THOÁNG TÌNH

 

Năm 1977, nhà nước đẩy 5 thằng sinh viên vừa tốt nghiệp 2 năm chính trị lên Buôn mê thuột làm việc tại các ngân hàng thị xã và huyện. Sở dĩ gọi là “đẩy” vì chẳng ai muốn lên cao nguyên bắt đầu sự nghiệp mới trong xã hội mới cả. Lý lịch của tôi không được “trong sạch” vì có cha là công chức thuộc chính quyền cũ, lại “bôi bẩn” lý lịch thêm vì đạo công giáo và dân di cư 1954 nên bị đày lên vùng cao nguyên là điều dễ hiểu. Suốt 2 năm làm việc tại ngân hàng huyện Buôn Hồ (Krông Buk), tôi nghiệm ra nhiều sự thật về xã hội cộng sản, rồi băn khoăn mãi về vận mệnh của đất nước, của chính mình, rồi thở dài ươm mơ và tìm mọi cách đạt cho bằng được ước mơ đó để sống cho đúng nghĩa con người.

Khoảng thời gian này, cả nước đói. Sau vài lần đổi tiền, sau những chuyến bay, loại vận tải cơ khổng lồ C130, bụng dồn cứng hàng xa xỉ phẩm, sau những chuyến xe đò chất đầy hàng hóa cao nghễu nghện trên nóc, và sau những lần chuyển hàng bằng bất cứ phương tiện di chuyển nào… tất cả đều trực chỉ miền Bắc vốn đói khổ đã lâu năm, dân chúng miền Nam thật sự đói meo. Cơn đói tàn khốc hiện diện trong bữa cơm của mọi gia đình. Đói vì hầu hết lương thực bị vơ vét để trả nợ, sau nữa là tích trữ lúa gạo để chuẩn bị đánh Kămpuchia. Buôn Hồ, một huyện khá hẻo lánh, lại trông càng nghèo nàn và khốn khổ hơn bất cứ địa danh nào trên vùng cao nguyên. Buôn Hồ buồn hiu hắt. Đúng ra phải gọi là Buôn Huyền… Buồn. Phố huyện dài chừng 100 mét, lác đác dăm cửa hàng nhà nước, lưa thưa người mua, vì tiền phải để dành cho bao tử. Riêng chợ huyện luôn luôn sầm uất, nhiều kẻ bán hơn người mua. Vơ vét hết của nhà đem bán để lấy miếng ăn. Tôi ăn 2 cái Tết ở huyện, vì lẽ tự nhiên là tiền lương để dành không đủ để về quê ăn Tết. Bình thường Buôn Hồ đã buồn, Tết nhất lại càng buồn tẻ hơn.

Tôi làm việc, cố “nín thở qua sông”, và âm thầm thực hiện kế hoạch bỏ nhiệm sở về lại đồng bằng để tìm cách vượt thoát bằng đường biển. Suốt 2 năm đó, tôi chẳng thiết tha gì, bóng tối bao phủ con đường trước mặt, tôi mò mẫm bước, dọ dẫm từng bước chân. Bây giờ nghĩ đến 2 năm ở Buôn Hồ, tôi chẳng có gì luyến tiếc về đoạn đường đầu tiên khi vừa trưởng thành, nhưng phải cám ơn quãng đường ngắn ngủi đó vì tôi đã học được quá nhiều bài học về cuộc sống, về thân phận con người, và hiểu được sự cuồng vọng của một chủ nghĩa (mãi sau này sống ở nước ngoài tôi hiểu chính chủ nghĩa cuồng vọng này đã đưa dân tộc tôi đến bờ tuyệt vọng). Đôi lúc tôi muốn quên đoạn đường 2 năm này. Quên hẳn. Dĩ vãng chẳng còn gì ngoài tình thân với vài người bạn đồng cảnh ngộ, và con đường choèn choẹt lớp bùn đỏ lấm bê bết dưới chân như cuộc đời lầy lụa của tôi. Nếu nhớ, tôi xin nhớ đến một chút tình cảm còn sót lại với cô bé miền sơn cước, và hình ảnh cô bé độ trăng tròn năm đó vẫn mãi lẩn quẩn trong trí nhớ của tôi vốn đã hao mòn nhiều theo tuổi đời chồng chất.

Tôi nhớ mãi H’Lem. Người sơn nữ Rađê.

Cô gái lớn lên giữa núi rừng miền cao, hấp thụ nền văn hóa kinh, và có vẻ quyến luyến nếp sống tỉnh thành. Tuy vậy, H’Lem không hề quên cội nguồn, nàng vẫn mặc váy, áo cánh cũn cỡn như mọi cô gái thượng khác, vẫn nói sõi tiếng Rađê, và bập bẹ tiếng Việt. Bộ váy tuyền thống của người dân tộc lúc nào cũng khoác trên tấm thân mảnh mai, ẻo lả như liễu duyên dáng bên bờ hồ. Đừng nghĩ người nàng nhỏ nhắn mà không biết việc nặng nhọc đồng áng. Có lần tôi gặp H’Lem trên đường làng, gùi nặng trĩu những khúc củi trên lưng, xếp cao vượt quá đầu nàng. Tôi bước ngược đường, nàng cắm cúi bước không để ý một ai chung quanh, người hơi chồm về phía trước để giữ thăng bằng, bước chân vững chãi bám chặt mặt đường. Đến gần, tôi gọi nhỏ tên nàng. Chân vẫn bước, H’Lem ngẩng đầu nhìn thấy tôi, và nở nụ cười để lộ hàm răng xếp đều như hạt bắp non. Đường xa từ cánh đồng bên kia đồi bước về, gùi nặng trên đôi vai gầy như cánh chim, tôi nghe hơi thở mệt nhọc của nàng. Tôi nhìn sững khuôn mặt H’Lem, đôi mắt đen lay láy thơ dại của người thiếu nữ vừa qua tuổi mười sáu. Ráng chiều phủ lớp ánh sáng thoi thóp cuối ngày lên khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi trông rực rỡ như được thoa một lớp phấn hồng. Những giọt mồ hôi trên khuôn mặt nàng lung linh như hồng ngọc, trong đó tôi thấy cả một bầu trời cao nguyên lãng đãng sương mù, chập chờn vây bủa núi rừng linh thiêng huyền bí và đầy ướt át lãng mạn. Chân đi chậm lại khi thấy tôi, H’Lem gật đầu cười nhẹ, rồi cúi mặt lầm lũi bước. Chúng tôi không dám đứng lại giữa đường trò chuyện, vì phong tục Rađê không cho phép một người con gái đứng giữa đường nói chuyện với người khác phái. Ngày hôm sau, tôi hỏi nàng tại sao phải gùi nhiều củi nặng nề thế, nàng bảo con gái khi đi rẫy thì gùi không nhưng lúc về để gùi trống thì cha mẹ mắng, họ hàng chê không tiếc lời. H’Lem bảo đó là con gái xấu. Tôi hiểu ý nàng muốn nói là con gái hư. Nếu hư thì khó cưới được chồng, nàng bảo thế. Số vốn tiếng Việt của nàng ít ỏi, đủ để nói chuyện bâng quơ, còn tôi hiểu lõm bõm tiếng Rađê, nói bập bẹ tiếng dân tộc nên thật khó khăn cho tôi khi nàng muốn diễn tả một vấn đề phức tạp nào đó liên quan đến phong tục tập quán.

Cần nói thêm địa bàn hoạt động của tôi khi được bổ về huyện Buôn Hồ. Tay thủ trưởng gốc Nghệ an, lùn loắt choắt, mắt sâu, mũi quặp, lưỡng quyền cao, giọng ồ ồ vì nghiện thuốc lào kinh niên họp tất cả 5 sinh viên chúng tôi lại và ra lệnh về các làng mạc xa xôi để đòi nợ. Những nợ cũ của dân chúng mượn từ Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp của chế độ cũ đều phải trả cho nhà nước. Tiền dân gửi vào ngân hàng thì tên thủ trưởng bảo, “thằng Thiệu đem đi hết rồi.” Hắn dằn mạnh chữ “thằng” trong câu nói. Đó là cái sốc đầu tiên của tôi khi vừa nhận nhiệm sở. Riêng tôi được điều về làng mạc của người dân tộc, ở đó có ông chủ tịch xã nói tiếng Kinh khá sõi. Xã (tôi quên mất tên) nằm sâu cách quốc lộ 14 chừng vài cây số. Phương tiện di chuyển duy nhất là đôi chân, may mắn mới có xe bò đi nhờ. Nằm dọc theo quốc lộ là 3 xã toàn dân công giáo; Hà Lan A, B, và C. Thuở mới di cư vào Nam, dân Nghệ Tĩnh Bình được tổng thống Diệm cấp phát ruộng đất kéo nhau lên đây canh tác. Thời đấy gọi là dinh điền. Dân số ban đầu tụ tập tại Hà Lan A, sau đông dần nên lập thêm Hà Lan B, và cuối cùng là Hà Lan C.

Công việc của tôi rất đơn giản, mỗi ngày đi đến từng gia đình còn vướng nợ với ngân hàng cũ đòi cho bằng được. Không trả ít thì trả dần. Không có tiền thì bán gia súc để trả nợ. Chỉ thị rõ ràng từ tay thủ trưởng ngân hàng. Chuyện đòi nợ đối với tôi chẳng đặng đừng vì thấy gia đình nào cũng nghèo. Gia tài họ có vài sào ruộng, trồng lúa và ngũ cốc. Dưới nhà sàn thả rông dăm con gà chạy lăng xăng kiếm mồi; nếu nhà khá giả thì có thêm vài con heo mọi chạy sục sọi kiếm cùi bắp hoặc bất cứ cái gì có thể nuốt để nhét cho đầy bụng. Họ chăm lo canh tác trên mảnh đất riêng, dứt khoát không vào hợp tác xã. Thời chiến tranh, họ vỡ đất, cày bừa loanh quanh xã chừng độ 4-5 cây số. Đi xa hơn rất nguy hiểm vì sẽ gặp quân FULRO (Front Unifié pour la Libération des Races Opprimées, Mặt Trận Thống nhất Giải phóng các Dân tộc bị Áp bức), một lực lượng đòi tự trị vùng Tây nguyên do thực dân Pháp để lại, và nhất là gặp bọn việt cộng chính quy miền Bắc. Khi hết chiến tranh, đất rừng bạt ngàn nên dân làng cứ tha hồ vỡ đất mới để canh tác, cương quyết không chịu làm ăn chung theo chính sách của nhà nước. Nói mãi không nghe, nhà nước răn đe bằng cách tịch thu đất cũ của họ. Lấy đất cũ thì họ lại đi xa hơn, vỡ đất mới. Cứ thế họ cuốc bộ hơn chục cây số đường rừng để canh tác. Mùa gặt tới, họ đem lúa cất trữ trong nhà, ngũ cốc đem bán ở chợ Hà Lan đổi lấy cá mắm. Phần đông dân làng làm vừa đủ ăn, thì lấy đâu dư tiền để trả nợ mà họ vay mượn trước đây.

Biết thế, nhưng tôi phải thu cho được vài trăm tiền nợ để mỗi tháng đem về nộp cho ngân hàng. Đó là chỉ tiêu của tay thủ trưởng đặt ra cho mỗi đầu người. Thường tôi cầm danh sách nợ đến gặp ông chủ tịch xã, và đi với ông đến nhà nào trông có vẻ dư dả và nhờ ông giải thích với họ. Tôi chìa danh sách nợ, cho họ xem số tiền nợ cả nghìn, xin họ trả nợ chừng vài ba chục, và thường họ đồng ý ngay. Mỗi tháng tôi đi chừng chục nhà, thế là đủ số tiền nộp. Bản tính người dân tộc không thích dây dưa với chính quyền, kể cả trước và sau 75, nếu không nói là sợ. Họ chỉ muốn yên thân làm bạn với nương rẫy, sống cuộc đời giản dị, ngày canh tác, tối rượu cần theo ngày tháng trôi. Họ nhìn nhân viên nhà nước với ánh mắt e dè, ngại ngùng tiếp xúc. Thấy nét mặt nhăn nhúm của họ khi ông chủ tịch giải thích số tiền nợ là tôi hiểu ngay. Họ không thích tôi, họ tránh thấy tôi, chỉ vì tôi mang tai họa đến cho cả gia đình. Thật khổ cho nghề đòi nợ thất đức của tôi. Bởi thế, theo ông chủ tịch xã đi đòi nợ là một cực hình mà tôi cắn răng phải làm đôi lần trong tuần.

Và tôi gặp H’Lem lần đầu khi theo ông chủ tịch xã đến nhà một người dân tộc khá giả trong làng.

