Người con gái Duy Xuyên

 

Tôi sinh ra và lớn lên trên dãi đất nghèo miền Trung. Thành ngữ dân gian gọi là nơi “chó ăn đá, gà ăn sỏi ”, hiện thực hơn người ta thường nói đây là miền“ nắng cháy da, mưa thúi đất”, báo chí thì dùng biệt danh “Vùng hỏa tuyến”. Trong nhạc của ca sỹ Duy Khánh- người đồng hương- có câu than thở “Quê hương em nghèo lắm ai ơi! Mùa Đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn…”.Đó chính là Quảng Trị.

Ấy thế mà nào tôi có được coi là dân thị xã. Làng của tôi thuộc một vùng quê nằm ngoài rìa, dọc theo Quốc lộ I. Làng có cái tên rất hay: Long Hưng nhưng dân chúng quanh năm chúi đầu trên những thửa ruộng cằn khô, không biết lúc nào mới được là “Rồng vươn lên” như tên gọi? Làng nghèo đến mức tên người cũng ít khi thêm được cái chữ lót như một nhà văn từng nhận xét. Làng nổi tiếng vì thổ ngữ  đặc biệt. Hễ chúng tôi thốt ra câu nào là đã nghe nhận xét: “ A, dân Long Hưng.”

Dân Long Hưng chỉ có một niềm tự hào là giỏi Toán. Dù nghèo nhưng hầu hết nam sinh của làng đều thi đậu vào ngôi trường trung học công lập danh giá của thị xã: Trường Nguyễn Hoàng. Các giáo sư phần đông là người Huế, hàng tuần đi xe taxi ra dạy. Họ thường khen chúng tôi về sự thông minh. Đặc biệt là  trong mục “Toán chạy”; đây là loại toán hầu như chỉ dành cho học sinh giỏi. Mạ tôi thường lấy gương của một người làng là Bác sỹ Văn Tần để răn dạy  hai anh em  chúng tôi cố gắng học hành.

Mặc cảm con nhà nghèo khiến tôi ít khi trò chuyện với ai, đặc biệt với các bạn nữ trong lớp. Mỗi lần tôi nói câu gì, tụi bạn hay trêu“Cóc mở miệng”. Điều đó càng làm tôi câm lặng hơn. Con trai mười bảy, mười tám thường đỏm dáng. Đi học đã biết vuốt tóc láng mượt bằng nước lạnh, miệng ngậm điếu thuốc Ruby Queen, viết thư tỏ tình với bạn gái. Riêng tôi “nhà quê” trong chiếc áo ngã màu cháo lòng, quần xanh bạc phếch…

Lên đệ nhị cấp, chúng tôi bắt đầu lo lắng với lệnh tổng động viên vừa ban bố. Phải cố mà thi đậu. “Rớt Tú tài anh đi trung sĩ ”. Chiến tranh đã bao phủ cả quê hương. Đêm đêm nghe tiếng đại bác rền vang, máy bay quân sự  bay về phía Gio Linh, Cam Lộ rợp trời, nhà nhà chuẩn bị những cái hầm trú ẩn bằng bao cát quân đội. Thỉnh thoảng đã có nhà trúng đạn pháo kích của Việt Cộng, tiếng khóc than vang trời dậy đất.

Tôi may mắn đậu Tú tài hai không phải vào Thủ Đức “thức đủ năm canh”  như các bạn nam cùng lớp. Nhưng tôi “out” khi cố chen chân vào Đại học sư phạm Huế. Đành phải ghi danh học MPC ở Đại Học Khoa học. Đi dạy kèm gặp bà chủ ác nghiệt, tôi lên giảng đường bữa đói bữa no. Ngày về làng xin tiền mua sách, tôi ứa nước mắt nhìn mạ lần mò chiếc kim băng mở túi áo lôi ra những đồng bạc lẻ. Sau bao đêm trằn trọc, tôi dặn dò thằng em lớp 11 cố học cho mạ yên tâm rồi quyết định thi vào khóa 28 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam vào năm 1971 theo lời khuyên của anh Hoàng Tấn, K25, người Quảng Trị. Nguyên văn lời anh: “ Tất cả có chính phủ lo. Ra trường, ngoài bằng tốt nghiệp (Võ) còn có thêm bằng Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng (Văn) . Học 4 năm  với chương trình đại học lại được xem như văn võ song toàn. Đó cũng là một lựa chọn tốt  cho người trai thời loạn muốn thỏa chí tang bồng…”

Cuối tháng 12 năm 1971 tôi nhập trường. Người Pháp tôn vinh Đà Lạt là Deuxieme Paris; có bản nhạc ca  ngợi “Ai lên xứ hoa đào”; văn chương hết lời tán dương những cô gái má đỏ môi hồng. Nhưng qua mùa Tân Khóa Sinh, khi đã khoác lên mình bộ quân phục kaki vàng với cầu vai alfa đỏ, được ra phố cuối tuần tôi cũng chẳng biết đi đâu ngoài mấy vòng loanh quanh ở khu Hòa Bình, hay chui vào cine’ Ngọc Lan hoặc Ngọc Hiệp rồi xuống mấy chục bậc cầu thang leo xe Dodge về lại trường. Thôi, những lần sau đành ở lại  phòng, làm bạn với mấy thằng cù lần, lôi Anh văn ra học vì thuộc loại “dốt” ngoại ngữ và nhận biệt danh là nhóm “ Lờ quờ ”. Thằng Thế Hân có biệt danh “Hân gà” vì thấy gái là mặt đỏ au và lúng túng như gà mắc tóc. Thằng Kim Long, lai Miên, gốc Trà Vinh, luôn được đại đội phó “ưu ái ”  cho đi gác Đài Tử Sĩ nhưng cứ cười tươi… Cả bọn không bao giờ có vinh dự được gọi tên ra hội quán  Huỳnh Kim Quang gặp người thân chứ đừng nói chi đến chuyện gặp Đào!

Trời không thương nhà nghèo, Quảng Trị trở thành chiến địa ác liệt vào “mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Mạ tôi và đứa em may mắn vượt qua Đại Lộ Kinh Hoàng vào ở trại tạm cư Hòa Khánh- Đà Nẵng, hằng tháng ăn gạo trợ cấp.Thôi thế là tôi không bao giờ còn được trở về căn nhà tranh với bao nhiêu kỷ niệm buồn vui thời thơ ấu. Làng tôi, Ngã Ba Long Hưng –được nhắc nhiều lần trong cuốn Mùa Hè đỏ lửa của nhà văn quân đội Phan Nhật Nam- đã tan nát, điêu tàn! Mặc cảm chồng chất mặc cảm, tôi co mình trong vỏ ốc, tháng tháng dành dụm chút tiền lương cấp trung sĩ ít ỏi, gởi về phụ mạ nuôi em.

Tháng 11 năm 72, khóa 27 và 28 trường Võ Bị nhận lệnh đi công tác Chiến tranh chính trị miền Trung. Tôi được phân công về Huế. Thành phố thơ mộng hiền hòa bên dòng sông Hương như sôi động hẳn lên bởi hình ảnh hào hùng của các chàng trai cằm gập vuông góc, đi đứng oai phong. Anh chàng Ngọc cùng đại đội vỗ vai tôi “Gái Huế dễ thương thật! Mày có bạn nhiều giới thiệu cho tao một em”. Tôi cười méo xệch “Kiếm đâu ra!”. Ấy thế mà tuần sau đã thấy Ngọc ngồi với một nàng trong quán chè Sầu, miệng mồm như tép nhảy. Thằng Thanh, tóc hớt  ba phân lộ ra mấy cái sẹo to tổ bố cũng quen một em Đồng Khánh hẳn hoi. Chỉ có tôi lủi thủi ngồi cắt dán mấy cái khẩu hiệu với thằng Tập. Thằng này đã có người yêu ở Củ Chi và tự hứa tuyệt đối chung tình.

Thật sự tuổi thanh niên ai chẳng rung động trước những bóng hồng. Thời học lớp 12, tim tôi đã từng hồi hộp với một cô bạn cùng lớp. Em có mái tóc xõa ngang vai, hiền hòa và học giỏi. Nhưng nhà em kín cổng thâm nghiêm và tôi chưa một lần hé môi. Tôi biết em đang học ĐHSP Huế khoa Vạn Vật nhưng cũng không dám tìm gặp. Liệu em còn nhớ tôi, thằng cù lần hôm nay đã mang quân phục nhưng vẫn mãi cù lần. Vậy là trong khi các bạn vi vu cuối tuần với các nàng ở chè Cồn Hến, bánh bèo Tây Thượng, cà phê Góp Gió… tôi ôm cây đàn guitar bị đứt dây ngồi nghêu ngao “Sao em không đến chiều nay Thứ Bảy?”. Niên trưởng Hưng, K 27 tò mò nhìn tôi “ Hiệp có bình thường không? ”. Dù sao tôi cũng không phải rơi vào tình trạng gởi thư xin tiền nhà như mấy thằng bạn. Mạ tôi nghèo kiếm đâu ra tiền!!!

Về Trường ba tuần, chúng tôi lại được lệnh đi tiếp đợt 2. Hiệp định Paris vừa ký kết, phải tăng cường công tác CTCT. Lần này đại đội tôi được phân công về Quảng Nam –Đà Nẵng. Mấy thằng bạn có Đào ở Huế méo mặt tưởng đâu phen này được “tái nạm” em yêu. Máy bay C 130 hạ cánh xuống phi trường Hòa Khánh, tôi có cơ hội vào Trại tạm cư thăm mạ, nhét cho thằng em ít tiền và mấy lời khuyên, rồi lên xe GMC vào Quảng Nam.

Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Nam là Đại tá Lê Trí Tín. Ông xuất thân từ quân trường Đà Lạt, và trước đây, ông cũng  từng ở trong khối Quân sự vụ của Trường Võ Bị nên quan tâm rất chu đáo đến các khóa đàn em. Chúng tôi được cung cấp ưu tiên lương thực, thực phẩm rồi chia ra từng toán nhỏ về các Chi khu. Có toán lên tuốt luốt vùng đồi núi Thường Đức, Quế Sơn; gần gần thì Đức Dục, Điện Bàn, Đại Lộc; đẻ bọc điều thì ở ngay thị xã Hội An…Riêng nhóm tôi về Duy Xuyên.

Duy Xuyên là một vùng đất cách Đà Nẵng khoảng 45 km phía Tây Nam, nằm dọc theo bờ Nam con sông Thu Bồn thơ mộng, con sông đi vào thơ ca của người xứ Quảng. Tôi chưa một lần đến đây nhưng đã thuộc mấy câu thơ của Tường Linh thời trung học:

                        Tôi nghĩ về một dòng sông

                        Dòng sông quê hương có đôi bờ  đất mật

                        Có những tên làng tôi yêu mến nhất

                        Có triền xanh, gành xám , bãi vàng

                        Những hàng cừ xe gió nước reo vang

                        Những thác xiết, nhọc nhằn thuyền lên ngược

                        Nguồn hai ngã, lòng sông chung nguồn nước

                        Khúc cạn khúc sâu, phía lở phía bồi

                        Sông Thu Bồn thương nhớ của ta ơi!

                                                            ( Dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn)

Một quận nghèo nhưng hiền lành với những căn nhà nhỏ nép mình sau vườn khoai sắn xanh ngắt, những ruộng dâu bạt ngàn. Chúng tôi ở trong chi khu, hằng ngày phân tán thành những nhóm nhỏ làm công tác dân vận ở các xã như Xuyên Thọ, Xuyên Châu, Xuyên Hòa, Xuyên Phú… Thằng Sanh, nổi tiếng hào hoa, đi một vòng phố chợ rồi về nói với cả nhóm: “Mấy cô nhan sắc trung bình trở lên đều là “hoa có chủ” của các anh công tác đợt 1 hết rồi, tao quay về mái nhà xưa thôi”. Nói xong hắn lúi húi viết thư hẹn hò với em Thành Nội!

Nhớ lần ở Huế, nhóm tôi được thằng Tiến mời tới nhà ăn giỗ. Cả một bàn dài có đến mấy chục món nhưng món nào cũng bày chút chút trong những chiếc dĩa nhỏ xíu. Báo hại cả bọn lúc về phải ghé chợ Đông Ba mua thêm chục mì gói. Thằng Quảng dân Bến Tre cằn nhằn:

– “Chịu không nổi kiểu cách của ‘Dân các Mệ’. Cả bàn, tao quơ đũa một phát là sạch bách. Ăn vậy hèn chi gái Huế cái eo nhỏ chút xíu trông thấy mà thương!”

Còn  đây, người xứ Quảng mộc mạc chơn chất như những món ăn của họ. Khoai lang Trà Đỏa củ to bằng cái đầu con nít, vỏ trắng ruột vàng phải cắt năm xẻ bảy đem nấu, bột khoai thơm phức nghẹn tới cổ họng. Ăn món gì cũng có cái bánh tráng kèm theo, không nướng thì nhúng nước cuốn. Lần đầu tiên tôi biết món Mì Quảng, niềm tự hào của dân Quảng Nam. Cách nấu không cầu kỳ như bún bò Huế nhưng cách ăn trông thật ngon với những cây cải non, sợi mì trắng, miếng  sườn heo, con tôm chiên vàng óng, mẩu bánh tráng dòn tan trong miệng, tay cầm trái ớt xanh cắn cái bụp… Có lần lãnh lương, cả bọn kéo nhau đi ăn đặc sản Bê Cầu Mống ở đầu cầu Câu Lâu thuộc quận Điện Bàn, tôi ngớ người ra khi nghe chị chủ quán nói “Chừng nuớ bua rùa. Đừng bỏa nữa mòa mẹn!”( Chừng đó vừa rồi. Đừng bỏ nữa mà mặn!). Dường như tôi đang nghe lại cái giọng Long Hưng quê kiểng xứ mình!

Tuổi thanh niên thấy gái như nam châm hút sắt. Qua hai tuần lại thấy các chàng SVSQ bắt đầu có cặp khi có màn trình diễn văn nghệ với các cô giáo trường Phan Bội Châu. Anh chàng Sanh phát hiện ra “Vẫn còn nhiều em coi ngộ lắm, mà là hoa chưa có chủ mới tuyệt! ”.

Thật sự, con gái vùng Điện Bàn, Duy Xuyên khá dễ thương. Họ không tiểu thư như gái Huế. Đa số có một vẻ đẹp khỏe mạnh, làn da trắng mát do vùng đất này xưa kia chuyên dệt lụa nuôi tằm. Họ ăn nói mạnh bạo và khá tự nhiên trong giao tiếp nhưng với bản chất rụt rè của mình, tôi chẳng kiếm được một em để dung dăng thị xã Hội An như các bạn.

Vào một ngày Thứ Bảy, nhóm tôi đi đắp đất làm đường ở xã Xuyên Châu. Cuối tuần nên anh nào trông cũng vội vàng để về văn nghệ văn gừng với các cô giáo. Gần 3 giờ, nhóm “Lờ quờ ” gồm tôi, Thế Hân và Kim Long nhận bao giàn cho các bạn làm nốt đoạn cuối cùng. Ba thằng con nhà ruộng đồng, lại không có em nên chúng tôi nhẩn nha cho đến xế chiều. Thấy một căn nhà có cái cổng vào bị lún, ba thằng thấm nhuần công tác dân vận làm luôn. Mọi việc hoàn tất, chúng tôi vào nhà xin rửa chân tay. Người thiếu phụ, chủ nhà, khoảng trên năm mươi, nét mặt còn vương nét một thời xuân sắc, không có vẻ mặn mà khi giao tiếp, chỉ chúng tôi ra giếng sau vườn.

Cái giếng được bao bọc bằng những viên đá ong mang dấu ấn thời gian. Nước giếng trong vắt và mát lạnh. Một cây ngọc lan tỏa bóng mát với những búp hoa còn xanh nhỏ nhắn như ngón tay út của người thiếu nữ đẹp. Tôi đưa tay vít một nhánh thì bỗng có…trái khế cắn dỡ bay vèo vào cánh tay. Ngước nhìn lên, cách đó khoảng năm mét, một cô gái đang vắt vẻo trên cành khế cổ thụ. Tôi nghĩ thầm  “Cô này mà bắn tỉa thì hết sẩy!”. Không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà hôm nay Cóc tôi mở miệng:

– Xin cái hoa, làm gì dữ vậy cô em?

– Nhưng nó đang xanh, hái thấy thương!

–  Vậy cô em “trả công” chúng tôi cái gì đây?

Tưởng nói đùa cho vui, nhưng ai ngờ cô ta nhảy xuống và đi tới chúng tôi với một túi khế trên tay. Cô khoảng 18, 19 tuổi, mái tóc dài, làn da trắng hồng. Kim Long buột miệng “ Ui! Chu cha…”

Chưa nói được câu nào thì từ trong nhà có tiếng gọi:

-Hạnh, vào nhà ngay!

-Dạ…Cô gái lè lưỡi, nhét vào tay tôi túi khế nặng rồi chạy biến.

Ba thằng ra về với “thành quả lao động”.

Tối hôm ấy, cả nhóm được tráng miệng với những trái khế vàng ươm, ngọt thanh.Thế Hân thắc mắc: “Sao bà mẹ coi bộ hổng có cảm tình với bọn mình?”. Anh chàng Thu đào hoa góp chuyện: “Chắc bả sợ con gái rơi vào tay tụi bây, lũ gian ác!”

Dù sao tôi cũng đã biết cô gái tên Hạnh và…một cái nốt ruồi lớn ngay dưới chân mày bên trái. Có lẽ, biết cũng để cho vui thế thôi. Cù lần như tôi nước gì!

* * *

Chiều Chủ Nhật, tôi từ Chi khu ra cái quán nhỏ ở góc chợ thuê mấy cuốn truyện chưởng của Kim Dung về đọc cho qua ngày đoạn tháng. Cô chủ tên Dung, nghe đâu cũng là “hoa có chủ” của một anh K27. Đang lúi húi tìm thứ tự mấy cuốn Thiên Long Bát Bộ,  bỗng nghe một giọng nữ phát ra từ cửa quán:

  • – Chị Dung, tìm cho em cuốn “Áo tiểu thư” của Duyên Anh. Răng chị…

Câu nói ngắt ngang nửa chừng khi cô gái nhận ra có  bóng người trai lạ đứng trong góc. Tôi nhìn ra. Đó chính là cô gái có cái nốt ruồi trên chân mày ngày qua…

Sau này, khi quen nhau, Hạnh vẫn hay nói đó là duyên kỳ ngộ. Em bảo nhà em không ai thích lính. Cũng đúng thôi, nhà thơ Hữu Loan đã  viết “Lấy chồng chiến binh, mấy người đi trở lại” cơ mà. Tôi trêu “Ghét của nào trời trao của ấy!”. Em cúi mặt buồn buồn.

Hạnh là con gái duy nhất của gia đình.Tên em đơn giản là Trần thị Hạnh. Em kể Ba chết từ lúc mới sinh, mẹ ở vậy nuôi em khôn lớn. Em vừa tốt nghiệp lớp cán sự y tế ngoài Đà Nẵng, về quê thăm mẹ trong lúc chờ bổ nhiệm. Tôi thở phào. Em ra trường sớm mấy tháng, có khi  lũ bạn công tác đợt 1 đã dzớt mất rồi.

Tôi trở lại thăm má Hạnh mấy lần theo lời anh chàng Sanh cố vấn “attack at home” nhưng lần nào cũng gặp một nét mặt  lạnh lùng. Má Hạnh tránh tiếp xúc hoặc chỉ trả lời nhát gừng những câu hỏi chân tình của tôi. Nhìn bà, tôi liên tưởng đến nhân vật nữ Anh Cô căm thù đàn ông vì bị Đoàn Nam Đế phụ tình trong cuốn Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. Có lần tôi còn thấy mắt Hạnh hoe hoe đỏ như vừa mới khóc xong.

Chúng tôi đành biến quán cho thuê truyện của cô Dung thành nơi hò hẹn. Giai đoạn đầu chẳng biết nói chuyện chi, cứ đem mấy cuốn truyện ra mà tán về các nhân vật hoặc chuyện nắng mưa…Ấy thế mà vắng nhau một ngày đã thấy nhơ nhớ…

Nhưng có lẽ tình yêu làm cho người ta thông minh ra. Nghe bạn bè, một chiều Thứ Bảy tôi bạo gan rủ nàng đi chơi nhà thờ Trà Kiệu. Mượn chiếc  Honda Dame của cô Dung, tôi chở Hạnh lên đường.

Nhà thờ núi Trà Kiệu nằm trên ngọn đồi Bửu Châu cao khoảng 60 mét thuộc xã Xuyên Kiệu. Đó là một ngôi nhà thờ cổ được trùng tu từ thế kỷ XIX. Đứng ở tháp chuông, chúng tôi nhìn xuống và ngợp trong màu xanh biêng biếc của cây lá dọc theo hai bờ của dòng sông Thu Bồn thơ mộng. Hàng me tây cổ thụ che rợp mát khu vực nhà thờ và gần đó là một ngôi trường tiểu học do các nữ tu đảm trách. Những chiếc áo choàng đen  trong bóng chiều tạo nên một vẻ đẹp nao lòng. Hạnh cúi đầu kính cẩn khi đi qua những bức tượng tái hiện mười hai  chặng đường  Thánh giá của Chúa Giê Su. Nàng chỉ cái giếng nước mà người xứ đạo phong là giếng nước Thánh. Ai chân tình cầu nguyện khi uống sẽ toại nguyện với ước vọng của mình. Hai đứa cùng ngậm ngụm nước mát. Hạnh nhắm hai mắt lại giây lâu. Tôi hỏi em cầu nguyện điều chi? Em thầm thì “Bí mật!”.

Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên một triền bắp ven sông. Hạnh nói với tôi cách đây khoảng 25 km là Thánh địa Mỹ Sơn, Vương quốc của triều đại Champa cũ. Tiếc rằng chúng tôi không đến được vì lý do mất an ninh. Ánh nắng chiều trải trên dòng sông Thu, gió mơn man như quạt hầu. Dòm kỹ cái nốt ruồi của em coi thật ngộ. Nó hồng hồng và nổi như một hạt đậu cuối chân mày. Em đỏ mặt xấu hổ khi thấy tôi cứ dòm chằm chằm vô mặt. Tôi kể cho em nghe về làng quê của mình, về tuổi nhỏ chăn trâu cắt cỏ, về góc vườn mỗi khi giận mạ thường ra ngồi gục mặt rồi ngủ thiếp lúc nào không hay…Hạnh chủ động cầm tay tôi bóp chặt.Tôi nghe rõ hơi thở dồn dập của em. Và thằng con trai 22 tuổi lần đầu tiên biết thế nào là câu hát của Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên “Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt…”

Chúng tôi đã…thật sự yêu nhau từ giây phút đó. Có Hạnh tôi bớt cù lần hơn. Nhóm “Lờ quờ” mất cái đầu tàu. Hai  thằng bạn bắt tôi bao một chầu Mì Quảng ở Ngã ba Nam Phước trước khi từ giã nhóm. Chuyện nhỏ đối với một gã trẻ tuổi đang say hương vị tình yêu!

Chúng tôi đã có những ngày thật thú vị. Hạnh đưa tôi đi Hội An thăm lại ngôi trường Trần Quý Cáp thời nàng học trung học. Hai đứa lên Chùa Cầu nhìn tượng con chó và con khỉ, lang thang trên con đường nhỏ dọc sông Hoài ngắm những ngôi nhà lợp ngói âm dương. Tôi biết thêm món ăn độc đáo xứ Hội như cao lầu, bánh tráng đập Cẩm Nam, chén chè “ chí mà phù” của ông Tàu già trên phố Nguyễn Thái Học. Có một điều làm tôi cảm động, dù hơi ngượng, là thỉnh thoảng khi trả tiền, cô chủ quán bảo “cô bạn anh trả trước rồi”.

Mỗi lần như thế, Hạnh bảo – Để mặc em, cho nó vui.

Nhưng có lẽ Hạnh thích nhất là khi tôi tặng nàng tập thơ “Thuở làm thơ yêu em” của Trần Dạ Từ . Đến bây giờ tôi  vẫn còn nhớ rõ cái màu cà phê sữa của cuốn sách. Những câu thơ tài hoa như dành riêng cho chúng tôi trong bài thơ Nụ hôn đầu :

Lần đầu ta ghé môi hôn

Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang

Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng

Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ bông…”

Tôi ghi dòng chữ trên đầu trang : “Để em đọc khi nhớ anh”. Hạnh bảo:

– Đây sẽ là cuốn sách gối đầu giường của em. Mãi mãi.

Khi yêu Hạnh, thật sự tôi đã nghĩ đến một mái ấm gia đình. Lăng nhăng không phải là bản chất của thằng tôi cù lần. Chúng tôi còn hơn hai năm để nuôi dưỡng tình yêu. Nhưng thật khó khăn khi tiếp cận với má nàng để bà hiểu tôi là người tử tế.

Suy nghĩ  lâu lắm, Hạnh cắn môi bảo tôi:

-Thứ Bảy này mình lên nhờ bà Ngoại. Ngoại thương em lắm. Mà anh mặc đồ civil nhen.

Bà ngoại Hạnh ở Gò Nổi thuộc quận Điện Bàn. Bà trên 70 nhưng còn khỏe mạnh, giọng nói sang sảng. Trên bàn thờ có hình một ông mặc phẩm phục triều đình trông rất quắc thước. Hạnh bảo tôi đó là ông Cố, một trong Ngũ phụng tề phi của xứ Quảng Nam, niềm hãnh diện của dòng họ ngoại.

Bà đón tiếp cô cháu gái thật vồ vập: – Cha mày. Mấy lâu đi mô mất mặt không thấy thăm bà?

Niềm vui của bà lan qua cả bạn của cháu. Bà sai đứa cháu nhỏ múc nước lấy khăn cho  tôi rửa mặt, leo dừa hái trái “hai đứa”uống, ra vườn thử xem có trái mít nào trở tiếng thì chặt xuống cho “tụi nó” ăn…Đúng là một bà ngoại xứ Quảng nồng hậu mà chơn chất.

Bửa cơm trưa thật ngon miệng với thịt luộc chấm mắm cái, rau cải nấu canh cá rô thêm chút gừng.Tôi nằm trên bộ ngựa bằng gõ thiu thiu ngủ, hai bà cháu rì rầm to nhỏ ở phòng trong.

Chúng tôi ra về khi chiều đà nhạt nắng. Cái nhìn của bà cụ đối với tôi chăm chú hơn nhưng không còn vẻ ồn ào như ban sáng. Hạnh phụng phịu hờn dỗi và không chịu mang trái mít về làm quà như dự định.Trên đường  nàng im lặng nép sát người vào lưng tôi. Một linh cảm bất an trong lòng. Gia đình nàng chê tôi điểm nào???

*          *          *

Mười ngày liền tôi không gặp được Hạnh. Nhờ vã cô Dung hai lần nhưng không ăn thua, má nàng giữ rịt trong nhà. Lại nghe  bạn bè xôn xao đợt công tác có thể sắp kết thúc nhường cho K 29, lòng tôi như lửa đốt. Có đêm tôi liều mạng mượn chiếc Honda phóng về Xuyên Châu. Ngang nhà nàng cửa đóng kín mít, ánh đèn nhỏ hắt ra leo lét. Kim Long ngăn tôi : “Coi chừng có bữa anh Hai ăn súng của bọn du kích. Xứ này coi thế nhưng không hiền đâu!”

Chiều thứ ba, đang ngồi đánh domino với đồng đội thì anh chàng Thu đi về bảo tôi:

-Tao thấy má vợ của mày ngồi xe ôm đi đâu về hướng  Điện Bàn.

Cơ hội trời cho, tôi vất mấy con bài cho Kim Long rồi vẫy xe đi Xuyên Châu…

Nhà vắng ngắt nhưng cửa vẫn mở.Tiếng nước xối trong phòng tắm dưới nhà ngang. Để cho Hạnh khỏi ngượng ngùng, tôi không lên tiếng.Tôi nhìn kỹ mấy bức hình trên vách . Hình bà má hồi còn trẻ bế Hạnh trong lòng; hình Hạnh ôm con búp bê thời nhỏ; hình nàng trong chiếc áo blue trắng đang thực tập ở bệnh viện, cái nốt ruồi có món tóc mai che ngang… Phía bên kia là chiếc giường nhỏ có cái áo gối màu hồng thêu những bông hoa li ti, trên gối còn vương vài sợi tóc dài. Chắc Hạnh vừa nằm ngủ trưa xong.Tôi ngồi xuống cạnh giường, tự dưng có cái ý nghĩ thật lãng mạn là nhặt một vài sợi tóc của nàng làm của riêng. Dưới gối cồm cộm một cuốn sách.Tôi lật lên. Đúng là tập thơ của Trần Dạ Từ. Tôi nhớ câu nói của Hạnh hôm nào “Đây sẽ là cuốn sách gối đầu giường của em”, lòng xao xuyến một thứ tình cảm ngọt dịu.

Tôi lật vài trang sách, một tờ giấy nhỏ gấp tư  kẹp ngay bài thơ “Mối tình đầu”. Quả thực là tôi không nghi ngờ gì về tình cảm của Hạnh nhưng tôi vẫn tò mò giở ra. Nét chữ cứng cáp, chân phương có mấy dòng : “Hạnh, Ba đã nghe bà ngoại nói chuyện. Con hãy chấm dứt ngay mối quan hệ  không lành mạnh đó. Có cơ hội chúng ta sẽ trao đổi thêm.Trước mắt, chuẩn bị cho Ba ít thuốc kháng sinh.Sẽ có giao liên về lấy trong tuần tới.”

