệng phì phèo điếu thuốc nhìn tôi không hề hối thúc. Tôi chậm rãi lau xoáy từng kẽ tay, vành tai… mát mẻ và sảng khoái đến lạ kỳ. Xong việc, tôi nói:

-Xong rồi.

-Ăn đi rồi đi cho sớm – Nói và người du kích thò tay vào túi áo lấy mẫu lương khô ném tung về phía tôi. May mà tôi chụp nắm kịp, nếu không thì khẩu phần ăn trong ngày bị rơi xuống vũng bùn đọng gần khạp nước. Tôi cắn từng miếng nhỏ, nhai mà không nghe thấy mùi vị gì nữa.

Chờ tôi ăn xong, người du kích dẫn tôi ra trước, kêu tôi đứng đợi, còn anh ta thì vào căn phòng phía bên trái, tôi có đủ thời gian để quan sát: hình như đây là một công sở địa phương. Tấm bảng trên nóc đã được sơn lại màu đỏ chót và vẽ dòng chữ Ban quân quản Thạnh Lộc, nét chữ yếu ớt vội vã. Các dãy nhà dân dọc hai bên đường cửa hé mở ngập ngừng. Người qua lại thưa thớt. Chỉ có sự ồn ồn ào từ những chiếc loa sắt treo đâu đó trên cao, nhưng giờ này cũng im bặt.

Đợi một lúc, anh ta trở ra, trên tay cầm mẫu giấy gấp làm tư, vẫy vẫy “đi”. Họ không trói tôi như mấy lần di chuyển trước, hai tay được tự do vung vẩy nên cũng dễ chịu đôi chút. Chúng tôi vòng vèo qua khu nhà dân, các hiệu buôn bán nhỏ đến con lạch có chiếc cầu khỉ. Khi đôi chân chạm lên thân dừa bắc ngang tôi mới biết mỗi một chân mang một loại dép quai nhựa khác nhau, như một nỗi sợ hãi, lúng túng đeo bám bên người.

Đi khoảng mươi phút, chúng tôi đến một bến đò, ở đó đã vài người đứng chờ sẵn: hai người phụ nữ, ba người đàn ông. Tới nơi, tôi nhận ra một trong ba người đàn ông kia là trưởng ty hành chánh ở tỉnh K. Tôi biết anh ta khi còn sinh hoạt trong nhóm du ca thời sinh viên. Anh ta dân miền Trung, hay cãi, cố gắng tận dụng mọi lý lẽ để cãi cho bằng được những vấn đề vô lý nhất. Giờ tôi chắc mẩm những người này đang cùng chung số phận với tôi. Tôi gật đầu chào anh ta. Anh ta chào lại tôi bằng cái nhếch môi nửa như cười nửa mếu, thật khôi hài.

Chúng tôi xuống khoang thuyền nhỏ có gắn đuôi tôm, chạy xuôi dòng, men theo một con sông rộng, hai bên là dừa nước và những cây bần de nhánh tận ra ngoài. Nếu bình thường thì đây có thể gọi là cuộc dã ngoại thú vị. Nắng hiu nhẹ. Gió từ mặt sông đưa hơi nước lên, mát. Tôi ngồi sát bên người phụ nữ, da ngăm đen nhưng rất có duyên nhìn từ đôi mắt, chiếc mũi thẳng và chiếc cằm chẻ, môi trái tim. Hai người du kích ôm súng, một đằng mũi, một sau lái và tiếng máy nổ xì xạch, không khó để tôi bắt chuyện:

-Tôi tên Sơn, giáo sư trung học, dạy ở T. Còn chị?

-Ty nội an. Hoa, Diệu Hoa.

-Chị biết anh bạn ngồi sau lưng bên Ty Hành chánh?

-Tôi học sau ảnh hai khoá.

-Chị mới ra trường năm trước?

-Vâng.

-Chúng tới nhà bắt chị?

-Tôi tới trình diện ở Ban Quân quản theo lệnh phát trên loa chiếc xe jeep chạy vòng vòng quanh phố. Họ giữ tôi hai ngày rồi giờ thì bị đưa đi cùng với các anh. Anh Hoà cũng bị bắt cùng một lúc.

Hoà từ phía sau lưng Diệu Hoa chồm tới:

-Cậu nhớ thằng Vinh không? Vinh ở Luật bị động viên khoá 2/69. Nó chết rồi.

-Sao, anh bảo sao?

-Nó rút súng bắn vào đầu khi ông Dương Văn Minh đọc đến câu cuối cùng lệnh đầu hàng. Câu nói nó để lại cho mọi người đứng gần đó là “quân đốn mạt, bán nước!”.

Cả người tôi lạnh toát như vừa ngâm trong nước đá. Thành chết, Vinh chết. Cả hai chọn lựa cái chết giống nhau, từ sự thúc bách không thể đội nỗi ô nhục trên đầu. Và cả hai, đều là bạn chúng tôi, mặc dù không thân nhau lắm.

Không khí nặng nề bỗng bao trùm khắp mặt sông. Âm thanh xành xạch phát ra từ chiếc máy đuôi tôm nghe như những tràng đạn dài đang lia vào đầu chúng tôi, những tên phản động, ngoan cố? Tôi tưởng tượng cảnh Vinh rút súng ra, bóp cò một cách thản nhiên. Anh ngã xuống bên vũng máu. Hình ảnh đó của Thành của Vinh trong thoáng chốc là danh dự, tổ quốc theo đúng nghĩa, nhưng có cần thiết phải như vậy trong hoàn cảnh này hay không? Chọn lựa cái chết như vậy sẽ giải quyết được gì? Một sự phản kháng tiêu cực khi những bất trắc vẫn đang lù lù ở trước mặt hay đó là hành động chứng minh cho tính chất anh hùng của mình? Mà anh hùng nỗi gì với cách chết như vậy? Những ý nghĩ lộn xộn nhảy múa trong đầu khiến tôi tưởng tượng ra cái chết của Vinh bi thảm và đau đớn không cùng hay là thanh thản nhanh chóng như Thành? Những cái chết cuối cùng hay sẽ còn tiếp diễn nữa, thật phi lý của hàng triệu con người trong cuộc tranh giành quyền lực man rợ này.

