TÔ THÙY YÊN, CHIA SẺ CHÚT TÌNH CAY MẶN CŨ 

 

Trong thời kỳ hai mươi năm của thơ miền Nam, và giai đoạn kéo dài của nó, Tô Thùy Yên giữ một vị trí rất đặc biệt (*).

Đó là người khởi đi từ giai đoạn khai phóng đầu tiên, những năm 60, với sự nổi loạn chống ảnh hưởng của văn học tiền chiến. Nhà thơ của chiến tranh Việt Nam, của những suy nghiệm triết học, nhà thơ của những ngày tù tội cải tạo, và cuối cùng của giai đoạn lưu vong. Đời sống của ông đầy biến động. Tô Thùy Yên lúc nào cũng chăm chú sống cuộc đời mình, để tâm hồn rung lên theo nhịp điệu của thời thế. Nhưng đó không phải là thơ thời sự hay thơ trữ tình thế sự. Đó là một loại thơ trữ tình thực sự, tuy vậy mang dấu ấn lịch sử.
Trong khi tuân thủ nghiêm ngặt một số quy ước về vần điệu, sở trường nghiêng về thơ có vần hơn là về thơ tự do, Tô Thùy Yên vẫn sở hữu một ngôn ngữ vừa truyền thống vừa mới lạ. Sự chọn chữ, cách thiết lập câu thơ, âm điệu và từ vựng trong từng bài thơ, tạo nên phong cách riêng, một phong cách của tài hoa dụng ngữ.

Thơ Tô Thùy Yên có ba giai đoạn: trước năm 1975, sau năm 1975 ở trong nước và trong tù, và sau này khi ra hải ngoại. Giai đoạn thứ ba, thể hiện những cố gắng làm mới ngôn ngữ ở nhà thơ này, tuy vậy xét về thành tựu nghệ thuật, không thể nào sánh được với giai đoạn thứ nhất và thứ hai.
Là một tác giả được nhiều người biết tới và tìm đọc, có những bài thơ được phổ nhạc, nhưng Tô Thùy Yên vẫn là thi sĩ của giới trí thức, với bút pháp tinh lọc và sang trọng. Ông không thiết lập nên một thi pháp mới, và hầu hết thơ đều dựa trên những âm luật cũ, nhưng Tô Thùy Yên đẩy nghệ thuật dùng chữ đến mức tuyệt hảo. Sống trong thời binh lửa, ông mặc áo lính, đến các trận tiền, viết về cuộc chiến đấu bi thảm của một quân đội, đời sống thực của người lính, nỗi đau thương của quê hương bị tàn phá, sự nghĩ ngợi đầy tính triết học, nỗi u hoài Đông phương, tình yêu, sự lạc lối của tuổi trẻ, một thiên nhiên mù lòa cay đắng, những cây cỏ hiền hòa, tình yêu thuần hậu và bạo liệt.

Thơ Tô Thùy Yên là thơ nhân chứng. Bằng chính cuộc đời mình, ông sống qua những giai đoạn khác nhau của lịch sử. Bài thơ của ông, với tất cả hình ảnh và chất liệu của chúng bao giờ cũng tạo nên một lực đẩy hướng tới sự kết thúc, tạo ra một phức hợp tình cảm ở người đọc. Trong khi người đọc chia sẻ cùng nhà thơ gánh nặng của lịch sử, của số phận, thì cũng hạnh phúc được sống trong nguồn suối ngọt ngào của tiếng mẹ đẻ, vui thú với nhạc điệu, thưởng thức khả năng nắm bắt ý nghĩa của tồn tại. Ẩn dụ trong thơ Tô Thùy Yên giàu có, chúng chứa đầy khả năng mới mẻ: giá trị tiên đoán.
Thơ Tô Thùy Yên là loại thơ không những để đọc bằng mắt mà còn để đọc lớn lên, ngâm lên, giữa những người khác. Gần đây, sau tập thơ cuối cùng, không thấy Tô Thùy Yên viết nữa. Có lẽ công việc của ông đã xong. Sự thưởng thức và đánh giá là dành cho dư luận. Bất chấp khuynh hướng trừu tượng và khuynh hướng trí thức, sự dùng chữ tinh tế, khác thường, đó vẫn là một loại thơ mở lớn cánh cửa, tìm đến với người đọc, kêu gọi người đọc.

Một thứ thơ của ý thức tự do, của bi kịch lịch sử, của nhân phẩm, của lòng tin vào các giá trị căn bản của dân tộc. Thơ ông tạo nên một ảo ảnh nghệ thuật bằng chất liệu có thực của đời sống, một đời sống đã kinh qua hạnh phúc và bất hạnh, những vàng son và khổ nhục. Một loại thơ đôi khi siêu hình, đôi khi mênh mang kỳ bí, nhưng vẫn dung chứa xúc động chân thật. Đó có lẽ là một trong những bí ẩn sâu xa của thơ Tô Thùy Yên.
Nguyễn Đức Tùng

(*) Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, là cựu học sinh Petrus Ký và Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ông dạy học, làm báo tại Sài Gòn và mang cấp bậc Thiếu tá trong quân đội VNCH trước 1975. Sau 1975 ông bị giam gần 13 năm, từ 1993 cùng gia đình sang Hoa Kỳ theo diện cựu tù nhân chính trị.
Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các hoạ sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người nòng cốt của nhóm Sáng Tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh “Thơ tự do” trên văn đàn miền Nam vào thập niên 60.

Tác phẩm: Thơ tuyển (1995), Thắp tạ (2004).
(trích từ tác phẩm Bốn Mươi Năm Thơ Việt Hải Ngoại, Văn Việt và Nguời Việt phối hợp xuất bản, 2017)

Tàu Đêm

Tàu đi. Lúc đó, đêm vừa mỏi.
Lúc đó, sao trời đã ngủ mê.
Tàu rú. Sao ơi, hãy thức dậy,
Long lanh muôn mắt tiễn tàu đi.

Thức dậy, những ai còn sống đó,
Nhìn ra nhớ lấy phút giây này.
Tàu đi như một cơn giông lửa
Cuồn cuộn sao từ ống khói bay.

Cảnh vật mơ hồ trong bóng đêm
Dàn ra một ảo tượng im lìm.
Ủ ê những ngọn đèn thưa thớt,
Sáng ít làm đêm tối tối thêm.

Bến cảng, nhà kho, những dạng cây…
Chưa quen mà đã giã từ ngay.
Dẫu sao cũng một lần tan hợp,
Chớ tiếc nhau vài cái vẫy tay.

Toa nêm lúc nhúc hồn oan khốc,
Đèn bão mờ soi chẳng rõ ai.
Ta gọi rụng rời ta thất lạc.
Ta còn chẳng đủ nửa ta đây.

Người bạn đường kia chắc chẳng ngủ.
Thành tàu sao chẳng vỗ mà ca?
Mai này xô giạt về đâu nữa?
Đất lạ ơi, đừng hắt hủi ta!

Đất lạ, người ta sống thế nào?
Trong lòng có sáng những trăng sao,
Có buồn bã lúc mùa trăn trở,
Có xót thương người qua biển dâu?

Tàu đi như một cơn điên đảo,
Sắt thép kinh hoàng va đập nhau.
Ta tưởng chừng nghe thời đại động
Xô đi ầm ĩ một cơn đau.

Ngồi đây giữa những phân cùng bụi
Trong chuyển dời xung xát bạo tàn,
Ta trở thành than, thành súc vật.
Tiếng người e cũng đã quên ngang.

Ta nghe rêm nhói thân tàn rạc,
Các thỏi xương lìa đụng chỏi nhau.
Nghe cả hồn ta bị cán nghiến
Trên đường lịch sử sắt tuôn mau.

Dường như ta chợt khóc đau đớn.
Lệ nóng cường toan cháy ruột gan.
Lệ chảy không ra ngoài khóe mắt.
Nghẹn ngào đến cả tiếng than van.

Giá ta có được một hơi thuốc,
Dẫu chỉ là hơi thuốc mốc thôi.
Để phả cho hồn ấm tỉnh lại,
Để nghe còn sự sống trên môi.

Ta nhớ dăm ba hình ảnh cũ,
Lờ mờ như nhớ lại tiền thân.
Đời ta khi trước vui vầy thế
Bỗng thảm thương nghìn nỗi ngói tan.

Đem thân làm gã tù lưu xứ,
Xí xóa đời ta với đất trời,
Ngàn dặm lìa tan tình cố cựu,
Bàng hoàng thân thế cụm mây trôi.

Đã mấy năm nay quằn quại đói,
Thèm ăn như đứa trẻ con nghèo.
Mẹ ơi, con nhớ thời thơ dại,
Nhớ miếng ăn mà mẹ chắt chiu.

Liệu còn một bữa cơm đầm ấm
Bên ánh đèn đoàn tụ vợ con,
Chia xẻ chút tình cay mặn cũ,
Miếng không ngon cũng lấy làm ngon.

Tàu đi khoan xoáy sâu đêm thép,
Tiếng nghiến ghê người, thác lửa sa.
Lịch sử dường như rất vội vã.
Tàu không đỗ lại các ga qua.

Ô, những nhà ga rất cổ xưa,
Dường như ta đã thấy bao giờ.
Đến nay, người giữ ga còn đứng,
Đèn bão đong đưa chút sáng mờ.

Tàu qua những ruộng đồng châu thổ.
Hiu hắt làng xa mấy chấm đèn.
Đêm ở nơi đây buồn lặng lặng.
Cái buồn trải nặng mặt bằng đen.

Hỡi cô con gái trăng mười bốn,
Đêm có nằm mơ những hội xuân,
Đời có chăng lần cam dối mẹ,
Nhớ thương nào giấu thấm vành khăn?

Có lúc tàu qua những chiếc cầu
Sầm sầm những nhịp động đều nhau.
Dưới kia con nước còn thao thức
Bát ngát dềnh lên bãi sậy sầu.

Có lúc tàu qua những thị trấn
Mà đêm đã gói lại im lìm.
Tàu qua, âu cũng là thông lệ,
Nên chẳng ai buồn hé cửa xem.

Ôi những nỗi sầu vô dạng ấy
Gọi ta về với những đêm vui…
Ở đâu đèn sáng như châu ngọc,
Đường phố người chen chúc nói cười.

Ở đâu mộng ảo vườn sao tụ,
Yến tiệc bày trong những khóm cây.
Ta rót mừng em ly rượu đỏ…
Mà thôi, chớ nhớ nữa, lòng ơi.

Mà thôi, hãy nuốt lệ còn nghẹn,
Tỉnh thức, lòng ơi, nhìn tận tường
Thời đại đang đi từng mảng lớn,
Rào rào những cụm khói miên man.

Người bạn đường kia chắc vẫn thức,
Mong tàu đi đến chỗ đêm tan,
Có nghe lịch sử mài thê thiết
Cho sáng lên đời đã rỉ han.

Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dậy địa cầu,
Lay động những tầng mê sảng tối…
Loài người, hãy thức, thức cùng nhau.

Tô Thùy Yên 1980

Nguyễn Đức Tùng

 