Tôi choáng người. Ba Hạnh chưa chết như nàng đã nói với tôi? Thứ ngôn ngữ này rõ ràng là loại ngôn ngữ của phía “bên kia”. Có lẽ nào ba nàng là  cán bộ Cộng Sản hoạt động nằm vùng? Có tiếng động dưới nhà ngang.Tôi đặt cuốn sách dưới gối trở lại ngồi ở bàn giữa, cố gắng giữ nét mặt thật bình tĩnh.

Hạnh xuất hiện trong bộ đồ hoa màu tím nhạt. Em mừng rỡ “a” lên một tiếng rồi sà xuống bên cạnh tôi, thì thào “Em nhớ anh quá!”.Mùi hương chanh và mùi tươi mát của da thịt con gái nồng nàn bốc lên nhưng quả thật tôi không còn lòng dạ nào để rung động. Tôi đẩy nhẹ người Hạnh ra. Nàng hơi khựng lại rồi hỏi tôi: “Anh đến lâu chưa? Sao anh biết má vắng nhà?” .Tôi trả lời “Do tình cờ vậy thôi”.

Những cảm xúc trong tôi đã bị dội một thùng nước lạnh. Đầu tôi rộn lên nhiều câu hỏi khó trả lời. Hạnh không giấu sự vồ vập và hé môi chờ đợi một nụ hôn say đắm nhưng tôi chỉ chạm phớt vào môi. Nụ hôn lần này sao nghe vị đắng chát. Tôi có cảm tưởng bị lừa dối, thậm chí hơi sợ hãi. Có lý nào cô ấy đang giăng bẫy tôi, một chàng Sinh viên Võ Bị, một Sĩ Quan quân lực VNCH tương lai ?

Người hàng xóm qua chơi kéo tôi thoát khỏi sự khó xử. Lấy cớ phải về họp gấp, tôi từ giã Hạnh trong nét mặt phụng phịu của nàng.Tôi đang cần thời gian để suy nghĩ.

Đêm hôm ấy tôi trằn trọc mãi. Gói Capstan gần hết dù tôi không phải là thằng nghiện thuốc lá.Tôi đã hiểu ra thái độ lạnh nhạt của má và bà ngoại nàng. Tôi tự vấn xem có khi nào Hạnh hỏi mình về lĩnh vực quân sự chưa? Có khi nào mình sơ suất tiết lộ điều gì chăng. Rõ ràng tôi yêu Hạnh nhưng phương châm của trường Mẹ đã khắc sâu “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm”. Tôi thiếp đi với  điều  tâm niệm thứ tám trong Mười Điều Tâm Niệm của SVSQ/TVBQGVN : “Không có gì là không thể làm được đối với SVSQ”.

Tuần sau đó tôi nằm mẹp trong Chi khu. Hai lần có lời nhắn của cô Dung ra quán sách nhưng một lần tôi cáo ốm và một lần kêu bận công tác. Tôi không đủ can đảm để gặp Hạnh. Tôi sợ mình sẽ bị lung lay bởi đôi mắt ướt và cái nốt ruồi như hạt đậu đỏ cuối chân mày.

Rồi cũng đến ngày từ giã Duy Xuyên. Hạnh gởi qua Kim Long cho tôi một túi nhỏ gồm những mứt bánh thổ sản, sáu chiếc mouchoir có hai chữ H lồng nhau và lá thư chỉ có một dòng “Em yêu anh mãi mãi”.Tôi nhếch môi cười cay đắng, đem mớ quà cho bạn bè liên hoan, sáu cái khăn tay tôi để lại trên cái ghế bố ngủ đêm ở Chi khu và xé bức thư thành những mảnh nhỏ.

Ngày leo lên chiếc GMC ra phi trường quân sự Đà Nẵng, đưa mắt nhìn quanh, tôi nhận ra Hạnh đứng nép sau một cây phượng lớn. Em nhìn tôi, môi mấp máy điều gì không rõ. Thôi đành. Vĩnh biệt mối tình đầu oái oăm!

 

*          *   *

Về lại trường, chúng tôi chúi mũi vào học Văn hóa bù lại cho chuỗi ngày công tác. Sự bân rộn làm tôi không nghĩ ngợi nhưng khi đêm về tôi luôn nhớ đến Hạnh và những cái hôn mềm môi ướt rượt.Tôi nhận gác thay cho đồng đội ở Tiền đồn hoặc Đài tử sĩ mà không chút phân vân. Quên, quên và phải quên.

Nhưng bất ngờ thay, tôi trở thành người nổi tiếng của Đại đội vì những lá thư dồn dập bay về. Nét chữ màu tím mảnh mai của Hạnh! Một tuần tôi nhận đúng bảy lá! Một tháng đủ ba mươi chiếc phong bì! Tay đàn em K30 mỗi lần nhét thư vào phòng dù cố gắng nghiêm trang nhưng không giấu nổi nụ cười tủm tỉm.

Tôi không mở bất kỳ lá thư nào. Tôi kiếm một cái túi nilon và gom nó lại. Rồi cô ấy cũng sẽ hết kiên nhẫn.

Tháng sau, tôi có một lá thư với nét chữ lạ. Tôi mở phong bì. Dòng chữ ngắn của cô Dung: “Sao anh Hiệp không viết thư cho Hạnh?”. Tôi bỏ chung vào gói thư, không trả lời. Thời gian qua…

Đã gần cuối năm thứ ba.Tôi vẫn là một anh trai tân. Thật đáng thương hại khi trong đêm trao nhẫn truyền thống, tôi cầm lấy chiếc nhẫn tự lồng vào ngón tay mình. Tôi tiếp tục làm nhóm trưởng nhóm “Lờ quờ”, không quan tâm đến sự mối mai của bạn bè với các em gái Bùi Thị Xuân hoặc với những cô sinh viên Đại Học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt danh giá.

Một chiều thứ Bảy, có tiếng của Sinh viên trực nhật trên loa phóng thanh gọi tôi ra hội quán Huỳnh Kim Quang gặp người thân. Không thể là mẹ tôi, người suốt đời chưa bao giờ nghĩ mình được ngồi máy bay, dù chỉ một lần. Không thể là em tôi đang  chúi đầu trên giảng đường Đại học ở xứ Huế xa xôi. Chỉ có thể là Hạnh? Lúc này tôi đã chuyển đại đội.Tôi chạy tìm Kim Long hiền lành cộng thêm anh chàng Thu hào hoa nhiều chiêu trốn gái ra hội quán tìm hiểu và cứu giúp. Lòng tôi như đánh lô tô. Ba mươi phút sau, Thu trở lại cười  rộng miệng “Xong rồi.Tao bảo mày đã hỏi vợ ở quê!”. Kim Long đi sau mặt buồn xo bảo tôi : “Anh Hai ác quá. Em khóc nhiều lắm. Tội quá trời luôn!”.

Đêm hôm ấy, tôi đốt hết tập thư của Hạnh.Trong mắt bạn bè cùng đi công tác Duy Xuyên, nhất là Thành Sang, Sinh viên Sĩ Quan  phụ trách câu lạc bộ Huỳnh Kim Quang, tôi là thằng Don Juan. Sang bảo “Thấy con nhỏ thất thểu ra về, tao muốn đấm vào mặt mày một cái ”. Cũng đành!

 

*     *   *

Tôi sẽ không nói nhiều về thời gian hơn hai năm đi tù, thân phận không bằng một con vật. Mạ tôi đã hồi cư cất túp lều trên nền đất cũ Long Hưng, em trai tôi bỏ học cầm cái bay đi làm thợ hồ. Tôi thành “con bà Phước” sống nhờ vào các niên trưởng và các chiến hữu có thân nhân thăm nuôi. Ngày cầm giấy ra trại, niên trưởng Huỳnh công Kỉnh, K25 còn phải cho tôi  tiền mua vé  tàu. Về làng xưa  vào ngày cuối năm lúc trời đã chạng vạng, mạ ôm chầm lấy tôi rồi nghẹn ngào bảo “Vào Nam đi con. Không sống nổi ở đất ni mô. Thay đổi hết rồi. Sâu bọ lên làm người rồi!”.Tôi ở được với mạ một đêm, cầm trong tay cái địa chỉ của người làng tận Sài Gòn, ăn hai bữa cơm trộn bắp rồi lại ra đi…

Trên chuyến xe Bắc Nam ọp ẹp, tôi đi qua vùng đất Quảng Nam đầy ắp kỷ niệm xưa…Hòa Khánh, Hòa Cầm, Cẩm Lệ, Vĩnh Điện, Duy Xuyên…Chắc bây giờ Hạnh đang ở trên  đà danh vọng, có khi  làm bà Cán Bộ cũng nên. Tôi cũng chẳng ân hận gì. Tôi với nàng rõ ràng là hai đường thẳng song song.

Tôi cũng chẳng muốn nhắc lại tháng ngày ngược xuôi kiếm sống trên đất Sài Gòn. Người làng cũ đã bán nhà đi kinh tế mới. Tôi nằm vơ vất ở bến xe Miền Đông ba đêm rồi may mắn gặp lại Ngọc, thằng bạn cùng đại đội. Hắn giúp tôi gặp nhóm bạn cũ đang thay nhau đạp xích lô từng ngày; có khi lại mang vác hàng cho mấy bà bán phụ tùng xe đạp ở chợ Trời; có khi lang thang không biết đêm nay mình sẽ ăn đâu, ngủ đâu. Đúng  như câu thơ của Lý Bạch “Xử thế nhược đại mộng!”. Cuộc đời  quả là một giấc mộng lớn. Mới ngày nào chúng tôi còn là những chàng trai hào hoa ấp ủ nhiều hoài bão.Tôi nghe tin anh Hoàng Tấn đã bị bắn chết vì phản kháng ở Đơn Dương- Đà Lạt. Bạn  bè cũ có thằng vượt biên thoát, thằng mất tích, thằng còn ở trong các trại giam, thằng vào rừng tìm lực lượng kháng chiến…

Rồi cuộc đời đưa đẩy tôi lưu lạc qua đất Campuchia bằng xe đò ở Tân Châu-Hồng Ngự. Tôi làm nghề cắt tóc dạo ở Phnompenh, bỏ mối thuốc cho một ông Trùm buôn lậu thuốc Tây của Xí nghiệp Quốc doanh Việt Nam kiếm cơm hàng ngày, thậm chí có khi còn làm y tá chích thuốc dạo cho bệnh nhân. Ơn trời, chưa nghe ai chết! Tôi giao tiếp với  người Cam ở các chợ Schabarbauu, chợ Chắc Nghệ… Đôi khi thất chí, muốn lấy đại một cô Miên quấn xà rông, có mấy cái răng vàng 24 karat  sáng chóe chuyên ăn mắm bò hóc cho xong đời!

Tình cờ tôi quen anh Tài, một Việt Kiều Miên về nước năm 1972 lúc người Việt bị cáp duồn. Anh lên lại Nam Vang  làm ăn và có ý định  vượt biên qua Thái Lan. Anh cần một tay sử dụng súng sẵn sàng bắn vào Công an hoặc hải tặc. “Một liều ba bảy cũng liều”, tôi nhận công việc này.

Chúng tôi lên Kompongsom mua một chiếc ghe cũ bề ngang 2m dài 7m được tân trang, sửa lại lốc máy và khởi hành vào một đêm tháng Tám từ Vịnh Tân Hao. Trên ghe có sáu người lớn và hai con nít. Ghe không dám đi gần bờ vì sợ lính biên phòng của Miên. May mắn thay, gần tới KoKong thì trời đổ mưa lớn che khuất tầm nhìn của các trạm gác. Lênh đênh trên biển 4 ngày chúng tôi gặp những chiếc tàu treo cờ Thái và ghe đi đúng hướng cập vào tận một hải cảng. Tôi chưa phải sử dụng cây M16!

Lúc quyết định theo anh Tài tôi có ý nghĩ nếu chuyến đi không thành công thì biển sẽ là mồ chôn cuộc đời đã tận đáy xã hội của mình.Tôi chẳng còn sợ gì cái chết. Tôi cũng  dự định nếu đến được Thái Lan thì sẽ ngữa mặt lên trời cười ba tiếng bù lại hơn 10 năm tủi nhục sau ngày Miền Nam sụp đổ. Nhưng tôi không làm được điều này vì chỉ kịp xách cái bao đi theo người lính Thái về trại tạm trú Leam Ngộp.

Sau ba tuần ăn, ngủ, nghỉ, chúng tôi chuyển lên trại chính là Panat Nikhom. Nghe nói chỉ hai tháng sau, trại tạm cư đóng cửa không còn chấp nhận người tị nạn Việt Nam.Và ở đây, tôi đã quen Minh Hạnh, vợ của tôi bây giờ.
Qua bao nhiêu gian khổ, tôi không còn giữ được bất cứ một thứ giấy tờ nào.Tôi chỉ còn nhớ số quân của mình. Nhưng may mắn thay, khi được  Cao ủy Liên Hiệp Quốc phỏng vấn, tôi gặp Thiếu tá niên trưởng Tôn Thất Diên K10, Trưởng khoa Anh Văn của Trường Võ Bị, đang làm phiên dịch cho phái đoàn.Thầy đã tận tình giúp đỡ tôi. Chao ôi là ân tình của trường Mẹ! Tôi được nhập cư vào đất Mỹ. Trong tháng ngày chờ đợi và học nghề ở Phi Luật Tân, bạn bè K28 cũng đã yểm trợ cho  tôi một ít tài chánh trong tình nghĩa đồng môn, bạn bè cùng khóa…

Như bao người đến Mỹ muộn màng, nên vợ chồng phải hùng hục kiếm sống. Một người ôm 2,3 jobs và thay đổi công việc liên tục từ hầu bàn, rửa bát, làm vườn, dọn tuyết, sơn nhà, giữ trẻ…đêm về còn phải đi học ESL . Bên nhà báo tin mạ mất , tôi cũng chẳng thể trở về. Thôi thì buổi chiều ly biệt cuối năm  đó, tôi cũng đã nhủ thầm “Lạy mẹ, con đi”…

Tôi cũng không hiểu sao vợ tôi lại có cái tên trùng với Hạnh Duy Xuyên? Lại sinh cùng năm ký hiệp định Geneve 1954. Minh Hạnh người Vĩnh Long và hiền lành như cây trái miệt vườn sông Hậu. Cô ấy chưa bao giờ hỏi tôi về quá khứ và cũng không biết gì về Trường VBQGVN với những chàng trai quân phục dạo phố worsted, Jaspe, cầu vai alfa đỏ… Chúng tôi từng bước ổn định cuộc sống với hai con gái chăm ngoan.

Sau những nhọc nhằn, giờ đây tôi đã có những phút giây thư giãn. Tôi bắt đầu liên lạc, thư qua tin lại với bạn bè xưa. K 28 có đâu khoảng 50 người trên đất Mỹ. Bạn bè  hầu hết đã quá 60, lâu lâu lại nghe tin buồn một thằng về “Vùng V”. Ôi! Đời người như bóng câu qua cửa sổ.

Năm ngoái, tôi về Houston, Texas tham dự Đại hội Võ Bị lần thứ 19.  Thật cảm động khi gặp lại  những gương mặt “gian ác” thuở nào. Chúng tôi hò hét, cười đùa y như những chàng trai mới lớn. Nhắc lại kỷ niệm xưa có thằng rươm rướm nước mắt dù tóc trên đầu đã ngã màu bạc trắng.

Hôm đến nhà hàng Kim Sơn dự dạ tiệc, ngang qua một số chị em Hội Phụ nữ Lâm Viên, tôi chợt nghe tiếng gọi:

  • – Anh Hiệp…Có phải anh Hiệp không???

Tôi dừng chân. Trước mặt tôi là một người đàn bà còn vẻ duyên dáng trong chiếc áo dài xanh truyền thống…Nhưng tôi không thế nào nhớ nổi đó là ai.

Người đàn bà mỉm cười: -Trông anh không thay đổi mấy. Em nhận ra ngay. Dung Duy Xuyên đây! Anh còn nhớ không?

            -Ồ, cô Dung Duy Xuyên, người góp phần mai mối cho mối tình đầu của tôi ở Quảng Nam. Chúng tôi mừng rỡ. “Tha hương ngộ cố tri ”, hạnh phúc nào bằng! Chúng tôi bồi hồi nhắc lại chuyện hơn 40 năm về trước, thời tôi là một anh SVSQ cù lần và Dung với cái quán cho thuê sách ở góc chợ…Dung đã lấy vị Niên trưởng K27 khi anh đi “tù cải tạo” về và hai vợ chồng qua Mỹ theo diện HO năm 1992.

Dung chợt nghiêm mặt hỏi tôi:

– Anh có nhớ gì về Hạnh không?. Tôi cười cười:

– Sao? Cô ấy làm bà Bí thư Tỉnh ủy chưa? Có bao nhiêu biệt thự rồi?

-Anh không biết thật sao? Đàn ông các anh thật vô tâm…Nó tội lắm.

Dung kể cho tôi nghe. Quả thực như tôi nghĩ, ba Hạnh không chết như trong lý lịch đã khai. Ông tập kết ra Bắc khi Hạnh còn nằm trong bụng mẹ và trở về Nam từ những năm 70. Ông móc nối với gia đình để được tiếp tế và hoạt động trên đất Quảng Nam. Đó cũng chính là lý do mà cả bà ngoại và má Hạnh ngăn cản không cho Hạnh giao tiếp với tôi, một người lính VNCH. Sau ngày tôi trở về trường không lời từ giã, Hạnh đau khổ lắm. Không nhận được thư hồi âm, cô trốn nhà lặn lội vào Đà Lạt. Trước thái độ cự tuyệt lạnh lùng và dứt khoát của tôi, cô về sống lầm lủi ở Xuyên Phước, phụ trách phòng Hộ sinh Xã.

Ngày miền Nam mất, ba Hạnh công khai xuất hiện với cương vị một  “cán bộ Cách Mạng” cao cấp trong sự mừng rỡ của người mẹ chờ đợi  đằng đẳng 20 năm ròng. Nhưng ngày vui ngắn ngủi chẳng được bao lâu. Sự thủy chung của bà đã bị trả giá khá phũ phàng. Chỉ bốn tháng sau, một người đàn bà miền Bắc xuất hiện với những đứa con sau lưng. Ba Hạnh lúng túng giải thích, nhưng mọi chuyện đã quá rõ ràng. Má Hạnh không có con trai. Căn nhà từ đường có cây ngọc lan, có cái giếng đá ong đành để lại cho gia đình mới. Hai mẹ con trở về Điện Bàn sống  với bà Ngoại trong ngôi nhà tôi đã một lần đến thăm.

Hạnh từ chối đặc quyền đặc lợi dành cho  “con em chính sách” đi học Bác sỹ ở Hà Nội. Mẹ Hạnh suy sụp hẳn đi và mất sau một cơn đột quỵ. Trước khi mất, bà cầm tay Hạnh ứa nước mắt như một lời xin lỗi muộn màng. Mãn tang mẹ, Hạnh quyết định đi tu Thiên Chúa giáo dòng Phước Môn. Và hiện giờ nàng đang là một nữ tu phụ trách trường trẻ em mồ côi gần Nhà thờ Núi Trà Kiệu!

Tôi ngồi lặng.Trong đầu tôi dần hiện ra hình ảnh cô gái có khuôn mặt trắng mát, cái nốt ruồi như hạt đậu đỏ cuối chân mày, một buổi chiều tháng Ba,ngôi nhà thờ cổ, ngụm nước giếng mát lạnh và …nụ hôn đầu. “Lần đầu ta ghé môi hôn. Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang…”

Tôi biết mình sẽ có nhiều đêm mất ngủ. Hạnh ơi!…

    Hương Thủy

 

 

 

 

 

Bản tình ca Dang Dở…

huongthuy

*Dang dở tức Tà áo xanh – tên một nhạc phẩm của Đoàn Chuẩn-Từ Linh.

Tổng biên tập mời tôi lên Văn phòng đề nghị viết một phóng sự nóng về vụ Công ty du lịch H.S tự ý cắt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu nông nghiệp của nông dân thuộc huyện Đạ Teh tỉnh Lâm Đồng. Mấy đêm nay tự dưng không ngủ được, lại muốn thoát ra sự ngột ngạt của Sài gòn những ngày cuối năm, tôi nhận lời.
Về căn chung cư- tổ ấm của hai mẹ con gần hai mươi năm nay – tôi gọi phone cho con trai báo sẽ vắng nhà khoảng ba ngày, dán lên tủ lạnh những dặn dò về thực phẩm và xách ba lô lên đường.
Xe trực chỉ hướng đông nam. Phố xá dần khuất sau lưng, quốc lộ 20 hiện ra trước mắt. Qua địa phận Long Khánh, những rừng cao su xanh ngắt hai bên đường. Mới tuần trước, dân đào hố trồng cây phát hiện bốn bộ hài cốt trong quân phục treillis và ba khẩu M16 rỉ sét. Chắc hẳn đó là những chiến binh thuộc Sư đoàn 18 của Tướng Lê Minh Đảo vào hai tuần cuối tháng Tư năm Bảy Lăm bi tráng. Chiến tranh đã đi qua hơn ba mươi năm nhưng cuộc chiến về nhân tâm xét cho cùng vẫn còn dai dẵng…
Xe dừng lại ở trung tâm huyện Đạ Huoai, tôi vẫy một chiếc xe ôm vào huyện Đạ Teh. Con đường càng lúc càng lên cao. Mùa khô đã về. Hai bên đường, hoa dã quỳ vàng trải dài ngút mắt. Những cơn gió cao nguyên thốc vào mặt mát lạnh.
Đạ Teh là một huyện mới nằm về phía tây của tỉnh Lâm Đồng. Trước 75, đây là vùng oanh kích tự do của Không quân miền Nam. Tên huyện cũng là tên của con sông lớn nhất chảy qua địa bàn. Đạ Teh theo tiếng gọi của người Mạ bản địa là Nước Nóng. Nghe nói tên này bắt nguồn từ việc nước con sông bao giờ cũng ấm hơn những con sông khác. Đó cũng từng là một mật khu có bí danh T1, T2, T3; nơi giam giữ tù binh miền Nam trong chiến tranh đồng thời cũng là đơn vị hậu cần của Việt Cộng có tên Công Doanh 19/8 chuyên tăng gia lương thực chi viện cho bộ đội chính quy Bắc Việt vùng Lâm Đồng – Đồng Nai Thượng. Sau 75, đây là chốn lưu đày của những gia đình “Ngụy quân” miền Trung như Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Bình Định… núp dưới chiêu bài xây dựng “Vùng kinh tế mới”; cũng là nơi những người dân miền Bắc với hai mươi năm đi lên XHCN nghèo khổ khát đất mò vào. Dấu ấn quê hương còn đậm nét qua những tên xã như Triệu Hải,Triệu Phong, Hương Lâm, Quảng Ngãi, An Nhơn, Mỹ Đức, Quốc Oai…
Tôi ngồi bên hồ Đạ Teh. Hồ đựơc hình thành do việc xây dựng đập thủy lợi chắn ngang dòng sông. Mặt hồ xanh biếc, những con sóng lăn tăn dàn đều trên mặt nước. Vài chiếc thuyền nan đang neo nghỉ cạnh bờ. Cảnh đẹp như bức tranh thủy mặc. Người dẫn đường chỉ cho tôi một nghĩa trang nhỏ có khoảng mười mấy ngôi mộ của những người đi mở đất và đã chết khi lao động xây hồ. Đây được xem là công trình thủy lợi lớn nhất của tỉnh Lâm Đồng. Nó phục vụ tưới tiêu cho hơn ba ngàn mẫu đất của nông dân các xã. Ấy thế mà giờ đây nó dần trở thành sở hữu cho một tập đoàn tư nhân đang dự định thi công dự án khu du lịch sinh thái có sự tiếp tay của chính quyền sở tại và người dân đang kêu cứu với báo chí!
Tôi cũng đã tiếp xúc với những người nông dân chân lấm tay bùn để có một cơ ngơi được gọi là tạm ổn hôm nay. Với giọng nói chơn chất của nhiều vùng miền , họ kể cho tôi nghe những ngày khai hoang đầy máu và nước mắt. Bao nhiêu người đã gục ngã vì sương lam chướng khí. Những địa danh còn in đậm gian khổ như dốc “Ma Thiên Lãnh”, đảo Khỉ…Những tai nạn xảy ra trong lao động như cây ngã, rắn cắn, bọ cạp đốt… xảy ra thường xuyên. Nâng bát nước chè xanh họ mời, tôi nghe như có vị mặn của mồ hôi và máu.
Sau khi thu thập đầy đủ chứng cứ và tư liệu, tôi trở về thị trấn. Chiếc Cup thuê của cửa hàng trước nhà nghỉ bò ì ạch qua con dốc. Và khi đã vượt đỉnh một cách khổ sở, xe đột ngột tắt máy. Khởi động mấy lần đều bó tay, chỉ còn một cách là bỏ số O cho nó tuột dốc.
Và ơn trời, phép màu đã hiện ra khi cuối dốc xuất hiện căn nhà nhỏ trong bức tranh đồng quê vắng lặng. Nếp nhà gỗ mái tranh nép mình trong vườn cây xanh. Hàng cau thẳng trước mặt gợi nhớ khung cảnh của một làng quê miền Trung, làn khói bếp nhẹ nhàng lan tỏa . Trước nhà là cái quán nhỏ có bảng hiệu bằng nhôm cũ kỷ với dòng chữ “ Sơn sửa Honda, xe đạp”.
Tôi chặm mồ hôi, đẩy xe vào. Một cậu con trai đang cầm quyển sách chăm chú học bài. Quán hàng hẹp, bên trái làm chỗ sửa xe với mấy cái lốp cũ treo trên móc. Bên kia là sạp tre đặt lèo tèo mấy thẩu kẹo bánh, bó rau, trái mướp… Cậu bé giúp tôi dựng chiếc xe lên và lễ phép“Cô chịu khó chờ một chút, ba con đang dỡ tay trong nhà…”. Ngồi trên chiếc ghế nhỏ, tôi thở ra nhẹ nhỏm. Thế nào cũng phải về thành phố chiều nay để kịp cho bài báo lên khuôn.
Người đàn ông bước ra, mũ lưỡi trai che khuất nửa mặt. Ông ta huơ tay xua đàn gà con đang lúc thúc theo mẹ kiếm ăn trước cửa bếp. Cậu bé kêu “Ba ơi! Có khách”. Ông vào quán, không ngước mắt lên, hỏi “Xe bị thế nào cô?”
Tôi hơi rùng mình… Giọng nói sao nghe quen, ngữ điệu đặc trưng của người Bình Định. Âm thanh như vọng lên từ một cõi xa xăm trong tiềm thức. Và khi ông ta mở thùng đạn đại liên lấy dụng cụ sửa xe, chiếc nhẫn Võ Bị trên bàn tay phải có vết sẹo dài thì ký ức tôi sống dậy, chói lòa. Tôi run rẩy, lập bập: “ Anh, anh Th.???
Ta quen nhau mùa Thu…
Tháng chín năm 1973.
Cô bạn Như Huy, Ủy viên xã hội của lớp, thò đầu vào hét lên: “ Sáng nay nghỉ học, đi ủy lạo các chiến sỹ Dù trở về từ mặt trận Cổ Thành Quảng Trị…Phòng Sinh Viên Vụ thông báo”.
Lớp Anh văn năm hai nhốn nháo. Tường Vy thở phào: “May quá. Tao chưa soạn bài, thoát khỏi Mr Malia”. Mấy ông con trai bảo: “ Chuyện này chỉ dành riêng cho các Em gái hậu phương. Chúng tôi đi cà phê đây”.
Kim Chi níu tay tôi và Tường Vy: “Trốn qua phố chơi đi. Hàng vải Bảo Thạnh về mấy mặt hàng rất đẹp. Mới lĩnh học bỗng tha hồ vi vu”. Như Huy năn nỉ: “Thương tui với. Mấy bạn giúp tui. Đây là đơn vị của ông anh ruột tui là Hoàng Công Thức đó. Tội nghiệp lính mà!”. Liên tưởng đến ông anh trai thuộc Sư đoàn I đang đóng quân ở tiền đồn, tôi nhẹ nhàng: “Thôi tụi mình đi đi. Cũng là một cơ hội để gặp Anh tiền tuyến”.
Cả lớp gần hai mươi nàng kéo nhau lên bờ sông Hương trước mặt Trường Luật. Ôi chao! Lính Dù ở đâu nhiều quá. Những gương mặt vừa kinh qua cuộc chiến sinh tử tái chiếm Cổ thành nhưng vẫn mang vẻ hào hoa. Những nụ cười vui vô tư của người trở về từ cõi chết. Cũng không hiếm các khuôn mặt măng tơ của những anh lính sớm từ giã bút nghiên theo nghiệp kiếm cung… Tôi và hai cô bạn thân vén áo dài nhảy lên chiếc GMC có những bàn tay cứng cáp đang chìa ra giúp đỡ. Đoàn xe trực chỉ Lăng Tự Đức, một thắng cảnh của miền sông Hương núi Ngự.
Sau những dè dặt ban đầu, câu chuyện nở như bắp rang. Vốn kiến thức về quân sự qua phóng sự chiến trường của Kiều Mỹ Duyên, Phạm Huấn, Phan Nhật Nam … được chúng tôi phát huy và các anh lính nhiệt tình góp chuyện. Mấy ông Pháo binh Dù tròn mắt khi nghe tôi “phét lác” về bắn Prep, TOT… Một ông Đại úy nói vui : “Đề nghị Đại Tá Tường, Chỉ huy trưởng Pháo binh Dù xin Bộ Giáo Dục cho cô này đổi về Trường Pháo Binh Dục Mỹ”. Cả xe cười vui. Tài giỏi chi, chẳng qua tôi nghe lóm từ ông anh Pháo thủ của Sư đoàn Đèn cầy số I.
Lăng Tự Đức rợp mát. Tiếng thông reo vi vu. Như Huy thuyết trình về lịch sử của Khiêm Lăng đúng như Cours Lịch sử kinh thành Huế của thầy Phan Văn Dật dạy chúng tôi trong môn nhiệm ý bên Văn Khoa. Kim Chi đi dọc hàng sứ cổ thụ lượm một nón hoa tặng cho các anh lính mỗi người một bông. Họ gắn trên mũ, gài trên nắp áo trông thật dễ thương.
Tôi chú ý ông Thiếu úy ngồi một mình trên bậc thềm thủy tạ, mắt nhìn mông lung ra mặt hồ. Cuối thu, sen đã tàn , những tán lá khô vàng là đà trên mặt nước. Tường Vy đẩy nhẹ vai tôi: “Thủy Tiên ra an ủi anh chàng kia kìa. Coi cái mặt như mới bị bồ đá!”. Ừ , thì đi. Đêm qua đọc Mùa hè đỏ lửa của Phan Nhật Nam thấy thương lính quá.
… Thế là chúng tôi quen anh Th., người sĩ quan xuất thân từ trường Võ Bị, khóa 25 có tên Quyết chiến quyết thắng.