***

Tôi không ngờ mình lại được tiếp đãi khá tử tế kể từ sau ngày bị hai du kích đến bắt. Sau khi tra hỏi lý lịch lần cuối cùng ở Ban quân quản tỉnh L. họ đưa tôi đến Ty Giáo dục làm công việc ghi chép, đánh máy văn thư. Chúng tôi ở tạm thời trong thư viện Ty. Trong phòng còn có ba người khác là dân miền Bắc đi B. Trước họ cũng là giáo viên, bị động viên tập thể đưa vào Nam chuẩn bị cho ngày này. Tất cả đều còn trẻ, học xong lớp 10 thêm hai năm sư phạm thành thầy giáo? Nghe họ kể, tôi hơi ngạc nhiên đôi chút về cách đào tạo ở miền Bắc, trái với những gì tôi đọc trước đó trong quyển Mười năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc của linh mục Trương Bá Cần. Qua những kiến thức và cách nói năng rào trước đón sau, tôi phần nào có thể đoán ra cái xã hội mà ông Cần mô tả chỉ là vịt. Trước mắt tôi là những minh chứng trái ngược hẳn với những lời tụng ca, những câu tuyên truyền dối trá về một thiên đường, trong đó người dân sống hạnh phúc, no ấm khi, những lúc rỗi rảnh, họ nhờ tôi tìm mua cho cái đài na-ti-ôn-nan; buổi sáng dẫn họ ra phố uống cà phê lại kêu ly cà-phê-đá-chanh? Họ bảo ở miền Bắc đá sản xuất đầy, dùng không hết mang ra sân kho phơi để xuất khẩu sang các nước XHCN. Nhưng sau đó, họ lại tỏ ra ngạc nhiên với những tô hủ tíu Nam Vang, họ ngơ ngác trước những sạp vải bắt đầu hé cửa mở và những chiếc xe máy chạy trong đường phố…tất cả đều thật mới lạ đối với họ.

Điều làm tôi đau lòng nhất là buổi sáng nọ, khi còn đang nằm trong mùng, anh giáo viên có tên Khoa gọi dậy:

-Nào dậy đi đồng chí, dậy uống chè Bắc.

Tôi lồm cồm bò dậy cùng với tiếng rít xòng xọc vang trong nõ tre. Cả ba đang ngồi trên sàn, vây quanh ấm nước bốc khói và bình trà, khói thuốc lào mù mịt. Vệ sinh xong, tôi bước vào, điều kinh khủng nhất thiếu chút nữa tôi văng ra tiếng chửi thề, là bộ Encyclopédie chẳng những bị lôi ra làm đòn kê đít mà một quyển khác bị xé ra gần hết để thay củi nấu nước! Tôi choáng váng, tối sầm mặt mũi. Cả đời mơ ước chưa mua nổi bộ bách khoa toàn thư này. Vậy mà những người làm công tác giáo dục của chế độ ưu việt kia lại xé rời từng trang nhóm lửa! Tôi lảo đảo ngồi xuống, lòng thắt lại:

-Các anh không biết bộ Bách khoa toàn thư nó quý đến chừng nào sao? Tôi không nói đến giá trị là cả một đống tiền mà là cả một kho tàng tri thức, sao các anh lại nỡ đem đốt nó đi?

Tiếng nõ rít lên liên tục trong khi tôi nói, nên có vẻ như ba người không thể nghe rõ ràng, một trong số họ hỏi lại?

-Cái gì? Đồng chí vừa nói đốt cái gì?

Tôi lặp lại câu than thở khi nãy. Họ cười khẩy:

-Những thứ rác rưởi, đồi truỵ chỉ đáng ném vào sọt rác!

-Không thể như thế được. Ngay cả Tư bản luận của Karl Marx trong này chúng tôi vẫn đọc, đọc công khai, được mang ra dạy trong các giảng khoá ở Đại học Văn khoa kia mà. Chúng tôi cũng được phép vào thư viện Quốc gia đọc các tạp chí ngoài Bắc để làm luận văn tốt nghiệp kia mà. Kho tàng văn hoá, tri thức là của chung của nhân loại, chớ không riêng một cá nhân hay một quốc gia, chế độ nào.

-Những thứ sản xuất từ các nước đế quốc đều là rác rưởi, cặn bã trong thế giới tiến bộ. Nó là rào cản, cần phải đánh đổ, phải xoá sạch.

-Các anh không thể suy nghĩ và hành động một chiều như vậy. Văn minh và văn hoá của nhân loại là tài sản chung.

-Đầu óc đồng chí không tiến bộ được. Cuộc cách mạng hoàn toàn thắng lợi mang lại độc lập, tự do và chủ quyền cho cả đất nước và dân tộc này, đã đổ ra không biết bao nhiêu xương máu, thì tiếc gì những thứ văn hoá độc hại kia?

Tôi thầm nghĩ có tranh luận gì thêm chắc chắn không mở được những cái đầu đã bị nhồi nhét mớ lý thuyết càn bậy nên tôi ngồi im, lòng đau thắt.

Ngồi im và buồn và thất vọng. Ngọn lửa bên trong kia bập bùng, quằn quại hút lấy tôi. Những tiếng cười nói vô cảm như tiếng tru của bầy sói trong cánh rừng hoang cuốn lấy, làm tôi đến khựng lại, ngộp thở. Bầy sói đồng thanh cất lên gào rống, tru tréo một bài hát gì đó, nhảy nhót quanh đống lửa. Những con sói hình người như bầy quỷ nhỏ khạc ra như âm thanh rin rít ghê rợn. Chúng vừa hát vừa thay phiên nhau ném những quyển sách vào lưỡi lửa phều phào run rẩy. Những trang sách toè ra màu máu, chới với bay vào chốn tro bụi.

 

Nhưng nếu sự việc chỉ dừng lại ở đây không thôi thì nỗi buồn và thất vọng cũng sẽ phôi phai đi ít nhiều. Đằng này, ngày hôm sau, sau khi đánh máy xong mớ công văn, chỉ thị gửi đi các huyện thì có hai người từ bên Ban quân quản tới áp giải tôi sang căn phòng bên toà hành chánh cũ, nơi mà bàn làm việc, bếp đun nước, chiếc giường xếp lẫn mùng màn chăn gối bày ra bừa bộn. Họ chỉ tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu có vai tựa bằng gỗ cách người đàn ông mà họ gọi là thủ trưởng một mặt bàn và thêm sải tay.

Ông thủ trưởng đang phì phèo điếu thuốc trên đôi môi thâm đen, nổi đậm trên khuôn mặt nhợt nhạt. Ông mặc bộ bà ba màu bã trầu. Tấm khăn rằng xộc xệch từ cổ rớt thòng xuống thấp, phía dưới mặt bàn. Ông ngồi yên lặng hút thuốc, làm như không có ai trong căn phòng này, và dĩ nhiên không thèm ngẩng mặt lên nhìn tôi. Còn tôi hết quan sát ông lại đưa mắt đảo quanh căn phòng không rõ là nơi làm việc hay chỗ ngủ? Hình như phong cách từ bưng biền được tất cả cán bộ mang về đặt ngay trong những nơi trước đó rất trang nghiêm, sự trang nghiêm thường thấy nơi các công sở? Tôi cảm thấy rất khó chịu, gần như bị xúc phạm khi ông ta cứ bập phà mẫu thuốc mà không một lời với người đối diện, cho dẫu là kẻ thù. Cái cách ông ngồi chống một chân lên mặt ghế đẩu, chân kia bỏ thõng xuống sàn, cặp mắt ti hí  núp dưới hàng lông mày rậm như con sâu trên khuôn mặt khô tốp và chiếc cằm nhọn, có vẻ như ngày xưa là một tay anh chị ở các bến sông.