Ông chủ nhà người tầm thước, độ 50. Ông ăn mặc theo lối người Kinh, áo sơ mi quần tây trông lịch sự. Theo giấy nợ tôi cầm trên tay, ông nợ ngân hàng cũ khoảng hơn 300 đồng. Tôi tính rợ nếu mỗi tháng ông trả nợ chừng 30, thì gần năm tôi sẽ thu hết số nợ này. Gia đình ông trông dư dả, căn cứ vào bầy heo mọi hơn chục con chạy rông kiếm ăn dưới nhà sàn; chưa kể đàn gà kêu quang quác đang rượt đuổi nhau giành mồi, góc vườn quây một hàng rào tre thấp thoáng mấy con dê đang lặng lẽ nhai cỏ. Nhà sàn cao hơn mặt đất chừng hơn mét, chủ nhà phải bước xuống mấy bậc thang gỗ để gặp ông chủ tịch đang gọi tên ông ơi ới. Tiếng dân tộc tôi đang học, nghe lõm bõm và bập bẹ nói được vài câu ngắn nên không hiểu hai ông nói với nhau những gì. Chắc chắn ông chủ tịch đang giải thích lý do tôi có mặt buổi sáng sớm hôm nay. Chủ nhà gật gù, rồi đưa hai tay phần trần. Trong cả trăm tiếng dân tộc nghe lạ tai, tôi chợt bắt được một chữ tiếng Pháp quen thuộc (d’accord) mà ông chủ nhà cứ gật gù chêm vào sau mỗi câu nói của ông chủ tịch. Ban đầu tôi nghĩ là tiếng Rađê, nhưng cách phát âm khá chuẩn của ông chủ nhà khiến tôi buột miệng hỏi:

– Parlez-vous francais?

Ông chủ nhà quay ngoắt sang tôi, ánh mắt tỏ vẻ ngạc nhiên:

– Oui… oui… et vous?

Tôi cười gượng:

– Un peu.

Tôi nói thật. Số vốn Pháp văn từ trường La San suốt mấy năm trung học đã bị rỉ sét từ lâu. Học mấy năm đại học chỉ toàn tiếng Anh, vì là ngôn ngữ thời đại. Buổi sáng hôm đó không hiểu số vốn tiếng Pháp của tôi chợt bừng sống dậy. Có lẽ nghe vài chữ Tây của ông chủ nhà đã kích hoạt một góc trí nhớ ngoại ngữ trong đầu. Tôi hứng khởi lạ lùng. Ở một nơi lạ lẫm không một ai quen biết, giữa một bản làng lụp xụp nghèo nàn, nếp sống dân làng còn đượm nét hoang sơ, được đối thoại với người đàn ông xa lạ bằng vài chữ tiếng Pháp tôi bỗng thấy thấp thoáng ánh sáng văn minh thành thị. Chắc chắn tôi sẽ moi bằng hết vốn liếng tiếng Pháp của tôi để nói chuyện với ông chủ nhà, cũng là một cách gây thiện cảm hay nhất. Không gì bằng đối thoại và hiểu được người đối diện. Hàng rào ngôn ngữ là bức tường ngăn cách với mọi người, khiến tôi khó hoàn thành được nhiệm vụ. Đầu óc tôi rộn ràng với nhiều ý nghĩ…

Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng sột soạt bên hông và tôi ngoảnh mặt lại.

Một cô gái trẻ măng đẩy cửa liếp từ căn nhà nhỏ bước ra ngoài, trên vai khoác một túi xách nhỏ. Cô ngẩng mặt lên nói một câu ngắn với chủ nhà mà tôi đoán là cha cô. Ông gật đầu và cô quay đi, bước ra đường và tiến về phía trụ sở xã. Điểm đặc biệt đầu tiên tôi nhận ra là da cô trắng nõn như cánh sen. Suốt hơn năm ở bản, tôi chỉ thấy đàn ông đóng khố trần che đủ cái cần che, da ngăm đen nổi mốc meo do phơi nắng cả ngày và biếng tắm rửa; con nít đen đủi, bụng ỏng đít teo, trần truồng dang nắng và chạy lông bông khắp xóm; phụ nữ quấn hờ cái váy, vải yếm sơ sài không đủ che ngực để lộ làn da nâu sần sùi đóng vảy. Lần đầu tiên tôi thấy một cô gái Thượng nước da trắng đến lạ lùng. Một màu trắng tinh khôi, gợi cảm cuốn hút sự chú ý của mọi người. Trên người cô là bộ quần áo truyền thống dân tộc màu đen, điểm những sợi chỉ đủ màu chạy viền quanh. Thoáng một cái, cô quay người đi nên tôi chưa nhìn rõ mặt. Còn tôi mê mải nhìn theo dáng đi uốn lượn của cô đến nỗi không nghe tiếng ông chủ tịch gọi rộn bên tai.

Tôi ngượng ngùng quay lại. Chủ nhà nói với tôi là ngày chủ nhật đến gặp ông để lấy tiền nợ. Tôi hiểu được chữ “chủ nhật”, còn nguyên câu thì tôi chỉ đoán. Tôi gật đầu cám ơn ông, cả ông chủ tịch và ra về. Cả mấy ngày, tôi cứ ngóng ngày chủ nhật đến, không phải vì số tiền nợ ông chủ nhà hứa, nhưng chỉ muốn gặp lại cô bé hôm nọ.

Hôm chủ nhật, tôi đến khá sớm. Đang gọi tên ông chủ nhà thì cửa liếp lại mở, và cô bé hôm nọ bước ra. Thấy tôi, cô nhoẻn miệng cười:

– Anh muốn gặp ama?

Đúng như tôi đoán, chủ nhà hôm đó là ba cô. Tôi gật đầu:

– Ba cô có nhà chứ?

Cô vẫy tay:

– Chờ em.

Tiếng Việt cô phát âm khá sõi. Cô vén nhẹ tà váy, thoăn thoắt bước lên nhà sàn, kéo tấm cửa chắn và bước vào trong. Dáng cô nhỏ nhắn, khuôn mặt khá xinh, và đặc biệt làn da trắng. Ở cái xứ bụi đỏ mù trời, phần lớn dân chúng cày sâu cuốc bẫm, dầm mưa dãi nắng nên khó giữ cho được làn da nuột nà. Cô gái lại là người dân tộc mà giữ được làn da trắng nuốt phải kể là một kỳ công. Hay là cô bé lai Tây không chừng, tôi nghĩ thầm.

Tôi kiên nhẫn đứng chờ. Cha mẹ ở nhà sàn, nhưng cô gái lại ở riêng nhà trệt như người Kinh. Căn nhà nhỏ dựng gần bên, mái và vách lợp tranh trông khá vững chắc. Từ bậc thang dẫn lên nhà sàn, qua khoảnh sân lót gạch là đến tấm cửa liếp của căn nhà trệt. Hai lần tôi thấy cô từ trong căn nhà nhỏ bước ra. Mấy hôm trước và hôm nay.

Một lát sau, ông chủ nhà xuất hiện, vẫy tay gọi tôi lên. Tôi leo lên mấy bậc thang gỗ, theo ông vào nhà. Nhìn thoáng, tôi đếm được ba bếp dùng để nấu nướng. Theo phong tục của người Rađê, con cái và dâu rể vẫn có thể ở chung một nhà sàn. Căn cứ vào bếp nấu ăn, mỗi bếp là một gia đình, người ta biết có bao nhiêu gia đình chung sống. Đôi lúc một nhà sàn dài hun hút chứa hơn chục gia đình gồm mấy chục người chen chúc sống. Chỉ vào chiếc ghế thấp chân cạnh bếp, ông ra hiệu tôi ngồi. Ông đi về phía góc nhà, mở nắp rương, lấy ra vài chục bạc trao cho tôi. Tôi nhận tiền, viết biên lai đưa cho ông. Ngồi trên chiếc ghế đối diện, ông niềm nở hỏi chuyện tôi. Tôi dùng hết số vốn tiếng Pháp còn nhớ để diễn tả, chữ đực chữ cái. Tôi thật sự không theo kịp ông nhưng cũng đủ diễn tả một phần những điều ông muốn biết về tôi. Nhà tôi ở miền xuôi, lên đây làm việc, tôi nói với ông. Ông nói tiếng Pháp suôn sẻ, giọng khá chuẩn. Tôi ngồi nghe ông nhiều hơn nói, mà nghe cũng chẳng hiểu hết ý. Câu chuyện sôi nổi dần, ông kể chuyện thời ông làm phụ tá cai đồn điền cho Tây, rồi về làng lấy vợ. Ông nói thêm, ông có 3 con, cô con gái lúc nãy là con đầu lòng. Ông bảo thêm, elle s’appelle H’Lem. À ra thế, tôi nhủ thầm, tên cô bé là H’Lem.

Mải nói chuyện, tôi không để ý H’Lem đang ngồi xéo bên hông nhặt sạn, rổ gạo nằm gọn giữa 2 bàn chân. Được một lát, nàng kéo ghế đến gần bếp, nhóm lửa. H’Lem đổ bầu nước vào ấm, ngồi chờ sôi. Chỗ nàng ngồi chênh chếch ngay phía sau ba cô. Khuôn mặt nàng nhìn nghiêng nghiêng, mái tóc bồng bềnh chấm vai, sống mũi thẳng, miệng chúm chím như nụ hoa. Sau làn khói bếp, buổi sáng hôm ấy hình ảnh H’Lem chập chờn mờ ảo như một nàng tiên trong truyện thần thoại.

Cô hóng chuyện, tôi nghĩ thế. Từ lúc biết H’Lem ngồi bên cạnh, tôi cố hỏi chuyện nhiều hơn, gặng hỏi nhiều chi tiết thật ra không cần thiết. Tôi muốn khoe chút vốn liếng tiếng Pháp của tôi. Chẳng biết ba cô có hiểu tôi hỏi gì không nữa, nhưng ông linh hoạt hẳn ra khi thấy tôi lắng tai nghe và hào hứng theo dõi câu chuyện. Ông say sưa nói gần như độc thoại, còn tôi hiểu lơ tơ mơ. Có lúc bắt gặp cô liếc nhìn về phía tôi, khẽ nhếch môi cười, ánh mắt rạng rỡ vui. Rõ ràng cô bé tỏ vẻ cảm phục tôi nhiều.

Giữa câu chuyện, ông vồn vã mời rượu cần. H’Lem khệ nệ mang đến một chóe rượu cao tầm đầu gối đủ cho 2 người đối ẩm. Muốn uống, người ta lấy nước suối đã cất sẵn trong bầu đổ vào bình, chờ cả tiếng cho rượu ngấm. Cần trúc dài hơn sải tay đã được phơi khô, thông ruột nhét đầy trên vách. Cắm cần vào bình, kéo ngược đầu kia xuống, và hút mạnh một hơi rồi trao cho khách. Rượu theo sức hút rót vào miệng. Ngoài vấn đề vệ sinh thường thức, tôi lại không quen uống rượu, nhất là giữa ban ngày. Ông vỗ vai tôi, cười cười nói, “sois un jeune…” Tôi vẫn lịch sự từ chối, hứa với ông một buổi chiều nào đó sẽ thù tạc với ông. Chủ nhà hiếu khách lại mời cơm, tôi cũng xin khất, viện lẽ có việc phải đi chợ Hà Lan mua vài thứ cần dùng.

Ông tiễn tôi ra tận cửa. Bước xuống mấy bậc thang, tôi vẫy tay chào ông. Ông nhắn theo, “à bientôt”. Tôi gật đầu lập lại lời ông. Bẵng đi mấy ngày, tôi không nhớ gì đến chuyện H’Lem vì phải về ngân hàng nộp tiền. Nghỉ ở cơ quan được chừng tuần rồi phải trở lại bản làng. Thật sự tôi vẫn thích đi công tác hơn là ở cơ quan, vì được ăn cơm trắng. Cơm nước ở cơ quan theo đúng tiêu chuẩn, nghĩa là độn khoai sắn, chỉ vỏn vẹn mấy ký gạo cho cả tháng. Khẩu phần gạo vốn ít oi từ sau 75 vì bị nhà nước thu vét để trả nợ nay lại càng vơi đi vì đúng thời điểm tích trữ lúa gạo để đánh Cămpuchia. Bữa ăn, xới được nửa lưng bát cơm trắng là may lắm. Còn lại nhai trệu trạo mớ khoai sùng và hột bobo cứng như sắt đến long cả răng, lở cả lợi. Những ngày ở cơ quan, ăn không đủ no nên tiền lương bọn sinh viên chúng tôi đem nướng hết ở mấy hàng quán. Tiền lương không đủ trả cơm hàng cháo chợ nên sổ nợ lúc nào cũng chi chít những con số. Hễ lãnh lương là đem trả nợ rồi ký sổ tiếp. Về làng, tuy an ninh không bảo đảm (đã có lúc quân Fulrô đánh vào làng), nhưng lại được ăn cơm trắng. Cơm gạo mới của người dân tộc dẻo quánh, chỉ cần chan nước mắm dằm ớt hiểm thì tôi ăn một lúc bốn bát là thường.

Một lần tôi ghé vào trụ sở xã để tìm ông chủ tịch. Đứng ở cửa trụ sở xã nhìn sang trường tiểu học bên hông, tôi bỗng thấy H’Lem. Hóa ra cô gái là giáo viên. Trường xã chỉ có từ mẫu giáo đến lớp 3, do một giáo viên từ miền bắc điều vào làm hiệu trưởng. Tôi lẩn thẩn bước qua trường, tò mò nhìn vào lớp học của H’Lem. Bầy con nít cỡ chừng hai chục đứa đang hát theo cô giáo, một bài dân ca tiếng Rađê. Giọng H’Lem cao vút, hai tay múa nhịp nhàng. Bầy con nít áo quần xốc xếch vây quanh cô giáo ê a hát theo, thân hình lắc lư như đang lên đồng. Nhìn đám con nít đen đủi, tôi chợt nghĩ đến Bạch Tuyết và 7 chú lùn trong truyện cổ tích. Nàng nhoẻn miệng cười khi thấy tôi đứng lấp ló bên ngoài. Tôi vẫy tay chào, H’Lem chào lại. Đứng nhìn một lúc tôi dợm quay đi thì thấy nàng chạy vội ra ngoài. Đến gần, H’Lem bảo:

– Anh muốn đến nhà H’Lem không?