Advertisement

NHÀ XƯA CÓ HOA MIMOSA VÀNG

Tôi gọi số điện thoại mới của chị mà cháu Thơ Thơ cho, báo tin bạn chị, họa sĩ Đinh Cường, vừa mất. Chị nhấc máy, im lặng. Tôi gác máy, gọi nữa, chị lại bắt máy. Tôi hỏi mấy câu Thơ Thơ dặn, chú phải nói rứa nói rứa mẹ cháu mới hiểu chú ạ. Chị vẫn không nói. Đầu kia, có tiếng u u như gió thổi qua đồng cỏ lạnh giá. Tôi cầm điện thoại, giữ lâu, giữa hai chị em chỉ có tiếng gió rì rào.
Thế mà mấy năm trước, tôi cùng anh Tường, anh rể tôi, ghé thăm nhà chị ở gần Seattle, khi về chị còn chạy theo ra hiên. Khớp gối bên phải sưng đau, sờ thấy nóng, đi cà nhắc, bảo: em cho chị hôn em. Rồi vói người hôn lên má tôi đánh chụt một cái.
Tôi hiểu, đó là nụ hôn dành cho mẹ tôi. Anh Phan Văn Tốn chồng chị là con của cậu ruột tôi. Mẹ mất sớm, từ nhỏ anh về ở với mẹ tôi, bà cô út, gọi là o. Những bà o chưa chồng thương cháu như con. Anh đem người bạn vong niên cùng đi kháng chiến về giới thiệu. Mẹ tôi lập gia đình với ba tôi lúc người đã ngoài ba mươi, thời đó muộn. Khi tôi sáu tuổi, cha mẹ tôi dựng nhà trong vườn mới mua, kề bên vườn hương hỏa của ông bà ngoại. Vì đất ấy không ai trông nên mẹ tôi vào ra coi sóc, hai vườn thông nhau như một. Tan trường, tôi cho sách vở vào một xó, thoắt cái đã nhảy chuyền cành trên những cây ổi, cây bưởi rậm rạp, cành lá giao nhau. Một buổi chiều đi học về muộn, nhà vắng khác thường. Tôi tò mò đi qua hàng rào tre trúc ngăn giữa hai vườn thì gặp mẹ tôi đi ngược lại. Dáng bà kín đáo, im lặng. Có lẽ bà chưa kịp thấy tôi. Từ phía khác, sau bụi tre, tôi nghe tiếng người nói khẽ. Giọng gắt. Anh Tấn.
Anh là em trai kế của anh Tốn, là người chăm lo nhang khói dòng họ. Trong nhà anh có bức ảnh lớn của anh Tốn và chị Thanh Sâm, bồng các cháu Thi Thi, Ti Ti, Thơ Thơ, Lam Điền. Anh Tốn để râu mép, mặt vuông, đẹp, hiền, nghiêm nghị. Chị áo dài tha thướt. Lúc ấy anh Tấn là chỉ huy nghĩa quân của xã, gồm hai đơn vị, một bảo vệ cầu Ái Tử, một bảo vệ khu lân cận như trường tiểu học, vườn ươm của tổ chức lương nông quốc tế. Anh mang khẩu súng trường dài, loại M1 Garand, nổ đanh, bán tiểu liên tự động. Sống thời chiến tranh, không lạ gì trò chơi chết chóc, tôi nhận ra dễ dàng các loại súng, tiếng nổ của chúng, tiếng đại bác, moọc chê. Tôi lắng nghe câu chuyện giữa mẹ tôi và người cháu gọi bằng o ruột. Những năm sáu mươi, chiến tranh mới lẻ tẻ thôn xóm, chưa lan rộng như sau này, nhưng cái chết hai bên gây ra cho nhau thật tàn khốc. Mỗi lần có vụ du kích giật cầu, đánh lô cốt, bắn pháo bừa bãi vào chợ búa thì có một cuộc bố ráp sau đó, càn quét cơ sở bí mật người kháng chiến cũ. Mỗi lần có một du kích bị bắn hạ khi vượt qua đường tàu thì vài hôm sau liền có cuộc trả thù nhắm vào các viên chức chính quyền cấp thôn xã hay người thân của họ. Đặc điểm quan trọng nhất của chiến tranh du kích Việt Nam là tính chất trả thù.
Nhưng lúc ấy, tôi chỉ biết sợ hãi, không biết thù hận. Tôi sợ hãi khi nghe tiếng đại bác bắn qua đầu, tiếng nổ khi xa khi gần, nghe tiếng mõ cầm canh, tiếng phèng la đầu làng của người dân đang sống an toàn yên ấm bên trong hàng rào Ấp chiến lược, báo động cho chính quyền biết du kích về làng. Tiếng gõ cửa ban đêm. Tôi sợ cuộc chiến tranh này. Tôi căm ghét nó. Những người dân ở miền Nam đều căm ghét nó. Thế người dân miền Bắc? Tôi không biết.
Tôi tin rằng cũng có người căm ghét chiến tranh, như nhà thơ Lưu Quang Vũ, nhưng phần nhiều đều tự an ủi rằng dù sao hy sinh ấy là cần thiết. Dù niềm tin ấy sau này được những người trong cuộc nhận định lại là đúng hay sai thì lúc ấy nó vẫn là liều thuốc kỳ diệu giúp chữa lành các vết thương. Tuy thế, dù ở đâu, chưa bao giờ chiến tranh vui vẻ. Người ta có thể sẵn sàng ra trận, đổ máu cho một lý tưởng, nhưng không khí chiến tranh có bao giờ vui? Để sống sót qua thời ấu thơ binh lửa, tôi phải có một niềm tin, dù với những hiểu biết không đầy đủ, phải được trang bị bằng một tư tưởng thích hợp, cũng như tôi phải tập ngửi mùi thuốc súng. Tôi mang sự hiểu biết không đầy đủ ấy vào Đà Lạt, mùa xuân năm 1976. Tôi đến nhà số 33 Thi Sách của chị Thanh Sâm, ngôi nhà trên đỉnh đồi lộng gió. Trước đó, năm 1972, người chị thứ hai của tôi, cùng tên, vừa tốt nghiệp khóa nữ hộ sinh quốc gia, sage femme d’ etat, lên làm việc ở Đà Lạt, ở nhà ấy. Để phân biệt hai người, trong gia đình tôi mọi người vẫn gọi chị Thanh Sâm là chị Thanh. Ở ngôi nhà Thi Sách này, chị tôi đã quen và phải lòng một sinh viên sĩ quan Đà lạt, tên Tường, từ đó chị còn có tên là Tường Sâm. Sau khi anh ra trường, họ kết hôn, và chàng trai mê sách vở văn chương nhưng có tài thiện xạ này trở thành sĩ quan trinh sát sư đoàn. Anh hay kể chuyện nhảy trực thăng vào hậu cứ đối phương ở Quảng Nam.
Khi tôi đến Đà Lạt, nhà đổi chủ. Sau cái chết của anh Tốn, chị Thanh bỏ cao nguyên về Sài Gòn, khoảng 1972, giao nhà cho chị Sâm tôi ở, giữ căn biệt thự hai tầng như kỷ niệm gia đình. Bây giờ nhà bị chính quyền mới trưng dụng. Bảng hiệu nhà giữ trẻ. Tôi đứng tần ngần trước dãy rào tường vi trắng. Xa xa phía sau là nhà thờ Domaine de Marie màu hồng đậm ấm áp, mái nhà dốc tựa nhà rông Tây nguyên. Trước hiên một giàn dây leo trổ hoa pháo, vàng rực, vắt qua hai cây cột lớn, uy nghi. Tôi bước lên tam cấp cao vào nhà, hai cánh cửa chỉ khép hờ. Trong nhà nửa tối nửa sáng, chạy ngang tường khẩu hiệu quen thuộc sống chiến đấu sơn đỏ, mới. Phòng khách rộng mênh mông kê lộn xộn bàn ghế. Gần cửa, trên chiếc giường nhỏ, một đứa bé gái gầy còm nằm thiêm thiếp, lên cơn sốt, tóc thái dương ướt đẫm. Nhìn kỹ trên mặt và hai cánh tay nó, những nốt ban, cái hồng cái đỏ sẫm. Thời ấy ở miền Nam sốt xuất huyết hoành hành. Một thằng bé khoảng ba tuổi đứng tè ngay trước lò sưởi cuối phòng, lò nguội lạnh, cô giữ trẻ túm lấy tóc nó lôi đi. Thằng bé không khóc, cưỡng lại hung dữ. Trong một động tác bất ngờ, điêu luyện, người phụ nữ buông tóc nó ra, chụm hay bàn tay lại, dùng cả hai cánh tay kẹp cổ thằng bé, nhấc bổng lên.
Tôi đứng ngẩn người, không biết làm gì. Qua cửa sổ, tôi nhìn thấy hai cây hoa lớn, ở góc bên phải của khoảng sân rộng trước nhà. Tôi bước ra, thở khí trời trong mát, hít mùi nhựa thông ngập không gian. Gần cuối mùa mimosa, trên cỏ những bông vàng tươi xếp lớp như thân xác của hạnh phúc. Đường phố vắng, lác đác xe hơi chạy vụt qua, trên xe những khuôn mặt mới, xe ngựa lọc cọc gõ nhịp đều, những con ngựa gầy trơ xương với da, lông xù ra. Người Đà lạt trí thức và tiêu biểu cho văn minh một thời, đã tan tác, bỏ đi hết. Nhưng loài hoa vàng óng ả thì phân vân ở lại. Ngày ấy, mimosa không còn là cái đẹp hiền hòa, mặc dù vẫn đẹp, có lẽ đẹp hơn, chúng rơi như sương như khói, rơi như tóc như tơ, rơi để chết trong đất trời mù mịt.
Đây chính là ngôi nhà mà ngày xưa nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn đã nhắc đến trong truyện ngắn Nhà có hoa mimosa vàng. Tôi bần thần đi ra cổng, đứng trên đỉnh dốc, nhìn xuống thành phố Đà lạt dưới kia sương mù xa xăm như thuộc cõi nào, nghĩ đến các anh chị, đã ra đi để lại phố phường xao xác. Giây phút ấy, bỗng hiện lên trong trí tôi hình ảnh bàn tay đầy gân xanh, tì lên báng súng Garand run run của anh Tấn. Cái báng súng bằng gỗ đỏ nâu ánh lên dưới mặt trời chiều, có vệt đất cày ải, có mùi mồ hôi, mùi hành tỏi, mùi hoa huệ cúng bàn thờ. Tôi nghe vẳng câu hỏi nhát gừng hướng về mẹ tôi. Tôi nghe tiếng mẹ tôi thì thầm, kể lể, dịu dàng nhưng cương quyết. Khuất sau bụi tre là con đường dẫn sâu vào khu vườn thứ hai, tôi thuộc từng ngọn cây ngọn cỏ biết nó sẽ dẫn tới những giao thông hào đào quanh hàng tre ngăn không cho rễ tre mọc. Ở cuối dãy giao thông hào ấy, trước rạng đông, trời còn mù sương, đã bò lê tới một người lính lạ mặt, một khúc ruột lòi ra, máu chảy từ bụng không ngớt, thoi thóp thở.
Một người lính trẻ mười bảy, mười tám, nói giọng Hà Nội, nửa nằm nửa ngồi gần gốc tre, mặt trắng trẻo như thư sinh, thỉnh thoảng ngất đi vì mất nhiều máu. Bị trúng đạn, lạc đơn vị khi vượt qua quốc lộ Một gần sông Thạch hãn. Tôi nghe câu chuyện của hai người càng lúc càng nhỏ cho đến khi tiếng của anh Tấn vang lên lần nữa bên tai. Thôi được, con chịu thua o lần này. Nhưng đừng làm quá, không ai bênh vực được. Nội một ngày họ phải dời đi, vì đây là lãnh vực phụ trách không thể làm ngơ. Mặt mẹ tôi phảng phất nụ cười, bà gật đầu ra dấu biết ơn. Những người lính nông dân của anh Tấn, bắn nhau với du kích phần nhiều cũng là nông dân phía bên kia, đã chết bờ chết bụi cho bầu khí quyển dân chủ đầu tiên của cả dân tộc này được một lần sinh ra. Trạng thái cân bằng của đất nước bị phân chia giữa hai hệ thống giá trị, sự cân bằng ấy tất nhiên tạm thời, đã phải trả giá đắt, nhưng có lẽ xứng đáng. Không có hai mươi năm ấy, để những giá trị văn hóa được gìn vàng giữ ngọc, tâm hồn Việt Nam ngày nay chỉ còn là sa mạc, tuổi trẻ chẳng biết đến văn học tiền chiến. Nhầm lẫn lịch sử tồi tệ đã xảy ra, hệt như trong thế giới động vật, mạnh được yếu thua; và đứng lên từ gạch đá đổ nát, người Việt hai miền đến nay vẫn ngơ ngác như kẻ mất trí nhớ.
Trí nhớ là kẻ thù số một của thuật cai trị. Những thế hệ sau lớn lên trong sợ hãi và ký ức giả dối, trong một lịch sử bịa đặt, bởi chính các nhà văn, cần phải được mang trở lại nền nhà cũ, cháy rụi, giữa những cột nhà cháy đen như kỵ sĩ không đầu. Lòng hoài niệm của người Việt khác với hoài niệm của các dân tộc khác. Lòng hoài niệm ấy không phải là sự tưởng nhớ thụ động, mà là cố gắng cần nhiều năng lượng, như bơi ngược dòng, để khơi mở sự hiểu biết đối với những lầm lạc, từ nhiều phía, thiết lập căn tính của cái sắp tới. Trong ba ngày tôi đi khắp phố phường, một thành phố nửa ngủ nửa thức với vẻ đẹp mơ màng của đồi xanh thông reo, từ đường Yersin ngang qua trường sư phạm, tu viện Dòng chúa cứu thế, trường Sacré Coeur, nhà thờ Con Gà, những kiến trúc cổ kính, dịu dàng. Như thế là trong những ngày buồn tôi đã khám phá ra Đà Lạt theo kiểu của mình, đi theo gót chân của bác sĩ Yersin, đứng trước Grand Lycée hình cánh cung, xây năm 1927. Tôi gặp một người đánh xe ngựa rộng lòng bác ái đã cho tôi đi nhờ nhiều đoạn đường, chỉ phải trả một ít tiền tượng trưng, vét hết túi cũng chỉ còn chừng ấy. Chúng tôi đi dọc đường Huyền Trân Công Chúa. Tới gần thác Cam Ly, vượt qua trường Couvent des Oiseaux cũ. Khi trở về, tôi dừng lại thật lâu trước Ga hỏa xa. Ba mái chóp nhọn tiêu biểu cho ba đỉnh núi Langbiang huyền bí. Nhà ga được xây dựng từ năm 1948, thời kỳ chiến tranh Việt Pháp ác liệt mà các kiến trúc sư vẫn còn đủ kiên nhẫn để thiết kế một trong những tòa nhà đẹp nhất. Tôi nghe nói ở đó có một đường ray răng cưa vượt đèo Ngoạn mục nhưng không thấy đâu nữa. Tôi muốn đi thăm trường Võ bị quốc gia lừng lẫy, hỏi một ông già bản xứ, ông ta trợn mắt, nhìn trước nhìn sau, sợ hãi.
Đến Đà Lạt, xứ sở của khách từ phương xa, có người đến và đi luôn, có kẻ đến và ở lại, tôi có dịp nghĩ về cái chết của anh Tốn, về cuộc chiến đấu dũng cảm, đơn độc của anh, về những bất hạnh của chúng ta trong ngọn lửa cách mạng bạo động. Nhưng tôi cũng có dịp lần đầu thưởng thức vẻ đẹp không những của núi đồi Đà Lạt mà còn của kiến trúc do con người tạo ra. Người Pháp để lại trên đất nước này những công trình mỹ lệ. Lòng yêu mến, sự quan tâm của họ thật đáng ngạc nhiên. Tôi lặng lẽ quan sát những bậc thềm nhà, những cánh cửa gỗ, những vòm mái cao, những nắm cửa bằng đồng. Tôi đứng ngắm sắc màu đậm nhạt, những bức tranh, những đường vòng cung quý phái của các bức tường trắng. Các tảng đá nghiêm lạnh bên hồ nước cũng dạy tôi nhiều về huy hoàng tráng lệ, về cô đơn lẫm liệt, chúng đòi hỏi tôi tự mở lòng ra để đón nhận ngoại cảnh. Kiến trúc ở đây gợi ý về hạnh phúc lâu bền, tồn tại trăm năm, ngàn năm, không những bởi chất liệu kiên cố mà còn vì vẻ đẹp của chúng. Người Pháp là bậc thầy của kiến trúc. Kỹ thuật và công nghệ bê tông, gạch đá, cửa kính, mái ngói, kỹ thuật và công nghệ kim loại, sắt thép và chất dẻo. Nhưng ở đây còn một điều gì khác nữa, như thể trong khí trời mát dịu, giữa sắc hương hoa, chủ nghĩa thực dân của thế kỷ mười chín, hai mươi, đã đi một đường vòng rất xa đạt tới đỉnh cao huyền thoại của nó trong việc tạo dựng vẻ đẹp nhân bản ở nhiều xứ sở, không những mang văn minh Pháp đến các xứ sở ấy như cái cách mà họ làm lan truyền Voltaire, Jean-Jacques Rousseau, mà còn phát hiện được, xây dựng lại, bồi đắp nên vẻ đẹp của chính dân cư và vùng đất mà họ đến. Những kiến trúc ấy gợi ý cho tôi rằng giải pháp hay nhất của các dân tộc bị trị vào thời ấy không nằm ở các biện pháp vũ lực, ở sự sợ hãi, ở việc hủy hoại, nói dối, cướp chính quyền, vì trong khi chúng phá hủy những thiết chế xã hội của người Pháp thì chúng sẽ tàn phá lập tức cái đẹp mà truyền thống và đất đai xứ sở này sáng tạo nên. Đó là những suy nghĩ của tôi trong một ngày mùa xuân bên đường phố vắng, khí trời trong sạch.