Tôi hết quan sát lại nghĩ ngợi lung tung, đặt ra những tình huống xấu nhất và tìm câu trả lời. Hút hết điếu thuốc, ông quăng mẫu tàn xuống sàn, với tay rót bình nước trà đưa lên miệng hớp ngụm đầy, súc òng ọc như trẻ con giỡn nước trước khi nuốt vào bụng. Ông lại nhẩn nha mồi điếu khác gắn lên môi và bất ngờ quay sang tôi:

-Anh tường thuật lại tất cả những gì trong buổi sáng hôm qua.

Ông tiếp tục hút thuốc. Khói bay đầy phòng, trong khi tôi vắn tắt thuật lại việc tranh luận với ba cán bộ chi viện. Nghe xong, ông ngẩng lên, chiếc cằm nhọn chỉa về phía tôi như sẵn sàng lật tung những dề đất khô cứng trên mặt ruộng.

-Anh không thể nhận ra đó là thứ văn hoá nô dịch, đồi truỵ sao?

-Tôi không nghĩ như các ông. Một bộ Bách khoa toàn thư thì không thể gọi là đồi truỵ phản động. Nó không chứa những lý thuyết, những lời kêu gọi để chống đối ai cả. Bộ sách dày hàng ngàn trang kia không ẩn chứa điều mà các ông gọi là đồi truỵ. Rất tiếc là các ông chưa từng đọc nó.

Ông ta nhếch đôi môi mỏng dính lên một cách khó khăn:

-Đọc? Giờ thì anh lại giở giọng tâm lý chiến với chúng tôi?  Vấn đề như vậy đã rõ. Rất rõ về tư tưởng và con người anh. Đúng là một tên tâm lý chiến phản động.  Anh đợi tôi một chút.

Ông ta xô ghế đứng lên, tiến ra phía cửa nói gì đó với hai người áp giải tôi lúc nãy, rồi quay lại, phẩy tay:

-Anh có thể đi đi. Anh sẽ bị xử trị thích đáng

Tôi đứng lên, bước ra khỏi cửa phòng mà không chào ông, mang theo lời hăm doạ nặng nề.

 

Chúng tôi đi lòng vòng trong khuôn viên toà hành chánh cũ, nay được gọi là Ban Quân quản. Trên thảm cỏ xanh rờn đầy những rác rến. Ở phía sau toà nhà, người ta nối những sợi dây dừa thật dài, mắc lên các cành cây và treo la liệt đủ loại quần áo, khăn tắm cả coóc xê và xì líp phụ nữ. Một vài ba chỗ, họ còn chất những hòn gạch lên cao thành ông táo để nấu nướng, khói mịt mù một góc. Những cành cây khô vất vung vãi, vỏ bao thuốc, hộp giấy, các thứ chất thải la liệt nom như sân sau một khu chợ. Chỗ cửa ra vào toà nhà phía bắc, một phụ nữ đang ngồi chổng mông phù phù thổi bếp lửa chỉ có khói. Khuôn mặt đỏ lên, mồ hôi lấm tấm trên má, thái dương bết dính những sợi tóc như khóc.

Một trong hai người kêu tôi đứng đợi. Tôi lại tiếp tục quan sát cô gái, quan sát cách cô khó khăn làm cho ngọn lửa bùng lên. Biết có người  nhìn về phía mình, cô gái ngẩng lên, quát:

-Nhìn cái gì thế?

Giọng Bắc, nhọn hoắc.

-Trong rừng mà cô làm thế này, địch phát hiện ra mất!

-Anh là ai mà lên giọng với chúng tôi.

-Loại củi còn tươi, cô thổi ba ngày không cháy, mà có khô cũng không dễ gì cháy.

Cô gái đứng bật lên, chống nạnh.

-Giỏi nhỉ! – Giọng nói kéo dài, khiêu khích dội lên, vừa đúng lúc người áp giải lúc nãy thò đầu qua khung cửa, ra hiệu cho tôi theo anh ta.

Qua hết dãy hành lang dài, chúng tôi bước lên cầu thang cuốn và đứng trước cánh cửa khép hờ. Người dẫn đường gõ mấy tiếng vào cửa, rồi đứng nghiêm:

-Báo cáo thủ trưởng, em đưa người tới.

Giọng nói từ sâu bên trong vọng ra:

-Vào.

Anh ta đứng tránh qua bên nhường đường cho tôi. Căn phòng khá rộng. Toàn bộ đồ đạc vẫn nguyên vẹn. Những chiếc tủ đánh véc ni bóng loáng, bên trong là những cuốn sách xếp ngay ngắn. Trên tường có treo hai bức tranh vẽ thiếu nữ  và cá của hoạ sĩ Nguyễn Trung và bức Cánh đồng lúa mì của Van Gogh, đều là phiên bản, không bị tháo gỡ xuống. Không rõ căn phòng này trước là của thị trưởng hay phó thị trưởng hành chánh. Còn giờ thì người đang ngồi trước chiếc bàn rộng kia hẳn phải là người chỉ huy cao nhất của tỉnh này. Ông ta đang cúi đọc xấp tài liệu dày, tôi không nhìn rõ mặt. Tới khi nghe tiếng dép trên mặt nền, ông ta ngẩng đầu lên. Tôi sửng sốt và không thể tin vào mắt của mình. Sao lại có thể như thế được kia chứ?

Bốn năm trước Hào học Văn Khoa, ở trọ chung nhà, là một trong những thủ lĩnh đấu tranh của SVHS. Cuối năm 73 Hào đã biến mất trước khi cảnh sát đến lục tung căn gác và chỉ thu được những đồ đạc, sách vở của hắn. Tôi và Ngạc đã bị gọi lên xuống không dưới mười lần để thẩm vấn, khai về mối quan hệ cùng những hành tung của Hào. Thật ra, sống cùng nhau, thỉnh thoảng chúng tôi cũng tham gia những cuộc hội thảo, xuống đường với Hào, nhưng chỉ lán mán hắn là con người khuynh tả chứ không ngờ hắn là người của bên kia gài lại, hoạt động trong các tổ chức SVHS. Giờ thì hắn ngồi đó. Không biết thái độ của hắn khi đối mặt với bạn bè cũ thế nào, chứ trước là con người ít nói, đọc nhiều sách, coi ông Nguyễn Văn Trung với giảng khoá triết học Karl Marx là thần tượng.