Tôi nghĩ ngay đến số tiền nợ nhưng nếu đến tôi cũng chỉ nói chuyện bâng quơ với ông chủ nhà. Một chút tình cảm nào đó bắt đầu nhen nhúm khiến tôi sẽ không đủ can đảm mở miệng đòi. Ngượng ngùng, tôi nói nhỏ:

– Tháng sau tôi mới đến gặp ba cô.

– Anh đến nhà H’Lem, không phải nhà ama.

Tôi hơi ngạc nhiên, chỉ tay vào người cô:

– Cái nhà bên cạnh phải không?

– Dạ.

Tôi ngơ ngác hỏi tiếp:

– Cô mời tôi đến nhà cô?

Khuôn mặt H’Lem rạng rỡ, giọng vồn vã:

– Dạ. Mời… em mời… mời anh đến nhà.

Lấy lại được bình tĩnh, tôi hứng khởi:

– Chắc chắn tôi đến. Khi nào thì tiện?

– Thứ bảy. Trưa anh đến. Em có bạn nữa.

H’Lem biết tiếng Việt khá nhiều, nhưng ghép lại thành câu cú thì cô bé vẫn chưa thạo. Tuy lờ mờ hiểu được ý của nàng, tôi vẫn ngạc nhiên về sự bạo dạn của H’Lem. Không hiểu có phải tập tục của người Rađê cho phép con gái đi trước con trai một bước. Tôi bỗng thấy yêu tập tục này quá. Hơn tuần, tôi mong gặp lại H’Lem nhưng không dám đường đột. Lời hứa với ông bố sẽ thù tạc một lần với ông nhưng tôi vẫn ngại ngùng. Nợ thì phải chờ tháng sau tôi mới dám mon men đến nhà. Chưa biết làm thế nào để gặp lại cô thì H’Lem đã mạnh dạn ngỏ lời mời đến nhà. Tôi hoan hỉ gật đầu.

Y hẹn, tôi đến. Đứng ngoài cửa liếp, tôi nghe tiếng lao xao trong nhà. Tôi gõ nhẹ lên nẹp tre, gọi nhỏ tên cô. Cửa mở, H’Lem xuất hiện ở ngưỡng cửa, nét mặt rạng rỡ. Cũng khuôn mặt trẻ măng và làn da trắng nuốt như bao lần, H’Lem trông rực rỡ dưới ánh mặt trời gay gắt vào buổi trưa hôm đấy.

Cô đưa tay mời tôi. Vừa bước vào, tôi nhận ra một cô gái đang ngồi trên giường cười cười nhìn tôi. H’Lem bảo bạn em, H’Ngăm. Tôi nhận ra ngay sự tương phản giữa hai cô gái. H’Lem trắng bao nhiêu thì H’Ngăm đen bấy nhiêu. Một màu da đen sạm quen thuộc của các cô gái dân tộc. Thân hình H’Lem nhỏ nhắn, còn H’Ngăm thì to lớn, đẫy đà. Mái tóc đen nhánh của H’Lem phủ chấm vai, còn H’Ngăm thì búi tó như một bà già bắc kỳ chính hiệu.

Căn nhà nhỏ hoảnh bằng bàn tay, vừa đủ kê một chiếc giường, bên trái là chiếc tủ khá cao, bên phải là chiếc bàn chiếm gần nửa chiều dài của chiếc giường. Trên bàn đặt bộ ấm trà và ba bốn tách xếp ngay ngắn, bên cạnh là bình tích đựng nước sôi. Trên vách, một dãy móc áo treo vài bộ quần áo màu đen dân tộc truyền thống. Thấy tôi nhìn quanh một vòng, H’Ngăm nheo mắt:

– Anh thấy nhà con gái dân tộc ra sao?

H’Ngăm phát âm tiếng Việt khá sõi như H’Lem. Tôi thật tình:

– Ngăn nắp không thua gì con gái Kinh.

H’Lem chỉ tay vào chiếc ghế đặt gần bàn, giọng nhỏ nhẹ:

– Anh ngồi đi.

H’Lem ngồi xếp bằng trên giường. Bên cạnh là H’Ngăm, cô gái ngồi thòng chân đong đưa theo câu nói. Còn tôi ngồi đối diện, cách nhau là chiếc bàn dài. H’Lem vỗ vỗ vai bạn:

– H’Ngăm dạy mẫu giáo giống em.

Tôi nhìn cô gật đầu và lẩm bẩm cái tên mới nghe lần đầu:

– Tôi nói tên đúng giọng dân tộc không?

H’Ngăm vỗ tay:

– Đúng giọng rồi. Anh giỏi lắm. H’Lem nói anh giỏi.

– Tôi mà giỏi gì. Hai cô mới giỏi. Hiếm người dân tộc làm cô giáo.

– H’Lem nói ama thích anh vì anh biết tiếng Pháp.

– Tôi quên hết tiếng Tây rồi. Bây giờ tôi chỉ muốn học tiếng dân tộc để nói chuyện với hai cô.

– Tiếng dân tộc không hay đâu.

Tôi đáng trống lảng:

– Thế cả trường có mấy cô dạy mẫu giáo?

Lại cũng H’Ngăm:

– Có hai đứa này thôi.

H’Lem xen vào:

– Anh uống trà?

Tôi gật đầu. H’Ngăm cười:

– Bọn này biết người Kinh thích uống trà.

– Thế người dân tộc thì sao?

– Người dân tộc chỉ uống nước suối, uống rượu cần, không thích uống trà.

H’Lem đứng lên, mở bình tích, đổ nước vào ấm. Cô mở hộc bàn, lấy ra một bịch trà, dán nhãn Bảo Lộc. Bốc một nhúm, nàng bỏ vào ấm. Tất cả thao tác pha trà của H’Lem trông thuần thục. Tôi tò mò:

– Thế hai cô cũng thích uống trà.

H’Ngăm luôn nhanh nhẹn cướp lời. H’Lem có vẻ trầm tĩnh ít nói hơn. Hoặc giả cô bé nể nang, nhường cho bạn làm chủ câu chuyện.

– Bọn này thích uống trà như người Kinh.

Trong câu chuyện, H’Ngăm luôn so sánh những sinh hoạt của hai cô với người Kinh. Cuối câu, tôi thường nghe cô nói, giống người Kinh hoặc như người Kinh. Tôi có cảm giác hai cô rất hãnh diện sự Kinh hóa của mình. Ngay cả đôi xăng đan cô đi dạy cũng có quai hậu, trông lịch sự chứ không đi chân đất hoặc mang dép lẹp kẹp như bao cô gái dân tộc khác. H’Lem nhìn tôi, đôi mắt trong veo:

– Anh ăn kẹo?

Giọng tôi hớn hở:

– Có gì hai cô cứ dọn ra, tôi ăn hết.

H’Ngăm lại cướp lời:

– Bọn này chỉ có kẹo thôi.

Số vốn tiếng Việt của H’Ngăm và H’Lem vừa phải, đủ để ghép thành một câu chuyện nhỏ. Lối đặt câu của hai cô giáo đôi lúc ngây ngô, buồn cười. Thỉnh thoảng, H’Ngăm trộn vào một chữ dân tộc khi không tìm ra chữ Việt để diễn tả. May thì tôi hiểu, không thì phải hỏi lại và nàng giải thích thêm. Đối với tôi, trình độ ngoại ngữ của hai cô như thế là nhất làng, hoặc có thể nhất huyện. Ăn ở dầm dề hơn năm nhưng tôi chưa gặp một cô gái dân tộc nào nói tiếng Việt thạo như H’Ngăm và H’Lem. Cứ thế, chuyện trò lan man về làng xóm, phong tục, thời tiết chừng mươi lăm phút. Bình trà cạn dần, kẹo lạc vơi gần hết. Tôi quay lại chuyện tiếng Việt:

– Hai cô nói tiếng Kinh hay lắm. Tôi cứ tưởng là người Kinh.

H’Ngăm nhanh nhẩu trả lời. Tôi có cảm giác H’Ngăm đóng vai người chị, lúc nào cũng muốn bảo vệ đứa em gái H’Lem.

– Bọn này không hay đâu.

– Hay mà.

H’Lem chỉ ngồi cười cười, thỉnh thoảng góp một vài câu rồi phá lên cười nắc nẻ. Giọng cười H’Lem dòn tan, nghe róc rách bên tai như dòng suối chảy len lỏi qua bản làng.

– Dạy mẫu giáo khó không?

– Dễ lắm. Cả ngày chỉ hát thôi.

– Nhưng làm sao biết dạy?

– Tôi và H’Lem đi học ở tỉnh ba tháng.

– Ba tháng?

– Bọn này học đến lớp 5 ở Hà Lan. Cán bộ đến làng chọn bọn tôi rồi bảo đi học ở tỉnh.

Tôi tò mò:

– Tiền lương làm sao các cô đủ sống?

H’Lem khoát tay:

– Em thích dạy con nít, còn tiền lương không nhiều.

Tôi hiểu ý cô nói yêu nghề đi dạy chứ chẳng trông mong vào tiền lương. H’Ngăm giải thích thêm:

– Buổi sáng dạy, còn buổi trưa bọn này phải đi rẫy. Làm rẫy mới có tiền, đi dạy không có tiền.

Tôi thắc mắc:

– Làm rẫy cho cha mẹ thì làm gì có tiền.

H’Ngăm giải thích:

– Làm cho cha mẹ rồi cha mẹ cho tiền cưới chồng.

Tôi nhớ ra dân tộc Rađê theo mẫu hệ. Con gái đi cưới chồng. Nhà trai thách cưới thì cha mẹ nhà gái phải bán gia súc mới đủ tiền. Có gia đình cưới chồng cho con cái xong bỗng sạt nghiệp. Dãy nhà sàn trống hoác vì bán sạch sành sanh. Người dân tộc chuộng con trai hơn, vì sinh con gái rất tốn kém khi chúng lập gia đình.

– H’Lem mười sáu tuổi nên lấy chồng được rồi.

Vừa nghe đến đó, H’Lem lấy tay đập thùm thụp vào vai H’Ngăm. Mặt nàng đỏ ửng. H’Ngăm phá lên cười, né người sang bên và nói một tràng tiếng dân tộc với H’Lem. H’Lem vùng vằng, mặt xụ xuống. Cô quay mặt đi, nói lại một câu dài. Cô bé không bằng lòng câu nói đùa của bạn. Đúng ra, H’Ngăm nói chẳng sai. Con gái 16 ở buôn làng có thể cưới chồng. Chỉ tội cô lấy H’Lem làm ví dụ. Tôi vội giảng hòa:

– Tôi có người bạn lấy chồng năm 17 tuổi. Người dân tộc lấy sớm hơn một năm. Cũng gần giống con gái Kinh.

Một người bạn học của tôi học dở dang lớp 12 vội bỏ trường lớp đi lấy chồng. Tuổi 17 quá non nớt để gánh vác trách nhiệm của một người vợ, và một người mẹ. Còn con gái dân tộc 16 tuổi đã vững chãi với sương gió, khí hậu khắc nghiệt, và công việc đồng áng. Lớn lên giữa núi rừng, miệt mài trên nương rẫy từ lúc còn đỏ hỏn bú mớm, những cô gái ở lứa tuổi 16 hầu như đã sẵn sàng để gầy dựng một thế hệ tương lai. Mỗi ngày của H’Lem bắt đầu với bầy con nít, trưa nắng trùm kín người chỉ chừa mặt, khoác gùi trên lưng ra nương rẫy, chiều xuống gùi nặng trĩu trở về nhà xong một ngày thật mệt nhọc. Tuổi H’Lem mười sáu. Nàng đã trưởng thành.

Từ khi quen H’Lem, ngày tháng vẫn lặng lẽ trôi với công việc đòi nợ nhạt nhẽo nhưng trong tôi rộn rã một niềm vui. Giữa bản làng nghèo nàn cô quạnh, tôi đã có một người bạn, một người em gái nhỏ. Cuối tuần, tôi ghé nhà chào hỏi ông chủ nhà lấy lệ, rồi kiếm cớ hỏi han H’Lem. Tôi giữ lời hứa uống rượu cần với ông. Ông hào sảng tiếp tôi và mấy người bạn của ông với một chóe rượu cần ngon nhất chôn dưới đất đã hơn năm. H’Lem tiếp nước đổ vào chóe. Cô bé không dám đến ngồi gần, vì toàn bậc cha chú. Chuyện lan man, uống mãi đến khi rượu nhạt thếch. Say khướt. Ông chê tôi. Tôi cười gật đầu chấp nhận kém tửu lượng. Vài lần váng vất cơn say, tôi còn đủ tỉnh táo không dám bước vào nhà riêng của H’Lem, sợ men rượu ép men tình. Và nếu có chuyện đáng tiếc xảy ra, chắc chắn sẽ gây tai tiếng không hay. Cho cả tôi lẫn H’Lem.