Có lần trong ngôi nhà của chị Thanh ở Mỹ gần Seattle, nơi chị sống chung với con trai, cháu Lam Điền, lúc ấy chưa vợ, chị kéo tôi vào một căn phòng kín, như cái thư viện nhỏ. Chị cố tìm một cô bé trong một bức ảnh nào đó mà chị quảng cáo là đẹp, hiền, biết nấu ăn, vì muốn giới thiệu cho tôi, hồi đó độc thân. Do sự hào hứng bất ngờ, chị đành phải lục tung những giấy tờ kỷ niệm và hàng chục cuốn album tranh ảnh của gia đình. Nhưng khi lật những bức ảnh chị không thể cưỡng lại ý muốn giải thích cho tôi về những nhân vật trong ấy, và ý nghĩa của chúng.
Đây là hình Đinh Cường đứng trước kệ sách. Đây là Phạm Công Thiện và Hoài Khanh ngồi trên bậc tam cấp, ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng. Hoàng Ngọc Tuấn, cao, hiền lành, cười nửa miệng. Trịnh Công Sơn gần như ngồi bệt xuống sàn nhà, chân co chân duỗi, cây đàn guitare để gác lên cái ghế thấp bên cạnh. Không hiểu vì sao trong nhiều bức ảnh, Trịnh Công Sơn thường ở trung tâm. Đám trẻ trước đây, và cả bây giờ, gọi họ là Thiện, và Sơn, vì đối với họ, Phạm Công Thiện là tuổi trẻ lạc loài, Trịnh Công Sơn là tình yêu hư ảo. Và Hà Thanh, áo dài, tay áo xắn lên gần khuỷu tay, cầm ly nước như sirop trái cây. Và Khánh Ly, nhiều bức đẹp tôi chưa từng thấy trên báo chí. Trong tất cả, bức mà tôi chú ý nhất là của Vũ Khắc Khoan chụp chung với chị, hai người đứng bên cửa sổ, phía sau lưng họ ánh mặt trời rọi xuống, và đứng chéo góc xa hơn, một người phụ nữ với khuôn mặt nhìn nghiêng, chị ngắm lui ngắm tới mãi, rồi bảo, Phùng Thăng. Người dịch Kẻ lạ ở thiên đường đó sao, đời sống của nàng là một bản thánh ca viết bằng đau khổ và thương yêu.
Nhìn trong ảnh, trí thức thời ấy lãng mạn nhưng đăm chiêu. Khí chất ấy có lẽ toát ra từ nhân phẩm riêng hoặc từ vị trí quý tộc mà xã hội ban tặng. So với họ, trí thức bây giờ trông nhốn nháo hơn. Xúc động trước hàng trăm ảnh đẹp, tôi quên mất hỏi chị chi tiết. Quên hỏi chị bức ảnh rất lạ của Bùi Giáng ở đâu, nhà chị hay nơi khác, vì có hình của chị Nhung, em gái của chị, hậu cảnh lại mờ. Khi xa rồi nhớ lại câu hỏi, chị không trả lời. Chị không thể trả lời. Chị đã thuộc về một thế giới khác, không quê hương, không ký ức. Con người trần thế không lưu giữ ký ức thiên đàng. Một lần trên điện thoại, sau nhiều phút im lặng chị bỗng nói mấy chữ tôi không nghe được. Chị phải lặp lại, phát âm rõ hơn. Ngàn Sâu. Ngàn Phố. Nhưng chị Thanh một người Đà Lạt, rồi Sài Gòn, rồi nước ngoài, nhưng anh Tốn, một trung tá, phó tỉnh trưởng phụ trách quân sự những năm sáu mươi, thì có mối liên quan ra sao đến Ngàn Sâu, Ngàn Phố? Sau này đọc lại cuốn tiểu thuyết Cõi đá vàng của chị (*), tôi hình dung đó là ký ức thời kháng chiến. Hạnh phúc đôi khi là quên lãng. Nhưng chị không muốn quên, chị muốn nhớ lại. Không phải chị muốn, mà những tế bào thần kinh sắp tê liệt của chị, những ốc đảo cuối cùng giữa hoang mạc, thỉnh thoảng lại phóng điện, như tia chớp. Chúng muốn.
Tài liệu viết, sông Ngàn Phố, còn gọi sông Phố, bắt nguồn từ núi Giăng Màn thuộc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, gần biên giới Việt Lào. Sông Phố chảy từ Tây sang Đông tới nơi giáp ranh huyện Hương Sơn với huyện Đức Thọ. Tại ngã ba Tam Soa nó nhập với sông Ngàn Sâu, tức sông Sâu, từ các huyện Hương Khê, Vụ Quang chảy từ phía Nam lên để tạo thành sông La. Đến lượt sông La chảy vào sông lớn hơn là sông Lam. Thời kháng chiến chống Pháp thượng nguồn sông Sâu và sông Phố là những chiến khu nổi tiếng. Khi nhắc đến chữ ấy, giọng chị xa vắng. Như một người đang đi bỗng mất phương hướng, nhìn quanh, không còn ai. Cùng với những người khác, cuộc đời họ, câu chuyện của họ, những cái chết bí mật, tra tấn, tù đày, mất tích, những đầu mối không tồn tại, những biên giới xóa. Bạn không thể trở về, không những cha mẹ không còn mà căn nhà cũ không còn, không những căn nhà cũ không còn mà ký ức về nó cũng không còn. Đó là yếu tính của hoài niệm của người Việt hôm nay, dù Bắc hay Nam. Câu thơ quốc phá sơn hà tại không đúng. Sơn hà không còn. Chỉ còn con người mờ nhạt như những cái bóng của nền văn hóa xa lạ. Nostos trong tiếng Hy lạp là trở về, algos là đau đớn, nostalgia là đau khổ khi trở về, là hoài niệm.
Hậu quả xấu nhất của các cuộc xâm lăng là xóa sạch văn hóa của vùng đất bị chiếm đóng. Cuộc chiến tranh chấm dứt năm 1975 không phải là cuộc xâm lăng theo nghĩa thông thường, kiểu một nước này chiếm một nước khác, nhưng về mặt văn hóa đó là cuộc xâm lăng vì hai tính chất: xóa sạch lịch sử và tạo dựng cái mới. Vì vậy trên nền nhà cũ đã cháy, không còn tro tàn. Không còn nhà. Ký ức của những người như chị Thanh là tài sản tinh thần của thế hệ sau. Có lẽ đối với chị có hai quãng đời đẹp, những ngày ở Đà Lạt bên gia đình, những người bạn dưới bóng hoa vàng, tích niên kim nhật. Chị còn có những ngày cũng đẹp như thế, bên chàng trai mới lớn, khẩu súng với cây đàn guitare, hai kẻ si tình, chị và anh Tốn của tôi, trốn cha mẹ bỏ nhà ra đi, hớn hở bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Như những kẻ sẽ bị phản bội, như những kẻ sẽ phải bỏ trốn. Một thế hệ lúc nào cũng lạc đường, bị vây khổn. Ký ức là mặt hồ im lặng. Bạn đã ném một thứ gì vào đó. Bạn đi vòng quanh, dáo dác tìm, chẳng tăm hơi.
Thân sinh của anh Tốn và anh Tấn, tức cậu tôi, gia cảnh nghèo, sinh bất phùng thời chữ Hán không được dùng, trở thành nông dân bất đắc dĩ, nhà lại đông con. Bà ngoại tôi có một người em gái ở Huế, thương cháu, gọi cậu tôi về cho không một con bò để cày cấy và làm phương tiện sinh sống. Khi cậu tôi cầm sợi dây thừng dài dẫn con bò từ phố qua đò Thạch hãn về làng, cũng là lúc bản án dành cho cậu được viết xong. Bọn du kích bắt cậu lên rú tra khảo. Đến ngày thứ ba, cậu không chịu nổi nữa, đành ký giấy tình nguyện hiến con bò cho kháng chiến, với điều kiện cho phép em gái của cậu, tức mẹ tôi, và đứa con gái đầu lòng của cậu, chị Sim, chị của anh Tốn, được lên thăm. Chúng cho phép.
Khi em và con đến, cậu tôi bí mật dặn họ: phải về mau, vì là con gái, chúng chưa có ý định thủ tiêu, đem hết cả nhà tản cư về tỉnh, đêm nay hay đêm mai thôi chúng sẽ giết anh, giết cha. Chúng đánh gãy hết các xương sườn của ông, nên ông biết bản án tử hình đã được ký. Tối hôm đó bọn du kích gọi cậu tôi đi thẩm vấn như thường lệ. Chị Sim khóc lóc nhứt quyết đòi đi theo. Chúng cho chị đi. Người cha bị dẫn sâu vào truông cát, sau cánh đồng bắp bạt ngàn, ven khúc sông uốn cong về thị xã, khủy tay trói ngoặt lại. Đứa con gái lẽo đẽo theo sau. Chúng bất ngờ dùng báng súng đánh vào đầu cậu tôi đến vọt óc ra, trước cặp mắt kinh hoàng của chị Sim. Rồi đào hố lấp xuống. Đứa con gái khóc thét, lăn xả vào ôm lấy cha. Thuận tay, chúng lấp huyệt chôn sống luôn chị Sim trên đồi cát. Mẹ tôi tất tưởi chạy về nhà mang theo lời dặn của anh trai. Từ đó vang vọng mãi trong con cháu gia tộc lời dặn: phải chạy cho xa. Anh Tốn lúc ấy là cán bộ đại đội của Việt Minh, nghe tin cha bị giết, bỏ ngũ về thành. Anh Tấn, thoát chết trong một trận ruồng bố của Tây, tha phương cầu thực, mãi khi hòa bình lập lại sau hiệp định Genève, nhớ làng nhớ nước, trở về quê cũ cày cấy, lo mồ mả kỵ giỗ. Để khỏi đi lính xa nhà, anh tham gia lực lượng dân vệ, nghĩa quân. Đó là lực lượng bán quân sự, đồng lương chết đói, nhưng được cái gần nhà. Nghĩa quân là người lính vô danh, chân lấm tay bùn, nhưng là lực lượng đẩy lui các cuộc tập kích dữ dội của du kích, vì họ thông thuộc đường lối, chiến đấu gan dạ. Hôm ấy, anh Tấn hỏi đi hỏi lại chỉ một câu, o còn nhớ không. Mẹ tôi làm sao quên. Nhưng có một người mẹ Việt Nam nào, khi nhìn thấy một thanh niên mặt non nớt như con mình, một người lính máu chảy ướt đầm vạt áo, ruột lòi ra ngoài, mặt tái ngắt, sắp ngất đi vì đau đớn, có người mẹ nào có thể đứng yên mà nhìn?
Kahlil Gibran bảo: quên là hình thức của tự do. Nhờ quên chúng ta mới sống được. Quên không phải là tha thứ, nhưng trong tha thứ có quên lãng. Buổi trưa ngắm bụi hoa mimosa vàng, rào tường vi trắng, nhìn ngược trở lại mái nhà chưa chi đã phong rêu, tôi nhìn thấy tác động của nhà cửa, kiến trúc, đường sá đối với không gian tinh thần của xã hội. Ngôi nhà được xây kiên cố, đường nét uy nghi dịu dàng. Nơi chốn xứng hợp của một salon văn nghệ. Kiến trúc, trong sự hòa hợp với thiên nhiên, tạo ra khung cảnh sống nâng đỡ tinh thần một thế hệ. Nhà cửa, đường nét kiến trúc tạo ra sự cân bằng giữa cái đẹp và cái thiện. Con người sinh sống trong một khung cảnh như thế, hay từ xa đến trước một khung cảnh như thế, là tự đem mình đến gần cái trang nhã. Sự trang nhã là anh em song sinh của lương tri. Những kiến trúc kỳ quái, bất ngờ, hay ảm đạm, buồn tẻ ít gặp ở Đà Lạt, những kiến trúc phô trương màu mè, mà sau này hình như ngày càng nhiều ở Hà nội, Sài gòn, cũng ít thấy ở đó. Sự cân bằng khác với sự đơn điệu. Sự cân bằng đạt được giữa một bên là những đường nét phức tạp, sang trọng, các trang trí đắt tiền, và một bên là sự giản dị, thanh khiết, thậm chí nghiêm khắc. Sự phối hợp các mặt đối lập giữa đường nét kiến trúc lớn, cứng, thẳng và đường cong uốn lượn, mềm mại, thon thả thể hiện tính cách khác biệt trong cùng một người: mạnh mẽ, dữ dội và linh động, khoan dung. Như thế không phải chỉ vẻ đẹp kiến trúc làm tôi đến gần mà còn sự tốt lành của chúng, tạo ra hấp dẫn. Đó là cân bằng giữa thiên nhiên và vật thể do con người tạo ra, sự cân bằng giữa nội tâm và ngoại cảnh, giữa đời sống tâm hồn một cá nhân và các thiết chế xã hội, không những các thiết chế văn hóa mà còn là, và đặc biệt là, những thiết chế chính trị. Một nền chính trị xấu không sinh ra một nền kiến trúc đẹp. Ngược lại, một kiến trúc đẹp chỉ xuất hiện trong điều kiện chính trị thuận lợi, có khả năng kích thích cái đẹp, lòng vô tư, sự bền vững.
Tôi sẽ còn trở lại Đà lạt một lần nữa, với Hoàng, mối tình đầu, người thiếu nữ sẽ ở lại lâu dài giữa ngàn thông reo, bên kia thung lũng có hồ nước biếc. Sẽ ở lại tiếng cười trong veo của nàng trong bụi dâu tím, ngọt ngọt chua chua, ở lại với mùi cà phê thơm thoảng bay trong tóc. Nhưng đó là những năm về sau. Sigmund Freud, trong một bài tiểu luận năm 1915, về sự vô thường, kể lại cuộc tản bộ trên núi với Rainer Maria Rilke, tác giả của Thư gởi người thi sĩ trẻ tuổi, Phạm Công thiện dịch. Mùa hè rực rỡ, bướm bay, hoa nở trên cỏ. Ông thấy hạnh phúc khi đi dạo ngoài trời, nhưng lấy làm ngạc nhiên, nhà thơ trẻ tuổi bạn ông tỏ ra buồn bã, đăm chiêu, đầu cúi xuống đất. Ông nhớ lại không phải vì nhà thơ bận suy nghĩ một đề tài nào khác mà quên vẻ đẹp của thiên nhiên. Mà chính vì vẻ đẹp ấy của thiên nhiên làm nhà thơ nghĩ đến ngày tàn của chúng. Nghĩ đến cái chết, Rilke không thể vô tư thưởng thức giờ phút hiện tại. Sự bất lực của con người trong việc bảo vệ cái đẹp, bảo vệ nền tự do, sự yếu đuối thậm chí a dua của họ trước sức mạnh bạo động, gợi lên ở nhà thơ cảm giác về cái mong manh của một nền văn hóa, một kiếp người. Vẻ lãng mạn đăm chiêu của trí thức ngày trước mà tôi nhận ra trong các bức hình của chị Thanh Sâm có phải cùng lý do ấy không?
Ngày tôi đến Đà Lạt, ngoài cảnh gian khó sau chiến tranh, ở tỉnh Lâm Đồng và Tây nguyên, đang lan tràn dịch sốt xuất huyết. Trong các bệnh viện, trẻ con nằm la liệt. Bệnh do siêu vi trùng Dengue gây ra nhưng từ loại muỗi Aedes aegypti truyền đi. Bây giờ căn bệnh ấy đã giảm, vì thời tiết thay đổi, vì việc thành thị hóa như điên như cuồng bất chấp mọi giá đã tàn phá xong tính hoang dại của các cánh rừng, các hang động, các thác đèo, thung lũng. Nhưng một lúc nào đó, khi ký ức nhân loại về chứng bệnh ấy đã phai lạt, ở một góc phố tối sau hẻm vắng sình lầy, sau khi tất cả dọn dẹp đã xong, cành khô bụi dại đã đốt, khi chúng ta đã quên, trong một vũng nước đọng lâu ngày sau mưa, những cái trứng nhỏ li ti của loài muỗi nguy hiểm chết người kia sẽ được mang trở lại. Sẽ được gieo xuống, sẽ sinh nở, và bắt đầu lớn lên.