Ta thương nhau mùa Đông…
Tôi sinh ra trong một gia đình có hai anh trai và tôi là gái út. Cha mất sớm, mẹ tần tảo với sạp hàng bên chợ Đông Ba nuôi mẹ chồng và các con ăn học. Như đa số các bà già Huế, mệ nội tôi rất trọng con trai. Các anh có thể rủ bạn bè về nhà ở hàng tuần, đêm đêm cùng học nhóm hoặc ngâm thơ, đàn ca hát xướng, bình luận về cô ni cô tê dưới tàng cây nhãn cổ thụ. Mệ tôi coi tất cả như con cháu, thuộc hết tên tuổi và tính nết của họ. Gia đình không giàu có nhưng mẹ tôi về chợ bao giờ cũng nhớ mua thêm chút gì cho cả nhóm ăn khuya, lâu không thấy anh nào đến chơi thì mệ tôi lại nhắc nhỡ. Và tôi, đứa con nít còn đưa tay quệt mũi nhảy lò cò cũng hay được các anh sai vặt “Út ơi, ra quán mua lửa (mua nợ) cho anh mấy điếu Bastos xanh, không có thì lấy Ruby nghe! Nhớ ba đồng bốn điếu…”
Nhưng những ngày tươi đẹp qua mau. Chiến tranh đã cướp mất thanh bình, tuổi trẻ và thứ tình yêu mơ mộng của các chàng trai mới lớn. Họ lần lượt lên đường nhập ngũ và ra trường dưới nhiều màu áo khác nhau. Tôi còn nhớ mũ đen Thiết giáp của anh Minh, mũ xanh Thủy quân lục chiến của anh Trọng…Tôi cũng không quên ngày anh Linh trở về trong chiếc quan tài bọc kẽm và dòng nước mắt thầm lặng của chị Mai hàng xóm…. Hai anh tôi, một người dạy học tận miền Tây xa xôi, người thứ hai đang học dỡ Đại học cũng bị động viên vào quân trường Thủ Đức và trở thành sĩ quan tiền sát viên của một đơn vị pháo binh đóng ở căn cứ Birmingham.
Mười sáu tuổi, tôi thừa kế “gia tài” của các anh với một chồng dày programme của các rạp chiếu bóng Hưng Đạo, Châu Tinh, Tân Tân ở Huế; những thùng sách truyện đầy ắp để rồi từ đó sau giờ học, tôi mê man với tài điều binh khiển tướng của Napoleon, Moshe Dayan; hiện sinh với Một chút mặt trời trong nước lạnh, Buồn ơi chào mi! của F.Sagan; lãng mạn với tiểu thuyết Mười đêm ngà ngọc của Mai Thảo và phiêu du trong các bộ truyện chưởng của Kim Dung; khi buồn miệng thì ngâm nga những câu thơ thời cuộc bi tráng của Quang Dũng, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Tất Nhiên …
Tôi cho anh Th. địa chỉ nhà mình và tìm thấy nơi anh hình ảnh người anh trai cùng trang lứa, của những chàng trai Việt Nam bị cướp đi tuổi trẻ và quyền được sống, được yêu. Tôi hiểu về nỗi buồn của anh khi vừa mới ra trường thì tháng sau đã nghe tin bạn TVD- người được các TKS ưu ái đặt tên là “Hiền thần”- là người đầu tiên của khóa tử trận, loon thiếu úy còn vàng chóe trên cổ áo. Và ngày đi chơi lăng Tự Đức thì đêm trước người bạn cùng đại đội thời ở quân trường có tên TKV đã mất một chân. Trong khi đó mở radio các cô ca sỹ cứ nức nở “Anh trở về hòm gỗ cài hoa…Anh trở về trên chiếc băng ca…”nghe thật não lòng.
Quê anh ở Bồng Sơn . Từ năm 1965, miền quê ấy đã trở thành “vùng xôi đậu”. Gia đình anh tản cư vào Quy Nhơn và anh học trung học ở trường Cường Để. Bốn năm thụ huấn Võ Bị, tính ra đã gần trăm lần mặc niệm trước bửa ăn về những niên trưởng đã hy sinh nhưng khi đụng trận anh mới thấy hết được sự tàn khốc của chiến tranh.
Trước ngày ra trường- thường vào cuối năm- các anh hăm hở chọn lựa đơn vị. Ai cũng háo hức mong về các binh chủng thiện chiến. Bạn nào không may mắn rơi vào bộ binh thì bị chê là “Gà rù- Gà chết”. Anh Th. thỏa mãn ước vọng khi về binh chủng lừng danh Red Hat và được ném ngay ra chảo lửa Quảng Trị để bàng hoàng chứng kiến những cái xác cộng quân non choẹt bị xiềng vào xe tăng T54, những gương mặt ngây thơ cứ tuyệt vọng tràn lên, tràn lên trước mũi súng với chiến thuật bỉển người tàn bạo.
Từ đó, nhà tôi là cái trạm cho anh mỗi lần có dịp về Huế. Mệ nội và mẹ tôi lại coi anh như những đứa con trai trước đây của gia đình. Mệ nội nói “Có mất chi mô! Cháu mình đóng quân nơi xa xôi cũng được người khác thương yêu như rứa!”.
Tôi và Kim Chi, Tường Vy đưa anh đi chơi Đại Nội, đọc cho anh nghe những câu thơ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan; về Cồn Hến ăn chè bắp; qua Chi Lăng ăn bún bò Mụ Rớt cay xé lưỡi để rồi phá ra cười khi anh so sánh “ ăn tô bún bò Huế còn khổ hơn đi đánh giặc các em à!”
Mùa Đông Huế với cái lạnh cắt da nhưng tình cảm anh em tôi ấm áp biết bao nhiêu!
Ta yêu nhau mùa Xuân… để rồi tàn theo mùa Xuân…
Tháng hai năm 1974.
Từ trường về, tôi thấy anh nằm trên chiếc giường nhỏ, mặc bộ pyjamas cũ của anh tôi và ngủ mê mệt. Mệ nội xua tay: “Đừng có ồn. Để yên cho anh nằm. Tay hắn bị thương đó”. Tôi lặng người nhìn nét mặt hốc hác của anh, bàn tay phải được băng chặt, vệt máu còn vương trên miếng compress. Tôi ra giếng, giặt cho anh bộ đồ trận bê bết bùn đất, giũ sạch ba lô. Trong ba lô chỉ có bộ đồ lót, một ống kem Hynos đã bẹp dúm, cái bàn chải toe đầu và một cuốn Chuyện cấm đàn bà của nhà văn quân đội Đặng Trần Huân mất bìa…Lòng tôi rưng rưng. Một cảm xúc mới lạ òa vỡ!
Mệ nội nấu cho anh một tô canh tập tàng với những thứ rau hái vội sau vườn, dĩa cá bóng thệ kho khô đạm bạc nhưng anh nói đây là bữa ăn ngon nhất của anh trong đời. Tôi ngồi bên anh, thêu giúp hai bông mai đen trên cổ áo trận. Anh cầm muỗng ăn bằng tay trái, tôi hỏi có đau không, anh trả lời “Như kiến cắn thôi. Nếu nặng hơn thì anh đã nằm ở quân y viện Nguyễn Tri Phương chứ đâu mò ra thăm em được”. Và thật bất ngờ, anh nói với tôi: “Sau này em có chịu nấu cơm cho anh ăn suốt đời không?”.Tôi đỏ mặt gật đầu. Chúng tôi trao nhau những ánh mắt yêu thương. Với tình yêu, đâu cần ngôn ngữ!
Đơn vị anh về dưỡng quân ở Hương Điền, cách Huế 20 cây số, nhường mặt trận Cổ thành cho Lữ đoàn Thủy quân lục chiến. Chúng tôi có cơ hội gặp nhau nhiều hơn. Tôi hãnh diện được anh đón sau buổi học trong bộ quân phục rằn ri. Tôi biết Thánh tổ Nhảy dù là ông Thánh Micae; biết thế nào là nhảy chuồng cu ở trại Hoàng Hoa Thám; biết khi nào thì bấm dù lưng, dù bụng; biết cách gập dù sau khi tiếp đất …Tôi viết cho anh hai câu thơ: “Em nguyện làm tín đồ ngoan đạo. Theo anh không quản gian lao”.
Như những người yêu nhau khác, chúng tôi xây đắp ước mơ. Một ngày đẹp trời nào đó khi tôi nghỉ hè, khi anh có phép, chúng tôi sẽ vào Quy Nhơn ra mắt cha mẹ anh ở căn nhà trên đường Nguyễn Huệ, đường lên Ghềnh Ráng, có mộ nhà thơ Hàn Mặc Tử ngày đêm nghe tiếng sóng rì rào. Kim Chi trêu tôi: “Mi dân Huế về làm dâu người Bình Định, nói chuyện với mẹ chồng phải cần thông dịch viên đó nghe!”. Mệ nội tôi bắt đầu những bài Gia Huấn ca trong các bữa ăn cho cô cháu gái tương lai sẽ về làm dâu Xứ Nẫu.
Anh không đẹp trai nhưng rất chân thật và hào sảng. Trường Võ Bị đã tạo cho các anh tính cách ấy. Anh kể về Thủ khoa NAD văn võ song toàn, về giọng hát trứ danh của ca sỹ trung đoàn BPT, về anh bạn NH đai đen Taekwondo, về bạn PMT được vinh dự qua Mỹ vào học trường West Point …Những con người tài hoa ấy nếu phải hy sinh thì thật tiếc cho cả một thế hệ. Anh tạo cho tôi một ấn tượng đẹp về ngôi trường quân sự ở thành phố cao nguyên dù tôi chưa một lần đặt chân.
Đơn vị có lệnh rút về Quảng Nam đóng ở căn cứ Chu Lai. Đêm trước khi anh lên đường, chúng tôi đi lang thang trên những con đường nội thành. Tôi cầm chặt tay anh, bàn tay phải có vết sẹo hơi cộm lên. Anh bảo “Là người yêu lính thì phải cứng rắn, sau này anh còn phải đi hành quân xa mà lỡ nếu như không về thì…” Tôi bịt vội miệng anh :“Đừng nói, đừng nói. Em không muốn nghe. Em đợi anh mà!”. Anh mua cho tôi hai cuốn truyện Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh và Một thời để yêu và một thời để chết của E.M.Remarque ở nhà sách Ưng Hạ.Từ đây những bức thư là chiếc cầu nối cho mối tình chúng tôi.
Tháng ba năm 1975.
Khởi đầu bằng những chuyến xe đò chở dân chúng chạy từ phía bắc vào thành phố. Tiếp theo đó là những đoàn người gồng gánh, tay xách nách mang những gì có thể. Nhà giàu Huế bắt đầu bỏ đi. Rồi con đèo Hải Vân chật cứng xe cộ di tản vào Đà Nẵng. Trên đài phát thanh, Ông Tướng tuyên bố tử thủ. Mẹ tôi đi chợ về nói “Người ta chộn rộn lắm. Mình có chạy không mệ?”. Mệ nội thở ra: “Chạy mô nữa! Nhớ năm 72 chạy vô Đà Nẵng ở tạm bợ trong mấy cái trường học khổ bắt chết. Khi về thì nhà bị ăn trộm hết đồ đạc. Để chờ tin thằng hai trên núi đã. Mạ sợ lắm rồi. Mạ tính không chạy mô hết! Huế mà mất thì cả nước mất!”.
Và lời mệ nội như một sự tiên tri! Thôi, kể làm chi nữa những chuyện đau lòng!
Anh thứ hai của tôi đi cải tạo ở trại Thanh Cầm tỉnh Thanh Hóa. Anh đầu chạy vội từ Cần Thơ ra giục giã gia đình chuyển vào miền Nam, càng xa đây càng tốt. “Mệ và mẹ không nhớ Mậu Thân răng?” Tiếng nói của người con trai cả như mệnh lệnh trong một gia đình toàn đàn bà. Căn nhà được bán vội vàng và…tôi xa Huế, xa anh giờ đã biệt vô âm tín.
Sau này, tôi có nhờ cô bạn ở Quy Nhơn tìm đến căn nhà mà anh đã cho địa chỉ trên đường Nguyễn Huệ. Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Nhưng căn nhà cũng đã đổi chủ. Người ra tiếp bạn tôi là một ông cán bộ người Bắc. Căn nhà thuộc diện được phân phối mà ông ta cũng không cần biết chủ cũ là ai.
Ôi, anh Th. Ôi, mối tình đầu của tôi!
Và thời gian qua…Tôi bị đẩy vào một cuộc sống gia đình buồn tẻ, bên người chồng mà hôn nhân không bắt đầu từ tình yêu. Cuộc sống tinh thần càng lúc càng bế tắc và khi Mệ nội và mẹ lần lượt qua đời thì tôi cũng quyết định chọn cho mình một sự giải thoát. Tôi làm lại cuộc đời mình với vai trò một bà mẹ đơn thân.
Thỉnh thoảng trong giấc mơ, hình ảnh anh Th. hiện về và khi tỉnh giấc bao giờ mặt tôi cũng đầm đìa nước mắt. Tôi hy vọng anh đã thoát được vào tháng tư kinh hoàng năm 75; hoặc trên một chuyến tàu vượt biên; hay những chuyến đi HO sau này dành cho những sỹ quan VNCH “ cải tạo”. Trong thâm tâm, bao giờ tôi cũng cầu nguyện cho anh hạnh phúc.Hai cuốn truyện anh tặng vẫn nằm trang trọng trên kệ sách dù những trang giấy đã úa vàng. Tôi thường bắt đầu một ngày của mình với bài hát Dang Dở của Đoàn Chuẩn-Từ Linh qua giọng ca Lệ Thu trong băng cassette: Ta quen nhau mùa thu…Ta thương nhau mùa Đông…Ta yêu nhau mùa Xuân để rồi tàn theo mùa Xuân…Câu hát như một lời nguyền cho mối tình mong manh của chúng tôi!
Và giờ đây…
Vĩ Thanh
Tưởng có thể ôm chầm lấy nhau sau hơn ba mươi năm cách biệt; tưởng có thể òa khóc thật to cho thỏa lòng mong nhớ…Nhưng không. Hai cánh tay anh đưa ra để rồi …buông thỏng.
Anh ngồi trước mặt tôi, khuôn mặt hằn rõ những nếp nhăn gian khổ, đội bàn tay chai sần, mái tóc lốm đốm bạc. Tất cả cho thấy một cuộc sống không mấy suôn sẻ. Cuốn phim dĩ vãng được quay chậm qua giọng kể trầm buồn…
Anh bị đưa ra Bắc ngay trong những ngày đầu tháng tư Bảy lăm theo diện tù binh ở mặt trận Hiệp Đức. Phải hơn một năm mới được liên hệ với gia đình nhưng cha mẹ anh đã rời Quy Nhơn về lại làng quê nên gần hai năm sau anh mới có thông tin.
Chấp nhận làm bên thua cuộc có nghĩa là chấp nhận tất cả những gì bị phân biệt đối xử. Anh cũng không hiểu tại sao mình có thể tồn tại trong hơn bốn năm ăn đói mặc rét và chỉ được thăm nuôi hai lần. Ra khỏi tù anh về lại làng xưa nhưng muốn làm một anh nông dân bình thường cũng khó. Ngày nào anh cũng phải đi lên xã viết đi viết lại lời khai. Anh không được đi đâu xa và cũng chẳng thể làm được gì để giúp gia đình đang khốn khó. Anh bị sung vào lực lượng đi phá gỡ bom mìn. Những quả mìn cóc, mìn lá, mìn ba râu…luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng. Cứ chợp mắt là nghe tiếng nổ, là thấy ánh sáng của quầng lửa chói lòa, là nghe tiếng rên la đau đớn của người bên cạnh với một cái chân bay tuốt lên ngọn cây. Có những đêm anh thức trắng. Những lúc ấy anh nhớ về ngày xưa, nhớ về Huế, về tôi với bao nhiêu kỷ niệm nhưng để rồi cũng tự mình lắc đầu gạt phắt.
Nghe lời cha mẹ, anh lập gia đình với một cô giữ trẻ của Hợp tác xã, ít học và mộc mạc như sắn như khoai. Còn chi để mà kén chọn, yêu thương. Tất cả đã thuộc về quá khứ!
Xã phát động phong trào đi kinh tế mới ở Tây Nguyên. Muốn thoát ra khỏi sự hành hạ, khinh khi, gia đình anh là một trong những hộ đầu tiên tình nguyện lên đường. Những năm tám mươi đây là nơi rừng thiêng nước độc. Biết bao người đã ngã xuống vì sốt rét, bệnh tật. Hai vợ chồng anh cũng từng võng đứa con trai tám tuổi ra bệnh viện huyện nhưng khi qua khỏi con dốc “Mạ ơi!” thì đứa bé chỉ còn là một cái xác lạnh ngắt.
Anh đủ tiêu chuẩn đi HO nhưng khi phỏng vấn, giấy ra trại và giấy khai sinh của đứa con không khớp nhau do sự cẩu thả của tay thư ký nhà quê. Thôi thì định mệnh đã an bài, anh cam tâm làm một người nông dân nghèo, giả đui giả điếc nơi chốn thâm sơn cùng cốc.
Đất không phụ người, đến hôm nay đời sống của anh tương đối tạm ổn. Anh gởi gắm kỳ vọng của mình vào hai đứa con còn lại. Hy vọng đời chúng nó sẽ khá hơn! Anh không liên hệ với ai, kể cả bạn bè cũ cùng khóa 25. Quá khứ của anh chỉ còn lại chiếc nhẫn Võ Bị và hai chữ “Tự thắng”trong tư tưởng.
Xe đã sửa xong. Anh vào nhà rửa tay. Tôi nhét vội vào túi áo của cậu con trai cái phong bì đựng số tiền tạm ứng cho chuyến đi công tác của phòng tài vụ. Anh trở ra với một túi ổi vườn nhà và né tránh ánh mắt tôi. Chao ôi! Hơn ba mươi năm anh còn nhớ sở thích ăn ổi của cô bé Sư phạm Huế? Mắt tôi mờ đi…
Có nhiều chuyện tình Võ Bị bền vững qua nhiều giông bão và cũng có những mối tình không trọn vẹn như của chúng tôi. Nhưng muôn đời đó vẫn là mối tình đẹp không bao giờ quên. Ôi! Phải chi tôi được cầm lại bàn tay anh, dù chỉ một lần…

Hương Thủy

THƯ GỬI NGƯỜI CHỒNG CŨ

huongthuy

Mình biết nhau từ thời mới lớn, cùng đi trên một con đường đến trường, chỉ khác lớp. Gặp nhau có cười – cùng xóm mà – nhưng không thân.Tuổi dậy thì có nhiều rung động nhưng không cùng tần số. Bên ni biết bên tê “ bồ” ai.
Anh nghèo – Lạ thiệt, em quen ai cũng nghèo – Cha chết năm Mậu Thân 1968, tìm ra xác ở Thành Lồi sau ba tháng .Từ Huế , anh ra Quảng Trị nhờ ông chú nuôi dưỡng. Nhà ở trong xóm Hói, đi học trời lạnh chỉ có cái áo khoác mong manh.
Con nhà nghèo thường học chăm. Anh thuộc loại cần cù, chịu khó. Mặt xương ,ngực lép do thiếu ăn. Em nhìn thấy tội. Nhưng phải công nhận anh có đôi mắt đẹp.
Năm 1972, mùa hè đỏ lửa, trường Nguyễn Hoàng tan tác. Nhà em chạy vào Đà Nẵng , ở trại tạm cư bên Non Nước một thời gian rồi chuyển về đường Đống Đa. Em thi đậu vào Đại Học Sư Phạm Huế. Ba và anh chị thương con út, gởi vào Internat Jeanne D’Arc của các Soeur dòng Saint Paul, một cư xá thuộc loại quý tộc. Ăn có người dọn, giặt ủi có người lo, thậm chí buổi chiều có cả gouter. Em học thêm tiếng Pháp với Soeur Madelaine. Cuộc sống hồn nhiên,vô tư lự.
Em gặp lại anh ở Huế. Anh học trường Luật. Mặt mày sáng sủa nhưng vẫn phải sống nương nhờ vào bà dì đại lý gạo ở đường Quỳnh Lưu. Mạ và các em sống trong ngôi nhà tranh ở làng Đốc Sơ ngoài cửa An Hòa. Mình hỏi thăm nhau như những người bạn cùng xóm, cùng quê. Anh vẫn có một chút mặc cảm trước em. Mỗi mùa hè, em bay về Đà lạt. Ở đó có anh chị của em , có người yêu em…
Có một lần, em tình cờ bắt gặp người yêu em đi cùng một cô gái trên chuyến xe đò An Cựu trong đợt công tác CTCT ở Quân khu I. Lòng kiêu hãnh của em bị tổn thương. Anh ấy cũng không kịp giải thích. Em cắt thư từ. Em đi chơi với Kim Chi, Tường Vy, với nhóm quý tộc…Tất cả những nơi sang trọng ở Huế đều có dấu chân em.
Em lại gặp anh. Em biết anh có tình cảm với em. Anh tháp tùng em cùng Ma soeur Chantal trên chiếc xe Jeep của Robert Lửa Nguyễn Xuân Phúc điều phái ra Quảng Trị theo lời xin của em với ông anh kết nghĩa. Chúng ta đã đến căn nhà xưa của em, đã ngậm ngùi nhìn đống gạch ngói đổ nát. Chúng ta nhắc tên những người hàng xóm cũ. Chúng ta xem trao trả tù binh trên sông Thạch Hãn . Em có đến thăm anh ở căn nhà của bạn anh trên đường Nguyễn Công Trứ nhưng sau đó chúng ta chia tay nhau.
Năm 1975, em bước xuống cuộc đời. Nhà em hai anh rể và hai anh trai đi cải tạo. Ba em đã già, mất tiền gởi ngân hàng, mất luôn tiền hưu trí công chức chưa kịp lãnh. Nội trú xưa trở thành doanh trại quân đội nhân dân.Từ giã cuộc sống phồn hoa, em ở cùng bạn thân Kim Chi trong một căn phòng trọ đường Trương Định. Hai đứa ăn một suất cơm, phần gạo tiêu chuẩn bán đi lấy tiền chi dụng. Người yêu em “nghìn trùng xa cách”. Còn anh, thỉnh thoảng em gặp đi với một cô bé cũng dễ thương, ở đâu trong Thành Nội.
Em ra trường đổi về tỉnh Lâm Đồng. Không phải ngẫu nhiên mà em chọn đây. Đà lạt, thành phố tuổi nhỏ thân quen; Đà Lạt, nơi chị em đang sống; Đà lạt, dấu ấn mối tình đầu của em với cái nắm tay trong một đêm tối có tiếng rì rào của rặng thông trước hiên nhà.
Một lần nữa chúng ta gặp nhau. Có phải bàn tay định mệnh? Trường Luật bãi bỏ, anh vào Saigòn sống nhờ bè bạn, chuyển sang trường Kinh Tế. Ra trường cũng đổi về Lâm Đồng.
“Tha hương ngộ cố tri”, một hạnh phúc mà bài thơ xưa đã nói. Mạ anh đã mất, các em anh ly tán. Em bùi ngùi. Chúng ta thân nhau hơn. Em xác xơ với cái ngành sư phạm, quần áo rộng thênh. Anh thi thoảng được mua hàng tiêu chuẩn đặc lợi của ngành nhưng cũng chỉ đủ tiền đóng cơm tập thể và hút thuốc.
Rồi chúng ta quyết định lấy nhau.Từ tình yêu ư? Không hẳn thế. Do thời cuộc thì đúng hơn. Chúng ta không có những cuộc hẹn hò thơ mộng. Chúng ta cũng không có những bức thư tình ngọt ngào đằm thắm. Nhà cô người yêu cũ của anh chê anh “tứ cố vô thân”. Sau bao năm bặt tin, em cũng biết người yêu xưa của mình đã có vợ ở quê. Số mệnh! Thôi thì đành. Đám cưới của em không có xe hoa, không có pháo nổ, không có ảnh màu. Ba em thở dài, cho hai chỉ vàng làm vốn.
Chúng ta đã trải qua thời bao cấp khốn khó. Con chúng ta đặt tên Chou và Beurre. Nghe cứ như Tây nhưng thực sự đó là món ăn thường nhật của gia đình ta. Mãi đến bây giờ em còn phát sợ cái món su xào. Những lần về Sài gòn thăm chị , em xách theo ba kg trà khô lèn chặt để kiếm thêm chi phí. Những lần cơ quan kiểm kê, anh nhặt nhạnh giấy vụn về bán kiếm cho con hộp sữa Ông Thọ vàng khè. Chúng ta sống bình thường, cũng có những giận hờn nhưng không trầm trọng.Tất cả đều cắm mặt vào mưu sinh, hơi đâu mà cãi cọ khi tiêu chuẩn hàng tháng là 7 kg gạo hẩm và 3 kg bo bo. Gia tài của chúng ta là những đứa con và hai chiếc xe đạp. Em không hề than thân trách phận khi biết hai cô bạn thân của mình đều có được những ông chồng giàu có. Em dặn mình nhìn xuống chớ nhìn lên. Dù rằng nếu không sự thay đổi thời cuộc, chúng ta khó lấy nhau.