Quen biết H’Lem là một hạnh ngộ bất ngờ ngoài sự mong ước của tôi. Cả năm, mảnh đời buồn tẻ của tôi trôi lững lờ với nhiều đăm chiêu về cuộc sống, mơ ước một tương lai khác, suy nghĩ lung về một khung trời mới. Ngày hôm qua với những ước mơ. Ngày hôm nay cũng với ước mơ đó, và tôi biết chắc ngày mai niềm ước mơ của tôi vẫn là mơ ước. Ngày tháng ở buôn làng của tôi trôi chầm chậm một cách nhàm chán, buồn tẻ đến tuyệt vọng. H’Lem đến như một hạnh phúc nhỏ mà tôi nâng niu, trìu mến. Cuộc sống chợt hứng khởi hơn mỗi khi bước ngang trường học thấy H’Lem quấn quýt bên bầy trẻ nhỏ. Tuy vậy, tôi vẫn cố giữ một khoảng cách để giữ tiếng thơm cho nàng, một người con gái đẹp thùy mị. H’Lem hiếm hoi như một nhánh lan khoe sắc gửi thân trên vách đá lởm chởm rêu xanh. Cô bé như một đóa hoa rực rỡ giữa một rừng cây khô cháy, lá úa tàn. Tôi mới ngoài hai mươi. H’Lem tròn trăng, tuổi có thể cưới chồng. Bóng dáng tôi lảng vảng ở nhà riêng của cô bé sẽ không tránh khỏi những con mắt tò mò của các chàng trai dân tộc. Tôi mong sự quen biết của tôi sẽ không ảnh hưởng gì đến chuyện cưới hỏi về sau của H’Lem. Vì H’Lem phải ở lại buôn làng để cưới chồng, và tôi phải về lại đồng bằng, tìm cách vượt thoát cho một tương lai tươi sáng hơn.

Lúc nào nàng tiếp tôi tại nhà riêng đều có mặt H’Ngăm. Chưa bao giờ tôi ngồi riêng với cô bé trong căn nhà nhỏ. Mỗi sáng chủ nhật, tôi đều cuốc bộ ra nhà thờ Hà Lan tham dự thánh lễ (một điều tôi không làm được khi ở cơ quan vì tay thủ trưởng răn đe cấm cản), lòng vòng ở chợ mua vài món lặt vặt rồi quay về làng. Đôi lúc mua được một vài món trang sức thủ công nho nhỏ, tôi đều tạt ngang biếu H’Lem. Nếu thấy chỉ có mỗi cô bé, tôi đưa quà rồi lên nhà sàn gặp ba cô. Ngược lại, nếu thấy có cả H’Ngăm thì tôi ở lại chuyện vãn. Đôi lúc cô bé hiểu sự ngại ngùng của tôi nên thế nào cũng gọi bạn đến chơi. Tôi biết thế vì đôi lần sau khi chuyện trò với chủ nhà và từ giã ra về, xuống nhà sàn ghé mắt nhìn vào nhà cô, đã thấy H’Ngăm ngồi cạnh cô bé đang vẫy vẫy tay mời tôi vào.

Tôi nhớ mãi một lần. Hôm đó, tôi đến thăm H’Lem như bao lần khác, tình cờ gặp cô bé đang giã gạo. Trước mặt H’Lem là cái cối gỗ cao cỡ nửa thước, tầm trên đầu gối. Cô cầm cái chày dài vượt quá đầu, ở giữa đẽo lõm vào cho dễ nắm. Hai tay nắm chặt eo chày, cô đưa lên cao và dập xuống lòng cối. Thao tác đưa chày lên cao rồi giã xuống nhịp nhàng, uyển chuyển như một điệu múa nhà nghề trên sân khấu. H’Lem đứng giữa sân, váy ngắn buộc hờ tuột sâu dưới eo ôm gọn lấy đôi mông tròn mẩy, đôi chân trần mũm mĩm trên nền gạch, áo cánh ngắn cũn cỡn. Chiếc áo cô mặc quá ngắn như không thể nào ngắn hơn được nữa, kiểu áo “đình chiến”, phủ vừa đôi vai để lộ đôi cánh tay thuôn thuôn trắng nuốt, vạt áo thả hờ qua bộ ngực căng đầy rồi đứng khựng lại lưng chừng, phập phồng theo nhịp giã. Khuôn mặt đỏ hồng của H’Lem lấm tấm mồ hôi, mái tóc buộc gọn sau gáy, chùm tóc mai cong vút phất phơ theo ngọn gió nhẹ ban mai.

H’Lem đẹp lạ lùng vào buổi sáng hôm ấy. Một nét đẹp hoang dã của nụ hoa đồng nội, đơn sơ, vụng dại nhưng đầy ma lực sơn cước quyến rũ. Hai tay cô bé cầm chày đưa lên cao, kéo xốc theo vạt áo, để lộ cả một vùng da thịt trắng ngần đập vào mắt tôi. Khoảng giữa phần thịt da lồ lộ, giữa cái eo nhỏ nhắn, cái rốn tròn tròn nằm lả lơi hút chặt ánh mắt đờ đẫn của tôi. Tôi đứng ngây người nhìn cái rốn sâu sâu của cô bé. H’Lem đứng cách tôi chừng vài mét, bụng lẳn thóp vào theo nhịp thở, cái rốn nhún nhẩy theo nhịp giã của cô. Mảng da bụng lõm vào, và lỗ rốn trông như cái hố trũng cơ hồ nuốt hút hết cả khối nước khổng lồ. Tôi chợt nhớ câu nói cảm khái của Phạm Thái trong “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” về mối tình bi thảm với nàng Trương Quỳnh Như tài sắc, “…chí lớn trong thiên hạ không chứa đầy đôi mắt mỹ nhân.” Ngây người ngắm H’Lem giã gạo, tôi cũng cảm hoài mượn câu nói của người xưa, “…chí lớn trong thiên hạ không chứa đầy lỗ rốn mỹ nhân.”

Thấy tôi đứng như trời trồng, H’Lem nhận ra ánh mắt tội lỗi của tôi. Khuôn mặt hồng của cô bé bỗng đỏ rực:

– Đừng nhìn em.

– Đứng đây mà không nhìn H’Lem thì nhìn ai?

Vạt áo của H’Lem vẫn kéo xốc lên một cách trêu chọc. Tôi ngồi bệt xuống sàn gạch, dựa lưng vào vách nhà, ánh mắt không rời khoảng da bụng trắng hồng. Cái rốn sâu chỉ bằng nửa ngón tay út nhưng tôi có cảm giác nó sâu thăm thẳm đủ chôn vùi tương lai của tôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi thoáng nghĩ đến một cuộc sống vĩnh viễn ở vùng rừng núi, quanh quẩn bên nương rẫy và chợt quên đi những ước mơ nhen nhúm từ hơn nửa năm nay.

Quen biết H’Lem đã hơn nửa năm. Mỗi lần gặp cô, chuyện nói hoài không hết, ánh mắt và nụ cười như gia vị đậm đà cho câu chuyện thêm thú vị. Mỗi lần gặp là một nỗi vui riêng biệt. Vậy mà có một lần cô bé giận tôi. Hôm đó, tạt ngang trụ sở xã tôi bỗng thấy H’Ngăm từ trường chạy vội sang. Đến gần, cô nói nhỏ, “thỏ đổi lông”. Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì. Nhăn mặt, lắc đầu, tôi hỏi ngược:

– Cái gì?

Nét mặt H’Ngăm nghiêm nghị hẳn:

– Thỏ đổi lông. H’Lem thấy thỏ đổi lông.

– Thỏ nào? Đổi lông làm sao? Tôi chẳng hiểu gì cả.

N’Ngăm chỉ tay về phía nhà H’Lem:

– Anh đến nhà, H’Lem nói cho biết.

– Sao H’Lem không cho tôi biết ngay bây giờ?

– H’Lem giận anh.

– Giận tôi?

– Đúng, thỏ đổi lông.

Tôi đưa hay tay lên trời:

– Lại nữa, thỏ đổi lông là sao?

– Không nói, để H’Lem nói.

– Khi nào?

– Chiều.

Nói xong, H’Ngăm ngoe nguẩy quay ngược về lớp. Thú thật, tôi chẳng hiểu gì về chuyện “thỏ đổi lông.” Chắc chắn đây phải là một thành ngữ Rađê, và ngụ ý thế nào thì tôi phải gặp H’Lem mới hiểu rõ. Chiều xuống, tôi đến nhà đã thấy hai cô gái ngồi yên vị trên giường. Không ngồi vội, tôi hỏi ngay:

– Thỏ đổi lông là sao?

H’Ngăm đưa hai tay ra phía trước, thân hình nhún nhẩy, lẩm nhẩm hát theo nhịp của một điệu nhạc vô hình nào đó:

– Thỏ đổi lông. Thỏ đổi lông… a… ha… thỏ đổi lông.

H’Lem không thèm nhìn tôi:

– Anh ngồi xuống.

Tôi nhẫn nhịn ngồi, và một lần nữa lập lại câu hỏi:

– Nào, cho tôi biết chuyện gì?

H’Lem quay lại, nhìn thẳng vào mắt tôi, nét mặt buồn buồn:

– Em thấy thỏ đổi lông ngày hôm qua.

H’Ngăm bồi thêm:

– Tôi cũng thấy luôn… thỏ đổi lông.

– Là sao?

H’Lem nhỏ nhẹ:

– Hôm qua đi chợ Hà Lan, em thấy anh đi với một cô Hà-lan.

Rồi cô cúi đầu, giọng buồn bã:

– Anh đổi lông?

Tôi chợt nhớ ra ngày chủ nhật, ở nhà thờ ra, tôi lang thang vào chợ Hà Lan. Sát hông chợ là một cửa hàng thương nghiệp. Tôi tạt ngang mua gói thuốc lá. Cô bán hàng trẻ măng xinh xắn, biết tôi là cán bộ ngân hàng nên liều bán cho tôi một gói (thường phải có giấy giới thiệu mới mua được, vì thuộc loại xa xỉ phẩm). Thấy cô vui tính dễ mến, tôi đứng lại, vừa hút thuốc vừa tán chuyện. Tính tôi vậy, lợi khẩu, khéo léo nói vài câu là chuyện kể ra không hết. Cô lắng tai nghe, ra chiều thích thú. Lan man một lúc, cô phải tạm đóng cửa để đi chợ mua thức ăn. Tôi giở thói nịnh đầm, xin theo cô lang thang vào chợ. Cô đồng ý ngay. Thế là tôi và cô lẩn thẩn đến chợ, gây sự tò mò của kẻ mua người bán. Đến hàng rau hàng cá, cô trả giá, tôi tần ngần đứng bên. Mua xong, bỏ gói cá vào giỏ rồi tạt sang hàng rau. Tôi sánh vai với cô rảo khắp khu chợ xổm. Những năm đó, xã hội còn khép kín, nhất là ở huyện xã khỉ ho cò gáy lại còn nhiều điều cấm kỵ, một cặp trai gái không phải vợ chồng xách giỏ đi chợ là điều rất ngạc nhiên. Tôi phớt lờ vì cá nhân tôi chẳng có tăm tiếng gì phải giữ. Trước sau gì tôi cũng rời bỏ mảnh đất bụi đỏ này. Nhưng không ngờ là H’Ngăm và H’Lem đi chợ, và chắc chắn đã thấy tôi.

Bây giờ tôi hiểu được nghĩa của câu “thỏ đổi lông”. Cô hỏi tôi, anh đổi lông? Được hiểu như thay lòng đổi dạ? Đúng ra, tôi chưa là gì với H’Lem và tôi xem cô bé như một đứa em gái. Chưa bao giờ hứa hẹn, và cũng chưa hề nói một câu tỏ tình. Tình cảm của tôi đối với H’Lem, nếu có, bước xa hơn bình thường một chút nhưng vẫn luôn trong vòng lễ giáo. Thế mà cô bé tỏ vẻ khó chịu khi thấy tôi đi với một người con gái khác. Nói “thỏ đổi lông” trong trường hợp của tôi thì khắt khe quá, nhưng tôi hiểu ra một khi con gái dân tộc có cảm tình với ai, họ muốn một sự trung thành tuyệt đối. Lòng trung trinh của người dân tộc thật tuyệt vời.

Nét mặt cô buồn hẳn. Cô ngồi bó gối, ủ rủ như con chim mắc mưa trong cơn bão. Nhìn thật tội. H’Ngăm im lặng, vẻ mặt đăm chiêu, ngồi nhìn mông vào tấm vách. Căn nhà bỗng chìm vào một sự yên lặng nặng nề. Tôi nghĩ sánh vai với cô gái ở chợ Hà Lan chẳng là gì, chỉ là một cơn bốc đồng. Đấy là quyền tự do của tôi và H’Lem chẳng có quyền gì ngăn cấm. Vì một lẽ tự nhiên cô bé chưa là gì trong tim tôi. Nếu có, chỉ là một thoáng tình.

Nhưng tôi lại không đủ can đảm nói thẳng điều tôi nghĩ với H’Lem. Quan niệm của cô bé khác hẳn quan niệm về tình cảm của tôi. Bao bọc bởi núi rừng bát ngát và nương rẫy bao la, nếp sống chân chất của người dân tộc khiến họ suy nghĩ thật đơn giản. Trắng, đen rõ ràng, không thể có một màu xám xám lưng chừng. Tôi nghĩ phóng khoáng hơn, và sự cởi mở trái ngược với lối suy nghĩ bảo thủ của cô bé. Nói thật chắc chắn sẽ làm cô đau hơn, và tôi thật không nỡ.

Tôi nhỏ nhẹ:

– Cô ta làm ở cửa hàng thương nghiệp. Anh nhờ cô trả giá vài món đồ. Chỉ vậy thôi.