nguyễn đức tùng

(*) Nhà văn Trần Hoài Thư:

“Thưa bà. Thưa nhà văn Nguyễn thị Thanh Sâm. Anh em chúng tôi đã tìm được truyện dài Cõi Đá Vàng của bà rồi. Kẻ đánh máy. Người vẽ bìa. Người dò lỗi chính tả. Kẻ viết tiểu sử… Dự án đã hoàn tất. Giờ là in. Là cắt, đóng. là làm bìa, là ép giấy láng… để mang đứa con tinh thần của bà sau bao năm thất tán về lại mái nhà xưa mà giao lại cho chủ của nó.
Dù mái nhà có hoa mimosa vàng ấy đã không còn hiện hữu nữa sau tháng 4-75 nhưng nó vẫn tồn tại trong cuốn sách 414 trang này. Vẫn có Đinh Cường bên cạnh bà, Trịnh Công Sơn, Khánh Ly…. Vẫn có hình ảnh bà bên cạnh chồng và các con, và vẫn có Hoàng Ngọc Tuấn với đoạn văn viết về hai cây mimosa nở bông vàng trên sân….
Mái nhà ấy không mất. Nó vĩnh cửu.”
(https://tranhoaithux.wordpress.com/)

CÔ DÂU

Khi cô vừa ngồi yên vị trên ghế máy bay, hãng hàng không Korea Airline, sau một hồi chật vật đẩy cái túi xách bằng da lớn quá khổ mà mẹ cô tìm hết cách nhét các thứ vào, bắt cô mang rất nặng, sau khi đã phải năn nỉ nhân viên soát vé, lấy bớt đồ lỉnh kỉnh ra cho nhẹ, để được mang nó vào máy bay thay vì gởi ở khu vực hành lý, sau khi thắt dây lưng an toàn, đưa mắt lo lắng nhìn qua cửa sổ máy bay, mây lờ lững, ngay vào lúc ấy thôi thì mọi người, những bà dì, bà cô, chị em họ, nói chung là tất cả, đều đã có cảm giác rằng cô đã xuống đến phi trường Seattle, đã bước đi trên đường phố tráng lệ, đã lái một chiếc xe hơi bóng nhoáng sơn màu đỏ chói, đã nói tiếng Anh như gió, đã mua được một căn nhà sáu phòng ngủ trên đồi, và dĩ nhiên một người như thế thừa khả năng để bắt đầu gửi tiền về Việt Nam cho mẹ cô, cho mọi người.
Sau khi cô đã đi rồi, mọi người còn đứng tụ lại trên khoảng sân nhỏ, có người ngồi ở bậc cửa, vì căn nhà quá nhỏ không đủ chỗ để ngồi, những bà mẹ trẻ vừa vạch áo cho con bú, vừa lấy tay đập muỗi trên má đứa trẻ, trở nên bớt cằn nhằn, cười nói vui vẻ và dễ dãi với những đứa bé lớn hơn, nghịch ngợm, vì nghĩ đến một tương lai mơ hồ chờ đợi họ. Có người tưởng tượng những cái bóp da nho nhỏ xinh xinh, có người mơ màng những đôi giày cao gót, cô đã hứa với họ. Cha cô bảo ông chỉ thích một cái ra dô để nghe tin tức, ông nói thế nhưng cô biết là ông cần nhiều thứ hơn nữa. Mẹ cô không nói gì cả, nhưng đó là sự kín đáo của một người lãnh đạo, tổ chức từ đầu đến cuối một công việc với mục đích rõ ràng.
Sau chuyến bay bốn giờ đồng hồ mà cô chẳng thấy mệt mỏi gì và không chóng mặt hay buồn nôn như người ta vẫn nói, có lẽ vì cô quá lo lắng hoặc quá sung sướng, hoặc cả hai, cô xuống phi trường Seoul trong một thời tiết êm ả, đẹp tuyệt, hơi mây mù nhưng không có mưa, ánh sáng mặt trời rắc lên đám cỏ xanh ngoài phòng đợi lấp lánh nhảy múa. Cô mua một cái bánh sandwich để ăn cho đỡ đói vì trên máy bay mải suy nghĩ, hồi hộp, cô chưa kịp ăn bữa ăn chiều thì người tiếp viên đã dọn mất rồi. Cô không có ý định mua cái bánh sandwich mà định mua thứ khác và một chai nước ngọt nhưng do không biết tiếng Anh, cuộc trò chuyện giữa cô và người bán hàng, một phụ nữ nhỏ bé, gắt gỏng, trở nên một cuộc thử thách đáng sợ nên cô đành chấp nhận món ăn kỳ quái, không kèm theo nước uống. Nhưng những thứ đó không đủ làm cô bực mình, chúng chẳng phải cực khổ gì lắm. Cô không phải là nàng công chúa có thể mau lẹ cảm nhận được hột đậu nhỏ ở dưới ba tầng nệm trắng; mới hôm qua đây thôi cô còn chạy qua đồng giữa trưa nắng gắt mang bữa cơm độn sắn và khoai mì, dưa cải cho cha của cô đi cày; mồ hôi lấm tấm trên mặt, cô suýt vấp ngã trên những luống cày, đất cứng như đá vì ba mươi tám ngày không mưa.
Anh nói với cô rằng những ngày khốn khổ của cô sẽ được đền bù, rằng bất chấp tất cả, khuôn mặt cô vẫn mịn màng, đẹp tuyệt và vì anh là một kỹ sư cao cấp trong hãng điện tử Hoa Kỳ, cô không nhớ là tên gì, nên việc chăm sóc sắc đẹp cho cô sau này không phải là chuyện lớn, vấn đề là cô phải trải qua những thử thách nho nhỏ; thử thách như kiểu cái bánh sandwich khô như củi xem ra không đến nỗi nào. Đồ đạc của chuyến xuất ngoại vẫn còn để đầy phòng, những bộ quần áo mà cô vừa mới may ở quán may đầu làng, chưa kịp mặc; hồi đó chưa có quần áo may sẵn như bây giờ, người ta phải đi mua vải tự may lấy. Mấy cái xách tay đã lộn trái ra ngoài không kịp xếp lại, hai ba đôi giày lỏng chỏng, những cái hộp giấy lớn vuông vức quấn bằng dây gai nhiều vòng, che mất cả địa chỉ nơi đến, chỉ chừa lại những chữ “Seatle…USA..” nằm chắn ngay ở cửa phòng, những đồ trang điểm của đàn bà con gái, những gói đồ thức ăn , như thịt chà bông, tép khô mà hai mẹ con thức suốt đêm bên ngọn lửa liu riu chăm chút làm để mang đi vì nghe nói anh thích những món ăn thuần túy và đậm đà bản sắc dân tộc, những thứ giấy tờ linh tinh khác, một cuốn tiểu thuyết của một nhà văn Sài Gòn thường thường bậc trung nhưng ăn khách và cuốn sách dạy nấu ăn dành cho các cô dâu trẻ và hạnh phúc vì người lớn tuổi và không hạnh phúc quần quật trong bếp khói bếp mù cả mắt chẳng hơi đâu mà ngó tới, cô mang theo để đọc, vì thời ấy, đầu những năm một chín tám mươi, không có online như bây giờ. Cô đã học hết lớp mười trước khi nghỉ để phụ giúp việc gia đình và thời nhỏ rất mê đọc sách. Suốt nhiều ngày chúng không hề được chạm tới, những bức ảnh dán trên tường của cô cười xinh xắn, những bức ảnh có hình của anh và cô đi chơi biển Vũng Tàu, bước đi trên cát như những cặp tình nhân thơ mộng trong phim ảnh, quả cam để trên bàn từ xanh đến vàng đến khô, những người bạn thời nhỏ của cô đến ngồi bên cạnh giường, thương xót nhìn cô nằm thiếp trên giường, từ chối không ăn không uống, không khí vương mùi cỏ dại trong đất mới lật bay qua.
Cô chẳng nói gì, mẹ cô càng la lối, vừa la lối vừa khóc lóc thì cô càng im lặng, cha cô uống rượu nhiều hay lấy cớ để uống rượu nhiều thì không ai biết, ngồi trên chiếc bàn đóng bằng mấy cây tre khép lại dưới gốc mít đang ra những trái non, có những trái nhỏ bằng đầu ngón tay cái. Những người bà con và hàng xóm đi ra đi vào thì thào trò chuyện, có người thương xót, có kẻ thỏa mãn ra mặt vì lòng ghen tị của họ đã được thỏa mãn mà lòng ghen tị của người Việt thì vô địch thế giới, càng có tự do càng ghen ghét càng khổ cực càng soi mói, những con ruồi xanh bay vo ve ngoài cửa, một con đậu lên mí mắt một đứa trẻ, một con đậu lên bầu ngực căng phồng của người mẹ trẻ đang vạch áo cho con bú, con ruồi trông xa như một nụ hôn giận dữ. Cô nằm trên giường vòng hai tay lại nhìn trần nhà thấy những cái bóng đi qua đi lại, thấy anh đứng ở cửa phi trường ôm một bó hoa lớn gồm toàn hoa hồng đỏ nở nụ chúm chím, cô đếm đủ năm mươi hai cái, sao lại năm mươi hai? Cô chợt nhớ ra đó là tổng số tuổi của cô và anh, những nếu thế thì năm mươi mốt chứ không phải năm mươi hai vì còn ba ngày nữa mới đến sinh nhật của anh, đó là tính theo tuổi Tây, khi anh hỏi tuổi cô đã trả lời là cô hai mươi mốt tuổi, biết ngày sinh thì anh cười phá lên vì thực ra tính theo dương lịch thì cô mới mười chín tuổi, cô biết mình không đẹp lắm, chỉ có nét mặn mà duyên dáng, cô có yêu anh không cô cũng không biết vì cảm giác ân huệ mà anh mang lại lớn quá, cho mẹ cô và cả gia đình, nên cô chẳng còn thời giờ đâu mà nghĩ đến chuyện thổn thức của trái tim. Cô gần như sung sướng ngả đầu vào vai anh lập tức khi mẹ cô dẫn cô tới nhà anh lấy một cớ gì đó để tìm cách ra mắt đứa con gái và cô được anh chấm ngay trong lần đầu tiên giữa những ứng viên sáng giá khác.
Nhìn vào mắt cô, anh dịu dàng bảo: em có ba ngày để suy nghĩ. Được chứ?
Giọng anh ngân nga như hát.
Đó không phải là một câu hỏi. Cặp mắt anh thật là đẹp.
Cô chẳng cần đến ba ngày. Cô chỉ cần ba phút.
Nằm yên như thế một lúc cô bắt đầu nhận ra cái dáng của anh và tiếng cười khanh khách của một người đàn ông hơi quá tự tin, đang ban cho cô những ánh sáng của hạnh phúc, nhưng cô nhìn thấy những cái bóng khác nữa, mới đầu không nhận ra là ai, khi chúng đến gần cô hoảng hốt co rúm người sợ hãi, cô ngửng đầu ra khỏi cái gối, lấy tay che mặt một lúc rồi lại mở ra nhìn chăm chú, nửa tò mò, nửa sợ hãi; nửa lạnh lùng, nửa giận dữ. Cô ngạc nhiên thấy ở phi trường Seoul có những bông thược dược vàng mà cô chỉ thấy có ở quê mình, trồng bằng củ mỗi năm đào lên, cô vùi trong than bếp, kín đáo để ở góc bếp không ai biết, gần quá chúng sẽ nóng, xa chúng sẽ chết vì lạnh, mỗi năm cô gieo xuống đất và chờ ngày hoa nở dọc hàng rào, rất xa nhà vì ở xứ này đất còn nhiều và không ai lẩn thẩn đến nỗi đi trồng hoa ở ngoài bờ ruộng nên chỉ mình cô là biết đến những luống hoa nho nhỏ của mình. Cô đang ngẩn người ngắm những bông thược dược vàng, thật ra là tulip, thì vô ý đụng phải một người mang ba lô đi qua; anh ta nói gì đó như xin lỗi rồi ngồi xuống trước ghế ngay trước mặt cô. Phòng đợi đông nghịt người, dồn lại nhiều chuyến bay bị trễ vì một cơn bão di chuyển qua Thái bình dương. Những nhân viên hàng không tất tả chạy ra chạy vào không kịp trả lời các câu hỏi, không kịp giữ vẻ lịch sự và văn minh thường ngày.
Trên chuyến bay không có một người đồng hương nào để cô có thể hỏi chuyện. Cô đứng hồi lâu trước màn hình chạy những hàng chữ thông báo chuyến bay, ngơ ngác không biết chúng viết gì, cuối cùng cũng đủ sức nhận ra rằng mình cần lên chuyến bay đi Seattle trong vòng sáu giờ đồng hồ nữa. Đó là một thời gian khá dài, cô không dám đi đâu cả, nhưng cái bánh sandwich làm cô khát khô cổ. Người thanh niên mang ba lô mà cô đụng phải tỏ ra thân thiện và tử tế đưa mắt nhìn cô đoán chừng cô cần giúp đỡ. Anh hỏi chuyện và nói tiếng Anh rất chậm để cho cô nghe rõ, thực ra là đoán, đó là một người có khuôn mặt lai châu Á, hình như dân địa phương thì phải, nhưng cô không chắc lắm, vả lại điều ấy không quan trọng, và cô đánh bạo trả lời bằng thứ tiếng Anh bập bõm của mình, khoa chân múa tay, một lúc thì hai người bắt đầu hiểu nhau, anh ta đứng dậy nhờ cô trông giùm cái ba lô và đi mua một ly cà phê, hỏi cô có uống gì không, nhưng cô lắc đầu. Anh ta trở lại với ly cà phê và một cái bánh, một chai nước ngọt cho cô làm cô ngạc nhiên. Cô không quen với phép lịch sự phương Tây. Cuối cùng cô từ chối cái bánh nhưng chịu nhận ly nước ngọt vì quá khát, rồi cô buồn đi tiểu vì ngồi đợi quá lâu, phần vì hồi hộp, bụng dưới của cô kích thích dữ quá, không chịu đựng được cô đành đứng lên và gửi cho người thanh niên tử tế cái túi xách tay của mình. Trong hành lang tối và hẹp cô đứng khá lâu sau hàng dài những người đứng đợi trước khi vào được phòng vệ sinh, vì các chuyến bay bị trễ nên phi trường rất đông người, trong phòng vệ sinh cô đau bụng vì ăn phải thức ăn lạ, bụng cô không quen bơ sữa. Cô uống một nửa chai nước ngọt, nhận ra nó ngọt quá, vẫn không đỡ khát, nên quay lại bụm hai tay uống thêm nhiều hớp nước nữa ở dưới vòi rửa tay của phòng vệ sinh. Vòi rửa tay điều khiển bằng quang điện tử làm cô lúng túng mất gấp ba thời gian, thỉnh thoảng mới chịu phun ra một tí ti nước như trẻ con đi tiểu chẳng thấm vào đâu. Cô quay lại một lần nữa trước gương để soi lại mái tóc, nghĩ đến anh, những cử chỉ mà người ta hay làm khi do dự hay khi hạnh phúc, khi vừa lo lắng bất an vừa tin tưởng vào tương lai, tóm lại là cô trở lại chỗ ngồi trễ, rất trễ, đến nỗi chuyến bay của người thanh niên kia bay đi đâu đó đã cất cánh mất rồi, và anh ta không còn ở đó nữa, và cái túi xách của cô không còn ở đó nữa, tất nhiên, và giấy tờ bảo lãnh do tòa đại sứ cấp không còn ở đó nữa, và tờ hộ chiếu nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam màu xanh lá cây mà cô đã cẩn thận nhét ở dưới đáy xách ở giữa hai vé máy bay, một cuống vé từ Việt Nam đến Seoul đã dùng và một tấm vé từ Seoul đi Seattle sắp dùng, cũng không còn ở đó nữa.
Cô hoàn toàn hỗn loạn, và sự hỗn loạn nhân đôi bởi ngôn ngữ bất đồng, và mọi người không ai hiểu cô nói gì cả, tất cả các nhân viên phi trường, tất cả các người tốt bụng đi ngang qua không ai hiểu cô đang gặp chuyện gì cả hay mọi người trong một buổi chiều mưa bão lạnh lẽo đã mất hết khả năng giúp đỡ người khác hay vì đơn giản là chẳng biết giúp cô thế nào. Cô không thể đi đâu được trên thế giới này vì không tự xác định được mình là ai.
Hãng máy bay Hàn quốc đã mau lẹ quyết định gửi cô lên chuyến bay sớm nhất trở lại Sài Gòn, sau này ở Tân sơn nhứt người ta bảo như thế là tử tế lắm chứ còn họ có thể vứt cô ra đường để mặc cho bọn chuyên bắt cóc phụ nữ và trẻ em vì trong tay cô không có một thứ giấy tờ nào chứng nhận cô là hành khách của họ hay là công dân hợp pháp của bất kỳ một quốc gia nào có chủ quyền thậm chí không chắc cô có phải là cư dân hợp pháp của hành tinh này hay không. Bằng cách nào cô đã đi từ Sài Gòn về nhà thì cô không nhớ được, bằng cách nào cô đã đứng thật lâu trước cửa nhà cha mẹ mình đêm trăng khuya khoắt hai giờ sáng và rụt rè gõ lên cửa thì cô không nhớ được, bằng cách nào cô đã gọi điện thoại báo tin cho anh ở Seattle thì cô không nhớ được, hoặc là anh đã gọi từ Mỹ về vì chờ đợi quá lâu ở phi trường, quá nóng ruột, cô cũng không nhớ được.
Cô chỉ nhớ là anh đã an ủi cô, đã bảo rằng sẽ tìm cách để làm lại giấy tờ bảo lãnh cho cô và mua vé máy bay đi chuyến khác. Giọng của anh vẫn dịu dàng vang lên trong ống nghe như hát, không có dấu hiệu nào của sự bực bội, tức giận hay khinh thường. Cô chỉ nhớ là anh đã lặng người đi thật lâu, lâu lắm, đến nỗi cô nghe được không khí mùa hè di chuyển quanh người anh ở đầu dây kia như những vòng sóng trước khi anh nói thế. Cô không tưởng tượng được rằng đó là sự im lặng chết người, của một quyết định.
Những đóa hoa vàng ở phi trường bay lẩn lút trong phòng của cô mới đầu như những con bướm hay những thiên thần trong cổ tích về sau như những con ma trên nghĩa địa đầu làng nơi cô đi học về muộn chiều mưa lâm thâm vừa xoay cái áo tơi mẹ cô chằm bằng lá dừa vừa lúp xúp chạy, nghĩ đến cái bếp lửa ấm ở nhà của mẹ cô, về sau nữa chúng nhiều đến nỗi làm cô hoa cả mắt có một lúc cô đã òa khóc trong đêm nhưng không ai biết, mọi người đã đi ngủ. Mẹ cô, người tổ chức mọi chuyện sau vài ngày hò hét than khóc, tỏ ra có phần lãnh đạm có lẽ vì cố nén sự đau khổ, là người đã báo tin cho cô biết rằng cuộc hôn nhân cuối cùng bị hủy bỏ và anh đổi ý, sẽ không bảo lãnh cho cô qua Mỹ nữa. Vì sao thì người ta không biết, có người cho là vì anh quá thất vọng và giận dữ vì sự ngu ngốc của cô, lại có giả thuyết cho rằng đó chỉ là giọt nước làm đầy ly, anh chỉ chụp lấy cái cớ này mà thôi, vốn anh đã không yêu thương gì cô cả hay mới quen một người đàn bà khác, đã kịp thời nghĩ lại sau khi dại dột hứa hôn, lại có người sâu sắc hơn nghĩ rằng đó là thử thách mà cô không vượt qua được, cưới một cô bé nhà quê như thế để mà tàn đời hay sao, lại có giả thiết cho rằng đây là sự nhầm lẫn tình cờ, chúng cũng nhiều như những con bướm nhỏ xíu không ngừng bay đi bay lại giữa những gói hàng lăn lóc trên sàn nhà bằng đất nện mát lạnh, rịn mồ hôi trong những ngày hè nắng gắt. Những con bướm và những giả thuyết ấy không làm cô dịu được nỗi nhục nhã ê chề, sự thất vọng của mấy mươi người cộng lại, sự phiền trách trong ánh mắt của những đứa bạn chị em họ, vết thương của những gót giày cao gõ xuống tâm hồn cú đánh xây xẩm mặt mày của những cái túi xách bằng da cá sấu làm ở Ý, cô bị nghiền nát dưới bánh của chiếc xe hơi màu đỏ chóe bị vứt trong tầng hầm tối của ngôi nhà sáu phòng ngủ mà cô vừa mới tậu trên đỉnh đồi, không chịu đựng được tất cả những thứ đó, cô đã quyết định bỏ chúng mà đi, đập cánh bay vù mất. Sau đó mẹ cô đã nhặt được dưới gầm giường của con gái một cái chai nhỏ, thứ vỏ chai xá xị con cọp bán đầy ở các quán nước. Đựng một chất nước tối đen, đậm đặc, cô đã uống hết nhưng vẫn còn hôi nồng nặc, bạn chỉ ngửi qua là đã buồn nôn. Thứ nước này nông dân miền Nam ai cũng biết vì dùng để diệt sâu rầy có hại cho mùa màng. Ai uống vào, sau vài giờ, khó cứu được. Cô đã uống hết, không để lại một giọt.
Thật ra, giữa những giấc ngủ chập chờn, cũng có lúc cô đã thức giấc và hoàn toàn tỉnh táo, đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Cô biết mình đang ở đâu. Tiếng chào hỏi ồn ào ngoài sảnh đường, tiếng trẻ con chạy dọc hành lang. Giàn nhạc kèn trống chơi những nốt nhạc khi ấm áp khi lạnh lẽo. Rồi cô nhìn thấy mẹ cô mặc áo gấm xanh thêu hoa kim tuyến đi vào và cô nhớ ra mọi chuyện. Ở ngoài vườn khách sạn, giữa những bụi hồng trổ hoa đầu mùa những cô phù dâu che miệng cười những chàng phù rể ném những bông confetti xanh đỏ lên đầu họ, dãy xe taxi và xe hơi đắt tiền đậu chen chúc chật cả lối ra vào. Một nhóm những người lớn tuổi đứng hút thuốc trò chuyện với nhau bên hồ nước. Anh đến lúc nào không biết, đứng sau lưng đặt tay lên vai, cô quay lại mỉm cười nhìn anh. Cô hỏi: có phải đây là chuyện thật không anh? Hay chỉ là giấc mơ của em? Không đợi trả lời cô lại quay nhìn ra cửa sổ, đứng yên khi anh hôn lên mái tóc của mình. Cô thấy một người thiếu nữ đi tới, mặt khuất sau tấm mạng che mặt, tà áo cô dâu trắng như tuyết phủ dài lê trên cỏ xanh mới cắt, dài đến nỗi cô ta bước đi vướng víu dù có hai đứa trẻ kèm theo sau nâng tà áo lên. Cô dâu kia di chuyển chậm chạp nhưng dáng đi đẹp đẽ thanh thoát đến nỗi cô không thể đoán biết là ai, mỗi lúc một đến gần, rồi bỗng ngẩng đầu lên nhìn vào cửa sổ nơi cô đang đứng: thật ngạc nhiên, cô dâu ấy chính là cô chứ còn ai nữa. Trong khi ấy từ phòng bên dương cầm trỗi lên những nốt nhạc thánh thót mỗi lúc một mạnh mẽ.