Bắt dầu có những biến chuyển về chính trị, về kinh tế. Đời sống dễ thở hơn. Với khả năng của anh, đã có con mắt xanh nhìn đến. Anh bỏ Ngân Hàng với cái phòng Kế hoạch qua Kho Bạc Huyện với Fonction Giám Đốc. Anh mừng, em vui. Con chúng ta có hộp sữa Liên Xô Simillac, rồi sữa Meiji của Nhật.
Nhưng từ đó anh cũng về khuya hơn, miệng nồng nặc hơi men. Ngôn ngữ, phong thái anh cũng dần thay đổi, thay đổi đến độ em ngạc nhiên nhưng nghĩ chắc nghề nghiệp tạo tính cách. Đàn ông Huế ai cũng có chút máu gia trưởng. Anh có lần bảo em, nếu có dịp về Huế sẽ cho gia đình người yêu cũ biết thế nào là thằng “tứ cố vô thân”. Em im lặng cảnh báo anh “Kho bạc nhà nước nhưng Tòa án nhân dân”.
Không chỉ dừng ngang đó. Những cuộc giao tiếp kéo dài với những quan hệ phức tạp. Đàn ông ai cũng có máu chinh phục, thích được ngợi ca, thích nghe những lời ngon ngọt, thích được người khác tôn vinh. Em thì ngây thơ. Hơn nữa nghề giáo, cứ nghĩ ai cũng nghiêm túc. Anh có những chuyến đi giao lưu, những cô em kết nghĩa và kết luôn tình. Đã có những lời đồn thổi đến tai em. Em nhớ lời giảng của Père Nguyễn Thế Huynh dòng Sulpice trong giờ Tâm lý học đường. Một người đàn ông nghèo khổ khi thành đạt, anh ta sẽ có hai khả năng. Một là anh ta sẽ vô cùng kỹ càng để chắt bóp; hai là anh ta sẽ tự tôn để giã từ dĩ vãng đời mình. Anh ở trạng thái nào đây?
Em không như những người phụ nữ khác. Hay là em chủ quan? Những người vợ thông thường chắc họ sẽ ghen tuông, khóc lóc , cấu xé, sẽ áp dụng các biện pháp thắt chặt. Đằng này, với cá tính kiêu hãnh em im lặng, tự ái, cười nhếch môi. Ôi chao ! Cái complex supériorité hay do một cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu???
Em không biết nhưng rõ ràng căn nhà gỗ chắp vá của chúng ta không còn là tổ ấm. Anh ít về nhà, có một căn phòng trên cơ quan và tuyệt đối em không hề bén mảng. Anh đã có điện thoại di động đem phô trương một cách buồn cười, tự hào biết hát Karaoke, nhậu rượu ngoại thay vì bia nặng bụng…Lâu rồi, chúng ta không còn ngủ chung. Anh có một chìa khóa riêng và em cũng không còn kiên nhẫn để chờ đợi thứ giờ giấc bất thường ấy.
Và cứ thế. Sợi dây càng lúc càng căng. Anh tự tôn, em tự ái. Em đã đọc được bức thư của cô em “ kết nghĩa “Nha Trang. Cô ta còn gọi điện thoại đến nhà. Em dững dưng. Lòng nguội lạnh. Cô ta đòi happy ending; anh muốn làm quân tử cứu vớt đời hồng nhan. Em biết anh từ những ngày ốm đói hàn vi ; cô ta biết anh khi chối bỏ quá khứ một cách phũ phàng. Muốn, em nhường!
Ba em đau, anh không hề quan tâm. Anh ở hẳn trên cơ quan. Ơn trời, anh chị ở nước ngoài gởi tiền về chu cấp, Ba không phải lệ thuộc vào ai. Có một lần Ba bảo với em “Hình như nhà con có tình nhân?”. Ôi, ba em vẫn giữ thứ ngôn ngữ lịch sự của một nhà giáo có nhân cách. Em tránh né trả lời. Anh xúc tiến việc lo cho cô em “kết nghĩa” nhỡ nhàng một chỗ làm.
Thái độ cao ngạo của em như chọc tức anh. Cả tỉnh lẻ biết anh có bồ. Em lặng lẽ đi về mặt nhìn đất hoặc nhìn trời. Không tâm sự , không than van.
Ngày ba em mất, anh không có mặt. Đám tang cử hành, anh không chít khăn tang.Thiên hạ đàm tiếu, anh giải thích sao đó, em không quan tâm. Bao uất hận em chôn kín trong lòng. Anh xử sự như một tên vô văn hóa và gia đình em không bao giờ chấp nhận. Tháng sau ta chính thức chia tay. May mắn là ba em đã không còn thấy để đau lòng. Cuộc ly hôn lặng lẽ. Do quen biết chúng ta chỉ ra tòa một lần. Các con ở với em như một sự tất nhiên và em cũng cay đắng mà hiểu rằng vì sao anh không giành giật. Ba tháng sau anh lấy vợ. Đám cưới ở Nha trang, chắc chắn là to hơn cái đám cưới nghèo nàn trong quá khứ mà anh đã không đủ tiền mua cho em một cái nhẫn. Anh cũng khá khôn ngoan khi không tổ chức trong cái thị xã này.
Em khô nước mắt,ghi một câu trên bàn làm việc: “Revenge by work,work and work “.
Ngành giáo dục cũng có những thay đổi. Cái mà người ta hô hào cải cách chính là cái mà em đã học, đã am tường thời cũ. Em viết những bài nghiên cứu về đổi mới sách giáo khoa, đổi mới chương trình. Em được chú ý với những bài tham luận phê phán cách học, cách dạy duy ý chí. Em được mời tham dự các hội thảo khoa học trên toàn quốc. Và em nhận ra rằng mình phải có một cái học vị với đời và cũng để mưu sinh.
Biết bao nhiêu khổ cực mà em đã cắn răng chịu đựng. Sau những buổi học, em đón chuyến xe đêm đi về nhà, giặt đống áo quần lớn, kho cho con một nồi thức ăn rồi trở lại trường , vào thư viện nghiên cứu đề tài mình bảo vệ.
Và em đã đạt được điều em muốn. Luận án có điểm cao nhất.
Em , người đàn ông trong thân xác người đàn bà. Em, cây liễu không núp được bóng tùng quân đành tự mình trở thành cây thông trong gió bão. Với mối quan hệ tốt em có thể về Sài gòn dạy một trường Đại Học như có giáo sư đã đề nghị. Sau bao đêm suy nghĩ, em đã quyết định ở lại đây để ngạo nghễ nhìn anh và nhìn đời.
Cùng môt lúc em dạy bốn trường: công lập, bán công, dân lập và trung tâm giáo dục. Em mở thêm ba cours luyện thi Đai học. Ăn toàn cơm hộp và fast food cho qua bữa. Có những buổi từ trường về, em nằm xoài ra giường 15 phút để thở rồi trở dậy dạy, dạy và dạy…Bây giờ nghĩ lại em còn rùng mình, không hiểu mình tìm đâu ra sức lực. Hay nói cách khác em không dám đau. Em vắt kiệt sức mình để chứng minh không có anh, em vẫn sống tốt.
Trời thương. Em dạy nhiệt tình , có uy tín, ra đề trúng tủ, phụ huynh tin tưởng gởi gắm, học sinh càng lúc càng đông, chỗ ngồi chật kín. Có tiền em vẫn không dám tiêu vì dư âm những ngày cùng khổ đè nặng. Em mua miếng đất nhỏ hộ thân.
Rồi thời buổi kinh tế thị trường, đất lên giá. Em đổi miếng nhỏ mua miếng lớn, đổi miếng xấu qua miếng đẹp, từ một miếng lên hai miếng… “Thánh nhân đãi kẻ khù khờ “ hay hương hồn ba mẹ phò trợ, em thoát cảnh “Chạy ăn từng bửa toát mồ hôi”. Em mua căn hộ nhỏ ở Quận I Thành phố cho hai con học Đại học; em đập căn nhà chắp vá từng là tổ ấm của đôi ta để xây nhà mới. Và em là một trong những cô giáo đầu tiên mua xe hơi trong thành phố này.
Em hận anh vô cùng. Em làm là để trả hận. Mỗi lần cầm xấp tiền trong tay em nhớ lời anh nói với anh trai em “Không có tôi, bà ấy sẽ lê la đầu đường xó chợ”; em nhớ những lời anh đi thanh minh thanh nga sau cuộc ly hôn. Anh là đàn ông mà sao không có cái trượng phu khí phách; em nhớ đến món nợ em phải trả ngân hàng khi anh đi cầm cái sổ nhà để lập tổ uyên ương. Chồng cũ của em, anh còn nhớ chăng anh??? Ngày em biết mình trọng bệnh, em đã lập một cái di chúc có dòng chữ in đậm “Khi Mẹ chết tuyệt đối không cho Ba có mặt ở đám tang”.
Đám cưới con trai dù đau nhưng em rực rỡ với nụ cười mỹ mãn. Mọi chuyện đều do em thu xếp. Anh chỉ là nhân vật phụ.Trưởng nam của chúng ta đó. Cháu đích tôn của dòng họ anh đó nhưng anh không thể tổ chức ở nhà mình như em đề nghị. Em chủ động cầm tay anh đi lên khán phòng. Mọi người vỗ tay khen em lịch sự như quý bà mà không biết chân em đang run rẩy vì bệnh .Em cố đứng vững với những cơn thở dốc. Nhưng cái em muốn là anh phải thấy sự thành đạt của em. Em muốn anh thấy sự sai lầm của mình. Em muốn anh nhớ lại thứ ngôn ngữ cay nghiệt như của một poissonnier mà anh đã từng buông thả. Bao giờ em cũng vẫn lịch sự hơn anh.
Trong cái xã hội “Đảng làm chủ” thì cái lí lịch đen ngòm của anh là rào cản lớn. Ba lần thẩm định vẫn không giúp anh tồn tại trên ghế Giám đốc. Anh chỉ là một trái chanh bị thải loại sau khi vắt cạn kiệt. Anh về hưu non, ngôn ngữ nhuốm màu bất đắc chí. Phải chăng theo thuyết nhà Phật gọi là “Quả báo nhãn tiền”?
Sỹ diện của một người đàn ông khiến anh không nói ra nhưng em biết chắc anh đã ân hận. Anh không còn chê bai em nữa. Anh đã khen em với người khác. Anh đã cười với em một nụ cười ngượng ngập. Nhưng tim em đã chết.
Gần hai mươi năm.Thời gian như nước trôi qua cầu, cái gì mà chẳng cũ. Cô vợ mới của anh chắc cũng cũ theo tháng năm. Đã có lúc em muốn hỏi cô ta “Có hạnh phúc không em?”nhưng nét mặt sầu thảm của cô ta đã là câu trả lời. Câu hỏi của em có thể trở thành sự mai mỉa.
Anh không có con với người vợ mới. Các con dù ở với em nhưng sợi dây huyết thống vẫn ràng buộc. Chưa bao giờ em ngăn cản hoăc phản đối chuyện các con chu cấp và trả cả nợ cho anh.Em vẫn tự hào chúng là những đứa con có hiếu.
Các con rồi sẽ bay xa. Chỉ còn lại em với nỗi ngậm ngùi. Em đã hy sinh tất cả những gì mình có, kể cả cuộc hôn nhân có thể diễn ra với một gentleman luôn theo dõi cuộc đời em gần hai mươi năm. Anh đã làm em “Kinh cung chi điểu”. Em không dám mạo hiểm. Đêm đêm em chỉ có thể sống đẹp với mối tình đầu qua hồi ức.
Chúng ta đều đã già. Lục thập nhi nhĩ thuận. Em không hận anh nữa. Tout homme est sujet à l’erreur. Em cũng đã có những sai lầm.
Chồng cũ của em. Đêm qua em đã châm vào lửa bản di chúc cay nghiệt ấy. Em đã thật sự buông xả. Dù sao anh cũng là ba của những đứa con em. Dù sao em cũng cám ơn anh đã giúp em tự khẳng định mình.

Hương Thủy

Mùa Xuân trong ký ức

huongthuy

– Na, lấy cho ôn cái ghế đẩu cháu!
Đang làm dở bài toán đố, Na bỏ viết xuống, lật đật bưng ghế chạy ra. Đằng trước hòn non bộ, cạnh gốc mai già lão, ôn nội đang nhặt lá. Trên cái nền gạch tàu đỏ sẫm, những lá mai màu vàng nâu nằm rải rác.
– Ôn nội nhặt lá mai a?
– Ừ, hôm ni rằm tháng chạp rồi. Năm ni trời khô hanh, nhặt chừ mới hy vọng nở đúng tết cháu nờ. Khi mô cháu được nghỉ?
– Ngày ông Táo về trời ôn ơi. Cô giáo nói lớp của cháu phải học nhiều mới hy vọng đậu vô đệ thất trường công.
– Ừ, ráng vô được trường Thành Nội cho ba mi vui. Tội nghiệp, năm ni biết có về ăn Tết được không…Năm mô cũng hứa …hứa mà mô có thấy…
Ôn nội bỏ dỡ câu nói, đứng lên cái ghế thấp, vói tay bứt mấy nhánh lá trên cao. Cây mai có tuổi đời bằng ba Na. Ôn nội kể khi ba cất tiếng khóc đầu tiên trong tay bà mụ cũng là lúc ôn đặt bầu mai xuống hố. Qua thời gian, gốc cây sù sì như một con trăn lớn vươn lên năm cành mà ôn đã bỏ công uốn theo thế ngũ thường: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Na biết trong đầu ôn nội đang nghĩ đến ba, người con trai trưởng của dòng họ Hà Thúc đóng quân tận đâu trên Dakley, Dakpao… “Cái tên chi mà đọc muốn trẹo quai hàm”. Ôn hay cằn nhằn mỗi khi nhận thư ba từ tay người bưu tá.
Na cũng nhớ ba lắm. Đứa con gái lên chín tuổi nhưng số lần gặp ba chỉ rải rác trên mười đầu ngón tay. Hai cha con gặp nhau qua thư từ nhiều hơn. Nhất là từ khi Na biết đọc, bao giờ ba cũng giành cho Na một đoạn trong những lá thư gởi về nhà. Mạ thường thở dài khi nghe o Hường bóng gió “Chị lo có con trai đi. Anh Nghĩa là trưởng tộc đó!”.
Thât sự, ba mạ Na cũng sống bên nhau liên tục được ba năm. Đó là thời gian mạ theo ba sau ngày cưới. Đơn vị ba thuộc Liên đoàn II Biệt động quân. Mạ lên tận tỉnh Pleiku xa xôi, thuê nhà ở, chờ ba về sau những cuộc hành quân. Khi đó ba đóng ở Suối Đôi. Mạ kể lúc bấy giờ Pleiku hoang sơ lắm, đàn ông người Thượng còn mang khố và cà răng căng tai. Những ngày cuối tuần , họ ra chợ với gùi măng sau lưng, tay cầm thêm những chú sóc hoặc chim két đủ màu bán lấy tiền mua gạo. Và Na được hoài thai ở xứ “nắng bụi mưa bùn” này.
Nhưng đơn vị ba di chuyển liên miên khắp vùng Cao nguyên Trung phần. Bà nội đau yếu và mất, o Hường đi lấy chồng dưới An Cựu, mạ về Huế sinh nở vừa để chăm sóc ôn nội và ổn định lâu dài. Hằng năm, những lần về phép của ba khi có khi không. Nhất là dịp tết nhất, bao giờ tiểu đoàn cũng trực chiến 100%. Biết chắc ba khó về nhưng Na vẫn chắp tay cầu khẩn “Lạy trời! Cho ba về với con.”

***
Ngày 27 tháng Chạp, Na ngồi coi mạ vớt những lát gừng mới luộc qua một cái rổ cho ráo nước. Trên lò than bên cạnh, thau mứt bí đang xên. Những thỏi bí bằng ngón tay út trong ngần sôi lục ục, mùi đường bốc lên thơm ngào ngạt. Năm nào mạ cũng làm nhiều mứt để ôn nội uống nước trà sáng và gởi cho ba ăn tết muộn.Thẩu dưa món đang bung dần những cánh hoa đu đủ, cà rốt mạ tỉ mỉ cắt tỉa hôm trước. Ở nhà trên, ôn nội lúi húi dọn bàn thờ. Ngoài cổng, có tiếng lao xao rồi giọng o Thơ nói vói qua hàng chè tàu cắt hình chim phượng:
– Mạ con Na ơi! Ba hắn về nì! Ui cha, cái thằng đen như củ súng…
Ba về? Hai mạ con lật đật chạy ra. Ba thiệt rồi! Ba đang đứng với chú Long hàng xóm, người bạn thời nhỏ cùng đá dế bắn chim. Chú làm bên Ty Cảnh sát Gia Hội. Chú nói:
-Thôi vô đi cho cả nhà mừng. Thong thả hai đứa mình nhậu nhẹt. Mồng một tau ra trực. Kỳ ni ráng kiếm một thằng cu cho vui cửa vui nhà.
Ba quay lại, bế xốc Na lên rồi một tay quàng lưng mạ đi vô. Ba cao to trong bộ quân phục da beo, ba lô cộm sau lưng, mũ nâu đội đầu, ba bông mai đen trên cổ áo. `Mạ nửa cười nửa khóc: “ Anh về thiệt a!”. Ôn nội đứng trên thềm, mặt tươi rói, chòm râu bạc phất phơ :
– Hèn chi sáng ni ôn nghe con chim kêu “Khách! Khách!”
Mạ hốt hoảng :- Ui trời! Cái thau mứt… rồi lật đật xuống bếp.
Chiều nớ, nhà Na vui như có hội. Cả cái xóm nhỏ kéo tới hỏi thăm “thằng Nghĩa Cọp đen về phép”. Mạ chạy vội ra chợ Xép mua thêm thức ăn. Ôn Nội châm trà liên tục. Lòng Na reo vang theo khúc nhạc Xuân trong Radio “Mừng Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi…”
Từng làn mưa bụi rơi rơi. Na thiếp ngủ trong vòng tay mạnh mẽ của ba .

****
Bao năm đã trôi qua nhưng trong đầu Na vẫn nhớ như in những ngày Xuân Mậu Thân ấy.
Ngày 28 ba giúp ôn nội chà bộ lư đồng trên bàn thờ sáng bóng, tỉa lại hàng chè tàu trước ngỏ. Na lẩn quẩn bên cạnh cho ba sai vặt, lâu lâu lại rúc đầu vào để được hôn lên má, để tận hưởng “mùi ba” và để nghe ba huýt sáo bài ca muôn thuở “Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn…”
Ngày 29 ba chở Na ra Phu Văn Lâu coi chợ hoa và mua hai chậu cúc đại đóa về đặt hai bên bậc tam cấp. Buổi chiều, cả nhà ngồi gói bánh tét trên cái phản dưới nhà ngang. Ba không quên gói hai cái bánh ú nhỏ giành riêng cho con gái yêu.
Ngày 30 cả nhà lên núi Ngự Bình thắp nhang mộ bà nội rồi về nhà chuẩn bị cúng Tất niên. Bửa tiệc cuối năm thật ấm cúng. Có nhà o Hường bên An Cựu sang, có chú Long, bác Năm hàng xóm…Cả con đường Ông Ích Khiêm dưới chân cửa Thượng Tứ sực nức mùi nhang trầm. Chú Long nói: -“ Ngày mồng hai, mình rủ nhau chơi xì lát coi đứa nào hên…Nhớ hồi thằng Nghĩa chưa đi lính, hắn chơi bài ăn cả xóm rạt gáo…”.Câu chuyện kéo dài đến xế chiều. Đã nghe những tràng pháo nổ sớm. Ba cũng treo sẵn một dây pháo trước cửa. Không khí tết tràn ngập mọi nhà.Tiếng pháo nổ đì đùng.
Ngày mồng một, ba mạ thủ trại cho ôn nội đi thắp nhang nhà thờ họ Hà và thăm bà con. Ở Huế, con cháu ngày mồng hai mới được ra đường. Cây mai bắt đầu bung cánh. Ba đếm được mấy chục cái hoa có sáu cánh. Ba mừng tuổi cho Na những đồng bạc mới trong phong bao đỏ và cười, nói với mạ -“ Còn em lì xì cho anh một thằng cu”. Mạ đỏ mặt xấu hỗ…
Buổi trưa cả nhà ăn cơm chay. Ôn nội khen năm ni trời hửng, chắc mưa thuận gió hòa rồi ngâm nga sấm Trạng Trình “Thân Dậu niên lai kiến thái bình”. Ba thưa với ôn ngày mai cho cả nhà đi chúc tết bên họ ngoại và bạn bè cũ vì ngày mồng năm hết phép. Ôn nói : – “Về ăn tết được là vui rồi. Đã là chỉ huy thì phải làm gương cho lính tráng.”
Đêm mồng một trời tối thui, mưa xuân rắc những hạt như bụi mỏng. Ôn nội thắp thêm nhang trên bàn thờ và giục cả nhà đi ngủ để ngày mai lấy sức đi chơi Xuân…Giấc ngủ đến với Na êm đềm, không mộng mị …
Na tỉnh dậy trong cái lay nhẹ của ba. Ba thì thầm: -“ Ôm cổ, ba cõng con!”
Trong cơn ngái ngủ, Na vẫn nhận ra ba đưa mình ra nằm trên chiếc chiếu dưới bộ ngựa gõ dày. Ba không quên trải cho con gái cái chăn ấm. Tiếng nổ ran, lâu lâu lại nghe những tiếng “ầm, ầm” vang dội. -“Ai đốt pháo dữ rứa ba?” – “Tiếng súng đó con”.
Căn nhà chìm ngập trong bóng tối. Trên bàn thờ vẫn còn chấm nhang đỏ le lói. Mạ lo lắng: – “Đánh nhau à anh? Hưu chiến mà?”. Ba không trả lời, lẩm bẩm: – “ Tiếng tiểu liên AK 47…Tiếng thượng liên…Chúng nó tấn công Huế rồi…”
Bấy giờ thì tiếng súng vang đâu mạn An Hòa và Hữu ngạn thành phố. Na nghe rõ cả tiếng rít của hỏa tiển 122 ly bay qua mái nhà. Qua cửa bức bàn, bầu trời lóe sáng bởi những tia đạn đan chéo. Căn nhà rung lên. Na nắm chặt tay ba. Ba nói với mạ: – “Chắc anh phải làm một cái hầm cho nhà mình trước khi trả phép”.
Trời tờ mờ sáng. Tiếng súng có ngớt hơn nhưng xóm nhỏ yên lặng một cách đáng sợ. Ngoài đường vắng ngắt. Nhà ai cũng kín cửa. Mạ nói: – “Để con xuống bếp nấu nước cho ôn cúng sớm”. Ôn gạt tay – “Để coi tình hình ra răng đã”. Mạ cắt những lát bánh tét cho cả nhà ăn với dưa món nhưng ai cũng quấy quá cho qua bữa. Ba chất thêm bộ bàn ghế chắn chung quanh cái hầm bất đắc dĩ. “Coi như hết tết!”. Na nghĩ thầm.
. Rồi bất chợt, xế chiều tiếng ầm ầm nổ vang bốn phía. Từ ngoài cửa Thượng Tứ, Đông Ba, trong Đại Nội, bên tê sông Hương…Mái ngói hàng xóm rơi sàn sạt. Ba nói với ôn nội: – “Ngó bộ đánh lớn rồi ôn…Đó là tiếng phóng lựu B40 của chúng nó…Sao nghe tiếng súng Carbin M1 của mình thưa thớt quá!…”. Điện tắt tối om. Không ai dám thắp đèn. Sau vườn nhà Na nghe tiếng chân chạy rầm rập, tiếng “ chóc…chóc” của loại súng gì nghe rất lạ…Ba ôm chặt Na trong bóng tối…Giấc ngủ của đứa bé mới lên mười tuổi được một ngày lâu lâu lại giật thột vì tiếng nổ…
Na tỉnh dậy vì tiếng thút thít của mạ : – “Làm răng bây chừ anh. Tụi hắn chạy ngoài đường. Đông lắm, em thấy rõ ràng”. Ôn thở dài lo lắng : – “Nhè Tết nhất mà đánh nhau. Đồ vô hậu!”. Ba nói : – “Chắc anh phải tìm cách vô trại Trần Cao Vân trong Mang Cá”. Mạ nói: – “Anh đừng đi. Nguy hiểm lắm. Em sợ…”. Một ngày dài lại trôi qua.
Sáng mồng bốn, ngoài đường ồn ào rồi tiếng loa vang lên : “ Đây là tiếng nói của Liên Minh Mặt trận Giải phóng Miền Nam…Quân ta đã hoàn toàn làm chủ thành phố Huế…Đồng bào ai ở nhà đó…Ôn thất thanh “Thôi rồi con ơi!”. Ba nghiến chặt răng.
Ba giờ chiều mồng năm, bên nhà chú Long nghe có tiếng khóc òa. Ôn nội dòm qua cái chấn song :- “Chúng hắn bắt thằng Long rồi. Chắc ai chỉ điểm…Con ơi! Trốn đi. Mãnh hổ nan địch quần hồ…”. Ba leo lên rầm thượng, tay cầm khẩu súng Colt. Mạ nói – “Em lạy anh, anh đưa cho em…”
Đêm xuống. Cả nhà hầu như không ai ăn uống gì. Mạ pha cho Na một ly sữa nhưng miệng Na đắng ngắt. Cô bé hình dung ra một cái gì đó nghiêm trọng đang diễn ra với nhà mình, với mọi người, với Huế.
Ba nhảy xuống, đưa tay phủi mạng nhện trên áo: – “ Con phải đi thôi ôn à! Ở đây thế nào cũng bị bắt. Một liều ba bảy cũng liều… Con đi tìm đồng đội chơi lại tụi nó”. Mạ nói – “Làm răng anh đi được. Chỗ mô cũng có tụi hắn”. – “Anh sẽ lần vô Ngã tư Âm Hồn, qua đường Nguyễn Hiệu, qua hồ Tịnh Tâm. Chắc chắn chúng nó không bao giờ chiếm được Mang Cá, đầu não của Sư đoàn I…”. Ôn thở dài – “Biết như thế ni thì chẳng mong con về ”. Ba mặc thêm một cái áo thun dài tay, áo khoác xanh bên ngoài. Mạ bịn rịn – “Thôi anh ơi, ở lại đây sống chết có nhau…”. Ba cương quyết – “ Anh không thể ngồi một chỗ để chúng bắt ”. Mạ nước mắt vòng quanh.
Ba hôn lên hai má Na hàng chục cái rồi ôm mạ nói – “ Đừng lo cho anh. Ở nhà chăm ôn và con. Chuẩn bị sẵn một số vật dụng cần thiết. Nếu thấy không an toàn thì chạy qua nhà o Thơ, bên nớ có cái hầm bao cát”. Ôn nội mở cửa nhà bếp, dòm quanh năm phút rồi vẫy ba. Bóng ba khuất vào đêm tối sau vườn…
Trưa mồng sáu, có tiếng kêu mở cổng. Năm người xuất hiện trước hiên nhà. Họ đều mặc đồ vải Tô Châu đen, đội mũ tai bèo, khoác súng, hai người đeo băng đỏ. Một người giọng Bắc lên tiếng: – “ Thằng đại úy Ngụy trốn đâu? Mau ra trình diện chính quyền Cách mạng”. Ôn nội bình tĩnh trả lời: – “ Dạ, mô có ai. Nhà chỉ có ông già con nít…”. – “Ngoan cố. Có người thấy hắn về phép mấy hôm nay”. – “Dạ, hắn có về. Nhưng đã đi cúng nhà thờ họ dưới La Chữ hôm mồng một”. Người cầm súng cắt ngang: – “Các đồng chí vô kiểm tra. Coi chừng. Lũ lính rằn ri này ngoan cố lắm!”.
Cà toán kéo vô nhà sục sạo. Mạ ôm Na đứng nép một góc nhà. Một tên leo lên tận trên rầm thượng kiểm tra. Hai tên kéo xuống nhà bếp, lui tận sau vườn dòm ngó.
Mười lăm phút sau họ kéo đi sau khi ném vào mặt ôn nội cái nhìn hăm dọa. Mạ thở ra: “Mô Phật!”.
Súng nổ dồn dập. Có tiếng máy bay trực thăng trên trời. Rồi những tràng rốc két bắn xuống dữ dội. Ôn nội nói: – “ Chạy qua nhà o Thơ thôi con!”. Mạ dắt tay Na, tay khác ôm một cái bao băng qua sân. O Thơ kéo hai mạ con vô hầm thì thào: – “Thằng Nghĩa thoát không? Chúng bắt nhiều người lắm. Túi qua, tau thấy buộc cả dây trước đường. Ai ngờ thằng thợ cúp là Việt cộng nằm vùng. Ghê thiệt”.
Cả mấy ngày trời hai gia đình toàn ăn bánh tét nóng cả ruột. Mạ làm liều ra khỏi hầm nấu cơm vắt thành từng nắm nhỏ. O Thơ lui sau vườn vơ vội mấy cây cải nấu canh. O chạy vô nói :- “Mạ cha ui! Hắn treo cờ trước cửa Ngọ Môn ngó rõ mồn một. Chắc còn đánh nhau dữ. Cơ chừng ni biết chạy đi mô trời!”
Na dòm lên cuốn lịch mấy ngày không ai xé tính nhẩm: Hôm ni là ngày mồng mười. Đáng lẽ hôm ni mình đã đi học, đã khoe cái kẹp tóc mới, khoe tiền mừng tuổi với tụi con Linh, con Chi…thì bỗng nghe tiếng “ầm ầm” vang dội. Mấy cái ly trên bàn lăn long lóc, thằng Tí con o Thơ khóc thét… Mười lăm phút sau bác Năm chạy vô – “ Cầu Trường Tiền bị giật sập rồi. Bên Quốc gia sắp phản công. Chạy mau . Ở đây bom thả chắc chết hết …” – “Chạy mô chừ?” – “Thì cứ chạy đi rồi tính…”
Cả hai gia đình kéo nhau ra đường. Mới có mười ngày mà khung cảnh đã tan tành, đổ nát. Những bóng người lếch thếch tay xách nách mang, những nét mặt thất thần…Trên con đường ra chợ Xép, xác người chết nằm la liệt, Na nhắm chặt mắt không dám nhìn. Tiệm vải đầu đường Mai Thúc Loan nghi ngút khói. Ra cửa Đông Ba, năm tay du kích ngăn lại nhưng o Thơ cứ đẩy mấy đứa nhỏ ra trước “ Cho tụi tui đi tránh đạn mấy chú nờ. Ba mấy đứa chết trong xóm rồi…”. Ngó lên đường Phan Bội Châu, dãy phố sang trọng đổ sụp. Bác Năm chụp cái nón xuống mặt, hai tay bồng hai đứa con dẫn mọi người chạy ra Hàng Bè đi xuống phía Bao Vinh…
Lại gần mười ngày ăn nhờ ở đậu trong nhà mạ o Thơ. Hai con mắt mạ trõm lơ vì lo cho ba không biết bây chừ ở đâu. Ôn ngoại cứ thở ra. Máy bay thả bom phía thành phố, khói lửa bốc lên nghi ngút. Na hình dung ra ba đang chiến đấu ở đó. Ngày 22 tháng giêng, phía An Hòa vòng vô Bao Vinh xuất hiện những toán lính da beo. Ôn nội nghẹn ngào: – “Quân ta…Quân ta…Sống rồi …Con ơi!…”
Những người lính cọp đen thuộc tiểu đoàn 21 Liên đoàn I Biệt Động Quân áo quần vương mùi thuốc súng. Họ cung cấp cho dân chúng những bịch gạo sấy, thịt hộp rồi kéo quân đi. Bác Năm thì thào: – “Lính ôn Võ Vàng đó. Lính ni đánh ác chiến lắm!”. Nghe nói sau đó mấy ngày, chính họ là những người tái chiếm Gia Hội và cắm những lá cờ VNCH đầu tiên lên phía Chi Lăng. Sau hơn hai mươi ngày, Na được ăn chén cơm có mùi thịt…Lá cờ VNCH phấp phới trên kỳ đài. Mạ thở ra – “Sắp được về nhà rồi!” Na nghe mừng húm.
Nhưng cũng phải mươi ngày sau đám người tản cư mới được trở vô thành phố. Mạ vừa đi vừa dòm xem thử trong những toán lính đang chốt ven đường có dáng ba không. Vạt chợ Xép gần như thành bình địa. Một đoạn thượng thành đổ sụp. Nhà bếp o Thơ tan nát, một quả bom rơi đúng sau vườn. Nhà ôn nội một mái sạt góc, hòn non bộ giữa sân bể tan, tượng ông tiên đánh cờ văng ra xa mất tiêu cái đầu. Ôi! Hòn non bộ , thế giới kỳ bí tuổi nhỏ của Na với những hang động, ngõ ngách. Cây lão mai bật gốc nhưng ở một nhánh nhỏ vẫn còn sót lại mươi bông hoa. Một màu vàng tàn tạ trên sự hoang tàn, đổ nát.
Vừa đặt cái bao xuống, mạ đã nói với ôn nội – “Để con vô Mang Cá tìm nhà con!”. Ôn nội trấn an : – “Đang lúc lộn xộn, đàn bà con gái biết chi việc quân sự. Thế mô hắn cũng ghé qua nhà coi ngó vợ con”. Cả nhà phụ nhau dọn dẹp tạm bợ cho gọn mắt. Mấy người hàng xóm cũng lần lượt trở về xúm lại hỏi thăm tin tức. Thím Long khóc òa: – “Tụi hắn bắt chồng con lúc chưa có một hột cơm vô bụng. Chừ không biết ở mô mà kiếm…Anh ôi là anh…”. Bác Năm nói có một gia đình xóm Âm Hồn chết trụm cả nhà, chó kéo từng miếng thịt đi khắp xóm. Ông Tăng Duyệt giàu nứt đố đổ vách bên đường Trần Hưng Đạo, chủ nhà xuất bản Tinh Hoa, cũng nằm phơi thây trước chợ Đông Ba. Chuyến ni Huế e “Mười người mất bảy còn ba”. Ôn nội chùi sơ trên bàn thờ rồi thắp bó nhang còn sót lại trong đống đổ nát. Mùi hương thơm làm buổi chiều thêm ảm đạm.
Hai ngày rồi ba ngày, bốn ngày… bóng ba vẫn mù tăm. Ôn nội không giấu nổi sự bồn chồn. Mạ đứng ngồi không yên, tất bật đi dò la tin tức. Mạ cứ lần theo con đường ba nói hôm trước. Từ Ông Ích Khiêm ra chợ Xép, vòng qua Mai Thúc Loan rẽ vào Đinh Bộ Lĩnh vô Cầu Kho…Mạ đi và đi, mòn đàng chết cỏ, lầm lụi sáng chiều rồi trở về cúi mặt khóc thầm. Đơn vị cử người ra hỏi thăm, ông Đại úy xử lý thường vụ nhìn cảnh nhà hoang vắng cũng chỉ biết thở dài… Mạ còn nghe lời người ta, dắt Na đi coi bói ở cô Thanh Ròon trong Thành Nội. Người đàn bà ốm nhom ốm nhách thắp hương khấn vái trước bàn thờ với những hình ảnh kỳ bí và mươi phút sau thở dài nhìn mạ con Na nói khẽ : – “Rồi sẽ có tin. Lành ít dữ nhiều”. Chiều đó mạ bỏ cơm, nằm bệt. Hai tuần sau, một anh thanh niên đường Hàn Thuyên ghé tới nói có thấy ba trong đám người bị lũ áo đen bắt giải đi. Anh ta nhận ra vì ba là bạn của ông chú lúc nhỏ hay qua leo cây nhãn nhà anh. Cả nhà nghe nhưng không ai muốn tin đó là sự thật…
Huế đổ nát tang thương. Công binh bắc cầu phao qua sông Hương. Cây cầu Trường Tiền gãy nhịp đập vào mắt mọi người nhức nhối. Na đi học. Trong lớp nhiều bạn chít khăn tang. Một số bạn giàu có theo gia đình bỏ Huế mà đi. Ngày đầu tiên, cô trò nhìn nhau ngơ ngẩn.
Những cái hố chôn người bắt đầu được phát hiện. Ở Phú Thứ, trên Cầu Lòn, bên sân trường Gia Hội…Mạ tất tưởi đi theo thím Long , người đầy mùi dầu khuynh diệp Bác sỹ Tín, lúc về không ăn nổi cơm, gầy rộc. Ôn nội trở mình với những tiếng thở dài trong đêm…Cả thành phố ngập trong màu trắng của những bộ đồ xô gai. Hương đèn,vàng bạc trở thành mặt hàng bán chạy. Nhà nào cũng có người chết, người mất tích…
Mới sáng sớm, o Thơ chạy vô nhà kêu hớt hãi : – “ Chạy xuống Bãi Dâu coi. Người ta mới đào lên mấy chục xác tề!”. Mạ lật đật xỏ tay vô áo dài chạy đi. Không hiếu sao Na cũng chạy sau mạ. Ôn nội đang cột lại cổng ngỏ cũng bỏ đó….
Cái trại dã chiến được dựng lên bằng những tấm bạt quân đội. Đám đông vây quanh. Tiếng khóc hờ thảm não của những người đàn bà vang thê thiết. Một dãy dài xác người được đưa từ chiếc hố sâu nằm trên đất, mặt phủ những tờ giấy trắng. Mùi tử khí bốc lên. Mấy ông phu đào huyệt đặt những di vật của người chết ở trên đầu cho thân nhân nhận dạng. Một chiếc bật lửa hiệu Zippo, một cây bút bic, một cái thẻ kiểm tra cáu bẩn…Mạ nhào vô, lật từng tờ giấy che mặt rồi lại lao ra. Mặt mạ trắng bệch nhưng lạnh căm. Những cái xác…rồi những cái xác…Tất cả đều bị trói thúc ké, bị đập sau gáy… chất chồng nhau trong hố.
Một ôn phu kêu lên: – “Có thẻ bài trên cổ xác áo xanh tề! Lấy ra coi.” Ôi! Cái áo khoác màu xanh ba mặc trong đêm ra khỏi nhà định chạy vô trại Trần Cao Vân, cái thẻ bài có tên ba và số quân cùng loại máu O Rh +. Ôn nội, mạ và Na ào tới.
Ba ứa máu. Dòng máu đen kịt từ mũi, miệng trào ra chảy xuống nền cát ẩm. Mọi người chung quanh thì thào: “Gặp đúng người thân rồi đó…” Mạ rú lên : “Anh ơi anh!” rồi ngã lăn ra, hai tay quơ quào vô thức trên cát. Nước mắt đứa con gái chảy quanh nhưng Na không khóc lớn tiếng. Na nhìn ôn nội mặt nhăn nhúm, lặng lẻ phụ những người phu tháo chiếc dây trói từ cổ tay, lau đất cát dính trên người ba, chuyển ba vô cái hòm vừa được đưa tới. Cô Nữ trợ tá quân đội dìu mạ ngồi dậy và cả nhà cùng ba được đưa đi trên một chiếc xe nhà binh…