Lúc ném cây bút chì xuống tập giấy, Hào ngửng lên:

-Trời, cậu! sao lại ra nông nỗi này?

Tôi ngồi xuống ghế, không đợi Hào mời:

-Cũng chẳng biết nữa – Tôi nói.

-Trong lúc sáng tối này, tốt nhất là không nên tranh biện. Không phải cán bộ nào từ khu về cũng có trình độ học vấn như cậu tưởng. Những điều cậu vấp phải với cán bộ cơ sở làm họ khó chịu vì sự thua kém biện luận, nhưng họ không chịu thua cậu về khoản chuyên chính. Tôi đã đọc đầy đủ bản báo cáo về cậu từ các nơi gửi về, nhất là chuyện tầm phào với các cán bộ bên Ty Giáo dục.

-Nhưng bộ Bách khoa toàn thư kia thì tội tình gì, phản động, đồi truỵ ở chỗ nào?

-Cậu luôn thẳng thắn một cách trẻ con như hồi còn đi học. Bao nhiêu năm ra ngoài đời cậu vẫn chưa thể sáng mắt ra được tí nào sao?

-Nghĩa là tôi phải nói dối, phải cong người, phải…

Hào phẩy tay:

-Nói sao cho cậu hiểu bây giờ. Bỏ chuyện đó qua một bên. Ở bên Ty họ giao cậu làm những gì?

-Quan tâm tới bạn bè quá nhỉ?

-Đừng tự ái.

-Đánh máy công văn, chỉ thị và những việc vặt khác, chưa đi đổ bô cho các thủ trưởng.

-Chớ có khiêu khích, chẳng ích lợi gì cả. Mọi chuyện buổi đầu đều bị rối tung lên. Những cuộc cách mạng ở bất kỳ quốc gia nào, buổi đầu vẫn thế, nhưng rồi đâu sẽ vào đó một thời gian ngắn nữa.

-Tức cậu ám chỉ tình trạng vô chính phủ hiện giờ?

-Mới tiếp quản từ tay kẻ địch, bất kỳ đất nước nào cùng rơi vào tình cảnh tương tự.

-Hay quá nhỉ? Vì vậy cho nên bao nhiêu sách quí đều bị xé đốt vì là phản…

-Cậu chớ cay cú những chuyện vừa chứng kiến. Cách mạng có lúc phải biết hy sinh. Giờ thì cậu hãy dẹp qua bên mọi chuyện và uống tách trà nóng cho tỉnh người rồi ta nói chuyện.

Hào nói và tự tay rót tách trà đẩy lên mặt bàn hướng về phía tôi. Tôi cầm lấy và không nghĩ Hào coi tôi như kẻ thù. Có thể không đồng quan điểm, nhưng ít nhất, cái còn lại là tình bạn hữu sống cạnh nhau hàng mấy năm trời. Tuy vậy tôi cũng không buồn hỏi hắn hiện tại đang giữ chức vụ gì, hay nhân cơ hội lấy lòng và xin hắn “giải phóng” cho tôi ra khỏi nơi quỉ ám này. Lòng tự trọng không cho phép tôi mở miệng làm những chuyện điên rồ kia.

Tôi uống từng ngụm nhỏ. Trà ngon. Phải nói là rất ngon. Xưa Hào không bao giờ uống trà hay cà phê. Nhưng sau thời gian biến mất, giờ trước mặt hắn là bình trà, ly tách tinh tươm, gian phòng rộng, sạch sẽ, xem ra hắn là nhân vật quan trọng ở xứ này.

-Bây giờ hãy kể lại tại sao cậu bị đưa tới đây?

Tôi vắn tắt về chuyện hai người du kích trong đó có một là học trò cũ đêm tới nhà kêu “các ông đã bị bắt” và họ đưa đi ít nhất vài ba nơi. Nơi nào cũng cùng một giọng điệu rằng, chúng tôi là những tên phản động, được giao nhiệm vụ kềm kẹp…

Hào chống tay lên cằm chăm chú nghe tôi kể, ra chiều suy nghĩ. Hắn ngồi yên một lúc trong tư thế tay chống cằm rồi mới hất mặt lên.

-Cậu cũng biết ở cơ sở có nhiều sự rối rắm. Họ thi hành lệnh như cái máy. Có nhiều chuyện đáng ra họ có thể tự giải quyết thì tống tất cả lên trên, rồi lại với sâu vào những vụ việc không phải dành cho họ giải quyết. Chúng tôi đã quán triệt cho các địa phương về vấn đề công chức chế độ cũ, đặc biệt là ngành giáo dục – hắn thở dài – vậy mà cuối cùng lại làm sai lệch đi.

-Có nghĩa là bản thân những người như tôi không có tội tình gì?

-Cơ bản là vậy. Nhưng cũng tùy theo từng trường hợp cụ thể.

-Tôi hiểu. Tôi nằm trong từng trường hợp cụ thể mà cậu nói?

– Sau khi tìm thấy hồ sơ lưu trử đầy đủ mới có thể nói chính xác.

Tôi phân vân về câu nói nửa úp nửa mở của hắn. Hồ sơ lưu trử ở đâu nhỉ? Mà ai lưu trử? Bên chính phủ Sài Gòn hay là của bọn họ thiết lập, căn cứ trên những chứng cứ cụ thể trong quá trình đào tạo và thi hành công vụ cho từng công chức? Rõ ràng rằng hắn  cũng không mấy tin vào sự thành thật của người bạn đã từng trọ học nhiều năm liền với hắn. Có một ranh giới thật rõ ràng, không nhầm lẫn.

Tôi nói:

-Vâng, tôi hiểu. Sự nghiệp cách mạng của các cậu thật vĩ đại (lúc đầu tôi định nói là ma mãnh, nhưng kịp sửa để sau đó chính tai tôi nghe câu nói của chính mình lảng xẹt, đến độ không thể ngờ nó lại thốt ra từ miệng của anh thầy giáo là tôi).

-Dường như cậu mắc phải căn bệnh mãn tính “mỉa mai”. Những ngày ở Sài Gòn cậu cũng thốt ra với những lời lẽ như vậy về chế độ Mỹ-Thiệu. Nay cách mạng mới thành công, cơ sở mới chạm vào một chút tự ái, các cậu cũng lại giở những giọng điệu khi xưa. Đúng là thứ vô chính phủ – hắn giận dữ dằn mạnh mấy chữ cuối câu – đó là căn bệnh muôn đời của trí thức tiểu tư sản. Bệnh hoài nghi luôn bám đuôi các cậu.