Nguyễn Đức Tùng

NGƯỜI CHO THUÊ TRUYỆN

Trước khi sinh ra, tôi đã đi lại trên con đường này.

Hòa bình vãn hồi, dân tản cư trở về từ vùng chiến khu, dựng nhà, cày ruộng, xây trường, tấp nập buôn bán, khởi đầu cuộc sống mới lam lũ nhưng vui. Nhà đông con, mẹ tôi gánh hàng rong bán dọc quốc lộ Một cho đến ngày sinh nở. Lớn lên, tôi theo bà vào ra đoạn đường từ thị xã đến Diên Sanh thăm dì tôi lấy chồng ở Hải Lăng. Ngày hè, gió Lào miên man thổi, mẹ tôi dắt tay tôi một tay giữ chặt nón, hai mẹ con vừa đi vừa bị gió thổi bay trên đường. Thỉnh thoảng tiếng súng từng chặp dội về từ rừng, phía đường xe lửa bỏ không nhiều năm, khuất trong cỏ lau trắng xóa. Tiếng tiểu liên carbine giòn giã, CKC gióng một bắn tỉa, Garand chát chúa. Nhưng nhiều năm súng đạn đã trở thành quen thuộc, trong cái bóng đổ dài của chiến tranh, cỏ vẫn mọc, người ta vẫn phải sống, và nhiều khi sống hạnh phúc.

Trước giờ đi học, tôi được mẹ giúi cho hai mươi đồng để ăn bánh mì xá xíu trưa ở lại trường, mười đồng đi đò ngang, từ làng qua thị xã. Tôi nhịn ăn dành tiền thuê kiếm hiệp. Mê đuổi theo số phận nhân vật, đôi khi tôi xài tạm tiền đò, vậy là tan trường, mùa hè cởi áo quần bơi qua sông về nhà. May nước không sâu lắm, nhưng có khi cũng uống đầy bụng. Trời nắng gió, bước lên bờ tóc đã khô. Đó là những bài tập bơi của tôi.

Thực ra, có một nỗi lo âu vần vũ xóm làng khi xảy ra chạm súng giữa dân vệ hay nghĩa quân của xã, địa phương quân của tỉnh và các toán du kích từ rừng về đánh lô cốt, phục kích viên chức chính quyền, hay chuyển hàng tiếp tế. Có lần, trên đường đi học tôi nhìn thấy một cái xác quần đùi ở trần với những bao thuốc lá Ruby đỏ, Cotab trắng, Melia vàng rơi vương vãi, máu nhuộm chúng đã khô, không ai dám nhặt.

Nước mắt cũng mau khô. Nỗi sợ hãi chóng qua, không khí yên bình tái lập. Lực lượng dân vệ, nghĩa quân hoạt động mạnh, gây cảm giác khá an toàn trong vùng bao quanh thành phố và khu trù mật. Làng tôi bên sông đối diện với thị xã, chiều chiều ánh điện chiếu xuống mặt nước soi lên tuổi mới lớn. Những đứa trẻ mới lớn hay mơ mộng, thích đọc truyện tình và trinh thám kiếm hiệp, cả hai đều lãng mạn, kiểu khác nhau. Hồi ấy ở miền Nam có phong trào thuê truyện, nhất là giới học trò. Các hiệu cho thuê phát triển, truyện kiếm hiệp Kim Dung, Ngọa Long Sinh, trinh thám Z.28, 007, truyện xã hội Dương Hà, Sĩ Trung, Bà Tùng Long. Tôi có nhiều địa điểm thuê truyện, nhưng trong một con hẻm nhỏ ở gần chùa Tỉnh hội, chạy sát bên thành cổ Đinh Công Tráng, dọc theo đầm nước có nhiều hoa sen nở trắng vươn lên dưới vòng rào kẽm gai, một hôm tôi tìm ra địa chỉ thú vị. Ở đầu ngõ hẻm có cái bảng nhỏ đề “Cho Thuê Truyện”, ba chữ sơn xanh nền đỏ, đập ngay vào mắt, mà dù không có cái bảng sơn xanh đỏ ấy, dù chỉ là hàng chữ li ti thì những đứa mê truyện như tôi cũng không bỏ sót. Một ngày, đi học tan trường về, tôi nhìn thấy nó từ sau chiếc cột điện, tôi đứng ngẩn người. Con hẻm sâu, đi loanh quanh một chặp, ở dưới hiên lợp mái tôn của những ngôi nhà lụp xụp, mới cất, của những người từ vùng phía Nam sông Bến Hải, Dốc Miếu chạy giặc giã sau cuộc bình định Ấp chiến lược, dựng tạm. Bên những đứa trẻ da xanh mét mặc áo hở rốn, quần đùi, là những thiếu nữ phấn son lòe loẹt. Tôi không chú ý lắm, vì thời ấy đầu óc còn nghĩ đến thú chơi như câu cá, bắt chim, coi phim cọp và những cuốn sách. Quán là căn nhà nhỏ, phía trước rộng có cái tủ cao mắt lưới, bên trong bày những gáy sách hấp dẫn. Giữa hai chiếc cột lớn là cái võng dù xanh, một người đàn bà còn trẻ thường nằm ở võng cho con bú, khi có khách vào thì mới đứng lên tới phía sau tủ sách, lụi cụi ghi chép. Nhiều lần quen thuộc, tôi biết chị có chồng là đi lính hay xa nhà. Chị có hai hoặc ba đứa con nhỏ, quê Gio Linh, gần cầu Hiền Lương, chạy vào thị xã mới vài năm trước. Chị ít nói, mặt không bao giờ trang điểm nhưng có nét đẹp kín đáo, dịu dàng, tần tảo. Nghề cho thuê truyện không phải là nghề khá giả, nhưng thích hợp vì chị có con nhỏ. Trong tủ có nhiều loại sách, truyện chưởng và tiểu thuyết văn học, từ Phi lạc sang Tàu của Hồ Hữu Tường đến Mối tình màu hoa đào của Nguyễn Mạnh Côn, từ Mèo đêm của Nguyễn Thị Thụy Vũ đến Đêm nghe tiếng đại bác của Nhã Ca, tôi nhớ một đoạn: Hãy mang tất cả về đêm nay cho tôi thấy. Cho ba tôi thấy. Cho em Kim tôi thấy. Cho chị Hạnh thấy. Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Gửi gì không.

Tủ sách của chị ngày một lớn, đầy ắp, khách ngày càng đông, bọn nhóc. Có lúc tôi vào nhà không có ai, ở cửa con chó nhỏ không sủa. Tôi đi lui đi tới nhiều lần, mỏi chân, nằm lên chiếc võng dù êm ái cho đến khi chủ nhà về. Lâu riết thành quen. Tuần nào thứ bảy tôi cũng ghé để tìm đọc một hai cuốn. Tôi đi tìm những thú vui trong chữ, trên giấy, ở ngoài cái thế giới mà tôi đang có, khốn khổ, chết chóc, thế giới có thực ấy cũng đẹp lạ thường nhưng nguy hiểm lạ thường. Tôi đi tìm những con đường khác của đời sống.

Đối với tôi, cuộc đời vừa mới đến.

Nhưng vội tàn. Ngày lễ Phục sinh, thứ Sáu 30 tháng 3 năm 1972, hàng chục ngàn quả đạn pháo từ Vĩnh Linh, bờ Bắc sông Bến Hải, bắn qua giới tuyến, phủ chụp các căn cứ Ba Hồ và Đầu Mầu phía Tây, Cửa Việt và Quán Ngang phía Đông, Cồn Tiên và Dốc Miếu phía Bắc, khởi đầu chiến dịch Xuân Hè. Sau cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân 1968 bất thành, lực lượng du kích rút sâu vào rừng núi, tình hình nông thôn tại Quảng trị, Thừa thiên khá yên tĩnh nhiều năm. Nhưng lần này là cuộc tấn công trực diện của quân chủ lực miền Bắc: các đoàn xe tăng tràn qua sông Bến Hải tiến về Đông Hà. Các loạt pháo kích dồn dập dọn đường cho bộ binh theo sau, được bảo vệ bởi các hỏa tiễn đất đối không từ vùng phi quân sự. Hòa đàm Paris dự trù mở trở lại vào tháng 7 năm 1972, cả hai bên đều tăng cường hoạt động để giành thế mạnh. Ba ngày sau, thứ Hai 3 tháng 4, quân miền Bắc đẩy lùi các phòng tuyến bảo vệ của quân miền Nam, tràn qua Cam lộ, nơi có con đường 9 huyết mạch chạy từ Đông hà qua Lào. Sự viện trợ của không lực Mỹ rất giới hạn, phần do thời tiết mây mù, phần do các mệnh lệnh nào đó, gần như bất động trong thời gian này. Quân miền Nam tổn thất nặng, rơi vào hỗn loạn. Căn cứ Cồn Tiên, Mai Lộc thất thủ. Cầu Đông Hà bị giật sập làm chậm bước tiến đối phương nhưng cũng chỉ được vài ngày. Dân chúng và chính quyền địa phương rút chạy về phía Nam.
Gia đình tôi vào Huế, ở tạm nhà dì tôi bên Đập Đá và nhà chị tôi trong thành Nội, gần trường trung học Hàm Nghi, ngôi trường đẹp thơ mộng có nhiều phượng nở. Ngày 3 tháng 4, khi chúng tôi đang ở Huế, trên vô tuyến truyền hình, tôi thấy tướng Hoàng Xuân Lãm tư lệnh vùng 1 kêu gọi phản công trên các mặt trận. Ngày 6 tháng 4, hỏa tiễn và moọc chê bắn vào Đông Hà. Không chỉ vùng giới tuyến, trong tháng Tư này, trên nhiều mặt trận khác ở miền Nam lửa cũng cháy bừng bừng. An lộc bị vây hãm. Giữa tháng 4, trung tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 11 nhảy dù Nguyễn Đình Bảo tử trận, căn cứ Charlie ở Kon Tum tan vỡ. Sau đó tình tình địa phương trở nên lắng dịu. Hai tuần lễ yên tĩnh, một số dân chúng từ Huế, Đà nẵng lần lượt trở về nhà. Cha tôi mang tôi về quê, nhưng để các anh chị tôi ở lại Huế, vì ông cần trình diện công sở. Đến ngày 27 tháng 4, tình hình lại thay đổi, với các cuộc tấn công từ rừng núi phía Tây vào căn cứ Ái Tử của sư đoàn 3 bộ binh. Ngày 28 tháng 4, Đông Hà thất thủ. Bộ tư lệnh sư đoàn 3 rút qua sông Thạch Hãn về thị xã Quảng Trị. Do phối hợp kém, cầu Ga bắc qua sông Thạch hãn bị giật sập trong khi các toán quân cuối cùng của sư đoàn này và nhiều chiến xa, đại bác chưa kịp qua cầu. Các vũ khí nặng bị phá hủy bên bờ Bắc, trong làng tôi, gây những tiếng nổ làm dân chúng đã sợ hãi còn khiếp đảm hơn. Trên bến đò Nhan Biều tôi qua lại mỗi ngày, những chiếc xe quân sự chúc đầu xuống nước nghi ngút bốc khói, mặt sông dầu loang loáng xanh lè. Ba tháng nữa sẽ loang màu đỏ. Một ngày sau, trưa 29 tháng 4, xe tăng và bộ binh Bắc quân bắt đầu tiến qua sông. Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến, đơn vị thiện chiến nhất của sư đoàn 3, buộc phải rút khỏi thị xã Quảng Trị. Tướng Vũ Văn Giai tư lệnh sư đoàn rời khỏi cổ thành phút cuối nhưng không thể đi xuyên qua đám dân chúng dày đặc trên đường; lực lượng yểm trợ của Mỹ phải gởi trực thăng tới chở ông ta và đoàn tùy tùng rời khỏi cổ thành Đinh Công Tráng. Lữ đoàn 147 rút theo đường số Một đến bờ Nam sông Mỹ Chánh, bị pháo kích nặng nề trên đường đi.