***

. Từ đó Na vĩnh viễn mất ba. Không còn những dòng thư ngọt ngào, không còn ai để ngóng đợi. Mạ cầm trong tay cuốn sổ quả phụ, ba tháng một lần đi qua Ty Ngân khố lãnh tiền tử tuất. Ôn nội thỉnh thoảng vuốt tóc Na : – “Tội nghiệp cháu tui, mồ côi mồ cút…”
Mạ xin làm thư ký bên Tòa Hành chính Tỉnh, ngày ngày đi xe đạp qua cầu phao, chiếc khăn tang phất phơ trong gió. Cuối năm, Na thi đậu đệ thất trường Thành Nội nhưng không cảm thấy vui. Ôn nội thắp nhang trên bàn thờ : “Con có linh thiêng, phù hộ cho cháu”.
Những mùa Xuân tiếp tục đến rồi đi. Cả thành phố ngào ngạt hương khói trên bàn thờ đặt ở trước nhà, ngoài đường. Có lẽ không có nơi nào trên đất nước buồn như Tết Huế. Nhà mô cũng cúng, nhà mô cũng có tang. Cây cầu Trường Tiền được sửa lại nhưng không còn nguyên vẻ đẹp cũ. Xác chú Long vẫn chưa tìm ra… Nhìn ảnh ba trong bộ quân phục, nhìn dáng vẻ buồn bã của mạ, Na quyết tâm học thật giỏi. Năm nào Na cũng được lãnh phần thưởng danh dự toàn trường. Cô Hiệu trưởng Tôn Nữ Tiểu Bích tuyên dương em học sinh mồ côi học giỏi dưới cột cờ. Ba có biết để mừng cho Na?
Sức khỏe ôn nội ngày càng sa sút. Thỉnh thoảng o Hường từ An Cựu lên thăm ôn rồi ghé tai thì thào chi đó. Na không nghe rõ nhưng ôn nội có vẻ cáu giận: – “ Trai hay gái thì cũng là cháu tau, giọt máu của thằng Nghĩa. Đừng nhiều chuyện…” O Hường sầm mặt xuống, háy mắt nhìn Na rồi bỏ đi. “Còn cha gót đỏ như son. Một mai cha chết gót con đen sì ”. Chưa bao giờ Na thấm thía câu ca dao đến thế.
Một buổi tối, ôn nội kêu hai mẹ con lại gần bộ ván ngựa nơi ôn nằm rồi nói khẽ:- “Dạo ni ôn thấy trong người không được khỏe…Ôn cũng trên bảy mươi. Chết được rồi nhưng nghĩ thương dâu hiền cháu thảo… không đành”. Mạ òa khóc : – “ Ôn đừng nghĩ bậy. Ôn phải sống với mạ con con…” Ôn rút trong túi áo ra một gói nhỏ dúi vào tay mạ: – “Có chút ni con giữ lại cho cháu, cố gắng nuôi con ăn học nên người…” Na ứa nước mắt thương ôn.
Rồi ôn nằm liệt như một cành cây khô hết nhựa. Na ngồi bên ôn đút từng muỗng sâm nhỏ. Ôn thở những làn hơi nhẹ như gió thoảng. O Hường và chồng lên thăm, lấy chìa khóa trong túi ôn mở tủ lục lọi, tìm tòi… Và một buổi sáng ôn nhẹ nhàng ra đi trong những cơn mưa lê thê tháng mười, trên khóe còn vương hai giọt nước mắt.
Đám tang ôn hầu như cả xóm đều có mặt. Ôn nằm cạnh bà nội trên vạt đất đã được chọn sẵn từ trước trên Ngự Bình. Còn mộ ba Na lại ở Nghĩa trang Ba Tầng dành riêng cho những nạn nhân Tết Mậu Thân. O Hường khóc ơi là khóc, kể lể : – “ Cha ui! Cha mất rồi lấy ai hương khói thờ tự khổ lắm cha ui!…”. Bác Năm nạt : – “Mi có cho ôn nằm yên không? Đám tang mà còn cạnh khóe…”. Mạ lặng lẽ lau những giọt nước mắt.
Những buổi tối hai mạ con nằm ôm nhau trong căn nhà rộng.Tiếng thằn lằn chắc lưỡi trên trần nhà. Mạ thì thầm : – “ Gia tài của ba mạ là con gái. Mạ bây chừ chỉ còn con…” rồi khấn thầm với ôn, với ba phù hộ cho hai mạ con mạnh khỏe, chân cứng đá mềm…Những nén nhang lóe sáng trên bàn thờ như chứng giám.
Thời gian nhanh như một cái chớp mắt. Na lớn lên, qua bên kia sông Hương học đệ nhị cấp trường Đồng Khánh. Mái tóc bum bê đã được để xõa ngang vai. O Thơ trầm trồ: – “Mi giống hệt mạ mi thời con gái. Gắng học cho mạ nhờ. Có nhiều mụ chồng chết ba bảy hăm mốt đã đi lấy chồng. Không phải như mạ mi mô đó”. Na biết mạ còn đẹp. Bạn bè hay khen cái dáng nhẹ nhàng, thanh thoát của mạ. Tóc mạ vẫn đen nhánh, đi ngoài đường có người tưởng hai chị em. Những ngày tết nhất, kị quảy, o Hường lên thắp nhang hay nói bâng quơ: – “Khi mô chị có chi vui, nhớ báo cho tui sắp xếp công việc nhà. Tui nghe người ta nói có ôn ni ôn tê theo chị tề. Chị nhớ giữ ý tứ. Chó đâu chó sủa lỗ không…” Na ghét cay ghét đắng những câu châm chích của o Hường nhưng mạ cứ lặng yên.
Những lúc rảnh rỗi, mạ thường kể cho Na nghe chuyện ba mạ gặp nhau, yêu nhau như thế nào. Ba lúc nhỏ nghịch thấu trời.Từng bơi bên ni qua bên tê sông Hương trước Phu Vân Lâu, từng leo trộm nhãn dọc hai bên đường trong Tử Cấm Thành, từng lấy áo dài của mệ nội mặc nhát ma mấy o đi gánh nước đêm…nhưng ba cũng nổi tiếng học giỏi nhất xóm. Ba trốn ôn mệ tình nguyện đi Sỹ quan Đà Lạt khi thi đậu tú tài. Ra trường có mười ngày phép về gặp mệ, bị mệ đấm thùm thụp vào lưng còn ba nhấc bổng mệ nội trên hai tay đi một vòng xóm trong tiếng cười của bà con. Ba chững chạc hẳn lên. Nhiều cô ưng ba nhưng ba chỉ để ý đến mạ, người con gái nhà ở bên hồ Tịnh Tâm, có mái tóc dài ngang thắt lưng. Câu tỏ tình của ba với mạ là : “Lấy lính cực lắm, em có chịu thì tui về thưa với ba mạ đi dạm?”. Na cười hỏi “Rồi mạ nói răng?”. Bây chừ kể lại mà mạ còn đỏ mặt: – “Nói chi được mà nói!…”. Trong lòng Na ước mơ rồi tương lai cũng có một chàng trai tuấn tú, kiêu hùng như ba sẽ đến với mình…Nhưng trước mắt là phải học cho giỏi như ước nguyện của ba mạ. Mỗi lần được cô Tường Loan, cô Giáng Châu, thầy Châu Trọng Ngô… khen là Na lại nhớ đến lời căn dặn của ôn ngày còn sống.
Nhưng có ai học được chữ ngờ! Ngày Na mười bảy tuổi, ngày Na má đỏ môi hồng, ngày Na học lớp 12 tràn đầy sức sống…là ngày thiên đường đổ sụp. Chỉ hai tháng trời mà đất nước đổi chủ thay ngôi…
Cả thành phố tràn ngập một màu đỏ gắt, những câu khẩu hiệu sắt máu được viết đầy trên bờ tường, những tay cán bộ nhà quê hò hét…
Ngôi trường Đồng Khánh cổ kính yêu dấu của Na cũng đi xuống một cách tàn tạ. Không còn vẻ quý phái của cô Hiệu trưởng Bích Đào mỗi sáng thứ hai trên cột cờ, không còn dáng dấp mô phạm của thầy Phạm Kiêm Âu dọc hành lang với những tràng tiếng Pháp bay như gió khi vào lớp…Thay vào đó là những khuôn mặt lưỡi cày, ăn mặc nhếch nhác, mở mồm ra là “chủ nghĩa tư bản giãy chết, phồn vinh giả tạo…”
Thầy cô và học trò ngưng học hành, xách cuốc đi lao động, tăng gia sản xuất. Ngày đi trồng sắn trên núi Thiên Thai, cô Diệu Vân còn cắm lộn đầu và đuôi hom sắn bị một bà răng vẫu mắng là “tàn dư Mỹ Ngụy”…Buổi chiều chủ nhật trồng bạch đàn trước trường Đại học sư phạm, nhìn từng đoàn xe phủ bạt chở “chiến lợi phẩm” Honda, xe đạp chất chồng như núi ra phía Bắc, thầy Lê Quân Thụy nói bâng quơ “Ngoài ta thiếu gì!”… Ngày bắt buộc đi theo Đoàn Thanh Niên bài trừ “nền văn hóa phản động ”, Na ứa nước mắt nhìn những tác phẩm văn học lớn bị cháy bùng trong tiếng vỗ tay của bọn Cách Mạng theo đuôi…
Mạ mất việc, nấu một nồi cháo trắng cá kho khô ngồi bán dưới gốc cây trước cổng Đại Nội. Khách hàng là những chú đạp xích lô, anh kéo xe bốn bánh, cô thợ may… nhưng không khó để nhận ra vẻ trí thức một thời trên gương mặt đăm chiêu của họ. Nhìn mạ với gánh hàng trên vai mỗi sáng, Na muốn bỏ học nhưng mạ nói mạ làm tất cả miễn sao con vô được Đại học đi làm bác sỹ chữa bệnh cho mạ khi trái gió trở trời… Cuối năm Na đậu trường Y với số điểm Lý, Hóa, Sinh cao ngất ngưỡng.
Nhưng – lại một chữ “nhưng” ác nghiệt- lý lịch của Na khi đi chứng trên Phường bị tay Chủ tịch xuất thân lái heo “Xát nhận: Con của Ngụy có nhiều nợ máu bị Cách mạng trừng trị trong tết Mậu Thân, không đủ tiêu chuẩn vào Đại học ”. Na về vùi mặt vào gối khóc hết ba ngày. Ba ngày mạ bỏ gánh cháo ngồi bên cạnh Na, mạ sợ con gái thất vọng làm điều dại dột.
Ngày thứ tư Na ngồi dậy tỉnh táo nói : – “ Không học được nữa, thôi thì mạ cho con theo o Thơ đi buôn. Con không muốn làm cái gánh nặng của mạ”. Mạ thảng thốt: – “Hiền lành như con đi buôn răng được!”. Na cả quyết: – “ Mạ cứ để con đi.”
Na theo o Thơ đi buôn chuyến từ Huế ra Đông Hà và ngược lại. Hàng đi ra là bột ngọt,vải vóc; hàng đi vô là thuốc lá Samith buôn lậu từ bên Lào về. Hàng họ phải thu giấu kỹ lưỡng, có khi phải buộc trong người để qua mắt bọn thuế vụ. Thoát được thì lời, bị bắt thì khóc lóc van xin, mất nhiều lần thì cụt vốn, thậm chí phải chịu những hành động sàm sỡ…Các trạm thuế như cái chợ, mấy tay quản lý thị trường mặt hất lên trời hống hách. Người đi buôn đa số là phụ nữ, một số có chồng đi “cải tạo” phải bươn chải để bới xách và nuôi con. Phần nhiều các chị đều tận tình giúp đỡ, che chở cho nhau khi qua trạm. Mỗi người đều có chung bi kịch của thời đại. Nhưng đi được ba chuyến thì o Thơ nói mạ cấm không cho Na đi nữa, “nhìn cảnh chướng tai gai mắt nó hư người đi”. Na nhờ bác Năm làm cái tủ thuốc lá ngồi cạnh mạ, kiếm mấy hào bạc Bắc qua ngày.
O Hường bán nhà dưới An Cựu, mang chồng và ba đứa con lên nhập hộ khẩu. O nói : – “ Nhà rộng, hai người ở phí. Con Na mai mốt theo chồng thì có hai thằng cháu trai hương khói cho ôn. Cháu ngoại mà là cháu trai thì cũng tốt hơn là cháu nội gái ”. O Thơ xí một cái dài : – “ Nói rứa mà cũng nói. Tụi nớ mô phải họ Hà…”.Mạ cắn môi coi bộ suy tính hung lắm.
Nghĩa trang Ba Tầng nhà nước bắt di dời.Tấm bảng đá khắc lịch sử nghĩa trang bị đập bỏ. Bọn họ phủ nhận tội ác đã gây ra trong Tết Mậu Thân cho người dân Huế. Mạ hốt cốt ba đem thiêu và xin sư thầy trụ trì cho thờ trong chùa Vạn Phước, nơi ngày xưa ba đã qui y. Mạ thầm thì với ba lâu lắm, hai dòng nước mắt chảy dài trên má.
Một chiều tháng ba năm bảy tám, mạ xách chiếc túi nhỏ dắt tay Na nói với o Hường đi về chợ Mai mua gạo ruộng lên nấu cháo cho rẻ. Hai mạ con xuống bến đò ở sau chợ Đông Ba. Nhưng đò không dừng ở làng Chuồn, ở Mậu Tài mà đi thẳng tuốt dưới Thuận An. Đêm hôm đó, hai mạ con ra khơi trên một chiếc gọ, đánh cược tính mạng mình với số phận…

****

Mạ ơi! Rứa là mạ đã xa con vỉnh viễn. Cho đến trước lúc nhắm mắt xuôi tay, trong đầu mạ con vẫn là đứa con gái bé nhỏ của gần ba mươi năm trước. Ngày bỏ nhà, bỏ nước ra đi, trong túi nhỏ mạ xách trên tay chỉ có cái thẻ bài của ba, tấm hình ba đội mũ nâu Biệt Động Quân, tấm ảnh ba mạ ngày cưới và cái chứng chỉ học trình của con. Nhưng nó là động lực để hai mạ con vươn lên trên đất khách quê người. Con không quên hai bàn tay nổi gân xanh của mạ khi hàng ngày phải clean sàn nhà; cũng bàn tay ấy đêm khuya đã tỉ mẩn làm từng thau bánh bột lọc, bánh nậm bỏ mối cho nhà hàng Việt Nam. Con nhớ mãi ánh mắt mừng rỡ của mạ khi con được vào Đại học Berkeley danh giá; nhớ món cá kho thơm phức của mạ khi con không hợp cái bánh Pizza béo ngậy…Con nhớ lắm mạ ơi!
Nhờ ba lượng vàng của ôn nội, nhờ sự liều lĩnh của mạ, mạ con ta đã thoát khỏi cái nhà tù lớn ấy và con đã thực hiện được nguyện ước của ôn, của ba mạ, của riêng mình. Con đã có một gia đình hạnh phúc, một nghề nghiệp vững vàng. Các cháu của mạ đã lớn lên trên một đất nước tự do, không phải trải qua những vất vả về vật chất và khổ nhục về tinh thần như mạ con ta thuở ấy. Tóc trên đầu con đã nhiều sợi bạc nhưng mỗi lần thức giấc nửa đêm con vẫn thèm được dúi đầu vào ngưc mạ, nghe mạ kể chuyện về ba, người cha thân yêu đã bị giết vào mùa Xuân Mậu Thân.
Làm sao quên được khi mỗi lần Tết đến Xuân về bàn thờ nhà ta lại nghi ngút khói nhang và hình ảnh ba nằm trên nền cát ẩm, miệng ứa máu là một nỗi ám ảnh trong con. Ngày ấy đã có lúc con thề sẽ không bao giờ về Việt Nam, về xứ Huế thương đau, về căn nhà xưa dưới chân Thượng thành đã cho con hạnh phúc và nhiều đau khổ.
Nhưng mạ ơi, con sẽ về theo lời trăn trối của mạ lúc lâm chung. Con sẽ đem theo bình tro cốt của mạ. Con sẽ vào chùa Vạn Phước cúng ba, xin sư thầy cho nhận bình tro mạ gởi ngày ấy. Con sẽ thuê một chiếc đò chèo ra giữa dòng Hương giang trước chùa Linh Mụ. Và ở đó, con sẽ nhập hai bình tro cốt làm một rải xuống con sông quê hương để ba mạ mãi mãi bên nhau trong cõi vĩnh hằng…