-Hoài nghi? – tôi nhắc lại – Hoài nghi là một tiến trình vận động tích cực thúc đẩy xã hội tiến lên phía trước. Chủ nghĩa của các cậu ấp ủ không đề ra như thế là gì?

-Giờ ta không tranh luận với nhau về phương pháp luận. Tạm thời cậu cứ về bên Ty. Chúng tôi sẽ bàn cụ thể về trường hợp cậu.

-Cải tạo, khổ sai –Tôi cáu lên.

-Rất có thể, nếu cái đầu cậu cứ ngang bướng như thế kia. Với tôi thì không vấn đề gì. Nhưng với người khác cậu nên giữ mồm giữ miệng. Với tôi, cậu là bạn nhưng tôi sẽ không chịu nổi những hành động bậy bạ và những lời nói năng gây sốc cho kẻ khác. Nó đồng nghĩa với sự phỉ báng, với hành động chống phá. Lúc đó tôi và cậu vẫn là bạn, nhưng sự nể vì thì không.

Hắn đứng lên, chìa tay ra cho tôi. Một cái bắt tay sau chừng ấy năm có vẻ gì như gượng gạo, như chiếc ốc vít đã nới lỏng ra khỏi chiếc xe đạp đã sử dụng nhiều năm.

Nguyễn Lệ Uyên

(trích từ tự truyện Sau Chiến Tranh)

 

 

NHỮNG NĂM THÁNG Ở CẦN THƠ ( hồi ức)

 

 

 

 

Sau biến cố Mậu Thân, tôi tự hiểu, rằng không thể nhởn nhơ mãi ở Văn Khoa như những anh chàng lãng du giữa mộng và thực; bởi rất có thể đến một ngày nào đó quân trường sẽ điểm tên như một số bạn bè tôi trước đó. Điều mà má tôi sẽ buồn không ít, bởi bà mẹ nào cũng sợ súng đạn, chết chóc. Và vì vậy tôi quyết định nộp đơn thi vào ĐHSP như một cách “trốn chạy” tốt nhất. Trước khi ra bến xe Pétrus Ký, tôi ghé 38 Phạm Ngũ Lão gửi cho Văn bản thảo truyện ngắn Đong Đưa Kỷ Niệm (sau đăng trên Văn số 114 ngày 15.9.1968). Ông Trần Phong Giao nói tình hình hiện nay bất ổn lắm, cậu liệu mà chọn đường đi. Tôi nói ý định của mình. Ông nói, vậy thì tốt, nếu đậu có thể hoãn dịch. Tôi chào ông, ra bến xe.

Lần đầu tiên về miền Tây, tôi thấy cái gì cũng lạ dọc theo QL4: Đồng ruộng mênh mông. Vườn trái cây xanh um. Sông rạch chằng chịt. Những chiếc phà xuôi ngược bên dòng sông Tiền, sông Hậu. Những giỏ trái cây mơn mởn hai đầu bắc Vĩnh Long, Cần Thơ… Những chiếc xe lôi đạp lạ mắt. Thành phố Cần Thơ êm đềm. Bến Ninh Kiều như một cô gái quê đằm thắm…

Lần đầu đặt chân đến vùng sông nước miền Tây, không có ai thân quen, đành tìm một khách sạn tuyềnh toàng, ăn cơm dĩa chờ ngày thi. Trong thời gian này tôi bắt xe lôi đi quanh quẩn một vài nơi. Chỗ nào cũng thấy các sắc lính lẫn vào đám “civil”. Chán, về nằm ì trong phòng, mở toang ô cửa nhỏ nhìn ra bến Ninh Kiều, nhìn ghe thuyền tấp nập. Sáng và chiều nghe tiếng đọc kinh của tín đồ Hoà Hảo bên kia sông, gieo vào lòng một cảm giác lạ.

Mấy ngày sau, tôi vào trường thi ở trung học Phan Thanh Giản. Sĩ tử tứ xứ. Tôi không hề biết ai là ai, lầm lũi ngồi vào bàn, ghi số báo danh lên giấy, chép đề. Mãi tận tới nay, tôi vẫn nhớ rõ đề thi của khoa SP ban Việt-Hán: “Anh chị hãy bàn về sự thật của nghệ thuật giữa Mai và Lộc ở đoạn cuối tác phẩm Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng”. Tôi không nhớ mình đã viết những gì, nhưng chắc chắn những điều tôi “phịa” ra, được dẫn từ cấu trúc tiểu thuyết mới của Pháp rồi những A. R. Grillet, Camus, Clévi-Strauss … các trào lưu văn học phương tây, nhất là trường phái lãng mạn, ít nhiều ảnh hưởng đến nhóm TLVĐ cùng những nhận xét của cụ Vũ Ngọc Phan trong tập Nhà Văn Hiện Đại… choáng đầy 12 trang giấy thi trong 3 tiếng cắm cúi viết.

Chỉ có duy nhất một đề cho ban Việt-Hán! Tôi nộp quyển và không có khái niệm rõ ràng về lòng tự tin, nhẹ nhàng bước lên xe đò trở về SG, cũng như lúc ngồi xe xuống Cần Thơ, bỏ lại sau lưng những đường phố ngập bụi, bữa cơm dĩa, phòng ngủ ám mốc…

Nửa tháng sau, tôi nhận được điện tín báo đậu hạng thứ 3. Người mừng trước tiên là má tôi, mừng đến chảy nước mắt, sau đó là cha và hai em gái. Còn sự mừng của tôi là rút sâu vào đáy lòng, nhưng, trước hết tôi có thể yên ổn ba, bốn năm. Số đỏ!

Trước khi xuống Cần Thơ nhập học, tôi ghé lại 38 Phạm Ngũ Lão vừa báo tin vừa chào ông thư ký toà soạn. Ông vui ra mặt, hỏi tôi có quen ai dưới đó không? Tôi đáp không. Ông mở hộc bàn, lôi quyển sổ con hí hoáy viết cho tôi mấy địa chỉ, cả anh Viên Linh cũng cho tôi địa chỉ chị Phong Lan ở 105 Phan Đình Phùng. Tới nơi, đầu tiên tôi tìm đến nhà Lê Trúc Khanh trong con hẻm cuối đường Phan Thanh Giản. Từ đó gặp thêm Nguyễn Hoài Vọng rồi Phù Sa Lộc, Bùi Hữu Trạng… Tôi nhờ họ tìm giúp nhà trọ lâu dài. Và thật may mắn, trên căn gác gỗ số 2 cùng đường, còn bên dưới là quán cơm bình dân cho sinh viên, quân nhân, công chức… là chốn nương thân đầu tiên. Tiện lợi đủ bề.