Tôi phải nói khác đi, kể ngắn gọn lại vì càng nhiều lời cô càng không hiểu hết ý, không khéo lại gây thêm hiểu lầm. H’Lem ngước đôi mắt thơ dại nhìn tôi:

– Anh không đổi lông?

Tôi nói xuôi:

– Nhờ người ta mua vài món đồ không có nghĩa là đổi lông.

Nước mắt long lanh, giọng cô trầm hẳn xuống, hình như để chỉ mỗi tôi nghe:

– Em buồn khi thấy thỏ đổi lông.

Rồi cô nắm chặt lấy tay tôi (lần đầu tiên chúng tôi có sự đụng chạm), giọng tha thiết hơn bao giờ:

– Anh đừng đổi lông.

Nếu không có H’Ngăm, tôi đã ôm cô bé vào lòng, vuốt tóc an ủi cô đôi lời. H’Ngăm ngồi đó, đuôi mắt sắc lẻm khẽ liếc nhìn bàn tay của H’Lem, nét mặt nghiêm nghị như một quan tòa sửa soạn đọc bản án “thỏ đổi lông” trừng phạt tôi. Mặc dù trấn an H’Lem nhưng tôi không dám hứa hẹn gì thêm sợ lấn sâu vào chuyện tình cảm. Lời nói của tôi nếu gieo nhiều hy vọng thì sau này sẽ gây hậu quả thật không hay khi tôi rời bỏ mảnh đất bụi đỏ mù trời này. Tôi chỉ muốn H’Lem hiểu lưng chừng, bằng lòng với sự quen biết đơn sơ để tránh khỏi sự tuyệt vọng, nếu có, về sau.

Vậy mà có lần tôi suýt vướng lưới tình và tưởng sẽ vùi thân nơi đất khách. Hôm đó H’Ngăm nhắn tin H’Lem đau và muốn gặp tôi. Lại cũng H’Ngăm, cô gái luôn đóng vai con nhạn đưa tin. H’Ngăm cho biết cô bé đã nghỉ dạy 2 ngày. Cơm chiều xong, lúc trời vừa sẩm tối, tôi khoác chiếc áo măng-tô dày cộm rảo bước đến nhà. Tôi phải đợi trời tối để tránh ánh mắt tò mò của dân làng. Đêm xuống nhanh. Trời mùa đông lạnh se sắt. Tôi đến nhà H’Lem lén lút như một kẻ trộm. Đến nơi, đứng ở cửa, tôi khẽ gọi tên cô bé. Có tiếng thều thào trả lời. Tôi khẽ đẩy cửa liếp bước vào. Ngọn đèn dầu leo lét đặt trên bàn đêm tỏa ánh sáng mờ mờ nhưng đủ để tôi thấy H’Lem đang nằm trên giường, tấm khăn mỏng đắp ngang hông. Kéo cái ghế sát vào thành giường, tôi ngồi xuống, nắm bàn tay cô bé. H’Lem không cưỡng lại, để tôi nắm tự nhiên. Bàn tay cô bé mềm mại thịt da, và tôi cảm thấy một luồng hơi nóng truyền sang tay tôi. Hóa ra cô bé bị sốt. Bóp nhẹ bàn tay của H’Lem, tôi hỏi nhỏ:

– Em uống thuốc gì chưa?

Khuôn mặt cô bé đỏ hồng dưới ảnh hưởng của cơn sốt, H’Lem gật gật đầu, giọng mệt nhọc:

– Amĭ (mẹ) cho em uống thuốc dân tộc.

Người dân tộc hái lá cây trong rừng, tự sắc thuốc chữa bệnh. Cùng đường, tuyệt vọng mới đem ra bệnh xá. Thời đó cả nước chỉ có mỗi loại thuốc phổ thông tên ‘xuyên tâm liên’ trị bá bệnh; từ sốt đến tiêu chảy, từ phù thủng đến đau dạ dày. Nếu thuốc nam không chữa được, ra bệnh xá thì cầm bằng cái chết, vì y tá xem qua loa rồi lại cấp phát cho vài viên “thần dược” xuyên tâm liên. Bước ra khỏi bệnh xá, người nào trên tay cũng cầm một loại thuốc, mặc dù bệnh tình hoàn toàn khác nhau. Đã hai ngày mà cơn sốt không giảm, có lẽ phải đưa H’Lem đi bệnh viện tỉnh. Bệnh xá xã trông ọp ẹp và bẩn thỉu đến rùng mình. Đặt tay lên trán cô bé, tôi ghé sát mặt H’Lem, hơi thở nóng hừng hực phả vào mặt tôi:

– Em đỡ chưa?

Cô gật đầu nói em bớt nhiều. Vầng trán lấm tấm mồ hôi, cánh tay cô luỗi hẳn, không còn sức lực, nặng trĩu trên tay tôi. Mấy ngón tay thon thon ngoan ngoãn để tôi vuốt ve. H’Lem nhìn tôi, giọng trìu mến đầy cảm động:

– Anh đến nhà em…

– H’Ngăm nói, anh mới biết.

Dưới ánh đèn dầu vàng nhợt nhạt, khuôn mặt H’Lem như một hấp lực kéo sát tôi lại gần. Tôi định hôn lên đôi môi khô nứt nẻ của cô bé nhưng không hiểu sao tôi ngưng ngay ý định đó. Tôi ân cần:

– Em uống chút nước nhé?

H’Lem khẽ gật đầu. Tôi nâng đầu cô dậy, lấy chiếc gối dài kê lên cao. Bầu nước để gần bên, tôi đổ ra ly, và múc từng thìa mớm cho cô uống. H’Lem nhếch môi, khó khăn uống từng hớp nước. Được hai ba thìa nước, tôi bỗng thấy nước mắt cô bé chảy dài lên má.

– Sao vậy?

Giọng H’Lem nghe như muỗi kêu:

– Cám ơn… anh.

– Không sao, em nằm nghỉ đi.

Nhẹ nhàng đặt đầu cô bé xuống chiếc gối êm. Bỗng H’Lem hơi rướn người, nắm chặt tay tôi:

– Anh ở lại nhà em.

– Ừ, anh ở lại chứ. Em cứ nằm nghỉ cho khỏe.

Cô nhoẻn miệng cười, nụ cười trong cơn sốt trông méo mó như đôi môi bị lệch sau cơn động kinh:

– Em khỏe nhiều lắm.

H’Lem nằm yên dưới cơn sốt đến rồi đi, mắt nhắm nghiền, hơi thở mệt nhọc. Tôi ôm bàn tay nóng sốt của cô bé, lặng lẽ vuốt mái tóc bê bết mồ hôi, vỗ về cho cô ngủ. H’Lem ngủ hiền lành như một mèo nhỏ, chìm vào giấc ngủ bình yên không mộng mị. Tôi ngồi lâu lắm, cũng chìm đắm vào những suy nghĩ về một tương lai mù mịt. Ngoài kia, bóng đêm phủ kín buôn làng. Cả một không gian tĩnh lặng đổ ập lên mọi sinh vật, chỉ còn tiếng côn trùng rỉ rả nghe như một khúc nhạc đơn điệu, buồn não lòng.

Bỗng H’Lem trở mình, và choàng tỉnh. Tôi nghe tiếng lao xao vọng đến từ xa. Thính giác bén nhạy của một cô gái sơn cước phân biệt được hầu hết mọi tiếng động trong đêm tối. Tôi chợt nhận ra tiếng chân người. Cô bé nhìn tôi, đưa ngón tay lên miệng ra hiệu yên lặng. Đồng hồ tay chỉ gần nửa khuya. Đêm hôm khuya khoắt, chỉ có đám du kích đi tuần quanh bản. Tôi biết tay du kích trưởng là người Kinh, được bổ về làng chỉ huy khoảng 7-8 thanh niên dân tộc, với nhiệm vụ giữ an ninh cho làng xóm.

Nên hiểu tình trạng an ninh vào những năm vừa mất nước. Tất cả mọi sự đi lại đều phải được sự chấp thuận của chính quyền, kể cả thăm viếng ngủ qua đêm. Sau giờ giới nghiêm, ở làng xã thường bắt đầu từ sẩm tối, ai về nhà nấy, không được tụ họp, hoặc ngủ lại mà không có giấy phép. Thời gian đó dân chúng đã sống như trong một nhà tù lớn, ai ở xà lim nấy. Tôi đến công tác ở xã, ông chủ tịch đã chỉ định cho tôi trú ngụ tại một nhà cố định. Dĩ nhiên, ban đêm tôi ngủ lại ở một nhà khác cũng phải có giấy phép. Trai chưa vợ, gái chưa chồng, ban đêm ở chung một nhà có thanh minh mấy cũng chẳng ai tin. Tình ngay lý gian là thế. H’Lem là giáo viên, tôi là cán bộ ngân hàng, nếu bị phát hiện cả hai ở trong một căn nhà quá giờ giới nghiêm thì khó mà biện hộ cho sự ngay thẳng. Nếu đám du kích ập vào bắt quả tang và lập biên bản (có thể bị ghép tội hủ hóa) thì tôi chẳng còn mặt mũi nào làm việc ở xã này thêm một ngày nào nữa. Nhưng điều tai hại nhất là để lại tai tiếng cho H’Lem. Trước mặt chính quyền xã cô phải giải thích sao cho xuôi, và nhất là sự xấu hổ khi cô bé phải đối diện với phong tục tập quán của bản làng. Lệ làng lắm lúc nặng nề gấp nghìn lần hình phạt của luật pháp. Làm sao tôi gỡ tai tiếng cho H’Lem đây.

Tôi vội vặn nhỏ ngọn đèn dầu. Bước chân xôn xao tiến đến gần, tiếng xì xào nói chuyện nghe rõ dần. Nhìn quanh bốn bức vách bằng tranh, tôi chợt run lên. Vách tranh mỏng, người tò mò chỉ cần khều khều lớp rạ là đủ thấy cảnh vật trong nhà. Bọn du kích biết căn nhà này của H’Lem, nếu một đứa đứng lại chòng ghẹo cô bé cũng đủ nguy. Hình như H’Lem cũng nhận ra sư nguy hiểm cận kề, cô bé giật tay tôi:

– Tắt đèn… anh, tắt đèn…

Tôi che tay, thổi phụt ngọn đèn. Căn nhà chìm hẳn trong bóng đêm. Bọn du kích bước đến ngang nhà. Một đứa nghịch ngợm cất tiếng gọi tên cô bé. Bàn tay H’Lem lạnh ngắt, run bần bật, không hiểu vì sợ hay vì cơn sốt. Tim tôi đập thình thịch. Cả hai nín thở, chờ đợi. Gọi mãi không thấy ai lên tiếng, toán du kích phá lên cười hô hố rồi bỏ đi. Tiếng chân xa dần rồi mất hẳn.

Tôi hoàn hồn. Bàn tay của H’Lem vẫn giữ chặt cánh tay tôi. Cô bé vẫn chưa hết sợ. Bóng tối dày đặc như hũ nút. Có tiếng thạch sùng tặc lưỡi đâu đó trên mái nhà. Tôi nghe ngóng thêm một lúc nữa. Tất cả yên ắng trở lại. Cảnh vật chìm dần vào giấc ngủ nửa khuya về sáng. Khi biết chắc chắn sự nguy hiểm đã qua, tôi gỡ nhẹ bàn tay cô bé, nói nhỏ:

– Để anh thắp đèn.

H’Lem giữ chặt tay tôi:

– Đừng anh… đừng… nó trở lại…

H’Lem lo xa, và tôi thấy không hẳn là vô lý. Sự nguy hiểm vẫn rình rập chúng tôi. Nỗi lo sợ bị bắt quả tang còn vương trong tâm trí. Tôi ngồi yên trong bóng đêm lâu lắm, nghe bước thời gian hình như chậm lại, uể oải, mệt nhoài sau cơn căng thẳng của đầu óc. Cả hai im lặng đồng lõa trong bóng đêm quyến rũ. Hình như chúng tôi cố tìm đọc ý nghĩ của nhau. Anh đang nghĩ gì về em, và không biết em đang muốn gì nơi tôi. Chỗ tôi ngồi ngang tầm ngực của H’Lem, nghe rõ hơi thở phập phồng của nàng. Tôi linh cảm một cái gì đó mới mẻ, lớn lao đang sửa soạn xảy ra. Đêm mệt mỏi trôi nhưng ướt át đợi chờ. Thời gian cũng kiên nhẫn đợi. Tôi cũng thế, trong tôi đang chờ một điều gì đó sẽ xảy ra, và chắc chắn sắp xảy ra.

Chung quanh tôi là một màu đen đặc quánh. Thị giác mù lòa, nhưng tôi vẫn cảm nhận được mùi hương da thịt quyện lẫn với hương đêm nồng khứu giác. Người tôi chồm về phía trước, mặt suýt chạm vào bộ ngực căng tròn của H’Lem. Bóng tối xúi dục, đầy cám dỗ. Đầu óc tôi chợt nhen nhúm một ý nghĩ tội lỗi chiếm đoạt. Lúc nãy, tim tôi đập thình thịch vì sự nguy hiểm, bây giờ con tim lại rộn rã trong lồng ngực. Trong bóng đêm, tôi cúi mặt sát vào thân hình nóng sốt của H’Lem. Hơi thở của H’Lem bỗng trở nên gấp gáp, đứt quãng như lực sĩ chạy đua gần đến đích. Bàn tay của nàng bấu chặt cánh tay tôi, siết nhả theo từng hơi thở dồn dập. Năm ngón tay thuôn thuôn bỗng trở nên mạnh mẽ lạ thường, cắm phập vào cánh tay tôi như móng vuốt của loài thú dữ giữ chặt con mồi. Tôi không sao cựa mình thoát ra được. Sức lực của cô gái mười sáu không thua gì sức bẻ gãy sừng trâu. Cánh tay tôi đau buốt. Một cơn đau dịu dàng, phấn kích.