Hương Thủy

Dẫu lìa ngó ý…

huongthuy

Dẫu lìa ngó ý còn vuơng tơ lòng
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Nhà thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu rất hay về tình bạn: “Tình yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn ”.
Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai Thúc Loan. Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm công chức cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật đẹp của các loài hoa : Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan…Mấy chị em sống khép kín như những con ốc trong bốn bức tường rêu.
Tôi, tên bình thường : An Nhiên, gia cảnh cũng “thường thường bậc trung”, tóc cắt kiểu Demi Garcon, tính tình đôi lúc ương bướng. Vậy mà chúng tôi thương nhau vô cùng. Chỉ có tôi dám bước qua hai cánh cổng sắt luôn khép kín trong tiếng sủa của con Berger để rủ Cát Đằng đi học. Cũng chỉ có tôi chiếm được lòng tin của ba mạ Cát Đằng. Hai bác nghiêm nghị nhưng coi tôi như con. Hình như hai bác xem tôi là một lá chắn bảo vệ cho cô con gái yếu ớt của mình.
Chúng tôi đã có một thời thơ ấu thật đẹp và hồn nhiên. Những chiều mùa hạ dắt nhau vô con đường bên hông Đại Nội gần cà phê mụ Tôn, nhặt bông phượng đỏ về làm bướm. Những sáng mùa đông sương mù lạnh buốt chở nhau qua cầu Phú Xuân, gió hung hăng như muốn quật hai đứa xuống sông. Những đêm cùng học bài thi, em gái Đỗ Quyên đem vào phòng cho hai chị chén chè hạt sen long nhãn mát rượi. Mạ Cát Đằng thường cười bảo tôi “Phải chi An Nhiên là con trai, bác gả Cát Đằng cho cháu.”
Tuổi dậy thì hồn nhiên và mơ mộng. Cát Đằng đẹp, nhiều người tán. Tan học về bao nhiêu cái đuôi theo, mãi cho đến cửa Hiển Nhơn mới chịu lui gót. Tôi như garde corps cho bạn. Những chàng sinh viên mê Cát Đằng, nhờ tôi làm chim xanh kèm theo nhiều món quà hậu hĩnh, trong số có cả con của một ông Trưởng Ty đang theo học trường Y. Nhưng tôi từ chối. Không ai hiểu bạn hơn tôi. Cát Đằng tâm sự : “Sao mình thấy ông nào cũng nhẵn nhụi như Mã Giám Sinh. Ngó phát ớn!”. Người hùng trong tâm tưởng Cát Đằng phải bụi bụi như tài tử Charles Bronson, đêu đểu với bộ ria giống nụ cười của Clark Gable hoặc chí ít cũng phải lãng tử như Gregogy Peck trên chiếc Vespa cổ chở nàng công chúa Audrey Hepburn chạy khắp thành Rome trong Vacances Romaines… Thâm tâm tôi thấy bạn mình quá lãng mạn. Biết tìm đâu ra người lý tưởng trong môi trường phố thị này?
Ấy thế mà một hôm thật bất ngờ, “người hùng” của bạn đã xuất hiện. Đó là một buổi sáng “đầy sương thu và gió lạnh” như trong văn Thanh Tịnh, đoàn Sinh Viên Sỹ Quan trường VBQGVN về Huế vào Đại Học Văn Khoa tuyển quân. Phải công nhận sự có mặt của họ như một hiện tượng trong sân trường xưa nay toàn áo dài, chemise , quần tây. Trong trang phục worsted thật đẹp, thật hào hùng mặt anh nào cũng sáng láng thông minh. Họ trình bày thật ấn tượng về ngôi trường quân sự ở Đà Lạt ngang ngửa với Saint Cyr của Pháp, West Point của Mỹ. Đứng bên những chàng trai Văn Khoa “trói gà không chặt”, trông các anh cao to và đường đường khí thế. Nhìn qua cạnh mình, tôi thấy Cát Đằng như trên mây. Nàng say sưa dán mắt vào anh SVSQ đang giới thiệu chương trình đào tạo. Anh nói giọng Bắc pha chút Huế. Khi chàng ta đi từng bàn phát những tờ ảnh về ngôi trường cho sinh viên nam, Cát Đằng cũng nhoài người qua xin một tờ. Một thoáng ngạc nhiên nhưng người SVSQ vẫn lịch sự trao tận tay nàng. Mắt hai người gặp nhau. Một cái gì đó thật lạ lần đầu tiên tôi thấy xuất hiện ở cô bạn mình. Má nàng ửng hồng , ánh mắt long lanh, môi mọng ướt mềm…Chuông reo giờ ra chơi, hai người còn trao đổi với nhau suốt cả mười lăm phút bên hành lang Morin.
Ra về, tôi bảo Cát Đằng “ Mình thấy hình như có Coup de Foudre”. Nàng yên lặng do dự một chút rồi bảo tôi : -“An Nhiên ơi, bạn có thương mình không?”. Tôi ngạc nhiên : – “Tui không thương bạn thì thương ai?” – “Vậy thì chiều ni bạn xin mạ cho tui qua chơi nhà bạn hí! ” “- Được thôi mà”
Buổi chiều , tôi ngồi chờ bạn trên chiếc xích đu dưới giàn bông giấy. Nàng xuất hiện trong chiếc áo mousseline màu xanh trứng sáo, quần tây đen. Trông Cát Đằng xinh xắn làm sao. Hèn gì con ông Trưởng Ty mê nàng như điếu đổ. Ngồi nói chuyện với tôi mà mắt nàng nhìn ra cổng như ngóng trông ai…Và bốn giờ chiều. Một bóng người xuất hiện trước cửa. Anh chàng Sinh viên Võ bị hồi sáng…Cô nàng thông minh thật, lấy địa chỉ nhà tôi làm nơi gặp gỡ.
Tôi không tin lắm vào duyên tiền định. Xưa nay, ba mạ vẫn hay nói tôi là kẻ cứng lòng. Nhưng với cô bạn thân Cát Đằng thì tôi nghĩ đó là một mối nhân duyên mà tôi là người góp phần dung túng, ủng hộ. Cô bạn tôi không phải là type người “ yêu cuồng sống vội”. Xưa nay nàng chưa hề cười với ai một nụ. Con nhà gia thế, kín cổng cao tường. Điều gì đã làm cho nàng dám vượt qua khuôn phép gia đình và xứ Huế vốn dễ tiếng tăm?
Chàng sinh viên sỹ quan ấy tên H. đang theo học năm thứ ba trường Võ bị. Anh gốc Bắc, di cư vào Nam năm 54, chọn Huế làm quê hương thứ hai. Anh sống cùng mẹ và chị gái bên Bến Ngự. Anh hơn chúng tôi năm tuổi, trước đây từng học MPC rồi mới quyết định tòng quân. Đợt tuyển quân này là một cơ hội cho anh về thăm mẹ và số phận đưa đẩy để hai người gặp nhau.
Anh H. hiền, tính điềm đạm. Tôi chắc bạn tôi không chọn nhầm. Hai người có một tuần để hiểu nhau. Tôi nhiều lần qua nhà Cát Đằng xin cho bạn đi học nhóm , đi thảo luận… để rồi sau đó chở nàng lên đồi Thiên An, chùa Từ Hiếu hẹn hò. Trong khi hai người trò chuyện, tôi lặng lẽ đi dạo dưới những hàng thông hoặc ngồi đọc sách bên hồ Thủy Tiên để rồi sung sướng ngắm nhìn bạn sáng ngời trong hạnh phúc. Tình yêu làm người ta đẹp ra. Anh H. đưa chúng tôi về thăm gia đình. Căn nhà nhỏ nép mình trong một khu vườn sum suê cây trái.Tiếng chim sâu kêu lách chách. Bà mẹ hiền lành mừng rỡ đón bạn của con; người chị gái tên Hương thương em vô hạn, chăm anh từng ly từng tý. Tôi mừng cho Cát Đằng.
Anh H. trở về Đà Lạt tiếp tục khóa huấn luyện. Nhà tôi trở thành địa chỉ cho hai người trao đổi thư từ. Những bức thư đều đặn hàng tuần. Cát Đằng có một cái hộp bánh CHOCOLATE hình chữ nhật .Đọc xong thư bạn cất vào đó và nhờ tôi giữ hộ. Cuộc tình vẫn nằm trong bí mật với gia đình và bạn bè. Không ai biết ngoài tôi.
Gần cuối năm 1971, sau khi đọc xong lá thư có cái insigne rồng vàng ôm kiếm thiêng, Cát Đằng có vẻ suy tư. Bạn ngồi trầm ngâm trên chiếc xích đu trắng nhìn mông lung. Tôi mở lời : “Răng đó? Giận nhau hả?”. –“Không, có chi mô”. Lần này, bạn cầm lá thư về chắc để đêm nghiền ngẩm.
Con đường đến giảng đường sáng hôm sau như dài ra với sự yên lặng của Cát Đằng. Giờ English Grammar bạn dường như không nghe lời thầy John Schaffer giảng. Lúc ra chơi, đứng ở khung cửa sổ nhìn xuống đường Lê Lợi, Cát Đằng đưa bức thư cho tôi : “An Nhiên đọc đi !”.Tôi liếc nhanh qua bức thư với những lời yêu thương nồng thắm nhớ nhung chất ngất, hơi đỏ mặt vì thấy mình xâm phạm chuyện riêng tư của bạn. A, đây rồi. Cái lý do làm bạn tôi trăn trở hai ngày nay. Anh H. muốn bạn tôi có mặt trong đêm Lễ trao nhẫn truyền thống của SVSQ năm 3 trường Võ Bị. Là răng? Cát Đằng đi Đà Lạt ư ? Tôi không thể hình dung được chuyện này. Không được. Chuyện quá nghiêm trọng với con gái Huế, nhất là với bạn tôi, một người chưa hề bước chân qua đèo Hải Vân.
Ánh mắt của Cát Đằng tha thiết: “ An Nhiên giúp mình đi. Năn nỉ mà. Cam đoan không có chi xảy ra. Mình đi ba ngày. Chỉ bạn mới có thể giúp mình…”. Điều gì khiến một người con gái dịu dàng như Cát Đằng nẫy ra quyết định liều lĩnh thế ? Cái này gọi là sức mạnh của tình yêu đấy ư ? Xưa nay tôi vốn dị ứng với thứ tiểu thuyết lãng mạn của Quỳnh Dao và hoàn toàn không tin vào nhan đề một cuốn truyện của Lệ Hằng “ Chết cho tình yêu”. Không , không đựơc.
Hai đứa không nói chuyện với nhau suốt ba ngày. Nhưng cái vẻ ủ dột của Cát Đằng làm tôi thương xót. Anh H. cũng gởi cho tôi một bức thư ngắn. Anh bảo chính vì xem Cát Đằng là người trăm năm nên anh muốn nàng có mặt trong buổi lễ trang trọng và ý nghĩa này. Anh chịu trách nhiệm về chuyến đi. Lòng tôi mềm ra. Tình yêu xét cho cùng cũng có cái lý của nó. Tôi trở thành kẻ đồng lõa trong cuộc hành trình của bạn.
Vậy là tôi sang nhà xin ba mạ Cát Đằng cho hai đứa vào Đà Nẵng ăn cưới bà chị họ. Mạ bạn tỏ ra e ngại như tất cả những bà mẹ người Huế. Nhưng ba bạn thoáng hơn, hình như ông đang vui vì mới trúng một cú affaire. Hơn nữa, chơi với Cát Đằng hơn mười mấy năm, gia đình bạn tin tưởng tôi tuyệt đối.
Ba của bạn đích thân chở chúng tôi ra bến xe. Ông không thể ngờ rằng khi tới Đà Nẵng, việc đầu tiên của chúng tôi là đến ngay Air Việt Nam trên đường Độc Lập. Và chuyến bay DC six đưa Cát Đằng lên thành phố cao nguyên lúc hai giờ chiều để tôi ở lại với cõi lòng như lửa đốt.
Ba đêm tôi ăn không ngon , ngủ không yên ở nhà bà chị. Tôi chắp hai tay cầu nguyện Chúa, Phật và tất cả các đấng siêu nhiên cho chuyến đi thuận buồm xuôi gió. Tôi hơi ân hận vì đã lạc lòng trước những giọt nước mắt của bạn. Có chuyện gì xảy ra với Cát Đằng chắc tôi không sống nổi…
Và chiều thứ hai tôi đã oà khóc tức tưởi khi thấy bạn bước ra từ chiếc Bus của Hàng không Việt Nam.
Nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy bạn xinh như vậy. Mặt Cát Đằng hớn hở như trăng rằm, môi cười rất tươi. Nàng ôm choàng lấy tôi , hôn lên má : – “Cám ơn An Nhiên. Chúng mình cám ơn bạn vô cùng”. Những giận hờn trong tôi đều tan biến.
Trên chuyến xe ra Huế, Cát Đằng tíu tít kể cho tôi bao nhiêu chuyện . Thành phố hoa, những con dốc mù sương, chuyến xe ngựa vòng quanh bờ hồ Xuân Hương và một tấm ảnh đầy ấn tượng. Dưới ánh đèn huy hoàng có hàng chữ Lễ trao nhẫn với hai cái dấu như hai vương miện, bên một cái nhẫn to được trang trí cách điệu lộng lẫy, bạn tôi âu yếm lồng vào tay anh H. chiếc nhẫn Võ Bị. Họ như đôi tân lang và tân nương trong ngày cưới. Mãi mãi đây là một bí mật chỉ riêng ba người biết…
Thi thoảng chúng tôi qua Bến Ngự thăm nhà anh H. Mẹ anh coi Cát Đằng như con dâu tương lai. Bà kể về tuổi thơ vất vả của anh từ khi di cư vào Nam, về lúc cha anh mất , về người con trai cả tên Hùng phải lưu lạc vào Bình Dương kiếm sống. Có những đoạn xúc động, bà rươm rướm nước mắt. Cát Đằng ngồi kế bên bóp nhẹ tay bà. Một hình ảnh dễ thương làm sao. Bà còn dạy cho bạn tôi cách chế biến những món ăn mà con trai thích như canh cua rau đay, bún chả…
Cuối năm 1972 anh H. ra trường. Anh có mười ngày phép trước khi về trình diện tại Sư đoàn 9 Bộ binh có biệt danh “ Mũi tên thép”, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn đóng ở Vĩnh Long,Tư lệnh là Chuẩn Tướng Trần Bá Di. Chiến trường miền Trung đang sôi động với chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Đêm đêm tiếng đại bác ì ầm từ phía Bắc vọng về. Thành phố Huế tràn ngập màu áo lính rằn ri .Cát Đằng có vẻ yên tâm với sự chọn lựa này dù hai người có xa nhau về không gian. Mười ngày, tôi phải ra sức bao biện cho bạn để họ có những giây phút hạnh phúc.
Rồi cũng đến lúc chia ly. Chúng tôi tiễn anh vào Nam. Hình ảnh cuối cùng trong mắt tôi là cảnh chàng thiếu úy trẻ trai cầm chặt tay người yêu nói những lời từ biệt : “Em cười đi. Cát Đằng cười đi cho anh yên tâm. Anh sẽ về với em và sẽ thưa chuyện với ba mẹ”. Bạn tôi cười mà nước mắt hoen mi.
Như muốn làm Cát Đằng yên tâm, thư anh H. gởi về liên tục. Anh đóng quân ở Cao Lãnh. Anh làm Đại đội trưởng một đại đội trực thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 14. Anh nói về một vùng đất trù phú, những người dân miền Nam hồn nhiên, những đồng ruộng bạt ngàn, những cánh đồng chó ngáp… Anh ít kể chuyện chiến trường, chắc để người yêu bớt lo.
Nhà ông Trưởng Ty muốn dạm ngỏ Cát Đằng trước khi con trai đi du học. Cô bạn tôi nói với ba mạ “Con chưa muốn lấy chồng” nhưng sau đó cô gặp riêng chàng trai và bảo “Tôi có người yêu rồi. Anh đừng mất công” .Tội nghiệp anh chàng cứ đứng ngẩn tò te.
Cứ thế, những lá thư nối hai niềm vui. Cát Đằng mơ màng dự trù với tôi về tương lai. Một ngôi nhà với ngọn lửa ấm và những đứa con ngoan sẽ ra đời. Ước mơ trong tầm tay với. Tôi chia sẻ hạnh phúc với bạn bằng nụ cười bao dung.
Buổi chiều hai đứa ngồi trước sân hóng gió thì một cánh chim sâu sa xuống trước mặt. Bạn tôi nâng nó lên, âu yếm vuốt ve “Tội nghiệp mày chưa. Chị nuôi em nhé!”. Mạ Cát Đằng đi từ nhà sau lên hốt hoảng: “Chim sa cá nhảy. Ăn nói bậy bạ”. Rồi bà lấy một nắm gạo muối tung ra sân. Bạn tôi le lưỡi “Mạ sao mê tín dị đoan. Thả con chim thấy tội bắt chết!”

***
Huế tháng chín. Mùa thu. Những trái thanh trà da đã rám vàng. Tôi chở Cát Đằng lên Nguyệt Biều chọn những trái thật ngon về cúng Rằm tháng Tám. Bạn không quên lựa một cặp thật đẹp để biếu mẹ anh H. chưng bàn thờ. Hai đứa ngồi thòng chân xuống dòng nước sông Hương trên bến đò Giã Viên. Trời thật đẹp. Nắng vàng như mật . Gió hiu hiu. Cát Đằng thở dài “Phải chi có anh H ”. Tôi nguẩy vai “Rồi sẽ có ”.
Rẽ vào căn nhà dốc Bến Ngự. Cô bạn nhanh nhẹn nhảy chân sáo trên lối đi quen thuộc. Nhà vắng ngắt. Mùi hương trầm thoang thoảng trên bàn thờ . Chị Hương ngồi lặng trên ghế, nước mắt chảy quanh. Bạn tôi hốt hoảng: “Có chuyện chi rứa chị ? Mẹ mô rồi? ”. Chị Hương òa khóc: “ Mẹ với anh Hùng đi Vĩnh Long. Em ơi, thằng H.”…. Cát Đằng quỵ xuống đất.Tôi và chị Hương đỡ vội lên. Mặt bạn tái xanh, hơi thở ngắn như không còn sức sống. Tôi rót cho bạn một ly nước lọc rồi hỏi han chi tiết. Chị Hương kể cho tôi nghe trong tiếng sụt sịt. Anh Hùng từ Bình Dương gọi ra báo tin anh H. bị thương nặng trong cuộc hành quân vào mật khu ở quận Mỹ An, vùng Đồng Tháp Mười . Mẹ chị đang trên đường vào, chưa biết chi thêm.Trong bóng chiều chạng vạng, ba chị em ngồi yên lặng. Không ai đủ sức đưa tay bật ngọn đèn điện. Chao ôi! Tuần trước tôi vừa đưa thư cho bạn. Anh đang đóng quân ở Đồng Tháp. Anh kể cho bạn nghe về Gò Công – quê hương của bà Từ Dũ mẹ vua Tự Đức; về cam Cái Bè; về mận Trung Lương …Thượng đế ác nghiệt vậy sao? Anh vừa tròn 24 tuổi, ra trường mới chín tháng…
Không biết bằng cách nào tôi đã đưa Cát Đằng về đến nhà. Bạn ngồi sau tôi xiêu vẹo như một cái xác không hồn. Tôi nói với bác gái bạn bị trúng gió rồi đưa bạn vào phòng. Chân tay bạn lạnh ngắt. Đêm ấy tôi xin ở lại, thi thoảng lắng nghe tiếng rên rỉ đau đớn của Cát Đằng. Mọi ngôn ngữ trong giây phút này đều bất lực!
Nhưng nỗi bất hạnh không chỉ ngang chừng đó.Trong khi Cát Đằng định thưa thật với ba mạ để xin phép vào Vĩnh Long thì mươi hôm sau, mẹ anh H. nhắn ra anh H. không chỉ bị thương nặng mà còn mất tích. Cầm bằng như anh đã chết.Thôi còn mong chi nữa. Lần này thì bạn tôi quỵ ngã hoàn toàn. Nỗi đau ẩn giấu tận trong tim biến bạn thành một bóng ma câm lặng. Bác gái cứ căn vặn tôi hai đứa có chuyện chi không. Làm sao tôi dám trả lời. Thôi cứ đế bác tối tối thắp nhang ngoài cổng ngõ cầu cho con gái yêu đừng mắc “bệnh đàng dưới ”.
Phải sau ba tháng mẹ anh H. mới ra Huế. Bà sút gần bốn kí và hốc hác hẳn đi. Bà ôm lấy Cát Đằng khóc nghẹn “Con ơi! Bác không có duyên làm mẹ con rồi !”. Cát Đằng òa lên nức nở. Thôi cứ để bạn khóc cho nhẹ lòng.Tôi thật đau xót khi thấy đêm đêm bạn lôi tấm ảnh hai người trao nhẫn ra ngắm nghía.
Không hiểu sao nhà anh H. không lập bàn thờ. Có lẽ niềm tin của người mẹ cho rằng con mình chưa chết. Vâng, mất tích chưa hẳn là chết. Mắt anh sáng, tai anh to vậy mà. Chắc bác vẫn hy vọng một phép mầu nào đó chăng? Căn nhà đóng kín cửa. Mẹ anh H. vắng nhà luôn. Chị Hương bảo bà vào Bình Dương chơi với cháu nội cho đỡ buồn. Khu vườn rộng thui thủi một mình chị. Mỗi lần ghé thăm, nhìn Cát Đằng, chị lại bệu bạo “ Số em sao khổ thế H. ơi !”
Những đợt trao trả tù binh hai bên ở Lộc Ninh, Quảng Trị làm cho Cát Đằng hi vọng. Biết đâu anh sẽ trở về. Anh chỉ bị thương thôi mà. Bạn chăm chú theo dõi trên những tờ báo Tiền Tuyến, Sóng Thần… Nhưng tháng ngày qua. Niềm hi vọng hầu như đã thành tuyệt vọng. Bất chấp hiệp định Paris, chiến sự ngày càng ác liệt. Máy bay cứu thương liên tục hạ xuống bệnh viện Mang Cá trong Thành Nội…
Rồi Huế nháo nhác, tan tác…Rồi đất nước tang thương…
Ba Cát Đằng đi “cải tạo” vì bị xếp vào loại “ Ngụy quyền”. Bạn tôi bước xuống cuộc đời.
Trải một tấm nilon ở góc chân cầu Trường Tiền, Cát Đằng đi bán chợ trời. Cô tiểu thư con nhà quyền quý ấy bây giờ phải bươn chải với gánh nặng áo cơm của cả gia đình. Bạn bán từng cái áo nhà binh cho người đi lao động, vài cái loon Guigoz tiện cho người đi thăm nuôi, những chiếc áo dài cũ của vợ các sỹ quan một thuở huy hoàng, gói thuốc lá Tam Đảo nặng mùi khét lẹt cho đến cái chén kiểu, ly tách sang trọng một thời vang bóng…Nhìn bạn đếm từng hào tiền Bắc sau buổi chợ , tôi chảy nước mắt. Nhưng một nửa đất nước đều như thế, biết làm sao.
Thi thoảng nhờ em gái Hoàng Lan coi hàng, chúng tôi lên Thiên An quét lá thông về làm chất đốt. Củi cũng phải mua bằng tem phiếu mà gia đình chúng tôi làm gì có đặc quyền đặc lợi ấy. Sau khi nhét đầy lá vào hai bao tải, chúng tôi ngồi dựa gốc cây nghỉ mệt. Cát Đằng âu sầu đưa mắt nhìn chung quanh.Tôi biết trong đầu bạn đang nghĩ về những kỷ niệm xưa. Cũng nơi này, ngày ấy có một cặp tình nhân thật đẹp đang nắm tay nhau đi dưới rặng thông. Cảnh đấy người đây nhưng một người đà khuất bóng. Tôi không dám gợi lên điều gì với bạn. Mọi chuyện cứ như là một giấc mơ nhưng mỗi sáng mai thức dậy lại phải đối mặt với sự thật kinh hoàng.
Thành phố tăm tối hẳn đi. Mới 8 giờ tối điện đã cúp. Những chiếc Honda đổi chỗ cho giai cấp cán bộ. Huế xuất hiện xe đạp thồ. Những khuôn mặt đau khổ nhếch nhác. Những câu ca dao hiện đại được thầm thì chuyền miệng. Những bài hát được chế biến bi hài. Người ta nhắc lại câu nói mười bốn chữ bất hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. “Rồi cứ thế ni mãi răng???” Mạ tôi ngữa mặt than trời rồi chặt hết những cây mai vàng thay vào mấy luống khoai lang cứu đói!
Bốn năm sau, ba Cát Đằng chết trong tù vì sức tàn lực kiệt. Mạ bạn khô nước mắt đi thăm mộ chồng ngoài Thanh Hóa. Một mô đất trơ trọi trong rừng được đánh dấu bằng viên đá xanh lớn. Còn đâu người đàn ông khả kính trụ cột gia đình . Tóc bà bạc trắng. Cái lúm đồng tiền xưa kia đã trở thành ngoặc đơn rồi ngoặc kép.
Từ nước ngoài người con trai yêu Cát Đằng ngày đó xuất hiện như một vị cứu tinh. Anh ta gởi về giúp gia đình bạn những xấp vải, những gói thuốc tây, những đồng đô la được khéo léo nhét trong hộp sữa… Tất cả chỉ nhằm một mục đích chinh phục tình yêu của người con gái Huế mà anh ta say đắm. Mạ bạn tha thiết khẩn nài “Con ơi! Thằng đó nó tốt, lại hiền lành, con nhà trí thức. Lấy hắn con cũng sướng mà các em cũng đỡ khổ. Với lý lịch này thì nhà mình không ngóc đầu lên được . Con chỉ có nước lấy anh xe thồ hoặc ông nông dân mà thôi” . Bạn tôi gục mặt vào hai bàn tay khóc nghẹn. Phải chăng bạn đang nghĩ đến một Thúy Kiều hiện đại?
Tôi khuyên Cát Đằng : Mọi chuyện đã trở thành quá khứ. Anh H. mất rồi. Đã gần 7 năm. Bạn đâu phải là kẻ phụ tình. Trong hoàn cảnh này đôi khi phải thực tế. Bạn yên lặng gật đầu.
Mọi chuyện được thu xếp nhanh chóng. Bà mẹ chú rể từ nước ngoài trở về. Một vài lễ nghi cần thiết trong buổi giao thời. Và xúc tiến giấy tờ bảo lãnh.
Tôi đưa Cát Đằng lên thăm chị Hương lần cuối. May sao lại gặp mẹ anh H. từ Bình Dương trở về. Bác bảo có thể bác sẽ vào trong đó ở hẳn. Bác ôm vai bạn tôi: “Bác mừng cho con. Biết tin này ở đâu đó chắc H. vui lắm”. Trên bàn thờ vẫn chưa có ảnh của anh. Ghê gớm thay lòng tin của người mẹ. Bạn tôi xin phép được lạy trước bàn thờ ba lạy và nhét vào túi mẹ anh H. chút vốn liếng còm cỏi. Nước mắt người mẹ ứa ra tràn trề. Bà khẽ kêu “ H. ơi! ”.
Trước khi xuất cảnh, Cát Đằng đến nhà tôi ngủ lại một đêm. Bạn đem theo cái hộp bánh CHOCOLATE chứa những bức thư của hai người, tấm ảnh trao nhẫn được đặt lên trên. Cát Đằng bảo tôi “An Nhiên là một chứng nhân quan trọng trong mối tình lớn của mình. Mình không thể mang theo kỉ vật quý giá này. Bạn giữ giúp mình cho đến lúc nào còn có thể ”. Tôi cất vào tủ sách, lòng ngậm ngùi thương bạn.
Thời gian qua, Cát Đằng đã có một gia đình êm ấm. Ông chồng thành đạt, hai con một trai một gái xinh xắn. Cả hai đang định cư ở thành phố Denver, tiểu bang Colorado. Tôi mừng cho bạn. Cuối cùng, một cô gái ngoan hiền như bạn tôi nhất định phải được sung sướng. Qua những cuộc trò chuyện từ nước ngoài, tôi tránh gợi chuyện ngày xưa.
Tôi cũng đã có gia đình. Một ông chồng do bàn tay số mệnh sắp đặt. Một ông chồng yêu vợ thương con nhưng vô tâm. Tôi cũng chẳng bao giờ hé môi về chuyện bạn mình…

*
Ngày mai, gia đình tôi sẽ vào Nam lập nghiệp. Mở tủ sách, tôi cầm cái hộp bánh cũ. Những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng tấm ảnh vẫn còn rất rõ. Ôi! Nụ cười hạnh phúc của cả hai người.
Tôi không thể đem chúng theo. Đốt thì tôi không nỡ. Suy đi tính lại, tôi quyết định đem lên nhà chị Hương, nhờ chị đặt trên bàn thờ anh H. Không còn gì để hy vọng về anh nữa rồi.
Căn nhà vẫn như xưa dù thời gian có làm nó già và cũ kỹ hơn. Tiếng chim sâu vẫn kêu lách chách trên những vòm cây xanh. Tôi dựng chiếc xe vào gốc ngọc lan, lòng bùi ngùi. Kỷ niệm ngày xưa ùa về trong ký ức. Một chiếc xe lăn trên hàng hiên. Tôi trách mình đã lâu không thăm mẹ anh. Cuộc sống bận rộn với cơm áo, gạo tiền làm mình trở thành người có lỗi.
Tôi tự nhiên đẩy cửa vào phòng khách khép hờ. Một người đàn ông nằm trên ghế sofa, tay cầm cuốn sách, chiếc chăn mỏng đắp ngang thân, phía bên dưới là một… khoảng trống. Anh ngước nhìn lên. Có phải tôi đang mơ? Đôi mắt ấy , gương mặt ấy… Đúng là anh H. Anh cất tiếng “An Nhiên đấy ư em? ”. Tôi bàng hoàng , ngơ ngẩn.
Vâng, anh H. Anh bị thương nặng nhưng không chết. Trong cuộc hành quân của Tiếu đoàn vào mật khu Đồng Tháp Mười, đại đội của anh sa vào ổ phục kích. Môt mảnh B40 đã bay vào lưng anh, chạm ngay cột sống. Anh được đưa về quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Bác sỹ cho biết mảnh đạn đã làm đứt dây thần kinh tủy sống dẫn đến khả năng bại liệt suốt đời. Trong cái đau đớn tận cùng của thể xác, anh vẫn nghĩ đến Cát Đằng. Không thể gắn số phận bất hạnh của mình đối với người yêu, anh cắn chặt răng bảo mẹ báo tin với Cát Đằng là mình bị mất tích. Và người mẹ đã làm theo lời anh…
Từ Cần Thơ, anh được chuyển vể Tổng y viện Cộng Hòa. Các bác sỹ và y tá tận tâm chăm sóc anh. Vết thương bên ngoài tạm ổn, anh sang Trung tâm phục hồi chức năng. Mẹ già theo sát anh từng bước. Đó là lý do khiến bà bảo với Cát Đằng mình vào Nam sống với người anh cả.
Sau ngày 30 tháng 4, tất cả thương binh nặng nhẹ đều bị tống ra đường. Anh về Bình Dương nương tựa nhà anh Hùng. Vết thương không còn được quân y viện chăm sóc, lâu ngày bị hoại tử và hai chân anh bị tháo khớp tới háng. Mẹ già mất, Cát Đằng đã đi xa, anh quyết định về Huế sống phần đời còn lại bên người chị gái thương yêu. Gần mười mấy năm nay anh sống nhờ vào sự cưu mang, đùm bọc của các khóa Võ Bị ở nước ngoài, những chiến hữu cùng đơn vị và một số anh em còn kẹt lại ở quê nhà… Cao quý thay tình nghĩa đồng môn của những chàng trai cùng trường Mẹ! Anh cũng tự ôn kiến thức để dịch thuật, để luyện thi cho các học sinh nghèo vào Đại học. Cụôc sống không đến nỗi thấy mình là người vô dụng.
Cầm xấp thư và tấm hình, anh H. trầm ngâm bảo tôi: “Anh cám ơn An Nhiên. Cố vật đã tìm về cố chủ. Cứ để cho Cát Đằng nghĩ rằng anh đã chết. Đó chính là tình yêu của anh giành cho cô ấy”.
Anh nâng chiếc nhẫn có viên hồng ngọc trên ngón tay áp út, âu yếm hôn vào nó. Chiếc nhẫn năm xưa, Cát Đằng đã lồng vào tay anh trong đêm Lễ trao nhẫn trước phạn xá trường VBQGVN.
Một cơn gió lạnh thoảng qua. Mùa Đông đã về trên thành phố.

HƯƠNG THỦY

HUẾ ƠI! KỶ NIỆM…

huongthuy

*Tặng những “Mối tình chiến dịch”

Tâm ngồi trên thanh tà vẹt của nhà ga Thừa Lưu cũ, đưa mắt ngắm chung quanh. Tuyến đường sắt song song quốc lộ I từ những năm 1965 đã không còn được sử dụng do mất an ninh. Nếu cứ đi về phía Nam anh sẽ đến đèo Hải Vân và qua địa phận của thành phố Đà Nẵng.
Quê Tâm ở tận Hải Phòng xa xôi. Năm 1954 gia đình anh theo tàu há mồm vào Nam, lưu lạc nhiều nơi và cuối cùng định cư tại Hóc Môn. Chưa bao giờ anh đến miền Trung nếu không có đợt công tác Chiến tranh chính trị của trường Võ Bị Việt Nam.Từ Đà Lạt, anh và đồng đội được không vận bằng máy bay C130 ra phi trường Phú Bài và lên xe GMC vào đây.
Địa bàn hoạt động của toán anh là vùng Thừa Lưu-Nước Ngọt thuộc quận Phú Lộc, một quận phía nam của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Vùng đất chạy dọc theo chiều dài của bờ biển và dãy núi Trường Sơn. Bên kia là phá Tam Giang với các xã Vinh Mỹ, Vinh Hiền, Vinh Giang…mà anh đã nghe Chi khu trưởng Phú Lộc, Trung tá Tôn Thất Khiêm thuyết trình trên bản đồ ngày qua. Trưởng toán, niên trưởng Nguyễn thái Hằng dặn dò “Đừng đi lờ quờ, coi chừng Vẹm cắt cổ”.
Cái nhà ga cũ tàn tạ, sập mái tạo cho Tâm một cảm giác nao lòng. Anh hình dung đến truyện ngắn “Buồn ga nhỏ” của nhà văn Thanh Nam. Buồn đến thế này là cùng!
Chiều đã về. Ánh nắng hắt hiu trên các mái nhà tranh. Hoa sim tím trải dài ngút mắt che khuất đường ray cũ. Tâm nhớ bài hát quen thuộc mà niên trưởng Bùi Phạm Thành k 25 thường hát vào những chiều thứ bảy ở Hội quán Huỳnh Kim Quang “Những đồi sim…những đồi sim…màu tím hoa sim…màu tím hoa sim…”
Chiều qua,toán của anh đã đến thắp nhang cho niên trưởng K19 Võ Thành Kháng, tử trận ở Bình Giã, quê Phú Lộc. Chiếc kiếm thủ khoa trang trọng đặt trên bàn thờ. Hình ảnh một bà mẹ miền Trung gầy guộc, tóc pha sương, ôm những đứa con Võ Bị trong tay, nhỏ những giọt lệ như sương làm anh xúc động. Anh nhớ đến người mẹ thân yêu của mình ở Hóc Môn. Nếu một ngày kia anh cũng ngã xuống trên chiến trường…
Đoàn công tác SVSQ Võ Bị đóng ở Chi khu nằm cạnh cầu Sắt, chiếc cầu cũ kĩ từ thời Pháp thuộc. Bên cạnh Chi khu là một ngôi trường Tiểu học. Từ trong phòng, mỗi buổi sáng Tâm nghe rõ tiếng bọn trẻ ê a,tiếng thước gõ vào cạnh bàn của cô giáo. Cách đó khoảng 500 mét là chợ Nông, một ngôi chợ nghèo ba ngày một phiên. Chợ chỉ có một quán bán bia La Rue, thứ giải khát duy nhất của Tâm và các bạn sau những chuyến đi xuống địa bàn công tác.
Trung tá Tôn Thất Khiêm, Chi khu trưởng rất chịu chơi. Thoạt đầu mới nghe tên ông, người ta cứ ngỡ ông là anh em chi đó với Đại tá Tôn Thất Khiên,Tỉnh trưởng Thừa Thiên- Huế. Xuất thân khóa V có tên Vì Dân của trường Bộ binh Thủ Đức nhưng ông rất có cảm tình với những chàng SVSQ Võ Bị. Ông đích thân lái chiếc Jeep chở bọn Tâm lên Huế chơi. Lần đầu tiên Tâm biết xứ Thần kinh với sông Hương núi Ngự. Ông còn tếu táo “Chú nào muốn xuống Đệ Thất hạm đội trên sông Hương. Anh chiều .“
Hùng, bạn Tâm than thở: “Cùng ra Vùng I nhưng có toán ở ngay trung tâm tha hồ dắt đào đi giung giăng cầu Trường Tiền.Tụi mình phải về “ hóc bà tó” kiếm đâu ra “tình chiến dịch”. Hôm kia tao thấy niên trưởng TrầnThế Hưng đi với một nường trông thật noble, nghe đâu là sinh viên”.Tâm cười.