Mọi thủ tục nhập học đều suôn sẻ, mặc dù trước đó, tôi phải ra sức “năn nỉ” cô Ngọc người phụ trách thu nhận hồ hồ sơ cho các tân sinh viên SP, bởi tôi trễ hạn đến 2 ngày. May mà nhờ có chị Yến ở Viện nói giúp, sau khi tôi lên tận phòng Khoa Trưởng ĐHSP Nguyễn Văn Vàng trình bày “sự cố”.

Chương trình năm thứ Nhất không có gì khó khăn. Có lẽ vì thế mà “máu văn nghệ” liền nổi dậy. Anh em viết văn làm thơ ở Cần Thơ thì đông đảo, nhưng một tờ báo văn nghệ kiểu các tỉnh Trung phần thì vắng bóng. Duy nhất chỉ có tờ nhật báo Tây Đô chuyên về thời sự, chính trị, xã hội… Tôi bàn với Bùi Hữu Trạng, Nguyễn Hoài Vọng và Trịnh Ngọc Thảo thực hiện chương trình Văn học Nghệ thuật trên đài Phát thanh Cần Thơ, theo cách tôi và Hoàng Đình Huy Quan đã làm ở Tuy Hoà những năm 1965-1966. Ý tưởng của tôi được anh em tán thành và ông Trưởng đài cũng dành sự dễ dãi, ưu ái. Thời lượng phát mỗi tuần một tiếng vào tối thứ Tư và tất cả đều do chúng tôi chịu trách nhiệm nội dung kể cả phát thanh viên, ca sĩ, người ngâm thơ…. Số đầu tiên có một bài “đinh” khá dao to búa lớn: Văn học Nghệ thuật và Tuổi trẻ trước thời cuộc. Nội dung chủ yếu là vai trò của VHNT phải đứng về về phía cái mới, trên căn bản nhiệt huyết tuổi trẻ, có trách nhiệm trước sự tồn vong của dân tộc, trước cuộc chiến.v.v. và .v.v. Cũng trong số đầu tiên này, chương trình cho ngâm những bài thơ của Quang Dũng, Hoàng Cầm, một số các nhà thơ trẻ cùng các ca khúc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đức Quang. Đến số thứ 3, chúng tôi nhận được khá nhiều thư của thính giả: Góp ý có, khen có, chê có và rất nhiều bài vở cộng tác. Cả nhóm vừa phải học ở trường, vừa chọn lọc thư từ bài vở đưa vào chương trình, trả lời thư… Soạn chương trình thì dễ, nhưng thực hiện nó thì khó trăm bề (bởi chúng tôi là những tên “vác ngà voi hàng tổng” làm việc không công, nghĩa là không có một đồng công xá nào!): Ngày thu thì phát thanh viên bận thi, có người ngâm thơ thì không có anh thổi sáo, có người hát thì mất anh đệm đàn! Dẫu vậy, các bạn trong nhóm, nhất là Cỏ May, Thu Kiết, sau thêm chị Ngọc Mai đã rất nhiệt tình để chương trình không bị gián đoạn. Rồi Thái Khi, Nguyễn Thành Nghiệp cũng lao vào cuộc. Nhưng càng về sau thì chương trình xộc xệch hẳn đi. Xộc xệch bởi ai cũng phải lo “đèn sách”… Đến cuối năm 1968 thì tan đàn rã gánh! Mấy tháng sau, nhóm Về Nguồn của Lê Trúc Khanh “kế tục” chương trình này trên sóng đài Cần Thơ theo cách riêng của họ.

Cũng chính nhờ chương trình này, mà tôi được gặp lại những người bạn cùng xứ đang đóng quân ở Cần Thơ: Lê Đình Du, pháo binh đóng ở phi trường Trà Nóc, Lê Văn Hiệp, Không đoàn 4, Nguyễn Văn Phong, BĐQ, Lê Trọng Luật, SĐ 21… Nhưng hơn hết là được gặp gỡ các bạn văn mà trước đây chỉ “văn kỳ thinh bất kiến kỳ hình” là Hạc Thành Hoa, Hà Nghiêu Bích bên Sa Đéc, Yên Uyên Sa ở Long Xuyên, Lộc Vũ Cần Thơ, Nguyễn Bạch Dương Vĩnh Long… để bàn những chuyện “long trời lở đất” về văn chương, về một tờ báo cho những người viết trẻ…

Chấm dứt chương trình trên sóng đài Cần Thơ, Bùi Hữu Trạng, Thái Khi và tôi bàn ra một đặc san tết. Tôi chạy bài vở, Trạng và Thái Khi lo giấy má, quảng cáo và in ấn. Tôi liền viết thư đến các bạn văn xin bài, và được đáp ứng nhiệt tình kèm theo những lời khuyến khích. Tên tờ đặc san số xuân Kỷ Dậu 1969 tới giờ này không thể nhớ tên. Hỏi Bùi Hữu Trạng cũng không nhớ, nhưng bài vở thì phong phú: Võ Hồng, HĐHQ, Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư, Trương Cương Thanh, hạc Thành Hoa, Nguyễn Bạch Dương… và anh em trong nhóm rồi giao cho BHT, Thái Khi mang đi in ấn. Khi hai anh mang báo về, tôi vô cùng ngạc nhiên, bởi báo in trên giấy trắng láng, sang trọng, đến nỗi khi mang biếu, ông Trần Phong Giao hỏi: Các cậu tìm đâu ra giấy đẹp vậy? Tôi không biết giấy đâu ra. Ăn tết xong, hỏi lại Trạng, anh nói xin bên Usaid , tiền in thì do quảng cáo và mang in tận Vĩnh Long. Tôi nghe và chỉ biết vậy. Coi như nhóm chúng tôi đã làm được điều mình ôm ấp. Tiếc là chỉ ra được một số duy nhất!

Đầu mùa xuân 1969, Tôi có thêm nhiều bạn mới, anh Trương Cương Thanh, Nguyễn Văn Minh, Trần Văn Liêm bên Luật, Nguyễn Thành Nghiệp bên Nông Lâm… Và bàn với nhau cùng thực hiện chươg trình ca nhạc Những Tối Thứ Bảy ở giảng đường Viện ĐH Cần Thơ. Đơn xin phép viết lằng ngoằng năm ba chữ gửi lên Viện Trưởng Phạm Hoàng Hộ và được duyệt ký ngay. Có lẽ ông Viện trưởng nghĩ đây là sinh hoạt văn nghệ bổ ích cho SVHS Tây Đô. Cầm được giấy phép trong tay, mừng thì ít mà lo thì nhiều. Lo là tìm đâu ra người đàn, người hát? Rồi âm thanh, ánh sáng, phông màn? Ngồi bên quán cà phê bên hông Viện ĐH, tôi hỏi Trương Cương Thanh: Tính sao đây? Tao vẽ áp phích quảng cáo, Thanh nói. Còn micro, loa, tăng âm, dây nhợ? Tôi hỏi. Minh lo. Minh nó giỏi chuyện này. Phần mày lo các anh em ca hát và mấy tay đàn trống. Tôi lục lại trong đầu: Cỏ May, Lâm Hồng Phước, Nguyễn Thành Nghiệp và Lê Văn Hiệp. Cỏ May thì đang năm Đệ Nhị Đoàn Thị Điểm, Phước học cùng ban Việt-Hán với tôi, Nghiệp và Hiệp một Nông Nghiệp, một Luật… có thể coi như bộ xương sườn làm nòng cốt cho chương trình. Còn lại thì những người trong cuộc sẽ “phát hiện” thêm.