Đột nhiên, tôi nghe tiếng H’Lem rót nhẹ vào tai:

– Anh… anh…

Giọng nàng ướt sũng như ánh trăng vàng dẻo quánh trong đêm rằm. Tim tôi đập nhanh như trống thúc quân. Người tôi rạo rực hơn bao giờ. Đang luống cuống chưa biết phản ứng thế nào thì H’Lem cầm bàn tay tôi đặt nhẹ lên ngực nàng. Tôi thở hắt ra như bị hụt nhịp tim. Hít vào một hơi thật đầy, tôi lụp chụp úp bàn tay lên hai quả đồi vun đầy nhọn hoắt. Bầu ngực săn cứng dưới làn vải mỏng. Không hiểu sao đêm hôm đó, tôi lóng cóng như một cậu con trai mới lớn, lần đầu tiên khai phá vùng đất cấm. Tôi ngơ ngác, vụng về, hoàn toàn ở thế thụ động. Bất chợt, sự ham muốn của thân xác sung mãn ở lứa tuổi thanh niên trỗi dậy như nước lũ từ thượng nguồn đổ ào ạt xuống đồng bằng, cuốn trôi hết mọi đạo lý thường tình. Giọng H’Lem nhừa nhựa trong đêm vắng:

– Nằm… nằm…với em…

Giọng nói nhẹ như tơ của H’Lem đêm hôm đó vừa tha thiết, vừa cứng rắn như lệnh truyền. Tôi nghe một chút nài van, nhưng ngầm chứa ma lực của một nữ thần sơn cước. Đầu óc tôi ngầy ngật, lâng lâng như đang trong cơn say. Bàn tay H’Lem kéo chúi thân hình tôi về phía nàng. Lý trí không đủ sức cưỡng lại sự mê hoặc của một thân hình trắng nõn. Tôi nghe tiếng sột soạt trở mình. Mắt đã quen với bóng tối, tôi lờ mờ thấy H’Lem nằm sát vào một bên giường, đủ chỗ cho tôi nằm nghiêng ngắm nhìn khuôn mặt nàng trong bóng đêm.

Trong một thoáng, đầu óc tôi đủ tỉnh táo để nghĩ đến một tương lai mà tôi đang mơ ước, những dự định của tôi phải thực hiện. Tôi khẽ rùng mình nghĩ đến sự huyền bí của núi rừng tây nguyên, của bùa ngải, thư ếm… những điều ma quái tôi biết được qua báo chí, sách vở mà khoa học không giải thích được. Chuyện kể về một người miền xuôi lỡ lời hứa với một cô gái Thượng bị thư ếm vật lạ trong bụng. Bùa ngải cũng có quyền lực riêng, đủ sai khiến, và hành hạ nạn nhân đến chết. Ma xó, người dân tộc thường nuôi trong nhà để bảo vệ và trả thù, nếu cần. Những quyền lực vô hình nhưng đầy uy lực. Từng ấy ý nghĩ quay cuồng trong đầu với một tốc độ chóng mặt. Tôi choáng váng như vừa trải qua cuộc giải phẫu với liều thuốc mê quá mạnh. Thời gian chỉ mất vài giây đủ cho tôi ôn lại những ý nghĩ và đủ nghị lực cưỡng lại được ma lực của xác thịt.

Tôi ngã chúi theo sức kéo của H’Lem nhưng không nằm xoài bên cạnh nàng. Ôm lấy khuôn mặt H’Lem, tôi nói nhỏ vào tai nàng:

– Chật lắm, không đủ anh và em nằm.

H’Lem thở hắt một hơi dài, vội nhả cánh tay tôi. Loài dã thú đã thu móng vuốt, trả tự do cho con mồi thoát thân. Nàng sửa lại thế nằm, lặng lẽ quay mặt vào vách. Căn nhà lại chìm vào yên lặng. Lòng tôi nguội dần theo cơn gió đông thổi lạnh lùng qua tấm cửa liếp. Không biết H’Lem ngượng hay giận dỗi, tôi vỗ về:

– Em ngủ đi. Anh ngồi đây với em.

Không thèm trả lời, H’Lem kéo vội tấm khăn đắp lên người. Cuối chân giường, tấm chăn bông xếp ngay ngắn. Tôi xũ ra, đắp thêm lên người cô bé. H’Lem để yên, không nói gì. Tôi ngồi xuống, suy nghĩ mông lung. Quá mệt mỏi, tôi ngủ gà ngủ gật trên ghế mãi đến gần sáng. Tôi choàng tỉnh khi nghe tiếng gà gáy. Nhìn ra ngoài, trời còn tờ mờ chưa đủ rõ mặt người. Tôi rón rén đứng dậy. H’Lem vẫn còn ngủ say, hơi thở đều đặn. Tôi lặng lẽ bước ra cửa, về nhà.

Sau này, mỗi khi nhớ lại đêm da thịt đầy cám dỗ đấy, tôi biết nếu tôi không cưỡng lại được ma lực và nằm xuống bên cạnh H’Lem, chắc chắn mơ ước của tôi cũng nằm lại nơi đất khách. Tôi không dám nói tương lai bị chôn vùi nhưng tôi biết tôi phải nhận trách nhiệm của sự buông thả quá trớn, chưa kể ma thuật huyền bí của người dân tộc… tất cả đủ để cầm giữ tôi lại mảnh đất đó, mãi mãi. Một lần vượt được cơn cám dỗ, tôi về lại đồng bằng và cũng vượt được cơn sóng dữ của biển cả trùng khơi, bắt đầu cuộc sống mới nơi xứ người, đạt được ước mơ đã nhen nhúm từ lúc ngộ ra bản chất của một xã hội giáo điều.

Cả mấy tuần sau, H’Lem tránh mặt tôi. Ghé ngang trụ sở xã, nhìn qua trường, giọng cô bé vẫn ngân nga trộn lẫn với tiếng nghêu ngao của bầy con nít. Tôi tránh bước đến cửa lớp. Phân vân không biết có nên đến nhà thủ thỉ với H’Lem đôi lời chăng. Suy đi nghĩ lại, tôi không dám, sợ sẽ lún sâu vào chuyện tình đã thấy trước sự chia ly.

Thật may mắn, chỉ hơn tháng sau, tôi được lệnh đổi đi ngân hàng huyện Thuần Mẫn. Đây là huyện mới sáp nhập, nằm sát biên giới cao nguyên Gia Lai, KonTum. Trước ngày đi, tôi ghé nhà H’Lem báo cho nàng biết. Đôi mắt H’Lem thất thần:

– Anh đi xa?

– Ừ, có giấy chuyển công tác đây.

– Khi nào anh về?

– Không biết nữa. Huyện mới nhiều việc. Anh sợ bận rộn lâu mới về thăm em được.

Cô bé nghe tiếng được tiếng mất, chẳng biết có hiểu ý tôi không. Giọng H’Lem sũng buồn:

– Anh nhớ về… đến nhà em.

Tôi vội hứa cho cô bé yên lòng:

– Khi nào về Hà Lan, anh sẽ ghé thăm H’Lem.

Không ngờ đó là lần cuối tôi nói chuyện với cô bé. Ngày đầu gặp gỡ trong niềm vui. Ngày cuối cùng gặp mặt trong nỗi buồn chia tay. Tôi phải dứt khoát với lòng mình, tránh bịn rịn chỉ thêm khổ về sau, vì chuyện tình chẳng đi đến đâu. Tôi phải bỏ mảnh đất này, phải ra đi, và quyết chí không để một vài thứ tình cảm vụn vặt làm cản trở ước mơ. Tôi nghĩ thầm, giá tôi nhận H’Lem làm em gái thì hay hơn.

Làm việc tại huyện Thuần Mẫn chừng vài tháng thì được tin của cha mẹ tôi. Thư gửi qua bưu điện, với mật ngữ ngày tháng sẽ đi thăm bà dì ở Cam ranh. Trước ngày giờ định mệnh, tôi khoác túi vải lên vai, cầm giấy phép đi đường đã được cạo sửa tinh vi, đón chuyến xe đò chạy ngang Thuần Mẫn về thị xã Ban mê thuột, rồi từ đó về lại đồng bằng. Tôi ra đi không ngoảnh mặt lại.

Xe đò chạy ngang Hà Lan, tôi nhìn con đường đỏ quạnh dài hun hút dẫn đến bản làng mịt mờ trong tầm mắt, và hình dung một H’Lem nhỏ nhắn, làn da trắng hồng, vẫn xinh tươi, sống động bên bầy trẻ thơ. Một cô bé tập tễnh làm quen với văn hóa Kinh, và đã có lần tôi rón rén bước vào làm quen trái tim cô. Tôi thầm gửi lời chào vĩnh biệt H’Lem theo gió, và chợt quên đi lời hứa đến nhà thăm hỏi cô khi có dịp trở lại Hà Lan.

Ngồi trên chuyến xe đò rời vùng đất đỏ vào buổi sáng hôm ấy, tôi cố quên đi tất cả, chỉ giữ lại trong tôi một thoáng tình.