Ngày 1 tháng 5, quân miền Bắc chiếm thị xã Quảng Trị. Dân chúng tiếp tục ra đi trong hoảng loạn. Họ chia làm hai ngả, trên đường quốc lộ mới hoặc rẽ xuống đường quốc lộ cũ, phía biển, từ ngã ba Long Hưng đến chợ Diên Sanh. Quảng Trị nhiều cát, nhiều sông, nhiều rừng, vì vậy chỉ cần đến bìa rừng là đã đặt đường quốc lộ chính vào tầm mắt, lọt vào tầm đạn. Khi các đơn bị địa phương quân bảo vệ các trục lộ giao thông rút đi, quân miền Bắc dễ dàng đưa súng lớn vào trong một đêm. Một vài khẩu đại bác từ trên các đồi cao, gần các thôn Trường phước, Trường thọ, Diên Sanh, từ sau nhà thờ La Vang, từ các điểm cao của vùng Như Lệ, Tích Tường có hồ nước mơ màng, thừa sức uy hiếp đoạn đường từ thị xã vào Huế. Hình như họ đã kiên nhẫn chờ và tìm cách dùng bộ binh để đẩy lui đoàn người tị nạn. Đến một lúc không thể ngăn cản được, họ đã nổ súng, đạn đại bác rót ngay vào giữa mặt đường lộ, trên đầu những người di tản. Ba tháng sau, các lực lượng Nhảy dù và Thủy quân lục chiến phản công từ phía Nam cũng đã đi qua đoạn đường này, đếm được nhiều bộ xương khô còn sót lại.
Dọc đường số Một có những bãi cát trắng và rú thấp, khô cằn, nhưng khi đi sâu vào làng mạc phía Đông, phía biển, sau những đồi cát đầu tiên, cảnh tượng khác hẳn, bạn lại thấy quê hương gió mát trăng trong, nhiều tôm cá. Dưới tác động của gió Lào, cát thay đổi mỗi ngày, từ sáng đến chiều một rú cát bỗng dưng biến mất, từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau một rừng cây lúp xúp bỗng bị che phủ, vì vậy trong vài ngày những xác chết vô thừa nhận chưa kịp bốc mùi đã vùi sâu trong cát. Gió Lào thổi rào rào qua trảng cỏ, cát bay đầy mặt, đầy người, ngứa ngáy, đau buốt. Trên những cánh đồng sau đồi, lúa đã vào mùa sắp chín, trái cây nở rộn ràng trong các khu vườn rộng líu lo chim hót của Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng, Quảng Điền, Phong Điền.

Tiếng đại bác rít trên đầu chúng tôi, tiếng nổ gầm vang, lửa, khói dày đặc, tiếng la hét, í ới, tiếng than khóc, tiếng rên rỉ, hoảng hốt. Đạn bắn rất gần, tiếng súng chống tăng M72 của quân miền Nam, B40 của quân miền Bắc, súng cối, tiểu liên AK 47 đinh tai, M16 sát thương khủng khiếp. Đoàn người chạy ngược lại từ cầu Trường Phước, khi tới cầu Bến Đá, cầu cũng vừa bị giật sập. Chúng tôi cùng với một số người bơi qua sông. Tôi và cha tôi chạy qua những rú, những truông, cỏ lau mọc phất phơ cao ngất, những bụi dứa trái chín vàng ươm, những đồi sim tím, muồng muồng đen, tre cào xước mặt, mây quấn lùng nhùng, chạy qua những căn nhà dân chúng hấp tấp ra đi bỏ lại. Khi ngó xuống, đôi dép sứt quai, hai bắp chân tôi đầy máu vì gai nhọn. Chạy qua một căn nhà trống, gió thổi tơi bời phên liếp, trước cái cột nhà đen bóng, cha tôi dừng lại. Tôi nhìn qua vai ông, trên cột treo tấm lịch hiệu Quán thế âm bồ tát của Khuôn hội Phật giáo, có những tờ xé ra từng ngày. Tờ lịch đứng lại ngày 30 tháng 4. Đó là ngày hôm qua. Một ngày đang còn in dấu tay của người chủ nhà. Chúng tôi dừng nghỉ một lát, nghe tiếng súng nổ xa xa. Tôi đứng đó, nhìn vào con mắt thăm thẳm của thời gian. Thời gian nhìn trả lại. Sau cửa sổ, qua vai cha tôi, đọt lá ổi non chấp chới nắng lay động ngoài vườn.

Có một nỗi sợ hãi khủng khiếp khi bạn chạy lạc, lọt vào tầm đại bác, úp mặt trên cỏ, thân xác phơi ra, không có gì bảo vệ, tiếng depart, tiếng đạn réo trên đầu. Bạn biết bạn sẽ chết. Nhưng chết là khái niệm trừu tượng, siêu hình, sự kết thúc đời sống, cái quan tài, hàng nến lung linh, nước mắt người thân, hư vô, kiếp sau. Cái chết của chiến tranh không phải thế, không kết thúc, đó là sự bắt đầu. Bạn bắt đầu bước xuống tầng hầm tối đen địa ngục, bạn khởi sự đoạn đời khủng khiếp, sợ hãi kêu thét một mình, không ai nghe, không ai biết, bạn kêu gào xin kết thúc, không có tiếng lắc chuông của Địa tạng vương bồ tát, chỉ những bông hoa sim tím bên đường giữa cát trắng dội lại tiếng than khóc của bạn, dội đi dội lại âm thanh ngày cuối cùng. Bạn lớn lên bao giờ cũng tin rằng cá nhân mình là ngoại lệ, mọi người có thể phạm tội ác nhưng bạn không thể phạm tội ác, mọi người có thể rơi vào thảm họa nhưng chính bạn không thể rơi vào thảm họa, người khác có thể phản bội nhưng bạn không phản bội, người khác có thể đạp phải mìn mất một bàn chân nhưng bạn không thể dẫm phải mìn mất một bàn chân trong một ngày sương còn đọng trên cỏ ướt.
Giữa xác thường dân, thỉnh thoảng chúng tôi gặp xác những người lính, những người bộ đội, bên súng cối, súng AR15, súng phóng lựu dài ngoằng. Không chỉ pháo kích, các trận đánh phục kích bên đường cũng diễn ra ác liệt, súng bắn vòng trên đầu, súng bắn ngang. Cha tôi cầm tay tôi chạy hốt hoảng giữa đoàn người, một số chạy về phía Nam tìm vợ chồng con cái thất lạc, một số chạy về phía Bắc khi gặp pháo kích. Tôi lạc mất cha tôi, giữa những cái xác. Đêm tôi thức dậy một mình, nằm trong một cái hố cát nhỏ trong vườn cách xa quốc lộ vài chục mét. Có một tấm vải bạt đắp ngang người tôi, như thể tôi đã kéo xuống từ một cái chòi nào đó, hay là một người nào bí mật đã đi ngang qua và đắp cho tôi. Đêm mùa hè, sao trời sáng rực, nhiều như hoa đăng, sáng đến nỗi bạn có thể nhìn thấy rõ đường chỉ tay. Gió Lào bắt đầu ngừng, xen lẫn với gió nồm từ biển vào đem theo hơi mát, mùi muối mặn, mùi máu mặn. Xa xa con đường số Một nằm trơ trụi, về phía đường xe lửa là rừng rú, về phía Đông là đồng bằng, càng đi xuống làng mạc càng đông đúc. Tôi ngồi dậy, mỏi rã rời, lắng nghe tiếng ve sầu bàng bạc lưng chừng cây như khóc than, báo cho tôi biết rằng đây không phải là nơi trú ẩn an toàn. Bạn phải chạy đi, quê hương không còn là nơi trú ẩn an toàn. Tôi nhắm mắt lại.

Ba.
Papa.
Tôi gọi khẽ.
Không tiếng trả lời.

Hồi nhỏ, tôi gọi cha tôi là Papa, vì ông là thầy giáo Pháp văn, dạy tôi tiếng Pháp thời vỡ lòng. Bạn mười mấy tuổi, những năm đẹp nhất đời, vầng trăng tròn vừa ngự trời cao lồng lộng. Bạn từng sống ngày hạnh phúc, quê hương của bạn kịp thấy trời rạng đông, phảng phất thứ tai ương mới đầu bạn tưởng mình không hề nhúng tay vào, thật ra bạn có nhúng tay vào. Khi không người nào chịu trách nhiệm thì tất cả mọi người đều chịu, sự hủy hoại của chiến tranh trong khi cày xé mặt đất cũng bẻ vụn tâm hồn, biến chúng ta thành người khác, tàn nhẫn hơn, khôn ngoan hơn, điên cuồng hơn. Giữa chiến tranh, không có một niềm hy vọng nào cả, tôi nằm đó, nhìn sao, qua những cành lá, cỏ may, cỏ hổ ngươi, một nỗi buồn rầu xen lẫn giận dữ từ từ dâng lên như khi bạn đi vào giấc mộng, cánh cửa sập lại đằng sau và bạn sống với những quy luật khác. Trong căn phòng của quy luật khác ấy tôi đi lại một mình, dùng một ngôn ngữ không ai hiểu. Tôi còn trẻ quá, nhưng chỉ vài năm nữa thôi nếu chiến tranh tiếp diễn, tôi sẽ phải cầm súng. Đây là đất nước tôi, đây là ngày mai, nhưng tôi chẳng có tiếng nói, không ai có quyền quyết định trước số phận, một nửa dân tộc biết rõ như thế, một nửa chưa biết điều ấy, nhưng không một người nào có quyền quyết định số phận mình. Tại sao nằm giữa chiến tranh, kề cận cái chết, tôi lại nghĩ những điều mông lung, tôi muốn nghĩ một điều gì để quên đi hiện tại, tôi muốn ghi nhớ vì ngày mai xóa sạch ngày hôm nay. Máu sẽ ngừng chảy, nước mắt sẽ khô, người sống sẽ chết, đứa trẻ đi lạc sẽ trở về nhà, thời gian trở thành kẻ dối trá. Để có thể sống bình thường, mỗi người đều phản bội chính mình, như một người mẹ vừa khóc đứa con trên tay, vài ngày sau đã phải áo quần tươm tất ra đường. Chỉ có đất nhận lại lỗi lầm của chúng ta, uống lại máu chúng ta, như chiếc nôi xưa nhận lại hài nhi.
Nếu đời sống trước mùa hè ấy không đáng yêu đến thế, nếu con người tự do không hạnh phúc đến thế, nếu ngày vui chim đã không hót vang trong bụi trúc, thì đêm ấy tôi đã không muốn khóc. Vì nỗi thương tiếc chẳng làm nên tích sự gì, bọn bạo chúa chẳng bao giờ tin vào quyền lực của tiếc thương. Nhưng tôi đã bơi qua dòng sông cùng với cha tôi, rồi thất lạc, rồi bơi một mình qua dòng sông khác, đã nhìn thấy những xác chết đen nhẻm trên đường, đã cầm mảnh đạn pháo nóng hổi màu xám trên tay, mùi kim khí khét rẹt, mùi thịt người cháy xém trong không gian, tôi đã thấy một cánh tay vắt vẻo trên cành tre cao ngất, chim chào mào hay về đậu, đã thấy hàng ngàn người chạy trên đoạn đường chín cây số, đã nhìn thấy một cây cầu đổ ụp phía chân trời.

Bạn có bao giờ nhìn thấy một cây cầu đổ?

Khi chúng tôi vừa vượt qua cầu Bến Đá về phía Bắc được vài trăm mét thì có tiếng nổ lớn, mọi người dừng lại, ngoái đầu, một cột nước cao ngất, tồi đám khói bốc lên, bụi mù, cây cầu bằng sắt đen từ từ nẩy lên rồi chúi đầu xuống ở giữa dòng. Chậm đến nỗi bạn biết điều ấy không có thật. Sau nhiều giấc ngủ chậm chờn, những giấc mơ ngắn, mồ hôi ra đầm đìa, tôi ngồi dậy, từ trong cái hố cát nhỏ trong vườn bên đường số Một nghe ngóng, nhìn lên mặt đường. Tôi ngạc nhiên về im lặng, về tỉnh thức xen lẫn sợ hãi, đôi khi sợ hãi lớn đến mức che mờ ý thức, người tôi run lên từng chập, tôi chỉ muốn chết để kết thúc sự đau khổ ấy, nhưng nhiều khi ý thức trở lại xua sạch nỗi sợ hãi. Vào lúc ấy, bầu trời sáng bừng, khổ đau trở nên hiểu được, nỗi bơ vơ mất cha lạc mẹ trở nên chịu đựng nổi, dù tạm thời. Chân tôi dầm trong cát mát lạnh vì sương đêm, cơn đói tới dồn dập. Tôi bò quanh tìm trái mít rụng, tìm dễ dàng nhờ mùi thơm. Đó là một trái mít ướt vừa rơi, múi còn nguyên, tôi úp mặt xuống, ăn ngấu nghiến, nuốt hết nước mũi nước mật hòa nhau.

Khi đã no, tôi bắt đầu nghe tiếng dế kêu trong cỏ, con dế nào vừa ra khỏi hang đi tìm bạn. Hai tay tôi cầm chặt cái vỏ mít đầy gai nhọn. Có một lúc tôi nhận ra nỗi đau khổ của tôi lớn đến nỗi không một lý thuyết nào có thể giải thích được, có thể tự chứng minh sự đúng đắn của nó. Chiến tranh không chỉ là vết thương súng đạn, mà còn là con đường dẫn tới mọi ảo tưởng, ảo giác, dẫn một dân tộc vào mê lộ ở đó đúng và sai lẫn lộn, thắng và bại lẫn lộn, trước và sau lẫn lộn, một dân tộc, không trừ một người nào, như những người bị kiếm sắc đâm vào mắt, mù lòa, dẫn nhau đi sờ sẫm trong hang động, như trong tiểu thuyết của Kim Dung. Chúng ta sẽ không còn yêu ai nữa nếu chiến tranh tiếp tục. Vì tình yêu cần một cấu trúc vật thể như linh hồn cần thân xác, như tín ngưỡng cần nơi thờ phượng. Trong một thời kỳ đầy rẫy những lý tưởng, mỹ ngữ, xảo ngữ, cuộc chiến tranh đã bắt đầu từ lâu trước khi tôi ra đời, sự đau khổ này tuy diễn ra đột ngột, với nhiều người là kết cục tất nhiên của nhiều năm tháng lầm lỗi của dân tộc, không trừ một ai, ở đó sự hỗn loạn lấn át trật tự, sự độc ác chiến thắng tình người. Nỗi hối hận gõ cửa, đến tìm thăm nơi cội nguồn của bạn, nhưng bạn lúc ấy đi xa, không bao giờ biết. Những nạn nhân của bạo lực bao giờ cũng chết trước khi bạn trở về, không bao giờ kịp kể lại câu chuyện của họ, trước đây vẫn thế, sau này sẽ thế. Bất cứ một gia đình nào cũng vừa có người thuộc phía miền Nam vừa có người thuộc phía miền Bắc, bất cứ một gia đình nào cũng có người thân dù gần hay xa bị Pháp tra tấn hay bị Việt Minh chôn sống. Tội ác và dối trá của người Việt đối với nhau không bao giờ chịu kém hơn tội ác và dối trá của người ngoại quốc, trong chiến tranh, sau chiến tranh.
Khi tôi cầm tay cha tôi chạy trên đoạn đường khỏi cầu Bến Đá, tôi không ngờ rằng tôi sẽ mất người. Những buổi chiều ngồi trên võng tôi la đà đọc, nhẩn nha, theo dõi tâm sự của Kiều Phong, sự lầm lỡ của Nhạc Linh San, cuộc phiêu lưu của Tiêu Lĩnh Vu. Đang học ban toán, tôi bỏ bê, bài tập về nhà không chịu làm. Vì có thói quen học trước lớp vài chương nên bài vở của tôi chưa thay đổi, giáo sư không biết, nhưng tôi biết. Tôi biết nguồn kiến thức của mình cạn dần vì nhiều tháng đem xài hết. Năng lượng của một đứa trẻ mới lớn đã dành theo kịp những đoạn đường mạo hiểm ra Băng hải đảo của Trương Vô Kỵ, những thế võ của Mộ Dung Phục. Ngược lại tôi nhận được một thứ năng lượng kỳ lạ không tên của trí tưởng tượng, của những ước mơ run rẩy, tuy chẳng có ích gì cho môn toán của tôi trước mắt, nhưng về lâu dài cũng có thể đã gieo vào lòng thói quen suy nghĩ mông lung chẳng đâu vào đâu, đối với nhiều người là vô tích sự, đối với một số ít khác là có thể dùng được.

Chẳng bao lâu bạn sẽ mất tất cả.