Chúng tôi lại bắt tay vào việc “ăn cơm nhà…vác ngà voi” lần thứ hai. Tự bỏ tiền túi ra để làm tất cả.

Trương Cương Thanh vẽ áp phích: Chương trình Thơ Nhạc Những Tối Thứ Bảy, bên dưới vẽ chân dung cô gái mỹ miều, dưới cùng là: Do nhóm SV ĐHCT thực hiện, mang treo lên ngay mặt tiền của Viện và các khoa ở Cái Răng, giảng đường lớn ở khu ĐH mới. Nhìn chân dung cô gái trong áp phích, tôi buộc miệng: Giống Nga người yêu của mày quá đỗi. Thanh cười thú nhận!

Tôi không nhớ là chương trình này kéo dài trong bao lâu, nửa năm hay một năm hay hơn thế? Chỉ nhớ phong cách sống hết mình của các “nghệ sĩ sinh viên”. Họ hát và đọc thơ với cả tấm lòng, với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ: Giai điệu ngọt ngào của Cỏ May với ca khúc Ngọc Lan của Dương Thiệu Tước: “Ngọc lan dòng suối tơ vương mắt thu hồ dịu ánh vàng. Ngọc lan nhành liễu nghiêng nghiêng từ mấy cánh phong nắng thơm ngoài song…” , Nguyễn Thành Nghiệp say sưa với Bên Cầu Biên Giới của Phạm Duy, Lê Văn Hiệp với những bản tình ca của Từ Công Phụng, Hồng Phước sâu lắng với dòng nhạc trử tình của Đoàn Chuẩn Từ Linh… Những giọng ngâm, đọc thơ hào sảng của các bạn bên Đoàn Thị Điểm, Phan Thanh Giản và bên Khoa Học, Luật, Văn Khoa, Sư Phạm… Sân khấu duy nhất chỉ có tấm áp phích bằng giấy bồi ghép nhiều mảnh phía sau để thay thế cho tấm phông; đôi lúc “hết tiền” thì Thanh dùng phấn vẽ lên bảng đen khổ rộng.

Khán thính giả hầu hết là anh chị em SVHS, các công chức, quân nhân quanh thành phố Cần Thơ. Họ đến giảng đường rất đông, chật kín; có khi phải bám lên các bậu cửa sổ để lắng nghe; trong số đó có cả các giáo sư các trường trung học và đại học ở Cần Thơ.

Trong chương trình này, chúng tôi đã mời nhà thơ, nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển và các bạn (ĐHSP Sài Gòn) về Cần Thơ tổ chức đêm trình bày những ca khúc mới nhất của anh. Duy nhất một chiếc guitar gỗ, anh và bạn gái (quên tên) hát say sưa những tình khúc khói sương, phiêu du: Thu hát cho người, Thu Sài Gòn, Chiều trên đồi, Chiều Mơ… đã được khán thính giả Cần Thơ dành cho những tình cảm đặc biệt với anh chàng sinh viên nhạc sĩ. Đêm nhạc VĐSB có số lượng người đến nghe đông nhất kể từ khi chương trình này bắt đầu thực hiện.

Người luôn khuyến khích về mặt tinh thần cho chương trình không ai khác hơn là chị Nguyễn Ngọc Yến, nhân viên của Viện, sau này là “phu nhân” của nhà văn Trần Hoài Thư. Không một tối thứ Bảy nào là không có mặt chị. Những buổi khán giả đông đảo chị mừng với nỗi mừng vui của nhóm, khi vắng người chị lại chia sẻ. Chị hầu như là người chứng kiến trọn vẹn cho đến chương trình cuối cùng.

 

 

Do ảnh hưởng những việc chúng tôi thực hiện được trong những năm ở giảng đường Cần Thơ, Trần Văn Liêm “xúi” tôi đứng chung liên danh với anh để tranh cử vào Tổng hội SVCT. Từ chối thế nào cũng không xong, cuối cùng tôi gật đầu gọi là kéo gai lấp trổ, nhưng trong bụng tôi lại mong cho liên danh chúng tôi thất cử để lo việc học và nhảy múa chuyện văn nghệ. Trời có mắt. Chúng tôi thất cử với số phiếu chỉ kém 3 phiếu. Sự thất bại này là nỗi vui mừng không tả bịt kín mấy ngày liên trong lòng.

Đầu năm 1970, khoảng tháng 3, phong trào SVHS cả nước xuống đường biểu tình chống Lon Nol, Sisowath Sirik Matak đã ra lệnh “cáp duồn” Việt kiều trên đất Miên. ĐH CT qua lời kêu gọi xuống đường của Tổng Hội SVCT, anh em tập trung tại khu ĐH mới, giăng biểu ngữ hô to: “Đả đảo tên sát nhân Lon Nol, Sirik Matak!”, hát vang bài Nối vòng tay lớn… Và tất nhiên, chính quyền địa phương không để yên, huy động hàng trăm Cảnh sát dã chiến, An ninh quân đội, có cả xe vòi rồng đến bao vây. Ngay cổng ra vào, vòng rào kẽm gai bung ra, hai chiếc xe vòi rồng dàn hàng ngang hai bên. Bên ngoài cảnh sát bắc loa kêu gọi giải tán, bên trong SV vừa hô đả đảo vừa hát vang. Cảnh sát thắt chặt vòng vây. Những tấm biểu ngữ phản đối bị gỡ ném xuống đất. Một vài SV giật lại nhưng liền bị hai vòi rồng phun nước tới tấp. Trần Văn Liêm và Phạm Xuân Triển chạy tới dựng tấm bảng đen lên để chặn vòi nước, bị ngã nhào. Tôi và nhiều SV khác liền chạy tới vừa đỡ Liêm vừa dựng tấm bảng xông ra định phá vòng kẽm gai để thoát ra ngoài, kéo theo đoàn biểu tình xuống đường. Nhưng khí thế “sôi sục” ấy đã bị hai vòi nước phun mạnh đến nỗi không ai đứng lên được. Liền đó là những trái lựu đạn cay bắn vào khuôn viên trường. SV dạt vào trong, lẩn vào các phòng và giảng đường. Cảnh sát cứ thế tiến tới với vòi phun và hơi cay. SV chạy tán loạn! Tôi phóng lên lầu 1 kéo theo Lê Dung, Phạm Xuân Triển và Liêm. Bùi Hữu Trạng chìm trong đám “tàn quân”. Hơi cay nồng nặc như thể kéo ra ngoài hai lá phổi và con ngươi. Dung khuỵu xuống. Tôi đưa lưng cõng Lê Dung và từ lầu 1 nhắm mắt phóng ra cửa sổ, rơi xuống mái tôn nhà dân, phóng tiếp xuống con hẻm nhỏ, thoát vòng vây cõng chạy về nhà (nằm trên đại lộ Hoà Bình, đoạn nay là công viên Lưu Hữu Phước). Mãi tới giờ này, tôi cũng không hiểu tại sao mình có sức mạnh, liều lĩnh đến vậy?