Hải Ngữ

HÁT GIỮA ĐỜI THÊNH THANG

HÀ NGÂN

Năm 1970, trường La San Bình Lợi Qui nhơn mừng kỷ niệm 50 năm thành lập và trong đêm văn nghệ diễn ra tại sân trường khán thính giả bất ngờ thưởng thức một giọng hát tuyệt vời của một nữ sinh trường Nữ Trung học. Bài “Giết Người Trong Mộng” được trình bày tại sân trường La San đêm hôm đó đã để lại nhiều âm vang trong lòng mọi người, nhất là bọn nam sinh chúng tôi, đứng chết sững trên sân trường sau khi nghe câu đầu tiên, “làm sao… giết được người trong mộng, để trả thù duyên… kiếp bẽ bàng…”
Đầu thập niên 70, những ca khúc của Phạm Duy rất ăn khách, được các ca sĩ thành danh trình bày trên truyền hình, băng nhạc, thu thanh… nghe hầu như khắp hang cùng ngõ hẻm cả miền Nam. Chúng tôi nghe đi nghe lại nhiều lần những bản tình ca, kể cả bài Giết Người Trong Mộng, nhưng phải là một nam sinh, tuổi chập chững vào đời, đêm hôm đó đứng chen chúc nhìn lên sân khấu được trang hoàng thô sơ và nghe giọng một nữ sinh (mãi sau này chúng tôi mới biết tên) cùng lứa tuổi trình bày xuất thần bản nhạc, rồi mới thấm hết nỗi cảm xúc của cậu con trai đang lớn, thầm ươm một ước mơ nào đó vào tiếng hát và chợt thở dài vì nhận ra ngay niềm mơ ước đó sẽ trở nên vô vọng. Mấy mươi năm sau, khi tóc đã bạc màu hơn nửa, bạn tôi vẫn còn giữ nguyên một cảm xúc trắng tinh như thế.
Cũng mấy mươi năm sau, nỗi cảm xúc của tôi lại là bài “Giấc Mơ Trưa”.
Tôi không kén nghe nhạc. Tùy lúc, tôi mở một loại nhạc nào đó cho phù hợp. Nhớ lúc học thi, tôi thường mở nhạc nhẹ và đặc biệt không lời. Lúc tập thể dục, tôi nghe nhạc kích động cho đúng nhịp bước chân. Khi nằm đọc một đoạn sách, tôi thường nghe nhạc hòa tấu. Nếu cắt cỏ làm vườn, tôi lại nghe bất cứ loại nhạc nào, gọi là để nghe mà làm việc. Xong việc, tôi nhớ lõm bõm những điệu nhạc tôi vừa nghe rồi quên bẵng. Vậy mà tôi nhớ như in giọng hát của Đỗ Quyên, vì “Giấc Mơ Trưa” đã để lại trong tôi thật nhiều thinh lặng của hồn và đầy trầm lắng của tâm tư.
Tĩnh. Tâm tư tôi trầm hẳn xuống khi tiếng chuông chùa buông. Người con gái mơ màng trong giấc ngủ trưa, hồn trôi về dĩ vãng, gặp lại cảnh cũ người xưa và chợt tỉnh giấc khi nghe tiếng chuông chùa vọng lại từ xa. Bài hát bắt đầu bằng tiếng chuông chùa và giọng của Đỗ Quyên nhỏ dần khi tiếng chuông chùa buông. Và tôi cũng buông tất cả tị hiềm, ghen ghét, đố kỵ, hờn giận, cùng nỗi ưu tư và lo lắng của đời sống. Buông hẳn. Hồn tôi bỗng trong suốt như giọng hát của Đỗ Quyên để tôi nhìn thấy tâm tư tôi tràn ngập dòng suối tinh khiết của tình yêu, của tình người, và của lòng vị tha. Từng ấy mối tình khuấy động hồn tôi tạo nên một nỗi cảm xúc u hoài. Tiếng dương cầm còn váng vất trong trí, lời kể tha thiết của người con gái có sức mạnh đẩy tôi ngã ngồi trên ghế, nhắm đôi mắt để tiếng chuông chùa tràn ngập hồn tôi và chợt thấy lòng mình thanh thản hơn bao giờ. Tâm hồn tôi bồi hồi khi tiếng chuông ngân xa rồi mất hẳn và để lại trong tôi một chút tiếc nuối, một chút buồn vô cớ. Không phải buồn của nỗi đau, nhưng là buồn của niềm hạnh phúc lãng đãng nào đó khiến hồn tôi lâng lâng. Tôi thấy lòng mình nhẹ tênh, tưởng có thể chắp cánh bay về một thế giới khác lạ không còn bụi bặm trần gian. Tôi ngồi đó, đắm mình trong từng lời của điệu nhạc dịu và êm. Tác giả viết lời nhạc đơn giản, không một chút cầu kỳ trau chuốt, và từng nốt nhạc đặt vào từng con chữ là một chọn lựa kỹ càng để âm thanh thánh thót đủ mạnh đánh tan hết mọi vẩn đục của cuộc sống. Tôi “nghiện” giọng hát của Đỗ Quyên, nhưng chỉ mỗi bài Giấc Mơ Trưa.
Mỗi khi ưu tư, bực dọc, tôi lại nghe Giấc Mơ Trưa và chỉ mỗi Đỗ Quyên hát để thoát bụi trần. Như tôi đã thưa, tôi không kén nghe nhạc nhưng một khi đã yêu bản nhạc nào tôi chỉ thích mỗi ca sĩ duy nhất, người đã cho tôi cái cảm giác ban đầu khó quên ấy. Sau này tôi có nghe một vài ca sĩ khác trình bày cùng bản nhạc, cũng tha thiết như thế nhưng những giọng hát đó vẫn không thể nào đem đến cho tôi cái cảm giác kỳ diệu như giọng hát của Đỗ Quyên.
Ngoài Giấc Mơ Trưa, giọng Đỗ Quyên cũng bình thường như những ca sĩ thời thượng khác. Có thể tôi khó tính, nhưng đấy là cảm nhận của tôi về Đỗ Quyên. Tháng trước tôi nghe ca sĩ Lệ Quyên đến San Jose trình diễn. Lại một Quyên nữa. Giọng Lệ Quyên hao hao Đỗ Quyên nhưng tôi chưa nghe Lệ Quyên hát Giấc Mơ Trưa bao giờ. Tôi đã định đến nghe Lệ Quyên hát nhưng lại tự hỏi chẳng biết trong suốt mấy tiếng đồng hồ trình diễn, cô có hát Giấc Mơ Trưa không. Suy đi tính lại, tôi quyết định không đi. Mà cho dù Lệ Quyên có hát Giấc Mơ Trưa đi nữa, đứng giữa sân khấu tràn ngập ánh sáng, với áo quần là lượt bắt buộc cần khi trình diễn, ý nghĩa của Giấc Mơ Trưa sẽ mất hẳn. Ở sân khấu, ca sĩ cần tiếng vỗ tay vang rền khắp rạp, và nếu tiếng vỗ tay ồn ào đến thế, làm sao tôi có thể nghe tiếng chuông ngân. Giấc Mơ Trưa phải được thưởng thức trong thinh lặng, trong trạng thái tĩnh, và nếu cần, phải trong ánh sáng mờ ảo của mông lung chứ không thể là ánh đèn màu. Tôi không đi nghe Lệ Quyên là vì thế.
Tôi cũng không đi nghe bạn tôi hát nhân dịp hội ngộ ở Qui nhơn vừa qua. Bình, người bạn có giọng hát thật nồng nàn, sôi nổi. Không đi nghe Lệ Quyên hát tôi không tiếc, nhưng tôi lại tiếc vì không được ngồi một bên nghe Bình hát “Vũng Lầy Của Chúng Ta”; nghe như thế vẫn thật hơn, vẫn thú hơn một vài clip Bình hát gửi ra cho cả nhóm. Tên của bạn tôi thoáng nghe như con trai, Bình. Nhưng nếu gọi Thanh Bình thì lại khác. Thanh Bình là một trong 14 cô sang học lớp 12 ở La San niên khóa 71-72. Thời của tôi, con gái cao cỡ một mét rưỡi là đủ “Hãy Ngước Mặt Nhìn Đời” rồi; đằng này Bình cao trên 1m6 nên thường “…nhìn tôi xuống thấp”. Mặc dù nghe tên tưởng lầm con trai nhưng người Bình lại thấm đẫm nữ tính với dáng mảnh như lá, mái tóc mượt mà đen nhánh dài phủ gần nửa lưng, chân bước nhẹ như mây, thấp thoáng gót chân hồng ẩn hiện dưới ống quần rộng phất phơ. Tà áo trắng của Bình nổi bật trên sân trường với chiều cao hiếm có. Trong số bạn bè, may ra có một vài đứa có chiều cao ăn ý với Bình. Nguyễn Huế, người bạn đã khuất, dáng cao to, một võ sĩ có hạng ở đất Bình định. Có lần trời mưa, Huế cầm dù che cho Bình bước từ cổng trường vào lớp. Đứng ở hành lang, dưới làn mưa nhẹ lất phất của buổi sớm mai, hình ảnh Huế che dù cho Bình hôm đó đối với tôi đẹp nhất. Buổi sáng đó, Huế và Bình trông như hai diễn viên màn bạc, đang đóng một xen trong cuốn phim tình cảm. Tôi biết cả trường đang nín thở trố mắt nhìn Huế và Bình, trong đó có tôi đang thở dài thầm mơ giá tôi cao thêm chừng một tấc nữa. Sân trường những năm trước khô khan nhưng buổi sáng hôm đấy tôi cảm thấy sân trường đầy ướt át của hồn nhiên trong Trống Mái, và ngập lụt lãng mạn của Hồn Bướm Mơ Tiên.
Hồn Bướm Mơ Tiên của bạn tôi không thành như hai nhân vật trong truyện. Nàng trở thành Góa Phụ Ngây Thơ sau khi chồng nằm xuống. Tôi nói Bình không ngây thơ nữa, nhưng nên đổi lại là góa phụ nửa chừng xuân. Tuổi đời đã cao nhưng Bình vẫn còn giữ được đường nét như mới đi được nửa đường. Nửa chừng xuân là thế. Quả thật tôi nói không ngoa, nếu Bình “về điểm phấn tô son lại,” chắc chắn rất dễ “ngạo với nhân gian một nụ cười,” như 2 câu thơ của Thái Can, một nhà thơ tiền chiến.
Thơ và văn là tài mọn của Bình. Một cô bạn khác – Thu – bảo tôi những năm ở trung học, cả đám học văn với thầy Nguyễn Mộng Giác. Sau mỗi bài thi, bài luận văn của Bình đều được giữ lại sau cùng, và thầy đọc cho cả lớp nghe. Bình còn biết ngâm thơ và tôi nghe âm hưởng của nữ nghệ sĩ Hồ Điệp trong giọng ngâm của nàng. Nhớ những năm xa nhà vào Sàigòn học, đêm khuya vô tình vặn lạc đài nghe giọng ngâm của bà trên chương trình Tao Đàn khiến lòng tôi nao nao và chợt thấy nhớ nhà kinh khủng. Nghe Bình ngâm, lòng tôi cũng nao nao nhớ đến những đêm chong đèn ở cư xá học thi, và hồn trùng hẳn xuống.
Hát hò, văn chương, thơ phú, ngâm thơ là những tài mọn của Bình. Bạn tôi đang ở Lộc Châu, Phan Khối viết một đoạn trên vi-thư, “…cũng là chuyện vặt thôi, mà là chuyện vặt khác thường, hạng tầm thường sao làm nổi” Tôi cho rằng những tài mọn này cũng chỉ là chuyện vặt đối với Bình, nhưng là chuyện vặt khác thường, hiếm người làm nổi. Người ta bảo, hát hay không bằng hay hát. Nghĩ cũng phải, gọi là hát cho vơi buồn, hát để yêu thêm cuộc đời. Nhưng nếu Bình hay hát và hát hay thì mới là chuyện vặt khác thường. Thuở lớp 3, 4 ở bậc tiểu học, Bình đã hát trong ban hợp ca thiếu nhi trên đài phát thanh Qui nhơn nên cô bạn tôi hát hay là điều dễ hiểu.
Cũng là tiếng hát nhưng khán thính giả lại nhíu mày khó hiểu khi thấy một thí sinh trình diễn trên sân khấu vào tháng 3/2014 vừa qua. Thí sinh đó là một nữ tu thuộc dòng Các Nữ tu Ursuline Thánh gia (Ursuline Sisters of the Holy Family) trong một cuộc thử giọng của chương trình “The Voice” và cả nước Ý lên cơn sốt.
Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, các đài truyền hình đẻ ra một chương trình thi tài năng về ca hát, nhảy múa, ảo thuật, diễn hài, và những màn biểu diễn nghệ thuật khác để câu khách. Ban đầu là American Idols vào năm 2002, The X-Factor (2004), rồi đến America’s Got Talent (2006), và sau cùng là The Voice (2010) tạo nên bởi John de Mol Jr., một tỷ phú về truyền thông người Hà-lan. Chương trình The Voice cạnh tranh mạnh mẽ với The X-factor và nhanh chóng lan ra các nước ở Châu Âu & Á. Nước Ý bắt đầu tuyển lựa tài năng về ca hát vào năm 2013, đến nay đã được 2 mùa thi. Và năm 2014 với sự xuất hiện của Sơ Cristina Scuccia trên sân khấu đã làm khán thính giả thật sự kinh ngạc.
The Voice khác với những chương trình tuyển lựa khác ở chỗ các vị giám khảo không nhìn thấy mặt của thí sinh dự thi. Những chương trình kia, khi bước ra sân khấu rộng mênh mông trước cử tọa lên đến hàng nghìn, thí sinh phải trả lời một số câu hỏi của các vị giám khảo đã. Còn The Voice lại khác, thí sinh bước ra sân khấu lúc các vị giám khảo đã ngồi xoay lưng lại. Lưng ghế to bản, đủ che hết thân hình bất cứ vị giám khảo nào, cho dù nặng cân nhất. Chỉ một mình thí sinh với hàng nghìn khán thính giả mà thôi. Bước ra thì nhạc trổi lên ngay, và hát; không cần phải giới thiệu danh tính.
Các vị giám khảo chỉ nghe giọng hát chứ không hề thấy mặt cũng như cung cách trình diễn của thí sinh, và nếu thích, vị giám khảo đó đập mạnh xuống một nút đỏ ngay trước mặt. Lập tức chiếc ghế to bản xoay lại, đưa vị giám khảo đối diện với thí sinh. Điều kiện để tiến qua vòng trong và mãi cho đến bán kết, rồi chung kết… là thí sinh phải được sự đồng ý của tất cả các vị giám khảo. The Voice thể hiện sự tán thành qua hành động bấm nút đỏ để quay lại đối diện với thí sinh. Bởi vậy, khi cả 4 vị giám khảo quay lại, điều này có nghĩa là thí sinh đã được chấp thuận tiến vào vòng hai.