*
Nhóm của Tâm có nhiệm vụ qua xã Vinh Hiền trình bày về hiệp định Paris cho dân chúng. Địa điểm được chọn là ngôi trường tiểu học núp dưới những hàng dừa xanh mát. Ở đây nghe nói có một ngôi chùa cổ rất nên thơ.
Các cô giáo đã giúp bọn Tâm chăng bạt, cắm hoa trang trí hội trường. Tâm để ý một cô có cái tên ngồ ngộ: Tôn nữ Thương Nhất.Trên má phải của cô có một cái núm đồng tiền cũng ngồ ngộ không kém.
Buổi thuyết trình diễn ra một cách tốt đẹp. Khi nhảy xuống chiếc đò máy để trở về bên kia Phú Lộc,Tâm nhận ra Thương Nhất cũng đang dắt xe đi xuống. Anh đỡ giúp cô chiếc xe đạp. Cô đỏ mặt lí nhí cám ơn.
Thương Nhất mặc một chiếc áo dài màu xanh da trời, quần đen, tay xách chiếc cặp nhỏ.Trông cô nổi bật giữa đám dân quê lam lủ trên đò.
Những câu chuyện trao đổi ngắn gọn cũng cho Tâm biết một số điểm chính về Thương Nhất. Học Sư Phạm, nhà trên Huế, ở trọ bên Phú Lộc, ngày hai buổi qua đò máy dạy ở trường Tiểu học Vinh Hiền.
Gió lồng lộng trên phá Tam Giang. Mái tóc dài của Thương Nhất bay phơ phất. Một vài sợi tạt ngang mặt Tâm. Mùi hương bồ kết nhè nhẹ lan tỏa. Tâm những muốn ngậm một vài sợi tóc mềm ấy. Hùng ngồi ở băng đối diện nhìn Tâm nháy mắt với một cái cười đầy ngụ ý “Tình chiến dịch có rồi đấy nhé”.
Quen Thương Nhất,những ngày công tác của Tâm trở nên ý vị hơn. Nhà Thương Nhất ở trọ cũng ở gần nhà người mẹ già của niên trưởng Kháng. Ngôi nhà tranh nằm giữa những cây chè Truồi, cây dâu da với những chùm quả treo lúc lỉu. Lần đầu tiên Tâm biết thế nào là vị ngọt đậm của bát chè xanh miền Trung.

Trong cái nắng hanh hao của tháng cuối năm,Tâm ôm đàn Guitar cho Thương Nhất hát bài Chiều trên phá Tam Giang của Trần Thiện Thanh,phổ thơ Tô Thùy Yên. Những câu thơ mơ hồ trong trí nhớ anh ngày học Văn Khoa:
Chiều trên phá Tam giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận
Giờ này thương xá sắp đóng cửa
Người lao công quét dọn hành lang
Những tủ kính tối om
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm
Mắt Thương Nhất long lanh, giọng hát cô lan tỏa trong bóng chiều chập choạng .

*
Chiều nay thứ bảy,Thương Nhất đưa Tâm lên thăm chùa Túy Vân. Ngôi chùa cổ nằm trên ngọn núi gần cửa bể Tư Hiền được xây dựng từ thế kỷ XVII. Hằng chục cây thông cổ thụ vây quanh khu rừng tràn ngập hoa dại và tiếng chim hót. Bước lên gần trăm bậc tầng cấp rêu phong, hai người đứng bên bia đá có khắc bài thơ của vua Thiệu Trị nhìn ra đầm phía Cầu Hai. Thấm mệt, má Thương Nhất đỏ au, trông cô thật quyến rũ.Tâm nghĩ thầm: “Cảnh này người ấy thì nên đổi tên chùa là Túy Nhân (người say) thay vì Túy Vân(mây say)”. Anh cúi nhìn tấm bia đá bằng chữ Hán lẩm nhẩm đọc “Vân Sơn Thắng Tích”.
.Thương Nhất tròn xoe mắt ngạc nhiên.Té ra anh chàng Võ Bị này cũng “đa hiệu “ ra phết.
Những chiếc lá vàng rơi. Một vài chú tiểu quét lá.Tiếng chuông chùa ngân nga. Khung cảnh thanh bình quá. Ước gì đừng có chiến tranh…
*
Sang tháng 1 năm 1973, đoàn công tác của SVSQ Võ Bị đóng tại địa bàn Phú Lộc đã non tháng. Mùa Xuân đã về. Sáng sáng nằm ở trên giường,Tâm nghe âm thanh những bản nhạc Xuân vang vang bên ngôi trường. Thương Nhất cũng chuẩn bị về ăn Tết. Tâm trêu bằng giọng địa phương: “Khi mô em cho anh về thăm mạ?”. Màu hồng nhuộm trên gò má Thương Nhất. Cô nói: “Mạ em khó lắm. Đưa anh về em biết nói răng?”
Tâm đưa Thương Nhất ra quốc lộ đón chuyến xe đò về Huế.
Ngày mồng Hai Tết. Sau một vòng kiểm tra cờ xí, nhắc lại âm mưu “lấn đất giành dân”của đối phương cho mấy ngưới lính địa phương quân; từ chối bữa rượu của ông Trưởng ấp,Tâm gãi đầu gãi tai xin niên trưởng Hằng về Huế với lời hứa sẽ về trước 4 giờ chiều.
Qua trường Đại Học Sư Phạm, qua Đập Đá, thôn Vĩ Dạ hiện ra qua lời dặn dò của Thương Nhất: “Nhà em ở gần phủ Tuy Lý Vương phía tay phải”
Ngôi nhà ngói cổ kính nép sau hàng tre trúc với bức bình phong long ly quy phụng chắn phía trước. Mấy chị em Thương Nhất đang đổ lục xâm hường trên sập gụ. Ba Thương Nhất tiếp Tâm trong gian phòng khách treo đầy câu đối hoành phi. Đó là một ông giáo già đã về hưu.
Bây giờ thì Tâm đã biết gia đình Thương Nhất là một nhánh trong dòng họ Tuy Lý Vương, chú của vua Tự Đức. Vốn liếng thời học Văn khoa giúp Tâm có thể nói chuyện với ba em mà không đến nổi mang tiếng “võ biền”. Và khi nghe Tâm bình về bài thơ “Mãi trúc dao” của Tùng Thiện Vương thì ba Thương Nhất đã chắc lưỡi khen và nhất định mời Tâm ở lại ăn trưa cùng gia đình.
Bữa ăn được dọn ở nhà ngang với những món đặc trưng của Tết Huế như dưa món, nem , tré, măng hầm , bánh tét…Tất cả được trình bày một cách mỹ thuật trong những chiếc đĩa sứ mỏng manh, xinh xắn.
Đi từ sớm lại chưa ăn gì, bụng đói meo nhưng Tâm cố ăn một cách từ tốn, nhỏ nhẹ qua ánh mắt quan sát kín đáo, nhẹ nhàng của mẹ Thương Nhất. Và Tâm cũng biết được sự độc đáo trong cách đặt tên của gia đình này. Ba cô gái có tên theo thứ tự Thương Nhất,Thương Hai,Thương Ba…mà Thương Nhất là chị đầu. Đứa em út trai tên Thương Tư cứ sờ nắn cái alfa đỏ một gạch mà xuýt xoa “Lính chi mà cái phù hiệu đẹp ri anh?”.
Thương Nhất đưa Tâm ra chơi sau vườn.Một khu vườn đầy cây lưu niên như mít, thanh trà, cam, quýt…Mùi hoa cỏ thoang thoảng ngất ngây. Em đọc nho nhỏ câu thơ của Huy Cận : “Đường trong làng hoa dại với mùi rơm.” Tâm tiếp lời “Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm”. Hai người yên lặng, trong khoảnh khắc mơ hồ như nghe được nhịp đập của trái tim.
Đến ở cây khế cuối vườn,Thương Nhất đứng lại với tay vít một nhánh. Mùa Xuân, khế chưa có quả, chỉ là những nụ hoa tím rung rinh. Một vài nụ hoa rơi trên tóc em. Tâm cầm tay Thương Nhất. Bàn tay mềm và nóng hôi hổi. Anh nghe lòng rung động một thứ tình yêu thanh khiết , nhẹ nhàng.

*
Mọi chuyện diễn biến nhanh chóng như một cái chớp mắt. Đêm 31 tháng 3 năm 1975,Tâm là một trong những SVSQ cuối cùng rời trường Võ Bị. Qua cỗng Tôn Thất Lễ đằng sau Phạn xá, dù đã nén lòng nhưng mắt anh vẫn cay cay. Anh bỏ lại tất cả vật dụng cần thiết ngoại trừ tấm ảnh Thương Nhất nằm trên ngực trái. Giã từ ngọn đồi 1515 với gần bốn năm lăn lộn thao trường…
Tâm đi tù tại trại Trảng Lớn-Tây Ninh. Nhờ tài tháo vát của thời đi Hướng Đạo, dù không được tiếp tế nhưng anh vẫn được coi là một trong những sư phụ dễ dàng tìm nguồn cải thiện cho mình và các chiến hữu. Nào cóc, nhái, chẫu chuộc dưới đất, nào chim chóc, hoa trái trên cây qua tay Tâm đều trở thành sơn hào hải vị . Đặc biệt những lần trại phát động phong trào làm “Báo Liếp”,Tâm chỉ ngồi một chỗ rung đùi cho các “niên đệ” tự nguyện bổ củi, cuốc đất giùm, cà phê thuốc lá điếu đóm để anh “xuất khẩu”cho bốn câu thơ đi nộp cán bộ “ i tờ rít.”
Tấm ảnh của Thương Nhất sau hơn hai năm cải tạo đã bị mồ hôi của nhọc nhằn gian khổ làm nhòe đi. Nhớ về em, Tâm chỉ hình dung được đôi mắt long lanh và cái núm đồng tiền bên má phải. Anh ngậm ngùi nghĩ tới những câu thơ của Tường Linh trong bài “Nhắn Hoàng thành có người Tôn nữ ”:
Chừ còn gì đâu gởi ra Huế nữa
Mất hết từ ngày đi
Mất hết từ hôm bắt đầu nỗi nhớ
Đường ra như có lắm biên thùy
*
Vì biết sẽ buồn
Nên ngày xưa anh không hứa hẹn
Vì giông tố nên thuyền không cập bến
Vì em là chim hót giữa Hoàng thành
Vì anh là mây chiều còn luyến trời xanh
Ra tù,Tâm đi kinh tế mới ở Daknong. Bạn hàng xóm của anh là hai ông già Nam bộ chơn chất , hiền lành. Hai ông có đến năm cô con gái. Trong một bữa tiệc thịt rừng do anh săn được, ngà ngà say, một ông lên tiếng “Thôi, cũng lớn bộn rồi. Lấy vợ đi. Anh ưng đứa nào chúng tôi cho một đứa”.
Còn gì nữa đâu.Tổ quốc. Lý tưởng.Tình yêu. Tâm nhắm mắt chọn đại một cô. Ơn trời. Đó là người vợ hiền lành, hết lòng vì chồng con.
*
Năm 2010, kinh tế phần nào ổn định do mấy mẫu cao su thấm máu, mồ hôi, nước mắt đã đến kỳ thu hoạch, Tâm đưa vợ con về thăm quê cha đất tổ Hải Phòng theo lời trăn trối của Mẹ già trước lúc lâm chung.
Xe qua hầm Hải Vân, qua Lăng Cô, vùng Thừa Lưu-Nước Ngọt hiện dần ra trước mắt. Gần 40 năm đã trôi qua. Một khoảng thời gian dài đủ xóa đi những vết tích. Cây cầu sắt và cái ga xép tiêu điều đã trở thành khu thị tứ đông đúc. Những ngôi nhà cao tầng san sát nhau. Tâm không thể nhìn ra đâu là nhà niên trưởng Kháng, nhà của Thương Nhất từng ở trọ…
Tâm bâng khuâng. Giã từ Huế. Giã từ những tháng năm đẹp nhất của đời người. Có những mối tình chỉ là một cái nắm tay nhưng cũng đủ theo ta đi suốt cuộc đời.

HƯƠNG THỦY

-Mong Manh Tơ Trời

huongthuy

Thụy nghểnh đầu nhìn Thông đang bước những bước dài trên cát về phía nàng. Anh mặc chiếc quần Jean xanh,quàng ngang vai chiếc khăn tắm, cặp mắt hấp háy vì ánh nắng .
Bãi biển buổi trưa vắng ngắt.Thiên hạ đã đổ về bên kia rừng dương.Thụy nhắm mắt nằm im cho đến khi một bàn tay đặt trên vai nàng: “Em ,đi ăn trưa chứ!”
Nàng quay người nắm lấy tay Thông . Bàn tay rắn và nhớp nháp mồ hôi. Dù sao nó cũng đã đem lại sự an ổn cho nàng bấy lâu .
Và hai người ngồi đối diện nhau trong một quán vắng.
Thụy nhìn người đàn ông 34 tuổi trước mặt mình. Đôi khi nàng tự hỏi tại sao mình lạị yêu anh ấy mãnh liệt đến thế. Một người mà mình đã bỏ cả lời khuyên của ba, tiếng khóc của mẹ, bỏ cả công việc ở Sài gòn để bay ra đây, vùng địa đầu giới tuyến gian khổ nhưng có một bãi biển tuyệt vời và một cái tên vô cùng dễ thương : Mỹ Thủy.
Một tuần qua, nàng đã quen thuộc với cuộc sống của anh. Căn hầm ngầm chất đầy bao cát trong căn cứ Camp Evans. Buổi sáng,tiếng de’part của những khẩu pháo 175 ly “ Vua chiến trường”, những chiếc GMC gầm rú, tiếng tạch tè của chiếc máy truyền tin PRC 25 và những giấc ngủ ngắn vội vã…
Sau những cuộc làm tình cuồng nhiệt, hai người đều có những phút yên lặng ngột ngạt.Thụy nghĩ đến vợ anh và những đứa con: Thúy Lam,Trúc Lam và đôi khi nàng muốn khuyến khích anh làm liều để có thêm một Thụy Lam nữa.
Tránh né ánh mắt van vỉ của Thụy ,Thông thường chồm qua người nàng uống nốt tách cà phê đã nguội và châm điếu Salem. Mùi thuốc thơm tỏa ra nồng nàn.
Hai người quen nhau thật tình cờ trên chuyến bay từ Huế lên Đà lạt, khi Thụy đi nghỉ hè và Thông về thăm trường Mẹ. Dáng dấp mạnh mẽ, đầy nam tính của anh đã cuốn hút Thụy khi xách giúp nàng chiếc valise đi băng băng trên phi trường Liên Khương. Và anh đã tự nguyện làm hướng dẫn viên cho nàng trong kỳ nghỉ phép ít ỏi của mình.
Hai người đã có một ngày lang thang bên hồ Than Thở. Thông chỉ cho Thụy cái cỗng màu trắng, hai cánh như xòe ra với dòng chữ “ Tự thắng để chỉ huy” bên dưới.Thông đưa Thụy đến nơi anh đã thực tập vượt sông và xém chết đuối ; chỉ cho Thụy thấy đỉnh Lâm Viên mù sương năm nào đại đội anh đánh dấu chinh phục bằng trái pháo khói màu tím trên bầu trời Đà Lạt.
Cũng là lần đầu tiên Thụy hít thở được mùi trinh nguyên của phố đêm cao nguyên. Sương xuống giăng mắc núi đồi. Từ rạp Ngọc Lan đi ra,Thụy còn ngơ ngẩn với mối tình của hai diễn viên tài hoa Alain Delon và Romy Schneider trong phim Christine thì Thông đã kéo nàng xuyên qua con đường nhỏ đến với những gánh hàng rong trước mặt khách sạn Thủy Tiên. Những lát lạp xưởng mỏng, màu hồng đặt trên đĩa xôi nhỏ nóng bỏng. Một ly sữa đậu nành bốc khói. Không thú vị nào hơn.
Cũng có khi chỉ là hai ổ mì baguette Vĩnh Chấn,hai người đi xuống mé hồ Xuân Hương để qua vườn hoa Bích Câu ngắm những cây Mimosa lá phơn phớt bạc với chùm hoa vàng nhỏ li ti…Và Thụy đã ngã vào tay anh như một Coup de foudre , mặc kệ anh chàng hôn phu có gương mặt bụ sữa, cặp kính trắng 7 diop mà gia đình đã chọn lựa cho nàng .
Thông nhìn Thụy đầy thương xót. Lẽ ra với sắc đẹp ấy,tuổi trẻ ấy nàng có thể có một tình yêu xuôi chèo mát mái , một cuộc sống an nhàn nơi thành phố. Nhưng không, nàng yêu mình, một người línhtrong tiểu đoàn có biệt danh “Trâu điên”, có vợ hai con với một tương lai bấp bênh không biết sống chết ra sao trong cuộc chiến này.
Tuần sau vợ anh sẽ ra đây. Một người vợ vì nghĩa hơn vì tình. Anh không thể quên ánh mắt đau đáu của cha trên giường bệnh : “Con lấy vợ cha mới yên lòng nhắm mắt”. Và người trưởng nam trong một gia đình danh gia vọng tộc miền Bắc di cư đành phải cúi đầu chấp nhận dù trong tiểu đoàn anh nổi tiếng là “Robert Húc”.
Câu chuyện giữa đêm khuya của hai vợ chồng cũng chỉ xoay quanh chuyện chọn trường cho đứa con thứ nhất, mua thêm chiếc xe cho đứa thứ hai tập đi. Nhưng anh cũng không thể vì tình mà bỏ nghĩa. Và anh cứ loanh quanh với những rối rắm của mình.
Với Thụy,Thông không hề giấu chuyện mình đã có gia đình. Anh tìm thấy nơi Thụy sự đồng điệu của tâm hồn. Thụy như đọc được những suy nghĩ của anh. Thậm chí có khi hai người cùng bật ra một từ, một cảm xúc giống nhau. Thông coi Thụy như một người tri âm tri kỷ. Anh đã kể cho Thụy nghe mối tình đầu của mình năm lớp đệ tam trường Chu Văn An; chuyện anh thất tình đi lang thang ở Thảo cầm viên một đêm khuya khoắt; chuyện anh phải chạy quanh thao trường 10 vòng vừa chạy vừa la “ Đời có gì vui đâu mà cười !”.Thậm chí cũng không ngần ngại chuyện anh trở thành đàn ông trong căn nhà số 130 trên một con dốc Đà lạt vào chiều thứ bảy cuối năm.
Thụy nhỗ một cọng tóc bạc trên đầu Thông. Chỉ mới ba tháng thôi mà anh già đi nhiều quá. Khuôn mặt chữ điền đã xuất hiện nếp nhăn, mái tóc có nhiều sợi sắp đổi màu. Anh đã quá vất vả vì những cuộc họp lúc nửa đêm,những cuộc hành quân đột xuất…Mình không thể làm anh khổ thêm.
Thụy nhớ lại ánh mắt thất vọng của cha Le Fas, cái ngoẹo đầu và hai cánh tay dang rộng “Giê Su ma.Lạy Chúa tôi” khi nàng tự thú : “Thưa cha. Con đã phạm điều răn thứ sáu”. Nàng đã có hàng giờ quỳ gối ở ngôi giáo đường nhỏ trong khu nội trú Jeanne D’Arc. Thậm chí , đã có lúc nàng muốn bỏ đi thật xa để quên,để khỏi áy náy mình là người có lỗi.
Nhưng chỉ cần một lời nhắn thông qua người lính về phép, một mẫu giấy nhỏ “ Anh vừa về hậu cứ” là nàng đã bươn bã vượt hằng trăm cây số để đến với anh, để gục đầu vào vai anh hít thở mùi mồ hôi quen thuộc, một “chất gây nghiện của lính” như anh thường đùa.
Ngày mai nàng trở về thành phố và sáng sáng lại chăm chú theo dõi bản tin chiến sự hàng ngày; chiều chiều từ khung cửa sổ đếm có bao nhiêu chuyến máy bay tải thương đỗ xuống Tổng y viện Duy Tân để lo lắng ,để nhớ thương. Và sẽ bịt hai tai để khỏi phải nghe những lời oán thán của mẹ. Thành phố nhỏ nên lòng người cũng hẹp hòi.Tình yêu không công khai chỉ làm những đợt sóng ngầm thêm thập phần nguy hiểm.
Ngày mai nàng trở về thành phố để một người đàn bà khác,một người vợ danh chính ngôn thuận sẽ ra đây bên anh. Có thể nàng sẽ để sót một cái gì đấy. Những sợi tóc dài, một chiếc mouchoir hay thậm chí một cái quần lót…
Ngày mai nàng trở về thành phố để ngậm ngùi cho cuộc tình mong manh như tơ trời của mình…
Thông nhìnThụy và nói bằng một giọng đắng chát: “ Anh muốn em ở lại đến tuần sau.”
Thụy òa khóc, lắc đầu và lắc đầu…