Một tiếng sau tôi quay lại, đứng bên kia đường nhìn vào. Cảnh tượng hoang tàn như vừa trải qua trận bão lớn: Xe máy, xe đạp, giày dép, mũ nón ngổn ngang, la liệt trên sân. Những biểu ngữ lăn lóc đầy bùn đất. Cuộc biểu tình coi như thất bại cùng với vòng rào kẽm gai biến mất, xe vòi rồng biến mất, chỉ còn mươi cảnh sát nón sắt, hườm súng bên ngoài cổng. Tôi bước qua cổng trường, tìm chiếc PC của Lê Dung dắt ra và đụng mặt một CSDC. Anh ta ngó tôi cười mỉm. Tôi ngước mặt: Mấy anh đi bảo vệ cho lũ giết hại đồng bào ruột thịt, rồi đi thẳng.

Trả xe cho Lê Dung, tôi về nhà trọ. Lúc này trên đường đi, tôi mới kịp nghe mùi thối trên người, cái mùi thum thủm, tanh tanh mà tôi đoán là những xe chữa lửa kia đã hút nước từ các cầu cá công cộng, rồi ngồi xuống lề đường nôn thốc tháo theo phản xạ tự nhiên.

Hình như một tuần hay mươi ngày sau, Tổng Hội SV Cần Thơ tổ chức xuống Tịnh Biên (Châu Đốc) cứu trợ Việt kiều. 6 chiếc GMC của QĐ4 chở SV và hàng cứu trợ, xuất phát trước Viện ĐH CT, số 5 đại lộ Hoà Bình. Đoàn khởi hành từ sáng sớm, đến 10 giờ mới tới nơi. Anh chị em SV chia nhau xuống hàng, một nhóm khác phân phát. Công việc diễn ra khá nhanh. Nhưng đáng chú ý nhất là tình cảnh của đồng bào vừa thoát khỏi bàn tay dã man của đám kính Lon Nol. S. Matak, vượt qua biên giới VN. Họ không mang theo được gì ngoài bản thân. Nơi họ được địa phương đón tiếp là những tấm lều bạt tạm bợ. Đứng bên này có thể nhìn thấy nhà cửa còn nghi ngút khói bên kia. Có người ngồi ôm mặt khóc thầm: Vợ con bị giết cả! Hiếm có gia đình nào còn nguyên vẹn. Nỗi sợ hãi chừng như chưa chịu buông tha họ, bởi khi hỏi han, họ chỉ trả lời tiếng một hoặc lắc đầu hoặc bằng những giọt nước mắt lăn dài!

 

Sau khi phân phát hàng cứu trợ, uỷ lạo xong, chúng tôi chuẩn bị lên xe trở về, cũng vừa lúc nhìn thấy anh Dương Nghiễm Mậu bước tới. Anh nói là tôi đi với Tiểu khu Châu Đốc về vụ cáp duồn. Việc đã xong bây giờ thì về. Và anh lên xe cùng chúng tôi trở lại Cần Thơ, bỏ ngang sự mời mọc của Tiểu khu Châu Đốc (Năm trước đó, anh là người đầu tiên leo lên gác trọ thăm tôi, hỏi han chuyện ăn ở, học hành, người thứ hai là Lê Thị Cẩm Hoa bên VTX).

Cuối năm 1970, chúng tôi ra trường, tứ tán mỗi người một phương, hiếm khi gặp lại nhau. Sau tháng 4 đen, ít nhất 3 lần trở lại Cần Thơ và cố tìm lại những người bạn một thời bên nhau, nhưng cũng y như những gì Cần Thơ hiện khoác lên tấm áo mới. Tất cả đều xa lạ, dửng dưng. Bạn bè không tìm thấy một ai. Mãi đến năm 1993, bất ngờ gặp lại Nguyễn Thành Nghiệp ở Long An. Anh ở trong khu nhà tập thể của Chi cục BVTV tỉnh. Anh làm trưởng. Vẫn phong thái ngày xưa, lôi ra chai rượu Gò Đen và cây đàn, hát tặng tặng bài Chiều Qua Tuy Hoà của Nguyễn Đức Quang. Tôi và Nghiệp uống rượu, nhắc chuyện cũ và khóc. Hai năm sau nghe tin anh mất vì ung thư. Tôi đến Tân An đứng lặng trước tấm ảnh thờ, thắp nén nhang với tâm trạng bùi ngùi mà sao nước mắt lại ráo hoảnh chỉ thấy lòng trĩu nặng ? Ở SG, tình cờ gặp lại Lê Dung, ngồi quán cóc, mới biết một vài thông tin hiếm hoi về bạn cũ: Cỏ May làm ở Viện Văn Học bộ phận phía Nam (SG) đã nghỉ việc, La Thị Xinh đã chết, Lâm Hồng Phước có chồng ở Long Xuyên… Bùi Hữu Trạng vượt biển không biết trôi dạt xứ nào? Thái Khi thì biệt vô âm tín, cả Trần Văn Liêm và Nguyễn Văn Minh, Trương Cương Thanh?

Hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng trong đầu tôi vẫn luôn loá sáng hình ảnh những người bạn chân tình thuở 20. Tôi giữ những hình ảnh này với cả tấm lòng, trân trọng, như trân trọng một Cỏ May thời sương khói tình đầu và những dĩa bánh cống ở bền Ninh Kiều thơm ngát mùi bùn non, rau rừng mỗi khi con nước ròng rút xuống. Đó là mùi thơm lồng lộng của đất trời và tình người không thể nào phai.

NGUYỄN LỆ UYÊN

Ảnh trong bài :

  1. CM và ca khúc Ngọc Lan của Dương Thiệu Tước
  2. Khán giả ở giảng đường nghe chương thơ nhạc NTTB
  3. Cứu trợ Việt kiều ở Tịnh Biên, Châu Đốc, 1970