Nhưng bây giờ bạn có hết. Ngõ hẻm, chị chủ nhà đứng chờ sau tủ sách, nở nụ cười buồn rầu, cây bút chì trên tay chậm chạp ghi tên bạn lên cuốn tập học trò. Người đàn bà ấy ghi thật chậm vừa chép vừa đánh vần, đôi khi đọc thành tiếng. Như vậy tôi có cả buổi chiều, cơn mưa đám mây, bến đò ngồi đợi, chuyến đò cuối cùng ngày thứ Bảy, chiếc võng trước hiên nhà, dưới dàn thiên lý hoa thơm mà mẹ tôi hay nấu canh khá ngon, và nếu may mắn, trong tủ bếp có một thứ gì đó để nhâm nhi mà các chị tôi thường để lại cho em trai út, kẹo bánh, đậu phụng, bắp nướng. Tôi nằm trên võng, trong im lặng của vùng quê yên tĩnh, như có chiến tranh mà như không có chiến tranh. Một ngày tròn trịa như chú gà non mới nở từ quả trứng, vừa nhảy ra kêu chim chíp trên sân. Rồi nó bỗng vươn cánh, xòe rộng, bay đi mất.

Tôi sống giữa những nhân vật phiêu lưu, và những nhân vật ấy, người tay đao tay kiếm, người súng lục rút nhanh như chớp. Một thiếu niên khí phách dám xông vào sơn trang mà chủ nhân là kẻ tà đạo, tất nhiên. Trong cuộc diện kiến quanh bàn tiệc trên tầng tháp cao, khi mọi người trổ tài khuất phục người khác, chàng chẳng làm được gì cả. Chàng ngồi đó, khiêm tốn và nhẫn nại, như lịch sử. Cho đến khi chẳng đặng đừng, liền cầm tách trà bằng sứ lên thuận tay liệng ra cửa sổ. Thiếu nữ đem lòng yêu chàng, có mặt ở đó, lấy làm ngao ngán về môn công phu quá ư tầm thường. Tôi cũng ngạc nhiên, thất vọng. Câu trả lời tất nhiên thuộc về tác giả, ở chương sau, trong một cuốn sách khác hình như Sài Gòn chưa kịp in, hay chị chủ nhà cho thuê chưa kịp mua về. Tôi không biết, chỉ nhớ tôi đợi dài cổ xem chương tiếp, không ngớt thắc mắc về số phận nhân vật.

Số phận của tách trà bị ném qua cửa sổ ở tầng tháp thứ mười ba.

Nhưng chương kế tiếp không bao giờ đến, trang sách bị xé rách, tan hoang. Tôi sống lẫn lộn giữa ký ức và tương lai, giữa bùn lầy nước đọng của nghèo khổ và ánh điện, đèn chớp tắt xanh đỏ, giữa ảo tưởng của hiện tại và nỗi mơ hồ của tương lai, giữa cái đẹp và tội ác. Văn học làm giàu trí tưởng tượng chừng nào càng làm chúng tôi xa rời sự thật chừng ấy, một thế hệ lớn lên mơ mơ hồ hồ, chẳng biết trong chiến tranh phía nào là đúng, phía nào là sai. Cả một dân tộc, hay ít nhất một nửa, như mê đi, như khờ dại, một tâm trí văn hóa mù mờ lẫn lộn, không thực tế, không sẵn sàng trả lời các vấn nạn trước mắt. Nhưng đó là việc bây giờ nhìn lại, thời ấy chỉ thấy thanh bình, thấy đẹp. Những nhân vật kia, kẻ trọng nghĩa khinh tài, người đại gian ác, kẻ tu luyện nhiều năm, người con nhà lành rơi vào đáy vực, những anh hùng thiếu niên, những kỳ nữ diễm lệ, ai cũng biết khóc cười như chúng ta. Có muôn ngàn lý do để giải thích cuộc chiến tranh, biện hộ cho sự bắn giết, hủy hoại. Nhưng từ mấy chục năm nay, có bao giờ dân tộc chúng ta đi chệch khỏi con đường dẫn nó xuống vực thẳm đâu?
Tờ mờ sáng hôm sau, đã yên tĩnh, tôi đi ngược về phía Bắc, giữa mùi thuốc súng, mùi bánh xe hơi và nhựa đường cháy khét, chạy lúp xúp bên đường. Sắp tới ngã ba Long Hưng gần con đường rẽ ngược lên phía nhà thờ La Vang, tôi nhìn thấy một xác chết nằm ngay trên vệ cỏ, khuất sau một chiếc xe đò bị bắn cháy. Vì chiếc xe chắn ngang mặt đường, tôi phải đi vòng ra sau một đám cỏ khá cao. Đó là một người phụ nữ trông hãy còn trẻ, một tay vòng trên bụng, một tay xoải ra, bàn tay khuất trong cỏ như một người đang ngủ. Hai ống quần rách tươm để lộ bắp đùi.

Vì sao người dân rùng rùng bỏ chạy, không ở lại với ruộng đồng phố thị của mình, người Gio linh bỏ khu phi quân sự chạy vào Đông hà, người Đông hà chạy vào Quảng trị, người Quảng trị vào Huế? Một đặc điểm của du kích là chỉ tấn công các lực lượng quân sự, hầu hết không chủ trương tàn sát dân lành hàng loạt, dễ hiểu là vì họ cần thu phục cảm tình của dân chúng; tuy nhiên, khi nào đám người ấy bị mắc kẹt giữa các mục tiêu quân sự, thì họ cũng sẵn sàng hy sinh dân lành, có khi bất chấp mọi giá để giành chiến thắng. Trong hoàn cảnh thuận lợi, người ta có tâm lý thận trọng, nhưng khi bối rối, lối hành xử bạt mạng như pháo kích bừa bãi dễ xảy ra. Có lẽ chiếc xe đò của chị đã trúng phải mìn hay B40 và nhiều người chết vì sức ép, tôi chỉ đoán thế. Trên người không một vết thương nào khác. Khi sắp bước đi, tôi bỗng giật mình, quay lại nhìn khuôn mặt một lần nữa. Tôi đau nhói như bị bắn vào ngực. Dáng người và khuôn mặt ấy, tôi không thể lầm, đó là chị chủ nhà tiệm cho thuê truyện mà tôi vẫn gặp hàng tuần. Tôi tới gần hơn, phía cánh tay của chị duỗi thẳng, nhận ra trong cỏ cao một bàn tay cháy xém, các ngón tay chỉ còn xương và gân, xoè ra như một cánh bướm đen.

Đêm trước, tôi thức dậy mấy lần vì tiếng mít rụng. Mọi việc trở nên mơ hồ lẫn lộn khiến tai tôi ù đi, mắt mờ. Nằm không xa tôi mấy, một người đàn bà từ một thành phố sắp bị xóa tên trên mặt đất. Khuôn mặt trong cát bỏng xao xác tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ lạ như khi nguời ta chiếu đèn từ xa bằng loại đèn pha cực mạnh trong tối. Nghĩ đến chị, tôi lấy lại can đảm, lấy lại sức mạnh, vừa đi vừa chạy qua đoạn đường dài, băng qua thị xã, chạy qua trường Bồ đề, xuống bến đò, bơi qua sông Thạch hãn, một dòng sông mà sau này tôi sẽ bơi ngược trở lại.

Gió mùa Quảng trị thổi nhiều giọng. Rú từng đợt khi qua đèo Lao Bảo, nỉ non trên Tân Sở, rì rào cuốn bụi đỏ từ Dốc Miếu, dịu dàng khi qua nguồn nước Tích tường. Nếu bạn ngồi thật lâu cuối khu vườn có mít và ổi, như tôi ngày ấy, bạn có thể nghe được lời nhắn gởi của gió, lời nhắn gởi của tiếc thương. Trong lớp học tiếc thương này, số học sinh hiện diện bao giờ cũng đông hơn học sinh trong giờ toán của tôi, giờ văn của anh tôi, và bài giảng của nó sẽ được nhớ lâu dài. Vì vậy, hai mươi năm sau, khi đi tìm một tài liệu tiếng Việt cho công việc điều tra dân số của chính phủ liên bang, có liên quan đến môn học toán thống kê của tôi, trong thư viện lớn nhất ở trung tâm Calgary, mùa hè năm 1992, tôi đã tình cờ nhìn thấy cuốn sách kiếm hiệp của mình, cuốn kế tiếp, chương kế tiếp, hồi kế tiếp. Bạn nhớ không?

Tách trà uống cạn, rời tay chàng thiếu niên bay qua cửa sổ, sau một hồi nín thở chờ đợi, giữa ánh mắt châm biếm ngờ vực, cái tách ấy đã bay vòng trở lại qua một cửa sổ khác, vào phòng. Và tất nhiên từ từ đáp xuống. Vậy là chiếc tách sứ ấy đã bay một khoảng thời gian lâu đến nóng ruột bên ngoài tầng tháp cổ. Không phải một thời gian, nó bay một mạch hai mươi năm, từ vùng gió mặn đến xứ tuyết trắng.

Tôi đã bơi qua sông Thư Rơi, qua sông Thạch Hãn. Bơi một mình, lặng lẽ, không phải để dành tiền đò thuê truyện kiếm hiệp coi chơi, mà để chạy trốn cái chết.

Đêm yên tĩnh lạ lùng. Mùi mít mật dâng lên từng đợt. Tôi ngửng đầu, sao băng chi chít. Có một ngôi sao sáng hơn cả, tôi bắt chước một nhân vật tiểu thuyết, mở và gài cúc áo lại để cầu nguyện cho cha mẹ anh chị, cho đồng bào tôi, xin không ai còn phải chết vì súng đạn hay vì hận thù. Ngôi sao băng ấy có lẽ nghe được lời cầu nguyện của tôi nên vạch một đường thật dài, thật chậm, như linh hồn một người đàn bà đã bay lên cao còn nhìn ngoái lại mặt đất.

Nguyễn Đức Tùng

TÔI ĐÃ NHÌN RA EM Ở ĐÂU

 

Tôi đã nhìn ra em ở đâu
Sao khuya lộng lẫy sáng chân cầu
Vậy mà chớp mắt em đi mất
Sông trả vai người trưa nắng cao

Tôi đun thêm củi vào lửa đỏ
Khói xanh bay em cũng về rồi
Em về áo cởi đường hư ảo
Nghĩa cũ càng than củi tôi ơi

Có khi tôi bỗng mờ như nắng
Lẩn lút bay vào trong tóc em
Nhiều khi nắng ở tôi đi mất
Tận cuối trời xa lại kiếm tìm

Nhiều khi lịch sử tàn như lửa
Vun quén tro tàn tôi nhớ ra
Em có định làm con chim lạ
Hiểu tiếng người hót ở trong hoa.

NGUYỄN ĐỨC TÙNG

Cái Hộp Giấy

Tặng thương xá Tax, và tặng H, như mọi khi

Vừa lái xe ra khỏi siêu thị đông đúc chiều cuối tuần, hai ngày trước lễ Giáng sinh, đang lúng túng, tôi giật mình nghe tiếng kêu của một gã lái xe chạy vụt qua. Không hiểu hắn ta nói gì, đoán là tiếng chửi thề của bọn thanh niên nóng tính. Trời cuối năm lạnh căm căm, mọi vật sáng lên một lúc trước khi bắt đầu đổ tuyết, sáu tháng sau khi tôi lấy bằng lái xe, một năm sau ngày đến Canada. Chạy thêm một quãng, lần này một chiếc xe khác ghé sát vào, chậm lại, cô gái ngồi ghế trước bên phải quay hẳn kính xuống, la: Cái hộp! Cái hộp của mày trên trần! Tóc cô quấn cao, môi son đỏ mọng.
Tôi giật mình tạt xe vào lề. Quả nhiên một cái hộp giấy vẫn còn nằm yên trên trần xe.
Đó là cái hộp không.
Hồi ấy bà con thường dùng những hộp giấy cứng để đóng thùng gửi quà về Việt Nam. Những người muốn giúp đỡ gia đình hay gặp rắc rối trong việc gửi tiền mặt, phần vì hệ thống chuyển tiền chưa thuận tiện như bây giờ, phần vì sự phản đối trong dư luận. Cách tốt nhất là gởi thuốc Tây, lý do nhân đạo, vẫn dễ hơn. Ngày nghỉ cuối tuần, thay vì đi câu cá hay đi nhảy đầm với bạn bè, đi uống bia coi hockey trong các pub house, tôi cặm cụi vào hiệu thuốc tìm mua đủ loại, nhét đầy hộp. Đối với kháng sinh và thuốc đặc biệt, tôi phải đến bác sĩ để xin toa vì không thể mua ngoài thị trường. Những thứ khác, như thuốc bôi ngoài da, thuốc gội đầu, nhất là dầu khuynh diệp xanh lá cây hiệu con Ó, thơm nồng, cay mắt, tôi mua tự do. Tôi mua sẵn để dành, gởi lần hồi, vì chúng được bán hạ giá vào dịp lễ, trong các siêu thị hay department stores, hồi trước gọi là thương xá.
Trước khi ra đi, tôi từng dẫn Hoàng tới thương xá Tax, ở góc đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi, có lần tìm mua vải may áo dài, vì vải và nhiều hàng ở đó thật đẹp. Cũng có lần để mua một bánh xà phòng thơm. Thật ra ít người có tiền dùng xà phòng ngoại, chẳng qua cần mua làm quà đám cưới cho một người bạn, thời ấy là quà quý. Thương xá sang trọng lạnh mát lúc nào cũng bận rộn, hai chúng tôi đi dọc những quầy hàng xinh xắn, ngắm những cô bán hàng lịch thiệp, kiểu miền Nam trước đây còn giữ được, mua bánh xà phòng Camay thơm ngát. Ra về, ngồi sau yên xe Honda 67 của tôi, trong nắng sắp tắt chiều cuối năm, Hoàng bất ngờ hỏi nhỏ: có bao giờ chúng mình trở lại nơi này nữa không anh? Tôi nhớ câu thơ của Tô Thùy Yên:
Giờ này thương xá sắp đóng cửa
Người lao công quét dọn hành lang
Của thời chiến tranh loạn lạc. Tôi vội trả lời: có chứ.
Thế mà không.
Nhưng người nhà tôi bị bệnh gì mà phải dùng đến dầu khuynh diệp, dầu cạo gió con- khỉ- trắng- ôm- trái- đào, thuốc kháng sinh, thuốc hồi dương, steroids, thuốc nấm móng tay, thuốc trị lao phổi, chống ung thư nhiều thế?
Họ chẳng có bệnh gì cả. Mà nếu bệnh, họ cũng chỉ có thể uống thuốc rễ cây, uống nước rau má, xông hơi lá chanh lá sả ngoài hè, chứ chẳng hề dám nghĩ tới thuốc Tây sang trọng. Đến tay người nhận, chỉ vài ngày sau thùng thuốc đã nằm ngoài chợ trời. Ôi chợ trời. Tôi đã đi qua Hàm Nghi, dọc đường Nguyễn Huệ, Lê Thánh Tôn, Gia Long, chợ Cồn Đà Nẵng, chợ Hố Nai, chợ Tây Lộc Huế, Đông Hà. Ở đâu chợ Trời cũng nhộn nhạo, vui vẻ, nhớp nháp, vừa héo vừa tươi. Ngươi đã nuôi sống bao nhiêu người khốn khó, cưu mang nhiều kiếp lạc loài. Bao người lương thiện nhờ ngươi mà sống sót, bao kẻ lưu manh nhờ ngươi mà thành quý tộc.
Xếp hàng bưu điện cuối năm đông người, vật lộn với những thùng giấy, những dây bện, những cuộn băng keo đến toát mồ hôi, luống cuống cân đo, bị cô nhân viên mặt đầy mụn trứng cá khó đăm đăm trả đi trả lại vì ghi sai địa chỉ, trả tiền lệ phí, ra khỏi bưu điện trong siêu thị, tôi thở phào mừng quýnh. Nghĩ đến những người thân bên kia biển Thái Bình sắp nhận thùng quà của mình, tôi vui quá nên quên trước quên sau. Nghĩ đến quang cảnh tòa nhà Bưu điện Sài gòn sơn xanh cũ kỹ nhưng uy nghi, duyên dáng, với đàn chim bồ cây trắng bay lượn trước nhà thờ Đức Bà, mỗi chiều khi mưa vừa tạnh. Mặt bàn cà phê nhỏ xinh có mùi hành tỏi, mùi tương ớt của tô bún ốc ai vừa bưng đi. Nhớ người thiếu nữ sinh viên sư phạm mái tóc đen tuyền thả ngang vai, nhà ở gần góc đường Bình Thới, Lê Đại Hành, chiều chiều đạp xe dưới hàng cây sầu đông qua trường đua Phú Thọ, về quận mười một, sắp nhận được cục xà phòng Camay thơm thơm, gói thật kỹ, nhét trong hộp thuốc tây, tôi sướng rơn người, tay run lên.
Tôi vói lấy cái hộp giấy trên trần xuống, ném vào băng ghế sau rồi tàn tàn lái đi tiếp. Đang mở cassete trên xe nghe tiếng hát Hương Lan, sau một khúc quanh, lại nghe tiếng một người lái xe hét lớn: Cuộn băng! Cuộn băng keo của mày! Tôi hấp tấp dừng xe lần nữa, bước xuống coi đi coi lại, thì ra sau khi lấy cái hộp trên trần tôi vẫn còn sơ ý để quên cuộn băng keo lớn, khá nặng, ở trên mui xe phía sau. Cuộn băng keo màu xám, trong vắt, nằm ở đó lửng lơ nhưng không rớt dù xe đã chạy cả giờ đồng hồ, như một người hành khách lên trễ xe đò sợ bị đuổi xuống liền cố sức bám chặt vào mặt thép trơn.
Thỉnh thoảng trên đường ta nghe một người lái xe hét lớn: Nắp xăng! Nắp xăng bật ra! Dành cho một người lái xe có chuyện vội vàng quên đóng nắp xăng, mùi xăng bốc ra nửa thơm nửa gắt ngạt mũi. Và khi chiều về, mặt trời tắt sau núi, bỗng nghe một người lái xe khác chạy vút qua vui vẻ kêu lên: Ly cà phê! Ly cà phê trên trần! Có thể đoán kẻ lái xe là một người đãng trí, bị bệnh mất ngủ, thường uống cà phê, vì cái ly còn nóng. Hoặc lúc ấy hắn ta đang thất tình? Hay đang bâng khuâng nhớ nhà, nhớ nước, nước nhà đã tan, sá gì thương với xá, lãng mạn với lẩm cẩm? hay hắn đang tưởng tượng đạp xe qua thong thả dưới hàng cây sầu đông hoa nhỏ tím một người muôn năm cũ, mái tóc ngang vai thơm mùi xà phòng Camay, hay cánh tay để trần mùi dầu khuynh diệp?