HƯƠNG THỦY

O LỰU

huongthuy

Năm tôi lên 9 tuổi,mẹ mất. Chị Cả đi lấy chồng xa, chị Hà còn dại lại đang cắp sách đến trường,Ba tôi nhờ người bác tìm hộ một người giúp việc. Và o Lựu xuất hiện trong gia đình tôi.
O Lựu người làng Bồ Bản ,quận Triệu Phong,tỉnh Quảng Trị. Nhà nghèo lại đông con,mẹ o quyết định cho o lên tỉnh “đi ở” kiếm chút vốn và cũng để bớt một miệng ăn. Năm ấy o vừa 16 tuổi.
Không giống những người làm ruộng vất vả khác,o Lựu có nước da trắng xanh, đuôi mắt dài, tóc dài chấm vai được cặp lại bằng một cái kẹp ba lá. Vào nhà được mươi lăm phút, o đã tất tả tìm cái chổi rành quét dọn bếp núc.
Có o Lựu, tôi khỏi phải ăn những bát cơm nửa sống nửa chín do chị Hà nấu, anh tôi không còn nhăn mặt trước dĩa chả trứng khét lẹt và ba tôi đã có ấm nước sôi pha trà buổi sáng. O dạy chị tôi”xuốc cươi thì phải khom người xuống”,dặn tôi”đừng leo cây ổi mà bổ lọi tay”.
Mất mẹ lúc còn quá nhỏ, ba luôn nghiêm nghị, ít khi biểu hiện tình cảm ra bên ngoài,tôi chỉ còn o Lựu để nhỏng nhẽo.”O Lựu rửa chân cho em…O Lựu cõng em đi chợ…O Lựu con mèo cào em”…Tai quái hơn,tôi còn bắt o làm bò cho mình cởi và khi muốn “bò” ngừng lại,tôi đấm thình thịch vào lưng o. O lẵng lặng chiều theo ý tôi,không một lời phàn nàn.
Đêm đêm khi gãi lưng cho tôi ngủ,o hay kể chuyện làng mình. Chuyện đền thờ Thần Hoàng có cây đa cao vút với con tinh áo trắng chuyên dọa người đi qua; chuyện bà lão hiền lành nhặt được cục vàng khi mò cua ngoài ruộng…Thi thoảng, o lại đọc những câu ca dao mang âm điệu buồn bã”:Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” hoặc “Chèo đò bẻ bắp bên sông. Bắp chưa có trái bẻ bông chèo về”…Tất cả ru tôi vào giấc ngủ êm đềm không mộng mị.
An phận thủ thường như những người giúp việc khác nhưng o Lựu lại có một sở thích kỳ lạ: thích chụp ảnh. Hè năm đó, cậu tôi ra chơi đem theo cái máy ảnh Canon và chụp cho hầu hết các thành viên trong gia đình nhằm mục đích trau dồi tay nghề tài tử.Thấy sự hiền lành của o Lựu,cậu có nhã ý chụp cho o một cái ảnh dưới gốc cây ổi. Ảnh sang ra,o trang trọng đón nhận bằng cả hai tay.
O mua cho tôi một đồng kẹo Gia Địa và năn nỉ tôi viết cho hai chữ “Kỷ niệm” ngòng ngoèo đằng sau ảnh. Những ngày tiếp , o thể hiện sự biết ơn của mình một cách cụ thể:giặt sạch bộ đồ nhà binh dày cộp,cắm cúi đánh bóng đôi giày” trấn thủ lưu đồn” của cậu. O xin tờ giấy bóng kính,bao tấm ảnh và cẩn thận xếp nó vào đáy rương.Những buổi trưa rổi rãnh,ngồi sau hiên nhà bếp, o lôi ra ngắm nghía say sưa .
Dưới đôi mắt một đứa con nít như tôi,tấm ảnh chẳng có chi xuất sắc nếu không nói là xấu bởi vì o Lựu trong hình bị xén mất một chân. O nói dưới làng chỉ có nhà giàu mới dám lên tỉnh chụp bóng để sau này có ảnh mà thờ. O ao ước phải chi có nhiều tiền sẽ ra chụp một cái hình màu ở tiệm LIDO ngoài chợ Quảng Trị.
Mỗi năm o Lựu được về thăm nhà một lần vào ngày 27 tháng Chạp. Khi đó o mặc chiếc áo dài xanh của chị Cả tôi cho,đi đôi guốc mộc ,đầu đội nón lá. Tiền công xá ba tôi đưa,o gói trong chiếc khăn mùi xoa và lận vào lưng quần. O xin anh tôi mấy cuốn tạp chí Thế giới tự do về cho em dán trên vách nhà. Vắng o,tôi bần thần cả mấy ngày Tết. Năm nào o lên muộn,ngồi trong lớp tôi sốt ruột sốt gan. Và thật sung sướng khi đi học về đã thấy o Lựu trong nhà bếp. O đem lên làm quà những củ khoai từ đầy bột,mớ khoai lang tươm mật và những trái khế vàng ươm.Trước vẻ mặt phụng phịu của tôi, o hứa lần sau sẽ lên nhanh,sẽ xin cho tôi về Bồ Bản, một làng quê nghèo có lũy tre xanh, có động cát trắng với sim,móc và những bông hoa chạc chìu thơm ngát.
Một hôm,tôi nằm ở nhà trên,say sưa dán mắt vào cuốn “Lửa cháy thành Phiên Ngung”thì o Lựu đi chợ về. Đã hơi trưa,o gọi vọng lên nhờ tôi lấy giúp cái kéo cắt râu tôm kịp nấu canh cho ba tôi về ăn. Mê mải với chàng trai Anh Kiệt hào hùng, o giục giã vài ba lượt tôi mới nhỏm dậy làu bàu rồi vơ vội cây kéo chạy vội xuống nhà bếp ném đại về phía o đang lúi húi. Cây kéo không rơi xuống đất mà lại phi thẳng một đường vào trán, dòng máu đỏ tuôn ra. O cúi xuống,gục mặt vào đầu gối để cầm máu.Tôi hoảng hồn đứng lặng. Anh tôi vội vã lấy bông và thuốc đỏ rịt vết thương.Trưa hôm ấy khi thấy trán o bị băng, ba tôi hỏi nguyên do,o nói trớ là bị va đầu vào cột nhà. O đã giúp tôi thoát khỏi trận đòn chắc chắn sẽ xảy ra. Sau đó trên trán o có một vết sẹo khoảng ba phân vắt ngang.
O Lựu ở với chúng tôi được 4 năm. Khi tôi vừa lên lớp đệ lục thì mạ o lên xin cho o về làng để “lấy dôông”. Ở nhà quê,hai mươi mà chưa có”dôông”là coi như ế. Tôi nằng nặc không cho o về. Mặc kệ cây roi mây và lời dậm dọa của ba,mặc kệ lời dụ dỗ và những trái khế ngọt của mạ o,tôi ôm o chặt cứng. Đêm ấy ,trước khi đi ngủ tôi lấy cái khăn buộc chặt tay tôi vào tay o nhưng sáng mai thức dậy o đã đi từ lúc nào. O để lại cho tôi năm đồng bạc mới trên gối. Tôi khóc tỉ tê suốt cả buổi và nhất định sẽ nhờ ai đó chở về làng tìm o. Chị Hà cứ chế diễu tôi vô duyên,không để o Lựu đi lấy chồng.
Nhưng đứa bé 12 tuổi không dễ dàng thực hiện được dự tính. Làng Bồ Bản quá xa đối với đôi chân bé nhỏ của tôi. Chiều chiều tôi ngẩn ngơ ra sân ngóng đợi. Có lần,chị tôi đi sinh hoạt Hội Hồng Thập Tự Thị xã đem về tập san Đan Tay,trong đó có bài thơ của thầy Lê Văn Mãn nói về làng Bồ Bản của o Lựu. Bài thơ không biết có hay không nhưng tôi thuộc nằm lòng:
Đường về Bồ Bản không xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Chưa đi những ngóng cùng trông
Khi về chỉ thấy đồng không tre già
*
Đường về Bồ Bản xa không
Muốn về nơi ấy mà lòng phân vân
Quê nhà vắng vẻ. Trong sân
Hàng cây không lá muôn phần nhớ thương
Phải chi có o Lựu ở đây,nghe tôi đọc chắc o thích lắm.
Rồi thời gian qua. Trường lớp,bạn bè và những cuộc vui cuốn hút tôi. Tôi đã lớn, biết đi xe đạp rồi biết đi Honda nhưng làng o Lựu đã trở thành vùng xôi đậu, mất an ninh.Đôi lần nhớ về o Lựu tôi ngậm ngùi. Chắc o đã có một gia đình êm ấm.
Năm 1972 mùa hè đỏ lửa, gia đình tôi cũng bỏ Quảng Trị mà đi. Đất nước thống nhất tôi cũng không có dịp quay lại tỉnh lỵ nhỏ bé này.
*
Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm nhưng với cái lý lịch không mấy” sạch sẽ”:Ba” ngụy quyền”,anh trai,anh rể đi” cải tạo”; với cái nhìn không mấy thiện cảm của các loại “Cách mạng 30 tháng 4” về một cô Sinh viên hay mặc váy lên giảng đường,đi lao động vẫn áo Pull quần Jean,tôi không được bổ nhiệm.Buồn tình tôi bỏ về Đàlạt.
Thành phố Cao nguyên. Những ngày nằm dài ủ ê nghe thông reo. Chị Cả tôi,từ một mệnh phụ đã bước xuống cuộc đời. Đồ đạc trong nhà bán dần hết. Một nách ba con với gánh hàng trên vai,chị tôi vào bán trong Hồ Than Thở. Đây là một thắng cảnh của Đàlạt. Cạnh đó là Trường Võ Bị Quốc Gia nay đổi thành Học Viện Lục Quân. Hàng ngày tôi nhìn sang mà lòng ngậm ngùi. Anh rể và anh trai tôi đều xuất thân từ ngôi trường quân sự danh giá này và bây giờ cả hai đều bị lưu đày ở nơi thâm sơn cùng cốc.Cả hai anh đều bị xếp vào loại “ác ôn” khi tình nguyện gia nhập Binh Chủng Biệt Động quân với chiếc mũ nâu oai hùng …Khách hàng phần đông là những cán bộ quân sự các miền,thi thoảng có những chuyến xe Saigon của các du khách lãng mạn đi tìm dấu tích của đồi thông hai mộ .Sang hơn hết là xe của những cán bộ cao cấp,những đoàn chuyên gia nước ngoài đi tham quan.Hàng họ ngoài thuốc lá,bánh kẹo thông thường,chị tôi bày thêm tranh khắc bút lửa,những con cù lần bằng gốc cây. Mặt hàng này du khách hay mua làm kỷ niệm.Tôi thường giúp chị trong khâu bán hàng.
Buổi trưa,úp mặt vào cuốn “Người xa lạ” của A.Camus, tôi lơ mơ buồn bã.Đang miên man nhớ câu thơ của Vũ Hoàng Chương”Đời tàn trong ngõ hẹp”,tôi giật mình với tiếng reo hớn hở của người bán hàng bên cạnh:”A,khách Tây,khách Tây”.Hầu như các quán hàng đều tỉnh ngủ.Mối” sộp” đây rồi!
Tính sĩ diện vẫn còn khiến tôi không thể chạy theo chèo kéo khách như những người khác.Thôi thì ngồi yên ngâm nga thơ Nguyễn Công Trứ:”Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất.Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn”.Các cháu ơi!Dì chịu thôi.Chiều nay chúng ta ăn khoai tây chấm muối vậy.
Gạt những người xúm quanh,một ông Tây bước về gian hàng bé nhỏ của tôi,
chăm chú nhìn những búc tranh rồi cúi xuống chọn lựa.
-Would you like some more? Tôi thăm dò.
Ông cười và hướng về nhóm du khách gọi: Honey,come here!
Người phụ nữ tóc vàng váy đỏ có dáng dấp Á đông bước tới .Lạy Chúa,lạy Phật phù hộ! Chị tôi đang đi thăm nuôi anh rể ở Sông Mao. Gạo trong nhà đã hết.
Người phụ nữ nhìn tôi chăm chú rồi kêu lên thảng thốt…bằng tiếng Việt:
-Bé Ti,bé Ti phải không? O Lựu nì!
Tôi há hốc miệng. O Lựu,người giúp việc năm xưa? Như sợ tôi không tin,người phụ nữ vén tóc trán:
-Vết sẹo nì. O đây, o đây…
Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Sự nhớ thương pha chút tủi hổ làm tôi nghẹn ngào.
Phút xúc động lắng xuống,o giới thiệu: Đây là Tim John,chồng o.
Để mặc ông chồng đứng cười hiền ngơ ngáo,o kéo tôi ngồi xuống kể chuyện tháng ngày qua…
Từ giã nhà tôi,o Lựu về làng lấy chồng theo sự sắp xếp của cha mẹ. Chồng o là một anh nông dân hiền lành và chăm chỉ làm ăn. Được ba năm,chưa kịp có con anh đã chết do một phát đạn ngu ngơ không biết của phe nào khi đang cày bừa trên mảnh ruộng nhà. Rồi Bồ Bản chìm ngập trong lửa đạn .Ban ngày lính cộng hòa bố ráp,ban đêm du kích bò ra hoạt động,dân chúng toàn phải chui hầm.
Trong một trận pháo kích,nhà o bị sập. Gia đình chết hết, o bị thương nặngđược máy bay trực thăng của tổ chức Hồng thập tự đưa ra hạm đội cứu chữa. Không còn gia đình,làng mạc tan hoang sau trận chiến mùa hè 1972,o Lựu không còn nơi để trở về. Số phận đưa đẩy,Tim John là bác sỹ điều trị cho o đưa o qua Mỹ và họ trở thành vợ chồng…Năm nay,Tim đại diện cho một tổ chức nhân đạo sang giúp đỡ trẻ em Việt Nam,o theo chồng về thăm quê hương và tình cờ gặp tôi…
Vẫn là sự thương yêu chân tình đối với” cô chủ nhỏ” của mười năm trước, o Lựu vuốt ve mái tóc tôi, xuýt xoa khi nắn bóp cơ thể gầy guộc thiếu ăn của “bé Ti” và chảy nước mắt khi nghe anh tôi đi “cải tạo” tận miền Bắc .Tôi úp mặt vào vai o như muốn tìm lại mùi hương của một thời xa xôi.

Lúc chia tay o tế nhị dúi vào túi áo tôi một cuộn tiền rồi tất tả lên xe. Vẫy tay chào
theo tôi không biết là mình đang mơ hay tỉnh.Lần đầu tiên,tôi nhìn thấy những tờ 100 đô la Mỹ .
Nhờ số tiền của o Lựu ,chị tôi từ giã nghề buôn gánh bán bưng. Chị sang một sạp
hàng tạp hóa ở chợ Đalạt,nuôi 3 đứa con ăn học chờ chồng trở về từ trại giam.
Sáu năm sau anh chị cũng ra nước ngoài theo diện HO.Trên đất khách quê người
những ngày đầu tiên,anh chị được vợ chồng o Lựu tận tình giúp đỡ.Tiếc rằng do
vết thương chiến tranh,o Lựu không thể có con.Vợ chồng o nhận đứa con trai của anh chị tôi làm con đỡ đầu.
Năm ngoái tôi lặng người khi nghe chị tôi gọi điện thoại báo tin o Lựu đã qua đời sau một cơn đột quỵ. Ôi ! O Lựu,bóng mát trên thiên đường ký ức của tôi,ân nhân của gia đình tôi trong cơn khốn cùng…Tôi khóc o như khóc một người thân yêu nhất.

HƯƠNG THỦY

NƯỚC TRÔI QUA CẦU

huongthuy

“Những lời yêu ấy nay đà quá xa… “(Cho người tình lỡ-Nhạc Hoàng Nguyên)

Hai đứa ở cùng xóm,chung một ngõ,biết nhau từ thuở còn thơ.Thời Ni học lớp 1,mỗi chiều tan trường,chính Cu Tí -tên móc nôi của Hoàng- phải cầm que xua hai con ngỗng chặn đường trước vẻ mặt xanh xám của Ni.
Nhà Ni ở cuối ngõ. Căn nhà lợp ngói âm dương cổ kính với hàng chè tàu bao bọc chung quanh. Mùi hoa dạ lý thơm nức trong vườn. Ba Ni dạy trường Trung học Hàm Nghi,ngày hai buổi đi chiếc Honda Dame màu xanh qua Thành Nội. Nhà Hoàng ở đầu ngõ. Cha mất sớm,mạ tần tảo gánh bún bò nuôi ba anh em. Biết thân phận nghèo khổ của gia đình, Hoàng chăm chú học hành và nổi tiếng học giỏi toàn xóm. Cuối bậc Tiểu học,Hoàng ngồi trên chiếc xích lô của chú Tư với chồng phần thưởng Danh dự toàn trường ngập mặt trong tiếng xuýt xoa của ba Ni “Thằng này sau chắc khá!”
Ni thi vào đệ thất. Ba qua nhà xin với mạ Hoàng “cho Cu Tí qua kèm cặp em Ni”. Năm đó,Hoàng mới học đệ ngũ trường Quốc Học. Cứ ba giờ chiều,Hoàng ôm cuốn “300 bài Toán khó “của Trần Tiếu đi vào nhà dạy Ni. Mỗi lần giảng lâu mà Ni cứ giương mắt không hiểu,Hoàng lại lấy cái thước kẻ khẻ vào tay mặc kệ nước mắt Ni rươm rướm. Có lẽ nhờ sự nghiêm khắc của Hoàng,Ni thi đậu vào trường Đồng Khánh với thứ hạng khá cao. Phần thưởng ba Ni dành cho Hoàng là chiếc xe đạp Peugeot với điều kiện “ngày hai buổi chở em Ni đi học,coi sóc nó cho bác “.Mạ Hoàng cảm động,không nói thành lời.
Từ đó trên yên sau chiếc xe đạp của Hoàng là Ni. Ni mặc áo đầm trắng,thắt nơ đỏ xinh xắn.Hoàng bắt Ni gọi mình là “anh Hoàng”,không được nhắc tên Cu Tí trước mặt bè bạn.Ni ngoan ngoãn vâng theo. Đoạn đường từ Nguyệt Biều thẳng xuống Lê Lợi không xa lắm. Hai anh em chuyện trò ríu ran suốt cả con đường Huyền Trân Công chúa. Hai trường cách nhau một con đường nhỏ. Đồng Khánh tan trước Quốc Học 15 phút. Ni ôm cặp đợi Hoàng ở nhà mụ Cai. Đám bạn Hoàng cứ khen “Mi có một đứa em thiệt là ngoan”.
Một lần, xe bị xẹp lốp ở ngay Cầu Lòn,hai đứa phải dắt đi bộ. Có một thằng nhóc mất dạy cứ chạy theo tốc áo đầm của Ni lên. Ni xấu hổ đến phát khóc. Nạt ba lần không được,Hoàng chống xe xuống đập nhau với thằng nhóc. Hậu quả là chiếc áo trắng đã cũ của Hoàng rách một vệt dài ở nách. Hai đứa bàn nhau giấu ba mạ. Buổi trưa Ni trốn ngủ ra sau vườn may lại áo . Những mũi kim vụng dại nhăn nhúm.
Mi lớn dần lên và bắt đầu biết “dị”. Năm lên lớp đệ ngũ Ni đã mặc áo dài và đỏ mặt xấu hổ trước sự cắp đôi của mấy đứa trong xóm. Nhất là những lời trêu chọc độc ác của Luyến, đứa con gái không đẹp lắm ở gần nhà Hoàng. Luyến học đến lớp 5 thì nghỉ ở nhà theo mẹ bán buôn. Mỗi lần thấy Hoàng chở Ni đi ngang, cái miệng của Luyến lại rống lên “Con gái chơi với con trai. Về sau cái vú bằng hai quả dừa”. Mặt Ni tía tai .Hoàng càu nhàu “Kệ nó. Đồ con gái vô duyên thúi.”
Lên đệ tứ thì Ni nhất quyết không ngồi sau yên xe Hoàng nữa. Bây giờ tụi trong lớp cũng biết Ni với Hoàng không phải là anh em. Mặc kệ lời phân trần của Ni, tụi nó trêu “Chắc hai đứa bây đã có chi với nhau”. Chiều Ni, ba mua cho con gái một chiếc mini màu trắng xinh xắn. Bây chừ thì hai chiếc xe đạp đi song song hàng ngày trên con đường Công chúa Huyền Trân.
Ni dự định chọn ban C khi lên đệ nhị cấp. Ni nói với Hoàng “Em sợ Toán lắm. Mai sau em sẽ thi vào Đại học Sư Phạm và làm cô giáo dạy Văn”. Hoàng nói “Còn anh sẽ thi vào trường Phú Thọ. Anh muốn làm kỹ sư. Mà kỹ sư thì phải giỏi Toán”.
Một bữa Hoàng rủ Ni lên chùa Thiên Mụ cầu cho anh thi đậu Tú tài I. Lo cho Hoàng, Ni đồng ý ,lại còn đem theo một thẻ nhang. Hai đứa leo lên những bậc tầng cấp rồi nhìn ra dòng sông Hương lộng gió. Nước sông xanh ngắt. Hoàng đọc cho Ni nghe bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử rồi nói “Ông Hàn Mặc Tử là Thi Thánh .Ni có thấy đúng là “ dòng nước buồn thiu “ không?”.Ni ngạc nhiên dân ban B như anh Hoàng mà tâm hồn cũng lãng mạn rứa a?
Đến dưới chân tháp Phước Duyên, Hoàng thắp nhang rồi lầm thầm khấn. Ni hỏi “Anh khấn thi đỗ hạng ưu à?” Hoàng cười “Bí mật”. Hai đứa ăn bánh bèo Kim Long rồi đi về.
Một bữa Ni chạy qua nhà Hoàng nhờ bày cho cách làm một bài Essay. Muốn vô ban C Anh văn phải thiệt giỏi. Hoàng đang ngủ. Chắc đêm qua anh thức khuya quá. Ni lục bàn học của Hoàng tìm cuốn tự điển. Thấy một quyển sổ đèm đẹp, Ni cầm và lật ra xem.Trên nền giấy trắng,có hàng chục dòng chữ cả Anh lẫn Pháp: I love you ,Je t’aime…Chu cha. Anh Hoàng có bồ. Ni nghe tưng tức trong bụng. Cô mô đây?. Ni lật qua trang thứ hai. Hàng trăm chữ Hoàng Ni nối tiếp nhau. Trống ngực Ni đánh thình thịch. Ni chạy về nhà, vào phòng nằm trên giường tim vẫn còn run.
Sáng hôm sau, bé Na kêu “ Chị Ni nhanh lên,anh Hoàng chờ hơn mười phút rồi”. Ni dắt xe đạp ra. Trên quảng đường dài, hai đứa không nói với nhau câu nào.
Hôm nay được nghỉ hai tiết cuối , Ni định về trước nhưng không hiểu sao lại đứng chờ Hoàng ở bức bình phong long mã trước trường Quốc Học. Sông Hương mùa này nước đục, báo động mùa lũ sắp đến. Ni nhớ ngày còn nhỏ, hai đứa đi lội nước lụt, xem người ta rớ cá thật vui. Ni lại nhớ những dòng chữ trên cuốn tập ngày qua, lòng xôn xao…Hoàng đứng sau lưng Ni từ lúc nào. Anh trao cho Ni cuốn sách bọc giấy màu xanh da trời. “Anh tặng Ni nè”. Đó là cuốn “Lá tương tư” của nhà văn Mường Mán, cuốn truyện đang làm xôn xao nữ sinh Đồng Khánh. Trên trang cuối cùng, Hoàng đề ba chữ nhỏ xíu bằng bút chì “Anh thương Ni”.
Chuyện của hai đứa bắt đầu như rứa đó. Ba mạ không cấm, chỉ khuyên hai đứa cứ như anh em xưa nay, khi nào lớn hẵng hay. Mạ Hoàng xuýt xoa “Thằng Hoàng thiệt có phước. Được gia đình ông Giáo thương”. Bác Tám sửa xe dưới gốc đa đầu xóm kêu “Hai đứa bây như Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga”. Rồi bác ngâm nga “Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn. Nguyệt Nga ngó thấy càng thìn nết na”.
Hoàng thi tú tài I đậu hạng Bình. Ba thưởng tờ 10 ngàn kêu đi ăn bù lại thời kì sôi kinh nấu sử. Hai đứa chẳng biết ăn chi ngoài bánh bột lọc học trò của mụ Đỏ bên Chi Lăng. Hoàng rủ Ni lên chùa Linh Mụ tạ ơn. Ni hỏi có phải anh tạ ơn thi đậu?Hoàng cười “Không, hôm nớ anh cầu cho Ni thương anh”. Ni lo lắng “Người ta nói thương nhau mà lên chùa Linh Mụ là xui lắm”.Hoàng cả quyết “Có sông Hương làm chứng cho anh”.
Hoàng lên đệ nhất,Ni đệ tam. Hai đứa quyết tâm học thật giỏi. Hoàng sẽ là kỹ sư,Ni sẽ là cô giáo. Ước mơ trong tầm tay…
Vậy mà đùng một cái. Biến cố 75. Cái xóm nhỏ của hai đứa thay đổi như bom B52 nổ. Ba của Luyến không chết mà ông ta tập kết ra Bắc bây chừ trở về trên chiếc xe Com măng ca màu xanh bộ đội, nghe nói làm chức gì to lắm. Căn nhà ba tầng của Thiếu tá Huyền Trung đoàn 54 bị trưng thu thành Cửa hàng Thương nghiệp. Cô Luyến đứng vênh váo sau quầy trong chiếc áo mậu dịch viên ,quyền hành to như giám đốc.
Bất ngờ hơn, ba Ni bị Công an khu vực đưa giấy gọi đi cải tạo vì có hai năm là Trung úy biệt phái. Mặc dù ba cố giải thích đây là chức vụ dự bị của ngành giáo dục, thực sự ba chưa cầm súng ngày nào. Nhưng ông Công an lạnh lùng nói “Nguyên tắc thiếu úy là đã phải đi học tập. Huống gì ông lại là Trung úy. Trung úy biệt phái có nghĩa là ông được phái qua giáo dục làm nhiêm vụ gì đó rất đặc biệt”. Mạ nước mắt lưng tròng chuẩn bị áo quần cho ba lên trại Bình Điền. Chị em Ni khóc rấm rứt. Xóm nhỏ ngậm ngùi thương cho ông giáo hiền lành chuyên làm việc phúc đức.
Hoàng chở Ni đi thăm ba. Con đường ngót 20 cây số về phía Tây thành phố. Qua lăng Minh Mạng,qua buôn Tà Rầu lại thêm một con dốc cao vút mà người thăm nuôi phải lè lưỡi kêu “Mạ ơi!”. Lâu dần thành cái tên “Dốc Mạ ơi!”. Lên đỉnh dốc,hai đứa ngồi nghỉ ở một bụi tre.Thấy Ni buồn Hoàng nói “Bữa ni nhà có việc chi nặng cứ kêu anh”. Ba cũng dặn dò “Nhà còn có ba mẹ con. Đêm hôm có chuyện chi cứ nhờ anh Hoàng”.
*
Đời sống ngày càng khó khăn. Đói xanh mặt. Đói vàng mắt. Khẩu phần mỗi người một tháng chỉ được mua 3kg gạo,còn toàn là bo bo,sắn lát. Ni đi mua gạo theo phân phối. Luyến cầm sổ gạo vất cái chạch, miệng mỉa mai “Hoàng thị Ni Ni. Cái tên nghe sặc mùi đế quốc”. Gạo vàng khè,ẩm mốc. Mạ phải ngồi sàng từng con mọt. Sang nhà Hoàng, mạ Hoàng khoe “Bác mua được gạo trắng tinh. Con Luyến ngó rứa mà tốt”.
Một đêm mạ buồn buồn bảo Ni “Ba đi học tập không biết khi nào về. Mạ ốm yếu không làm chi được. Thôi con nghỉ học,tìm cái ngành nghề chi giúp mạ, giúp em qua ngày”.
Ni ứa nước mắt. Thôi rồi ước mơ. Đành vậy thôi. Ni bỏ trường,bỏ lớp,xếp mấy cái áo dài trắng vào tủ đi học thêu ren ở Hợp tác xã Vĩnh Ninh. Giá một bức tranh thêu được hai đồng bạc Bắc. Hoàng an ủi “Thôi để anh học gấp đôi, bù cho Ni”.
Lần thăm nuôi thứ hai, Hoàng đưa cho Ni một gói đường cát. Ni hỏi ở đâu ra. Hoàng nói cửa hàng nhờ làm sổ sách,cô Luyến tạ ơn. Ni mừng húm. Gói đường giúp ba có thêm calory sau những buổi lao động mệt nhọc. Lần này Ni đi một mình. Mấy tháng nay Hoàng cũng phải kiếm việc làm thêm. Mạ Hoàng cũng phải giải nghệ gánh bún bò. Thời buổi không ai có tiền để ăn thứ hàng xa xỉ này. Lên con dốc “Mạ ơi!”, Ni ngồi nghỉ đúng chỗ hai đứa ngồi hôm trước. Ba gầy và xanh hơn. Ba an ủi Ni “Chắc Ba học tập cũng nhanh thôi. Ba đâu có làm gì hại dân hại nước”.
*
Bé Na kêu “Ui chị Ni,em thấy anh Hoàng chở bà Luyến”. Ni gạt phắt “Đừng nói tào lao.Công việc đó em”.Thâm tâm Ni cũng nghĩ bé Na nói bậy. Ni tự tin nhớ lời Hoàng “Con gái con lứa ăn nói cục mịch,cười ha hả. Vô duyên”.
Dạo này Ni thêu đẹp,chăm chút từng đường kim mũi chỉ cố tăng thêm thu nhập. Chị tổ trưởng khen “Bé Ni có năng khiếu”. Ni cười buồn “Gặp thời thế thế thời phải thế!”. Ni nhớ tuổi thơ năm nào vụng về may cái áo rách cho Hoàng. Mai sau mình sẽ vá áo cho anh ấy thật đẹp.
Ni lên Cửa hàng Thương nghiệp Thành phố xin duyệt cái giấy giới thiệu mua chỉ màu cho tổ hợp thêu. Lâu rồi Ni không đi đâu,chỉ biết cắm mặt vào cái khung thêu. Con đường Lê Lợi thênh thang với hàng cây long não xanh ngắt trên đầu. Ni nghe lòng chùng lại khi đi qua trường cũ. Ngay cả ngôi trường cũng đã thay tên. Ni tò mò đưa mắt nhìn vào. Môt đám học sinh vừa nam vừa nữ đang quét dọn trong sân. Ngôi trường cũng không còn độc quyền giành cho đàn bướm trắng của Huế. Ni nhớ cái phòng học tôi tối của lớp Tam C ; nhớ giờ Anh văn của thầy Hạnh; nhớ cây thước của cô giám thị Hạnh Phước; nhớ giờ ra chơi chạy xuống mua yaourt với mục đích chỉ để ngắm khuôn mặt duyên dáng của chị Minh Đức rồi bàn tán chị nào đẹp nhất trường mình. Chị Tiểu Kiều hay Mộng Vân,Tường Vy…Tất cả bây chừ như một thế giới mơ hồ xa lắc.
Chực chờ cả hai tiếng đồng hồ, bà chủ nhiệm mới duyệt cho Ni với một chữ ký loằng ngoằng không rõ nét. Ni thở phào nhẹ nhõm bước ra. Chiều đã về trên thành phố. Những đám mây trắng lang thang trên bầu trời. Ni yêu Huế,một xứ Huế cơ cực nhưng duyên dáng, những con người hiền lành với những mối tình dài lâu như ba mạ, như Ni với Hoàng. Ni nhắc mình nhớ nhờ Hoàng qua sửa cái công tắc điện nhà bếp tối nay.
Ni ngồi ở chỗ sửa xe của bác Tám chờ Hoàng. Mạ Hoàng nói anh đang quyết toán sổ sách cuối quý cho cửa hàng. Ni ngại khi phải chạm mặt Luyến. Bao giờ mặt cô ta cũng đăm đăm khi thấy Ni. Bác Tám hỏi thăm tình hình của ba Ni rồi thở dài.
Chờ lâu lắm rồi Hoàng cũng bước ra,sau lưng là Luyến. Luyến nhảy lên sau yên chiếc xe đạp rồi vòng tay ôm lấy lưng Hoàng. Trên giỏ xe đầy ắp thuốc lá,đường,sữa…Hoàng cong lưng nhấn cái bàn đạp. Anh ngó lơ khi nhìn thấy Ni. Nụ cười của Luyến vang vọng khanh khách. Ni cúi mặt nghe lòng chênh chao. Bác Tám lầm bầm “Đồ ngựa Thượng Tứ”.
Ni đi thăm ba. Dĩ nhiên là không còn Hoàng. Cái giỏ xách nhẹ mà lòng Ni nặng trĩu. Đẩy chiếc xe đạp lên dốc “Mạ ơi” tưởng không muốn nổi nhưng Ni không dừng lại nghỉ, không ngó đến nơi hai người đã từng ngồi. Câu nói hôm nào đau thắt trong ngực Ni “Có sông Hương làm chứng cho anh”.
Ba hỏi thăm tình hình mấy mạ con ở nhà và rồi “Thằng Hoàng mô? Răng con đi một mình?”Ni giả đò như không nghe ba hỏi. Ba bóp nhẹ tay Ni không nói gì. Bàn tay quen cầm phấn của ba nay đã chai sần.
Lượt về, đứng trên dốc nhìn xuống. Nếu không có ba mạ, bé Na chắc Ni sẽ cho xe lao xuống và buông hai tay…
*
Ni cúi mặt trên khung thêu. Cái tin Hoàng cưới cô Luyến rồi đi học Đại Học Thương nghiệp tận ngoài Hà Nội mấy hôm nay xôn xao xóm nhỏ. Nhà Hoàng được quét vôi sạch sẽ. Ông bố Luyến còn cho người tới tô xi măng cái sân. Mạ Hoàng nói với người trong xóm “Tui tội con Ni nhưng lấy con Luyến thằng Hoàng mới có tương lai”. Chú Tám sửa xe nói lối “Xin đừng tham đó bỏ đăng. Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn”. Mỗi lần bắt buộc phải đi ngang nhà, Ni che nón cúi mặt bước nhanh như chạy trốn.
Chị Tổ trưởng xếp lại mấy cái khăn thêu nói bâng quơ “Ở xứ ni con gái bao giờ cũng thiệt thòi vì cái tình nặng quá. Con trai rủ một cái nhẹ tênh”. Cây kim đâm vào ngón tay Ni. Một giọt máu rơi xuống bức tranh thêu. Mắt Ni long lanh. Chỉ tại chiều hôm nay trời nhiều gió…
*
Ni mở cái hộp gỗ cẩn xà cừ mạ cho hôm sinh nhật 16 tuổi. Mùi hương trầm thoang thoảng bay lên. Tất cả gồm ba mươi hai tờ giấy perlure màu xanh,màu hồng được buộc lại bằng một sợi ruy băng đỏ. Niềm tin của Ni đó. Tình yêu của Ni đó.
Ni châm ngọn nến trắng. Tay run run cầm những tờ thư. Này là hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ trong bài Tương Tư: ”Trăng soi tước mặt ngờ chân bước.Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào”. Này là thơ Xuân Diệu “Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất.Anh trao em cùng với một phong thư”. Này là đóa tường vi được ép khô hôm hai đứa đi vô Đại Nội. Này là cây viết Pilot màu tím có khắc hai chữ Hoàng Ni…
Một tấm ảnh rơi ra. Ảnh của Hoàng hôm thi đậu Tú tài Bán được thầy Hiệu trưởng Quốc Học Nguyễn Khắc Tuân trao phần thưởng. Nụ cười Hoàng trong sáng rạng rỡ. Ni thẩn thờ đưa bức ảnh vào lửa. Gương mặt Hoàng méo mó,nhăn nhúm,cong queo.
Ni mở to mắt nhìn trừng trừng đống tro tàn. Đầu xóm tiếng pháo đón dâu nổ ran…

HƯƠNG THỦY

Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế niên khóa 72-76.Từng cộng tác với Tuổi Hoa,Tuổi Ngọc,Ngàn Thông…Dạy học ở Bảo Lộc,Đalạt,Lâm Đồng,Nghỉ hưu ngưng vẫn tiếp tục ‘ chiến đấu “ở các Trung Tâm