Nguyễn Đức Tùng

 

BÀI GIẢNG CUỐI CÙNG

16650183_1239531019435602_1098938020_n

Tôi có nhiều kỉ niệm ở miền Tây, những năm vừa mới định cư. Xứ sở của các bộ lạc da đỏ và những người chăn bò đội mũ rộng vành, đồng cỏ xanh tận chân trời điểm cúc vàng, cẩm chướng đỏ mùa hè, mênh mang tuyết trắng mùa đông, xứ sở của những con chó sói, chồn hoang chạy lạc vào thành phố, bị xe cán nửa đêm trên đường. Như những người mới đến khác, sau bốn tuần nhận tiền trợ cấp của chính phủ, tôi lang thang kiếm việc làm, lê đôi ủng nặng năm ký lô do bộ di trú Canada tặng ở phi trường, khi ngoài trời nhiệt độ xuống âm 20 độ, nặng đến nỗi nhấc chân ra khỏi tuyết là một sự cố gắng. Sau vài năm vừa học vừa làm, tôi kết thúc chương trình đại học, chuẩn bị ghi danh học chuyên ngành. Trong một giảng đường mênh mông xây theo kiểu nhà hát, với các ghế từ thấp đến cao, từ trước ra sau, sinh viên đến nghe giảng cứ như những khán giả trả tiền mua vé vào cửa, không khí lạnh lùng nghiêm khắc, ít ai biết ai; chỉ trừ trong các giờ làm thí nghiệm của những nhóm nhỏ, với các giảng viên trẻ tuổi, chúng tôi mới có dịp trò chuyện cùng nhau. Tôi nhớ bà giáo sư tiến sĩ có khuôn mặt khắc khổ giảng bài đều đều như một cái máy, đôi khi nói nhanh như chớp, chưa bước lên bục giảng đã bắt đầu nói, kết thúc bài là vừa lúc bước ra cửa. Thời đó các trường đại học thi bằng cách chọn các câu hỏi có nhiều chọn lựa (multiple choice questions). Tôi vẫn nhớ một lần được nhìn tận mặt giáo sư James Watson, từ Mỹ đi tạt qua, ghé nói chuyện với sinh viên. Ông là cha đẻ của chuỗi xoắn kép double helix DNA nổi tiếng.
Một người quét nhà, làm vệ sinh, mặc đồng phục xanh dương, khuôn mặt rám nắng của một người da đen Phi châu, tóc bạc điểm sương, râu cũng trắng, thường đến vào cuối giờ học, rất đúng giờ, đi lau dọn phòng ốc, nhặt nhạnh các vỏ chai nước ngọt và rác để lại, lau phấn trắng trên bảng đen và lau mực đen trên bảng trắng. Phòng học có hai bảng để dùng cho hai mục đích khác nhau, một thứ vẫn dùng phấn trắng như ngày xưa, và một thứ dùng mực đen sau này phổ thông hơn. Bà giáo sư thường dùng mực đen viết bài giảng và dùng phấn trắng ghi những câu hỏi. Người làm công quét dọn làm việc lặng lẽ, với một cái chổi và giẻ lau, di chuyển như một cái bóng giữa các hàng ghế chật người ngồi. Không hiểu sao tôi tin đó là một người câm. Một người gầy, cao, khuôn mặt bình thản, phía túi quần sau bao giờ cũng nhét đầy các dụng cụ của người sửa chữa lặt vặt như sổ tay, bút chì, kìm và kéo. Ông ta có một cái xe đẩy nhỏ, trên ấy có giá để dụng cụ, nhưng có lẽ do thói quen thường nhét đồ vào túi.
Không ai chú ý đến ông ta, trừ một người, là tôi. Có lẽ vì quá tự tin, thuộc bài, hay có lẽ vì chẳng hiểu gì cả, tôi có thói quen ngồi trong lớp mà không mấy chú ý nghe bài giảng, một nửa thời gian lơ đễnh nhìn trời nhìn đất. Vì vậy tôi nhận ra rằng bà giáo sư lúc nào cũng đi một đôi giày cũ, xấu, mặc dù áo quần thường thay đổi. Tôi thích đàn bà đi giày đẹp.
Ngoài môn học chính, chúng tôi cũng còn nhiều môn phụ khác. Sau này nhớ lại, tôi ngạc nhiên thấy mình hình như không học được bao nhiêu trong mùa hè đó, trừ một lần. Lần đó vị giáo sư vật lý chuẩn bị kết thúc nửa năm học, dành nhiều thời gian hơn để kiểm tra bài và rà lại các chương đã học trong năm. Tôi mất ngủ nhiều đêm vì lúc nào cũng hồi hộp và hào hứng bám chặt màn vô tuyến truyền hình. Tình hình Ba Lan và các nước Đông Âu thay đổi từng ngày. Giờ học đã qua lâu mà bài giảng vẫn còn, cả cô giáo và sinh viên không ai chú ý. Một chuyện bất ngờ xảy ra.
Người quét dọn vệ sinh đến đúng giờ như thường lệ, thản nhiên lặng lẽ làm hết những công việc của mình trong giảng đường và tiến đến phía bục giảng, đi qua trước mặt giáo sư rồi đi vòng lại phía sau bà. Giáo sư đang giảng bài, trả lời các câu hỏi, dừng lại một giây ngắn, liếc nhìn ông ta rồi quay lại với chúng tôi ngay. Trên bảng lúc đó có một bài giảng và những câu hỏi với nhiều chọn lựa.
A. Câu thứ nhất đúng
B. Câu thứ hai đúng
C. Câu thứ ba đúng
D. Tất cả đều đúng
E. Tất cả đều sai
Ông già từ từ tiến lại gần bảng đen, dùng tấm vải lau đi lau lại các hàng chữ một, từ góc thấp nhất đến chỗ cao nhất, chậm đến nỗi thấy được từng chữ lần lượt biến mất dần. Lúc ấy mọi người mới bắt đầu nhìn ông ngạc nhiên. Đó là một bài giảng quan trọng gợi ý rất nhiều cho kì thi sắp tới.
Tôi nhìn đồng hồ và biết là lớp học đã chấm dứt mười phút trước đó. Không ai nói gì, kể cả vị giáo sư. Mọi người đều yên lặng như tờ. Ông già lau tất cả bảng đen, lau sạch, chỉ chừa một câu, câu D. Mới đầu tôi tưởng ông không để ý, nhưng một lát sau khi ông bỏ đi rồi, câu ấy vẫn còn nguyên vẹn trên bảng.
Mùa hè ấy tôi còn học ở đại học thêm một vài tuần nữa trước khi dời đến một thành phố khác. Lao vào học hành thi cử, tôi không để ý đến người quét dọn cho đến khi tan trường. Sau này nhiều năm, có việc trở lại thành phố cũ, vào đại học để rút học bạ, tôi có để ý xem người dọn vệ sinh có còn ở đó không, nhưng tuyệt nhiên không gặp ông ấy nữa.
Mỗi lần nghĩ đến bài giảng, những khúc quanh, các phán đoán vội vàng quyết định nhầm lẫn, mỗi năm đến mùa tựu trường, tôi đều nhớ chuyện cũ và tự hỏi câu nào là đúng, câu nào là sai, hay tất cả đều đúng, hay tất cả đều sai, tôi thật không biết chính xác. Có thể có một người biết hơn tôi về một chuyện, về nhiều chuyện. Một người bí ẩn.

Nguyễn Đức Tùng

 

CÂY KEM

16650183_1239531019435602_1098938020_n

 

Tôi mê ăn kem nhưng không được phép.
Đúng ra, mẹ tôi chỉ cho tiền một hai tuần một cây. Không thấm tháp gì, nhất là vào mùa hè. Vừa hết năm học, bọn trẻ thám hiểm đồng quê, suốt ngày luồn trong những bụi rậm. Chơi bi, bẫy chim, bắt cào cào cho chim ăn, chia phe đánh nhau. Thời tiết mát, mùi hương lan đầy không khí, trong túi áo sơ mi của tôi bông cúc dại đã khô từ lâu. Khi tôi băng qua sân đình làng, thằng Hiển, ngồi đó từ bao giờ, đưa tay vẫy. Xung quanh nó, năm đứa khác. Hiển học trên tôi một lớp, nhưng lớn hơn nhiều tuổi, thường nghỉ học chăn trâu, cao lớn, ngăm đen, điểm đặc biệt: hàm răng dưới có hai hàm, do răng mọc không đều, khi cười mới lộ ra.
Vừa lúc đó trên đường làng, một đứa trẻ bán cà rem (kem) mang trên lưng cái thùng màu xanh lá cây, vừa đi vừa rao. Nó đi khuất rồi, chúng tôi vẫn cố nhìn theo, không đứa nào có tiền trong túi. Kem hồi đó một cây năm đồng, đồng tiền kẽm có hình cây trúc: số tiền khá lớn.
Phép lạ xảy ra. Hiển ngúc ngắc đầu bảo: đứa nào chạy theo kêu nó lại. Một đứa đuổi theo. Thằng bé bán kem quay lại, nhanh nhẹn nhưng khép nép tiến gần chúng tôi. Hiển ra dấu, thằng bé mở cái nắp thùng. Sáu đứa chụm đầu nhìn vào. Làn khói trắng bốc lên thơm lựng. Trong đời, tôi chưa gặp mùi hương nào quyến rũ thế. Thùng đựng kem chia nhiều ngăn, những màu khác nhau. Xanh mùi bạc hà, nâu mùi sô-cô-la, vàng có rắc những hột đậu phụng lấm tấm, đỏ hồng mùi dâu.
– Một cây cà rem bự, một thằng hô lớn. Ý nó gọi cho thằng Hiển.
– Thưa anh, loại gì? Thằng bé bán kem ngước nhìn Hiển, hỏi.
– Tao có tiền, đãi mỗi đứa một cây, cho bọn nó tự chọn, Hiển hất hàm.
Chúng tôi nhảy cẫng hò reo. Sáu đứa tất cả.
– Em cây xanh.
– Tao cây vàng.
– Có đậu phụng.
– Có bạc hà.
Nghe tiếng hô đã chảy nước bọt. Thấy tôi chưa kịp nói gì, thằng bé bán kem quay về phía tôi, ý hỏi. Tôi phân vân, mới đầu chọn cây xanh có mùi bạc hà, về sau đổi ý, thích cây vàng có rắc hột đậu phụng.
Cả bọn nín thở chờ đợi.
– Một cây sô-cô-la. Như chuyện thường xảy ra ở đời, khi người ta phân vân lưỡng lự quá lâu, phút cuối bao giờ cũng quyết định một cách đầy kinh ngạc, mà về sau sẽ hối hận. Tôi chưa kịp hối hận nhưng trong bụng đã bắt đầu tiếc mùi bạc hà.
Mỗi đứa một cây đứng mút giữa trưa trời nắng, chỉ Hiển là ngồi, vì nó là đàn anh, im lặng. Chúng tôi đi đi lại lại thưởng thức lạc thú giữa cơn khát. Một con chim cu về gù trên bụi tre trước sân đình. Trời nóng quá, ăn nhanh thì tiếc, ăn chậm thì kem chảy ra thành nước. Tôi cắn từng miếng nhỏ, chất ngọt, mùi thơm thấm vào kẽ răng; dịu dàng, gượng nhẹ dùng một cái lá chuối sạch hứng những giọt kem chảy xuống. Do kinh nghiệm, tôi học được cách thưởng thức trong lá chuối dư vị của thú vui êm ả. Khi những đứa kia vừa chén sạch, tôi đang ăn được hơn một nửa cây kem của mình, Hiển lại hô: mỗi đứa được kêu thêm một cây nữa.
Lần thứ hai, tôi chắc chắn chọn cây kem có mùi bạc hà.
Đến lần này thì hộp kem vừa hết sạch, chỉ còn một cây dư ra, phần của Hiển. Như vậy nó ăn ba cây. Thằng bé đóng nắp hộp kem trống trơn, rụt rè tiến lại gần, bảo: anh cho em xin tiền.
Hiển từ từ đưa mắt nhìn thằng bé một lúc, rồi ngoảnh mặt đi thật lâu.
Mùi kem bạc hà bay phảng phất trong không gian.
Thằng bé nhắc nhiều lần. Hiển quay mặt lại, nhìn nó như mới gặp lần đầu, hỏi: tiền gì hả mày? Tôi không bao giờ quên được ánh mắt của Hiển vào lúc ấy. Hàm răng nó lộ rõ.
Tôi đang mút gần xong cây kem của mình liền nhả ra, đứng ngẩn người.
Thằng bé sợ quá, van xin: anh trả tiền cho em. Hiển đứng lên, phủi quần, bảo: mày có giỏi thì đòi tiền đi. Bọn tôi đều đứng im. Giọt kem cuối cùng trong miệng tôi đắng ngắt. Tôi lùi lại một bước.
Thằng bé nhìn trước nhìn sau, biết không làm gì được, liền xốc thùng đựng kem lên, dây vải xám to bản bị rách xơ một chỗ quàng ngang lưng nó, siết thật chặt giữa hai xương bả vai nhô ra, lủi thủi bỏ đi. Nó vừa đi vừa khóc. Thùng đựng kem rung lên theo nhịp bước.
Trong sáu đứa chúng tôi: hai đứa nhảy lên sung sướng hò reo, tôn vinh thằng Hiển làm lãnh tụ; một đứa nhổ toẹt một bãi nước miếng, không biết nó nghĩ gì; hai đứa khác len lén bỏ đi. Chỉ còn tôi đứng đó một mình giữa trưa nắng gắt.
Tôi đứng đó rất lâu, phân vân không biết phải làm gì. Con chim cu trên ngọn tre trước sân đình gáy một hồi nữa rồi đổi ý, thất vọng, vụt bay đi, biến mất sau chân trời.
Nguyễn Đức Tùng