The Voice lại có thêm một điểm đặc biệt nữa. Đó là thí sinh có quyền chọn một trong 3 vị giám khảo làm người cố vấn (mentor) trong những vòng sau. Nhưng đến vòng chung kết, cũng giống như các chương trình tuyển lựa tài năng khác, sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào khán thính giả. Nếu đoạt giải vô địch, từ thí sinh đến vị cố vấn thật hãnh diện, vì cả năm chỉ có một giải duy nhất. Giải thưởng gồm tiền mặt lên đến cả triệu và một hợp đồng từ các nhà sản xuất đĩa nhạc. Nhưng phần thưởng lớn nhất là thí sinh trở thành một người nổi tiếng của riêng quốc gia đó đã đành, và đôi khi trở thành một nhân vật quốc tế, trong vòng một thời gian chỉ vài tháng. Trường hợp của Susan Boyle trong Britain’s Got Talent năm 2012 là một ví dụ điển hình. Một người đàn bà 47 tuổi, ngoại hình không lấy gì hấp dẫn, đã làm toàn thể khán thính giả ngạc nhiên tột độ khi cô vừa cất giọng hát (https://www.youtube.com/watch?v=K38tWC8POyE). Chỉ qua một lần thử giọng, Susan nổi tiếng cả nước Anh và trong các quốc gia nói tiếng Anh. Phóng viên báo chí, ký giả tạp chí, đài truyền hình, truyền thanh…v..v.. đứng tấp nập trước căn nhà nhỏ của cô để xin một phút phỏng vấn. Nếu giấc mộng Nam Kha thời xưa “bừng con mắt dậy thấy mình tay không” thì với The Voice, thí sinh bừng mắt dậy bỗng thấy mình có tất cả. Từ tiền đến danh.
Vòng loại, được gọi là thử giọng (audition) sơ Cristina trình bày bản No One của Alicia Keys. Ngay từ câu đầu tiên, giọng hát của sơ đã được ít nhất là 1 vị giám khảo, J-Ax – tên thật là Alessandro, nhíu mày lắng nghe. Chỉ cần nghe hát thêm vài câu sau đó, J-Ax không còn chần chờ gì nữa, đập mạnh vào nút đỏ ngay trước mặt để ghế xoay lại. Miệng anh tròn vo khi thấy thí sinh trong trang phục của một nữ tu. J-Ax thật sự kinh ngạc. Anh há hốc miệng không tin ở đôi mắt của anh, nhưng rõ ràng là một nữ tu đang say sưa trình bày bản nhạc, không hề chú ý gì đến anh và những vị giám khảo khác. Sơ Cristina hát đến đoạn “no one… no one… no one”, J-Ax quẫy người trên ghế như con cá mắc cạn trong một trạng thái hứng khởi chưa từng có. Câu kết mới ngoạn mục, “no one can get in the way of what I feel for… you.”, ở chữ you cuối bài, tiếng hát bật ra ở một cung bậc cao vút, dũng mãnh như sóng cuồn cuộn dâng, nhưng âm giọng vẫn tròn trịa, trong suốt như pha lê không chút vẩn đục. J-Ax đưa hay tay ôm lấy đầu biểu lộ sự kinh ngạc. Anh và toàn thể khán giả hầu như không tin ở tai mình vừa thưởng thức một giọng hát tưởng như từ một ca sĩ đã thành danh. Alicia Keys chăng? Không, không phải. Rõ ràng giọng hát của người con gái đang đứng trên sân khấu trong trang phục nữ tu.
Tiếng vỗ tay vang rền, J-Ax vẫn còn bàng hoàng. Anh chưa thoát khỏi vùng trời âm thanh đầy mê hoặc của sơ Cristina. Mà có thật là nữ tu không hay là một người con gái muốn chơi nổi, gây sự chú ý của các vị giám khảo. Vị giám khảo Carrà hỏi cô có phải nữ tu thật không. Sơ Cristina khẳng định cô là một nữ tu thật sự. Bà hỏi động lực nào thúc đẩy sơ lên sân khấu, sơ Cristine bảo tôi đến đây vì tôi có món quà muốn chia sẻ cùng quý vị. Sơ nói thêm, Đức giáo hoàng Phanxicô khuyến khích chúng ta nên bung ra ngoài, dùng tài năng của mình để phục vụ tha nhân và rao giảng Tin Mừng, tôi đến đây với mục đích như thế. Mấy ngày sau, Hồng Y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Bộ Văn hóa Tòa thánh trích một câu trong Kinh thánh trên trang Twitter của ngài, “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác (1 Peter 4:10)” bày tỏ sự hổ trợ việc thi hát của sơ Cristine. Cuối buổi thử giọng, sơ Cristina chọn ca sĩ nhạc rap J-Ax làm cố vấn. Những vòng thi tiếp theo, sơ Cristine lần lượt loại dần các địch thủ. Sau hơn tháng thi đấu, cuối cùng sơ Cristina đoạt giải “The Voice” năm 2014. Ngày nhận giải, trước hàng nghìn cử tọa, sơ Cristina xin mọi người cùng đọc với sơ một kinh Lạy cha để cảm tạ Thiên Chúa, (https://www.youtube.com/watch?v=TpaQYSd75Ak).
Hiện tượng sơ Cristina làm tôi nhớ đến một giọng hát của một sơ khác, Sœur Sourire (Sister Smile), một nữ tu thuộc dòng Đôminicô cũng là một hiện tượng xảy ra vào năm 1963. Sơ nổi danh qua bài hát “Dominique” do chính sơ sáng tác và trình bày.
Cơ duyên tôi biết bản nhạc này khá đặc biệt. Năm đệ Ngũ, chúng tôi gồm có Bích, Lạc, Sơn, Tín, và tôi từ La San Bình lợi Qui nhơn lên học ở La San Ban-mê-thuột. Đây là lần đầu tiên tôi học nhạc, làm quen với các nốt đồ rê mi, dấu đơn, dấu kép… và cũng lần đầu tiên tôi đứng hát trong một đoàn hợp ca, bài Ngựa Phi Đường Xa, bốn bè và dĩ nhiên tôi thuộc nhóm bè chính (tôi luôn hát lạc sang bè chính, nên frère xếp tôi vào bè chính luôn). Thầy dạy nhạc là frère Bertrand Nguyễn dục Đức, một sư huynh mà theo nhận xét của riêng tôi, là người thầy uyên bác nhất trong suốt cuộc đời học sinh của tôi ở La San. Mỗi lần đến giờ nhạc là tôi run, vì tôi biết tôi không có một năng khiếu nào về âm nhạc. Tôi còn nhớ, giữa năm đệ Ngũ, frère dạy chúng tôi đánh nhịp ¾, chát chát chình, chát chát chình. Frère bảo phải lắng nghe tiếng nhạc để phân biệt khi nào chát, khi nào chình; cứ chình là đập tay xuống, cọng với hai chát kia thì vẽ thành một hình tam giác, tay đưa lên để chuẩn bị tiếng chình lại đập tay xuống, bắt đầu một nhịp mới. Tai tôi nghe tất cả đều chình chình, chả nghe một tiếng chát nào cả.
Ngoài âm nhạc, frère còn dạy chúng tôi môn Việt văn và Anh văn. Giờ Việt văn, tôi còn nhớ frère giảng một đoạn văn trong cuốn Con Trâu của Trần Tiêu, em ruột của Khái Hưng và có chân trong nhóm Tự Lực Văn đoàn. Đoạn văn tả người mẹ ở quê lên thăm đứa con gái đang ở đợ cho một gia đình giàu có. Ông chủ tử tế hỏi thăm bà tình cảnh gia đình. Bà thản nhiên kể đứa con trai 8, 9 tuổi của bà bị sừng trâu đâm lòi ruột. Frère hỏi thế tại sao bà lại kể với một giọng ráo hoảnh như thế, giống như bà đang kể về một cái chết của một con vật chứ không phải con của bà. Frère giải thích là đau khổ triền miên đã làm cho con người mất hết cảm xúc. Đối diện với khổ đau từ nhiều năm tháng, bà xem chuyện một đứa bé bị lòi ruột là chuyện thường tình. Lòng người mẹ hết đau, tim người mẹ hết nhói. Gia đình bà đứa thì ở đợ, đứa bị trâu đâm lòi ruột, tuy khổ thế nhưng vì quá quen nên bà không nhỏ một giọt nước mắt. Hoặc không chừng, dòng nước mắt của người mẹ đã cạn khô nên bà chẳng còn một giọt nước mắt nào để rơi. Mãi về sau, khi học môn Tâm lý với frère Raymond Hinh, tôi hiểu rõ thêm đau khổ là một tình trạng tâm lý và chợt nhớ đến những lời frère Bertrand giải thích ở lớp đệ Ngũ.
Riêng giờ Anh văn thì chúng tôi, những học sinh La San Bình lợi Qui nhơn, mở tròn mắt chịu thua. Frère một tay cầm cuốn sách Anh văn (hình như L’Anglais Sans Peine thì phải), tay kia vòng sau lưng, bước thong dong, đọc dõng dạc. Đọc một câu tiếng Anh, frère bắt từng đứa đứng lên dịch ra tiếng Pháp, ngay tại chỗ. Vốn tiếng Pháp của tôi cũng không đến nỗi tệ, nhưng đọc và dịch tức khắc thì thú thật vốn liếng Pháp văn của tôi không đủ, chưa kể đến văn phạm câu cú cần phải chính xác nữa. Tôi còn nhớ buổi học đầu tiên frère bảo tôi dịch mấy câu đầu bài, my name is George; tôi dịch ra, je m’appelle George… rồi đứng đực mặt vì những câu tiếp theo tôi hiểu không hết, chưa kể không đủ ngữ vựng Pháp để dịch. Frère đọc tiếng Anh và Pháp nhuần nhuyễn, nói trơn tru không hề vấp váp. Sau này tôi biết thêm lối học song ngữ Anh-Pháp như thế đã bắt đầu từ năm đệ Thất. Học sinh phải học 2 sinh ngữ từ khi bước lên trung học, chứ không phải chờ đến đệ Tam như chúng tôi. Học sinh La San Bình lợi đành phải chào thua những học sinh La San từ Sàigòn lên học. Khi viết những giòng chữ này, Frère đã về với Chúa được gần năm (tạ thế 31/12/2013 tại Napa, Cali) và tôi xin dài dòng một chút về thầy dạy của tôi cũng là một cách để cảm tạ người đã dẫn tôi vào thế giới âm nhạc tuyệt diệu và bầu trời văn chương bao la. Xin cầu cho thầy sớm về nước Thiên đàng.
Xin trở lại Sœur Sourire. Bài hát của sơ nổi tiếng từ năm 1963 nhưng phải đợi đến năm 1967, lúc tôi học ở La San Ban-mê-thuột, frère Bertrand cho tôi nghe bài “Dominique” do chính sơ Sourire trình bày. Frère chụp headphone lên đầu, bảo tôi nghe hết bản nhạc rồi nói cho frère biết cảm tưởng. Nghe xong, tôi chẳng hiểu hết lời Pháp, lấy đâu mà bàn đến cảm tưởng và cảm nghĩ. Tôi chỉ gật gù cho có lệ, đầu óc trống rỗng tuy cũng đủ trí khôn để nhận ra âm hưởng của bản nhạc nghe líu lo như chim hót. Đôi lúc, frère còn cho tôi nghe những bản giao hưởng mà lúc đó tai tôi nghe như vịt nghe sấm. Khi giải thích về dòng nhạc, frère đắm hồn vào từng chữ mà lúc đó lời frère diễn tả quá sức với trí hiểu biết về âm nhạc của tôi. Về sau khi lớn lên tôi biết thêm sơ đi tu, sáng tác nhạc, ôm đàn guitar hát, mẹ bề trên thấy hay nên khuyến khích sơ hát cho cả dòng nghe. Dần dà giọng hát của sơ được mọi người biết tiếng và hãng dĩa Philips ký hợp đồng với nhà dòng phát hành bản Dominique do chính sơ hát với nghệ danh Sœur Sourire. Và sơ nổi tiếng.
Thời đó, năm 1963, ban nhạc The Beatles nổi tiếng, làm mưa làm gió trên vùng trời âm nhạc. Ngay trong khối Sô-viết, thanh niên thanh nữ Nga chuyền tay nhau những đĩa nhạc của Beatles nhập lậu từ Âu-châu và nghe mê mẩn. Suốt cả năm, người ta bàn tán về hiện tượng Beatles, giới trẻ thuộc nằm lòng những bài John Lennon và Paul McCartney hát, thế mà bản Dominique của Sœur Sourire lại giữ đầu bảng (billboard) âm nhạc tại Âu-châu và ngay cả nước Mỹ trong suốt 2 tuần. Đó là một kỷ lục, (https://www.youtube.com/watch?v=n295hjktHD0).
Hai hiện tượng, hai nữ tu, hai giọng hát gây chấn vang trong giới âm nhạc cách nhau hơn nửa thế kỷ. Tuy thế, cuộc đời của sơ Sourire lại kết cục bi thảm. Vài năm sau khi nổi tiếng với bản nhạc Dominique, sơ bỏ tu viện ra sống ngoài đời. Rồi chính phủ Bỉ níu áo sơ về số tiền thuế qua dĩa nhạc Dominique. Sơ ra đi tay trắng nên không có tiền đóng thuế. Sở thuế đeo dai dẳng đến nỗi sơ suy sụp tinh thần sinh ra trầm cảm. Cuối cùng sơ tự tử với người bạn gái Annie Pécher. Hiện hai ngôi mộ của họ tại nghĩa trang Cheremont, nước Bỉ thỉnh thoảng vẫn có những bó hoa của những người hâm mộ đặt nằm chơ vơ trên nền đá trông hiu hắt như cuộc đời cô đơn của sơ. Tôi vẫn cầu mong sơ Cristina luôn giữ tinh thần tu trì, dùng giọng hát của sơ để đem niềm vui đến cho tha nhân. Giọng hát và chiếc áo chùng thâm của sơ mãi mãi là một hiện tượng độc đáo trong bầu trời âm nhạc.
Người ta bảo âm nhạc là ngôn ngữ phổ quát (universal language), nghĩa là một loại ngôn ngữ mà hầu hết 7.5 tỉ người trên trái đất này đều hiểu được. Nghe một bản nhạc ngoại quốc, tuy không hiểu lời nhưng qua tiết tấu của bản nhạc, thêm vào âm thanh trầm bổng, giọng hát và cách trình bày của ca sĩ, ai ai cũng thấm được ý nghĩa của bài hát. Những thí sinh đứng một mình giữa sân khấu rộng bao la chợt thấy mình nhỏ bé hẳn, tim đập rộn rã trước những con mắt xoi mói của các vị giám khảo và họ nén hơi đặt hết cả tâm, cả hồn lẫn tim óc và bật ra tiếng hát.
Ngôn ngữ của âm nhạc chỉ có 7 chữ (nốt) nhưng sao nhạc sĩ lại sắp xếp một cách tài tình và chờ đến lúc một ca sĩ trình bày thì bản nhạc thoát thai trở thành một biểu tượng lộng lẫy của nghệ thuật. Cứ xem những chương trình tuyển lựa tài năng của American Idols, X-Factor, hoặc America’s Got Talent mỗi tiếng hát là một giọt nước mắt của niềm vui choáng ngợp khi hàng nghìn cử tọa đứng dậy vỗ tay vang rền khắp rạp. Đó cũng là giọt nước mắt của một mảnh đời gắn liền với sự cố gắng cùng cực để vươn lên từ đổ nát. Không hiếm vị giám khảo cũng rơi lệ vì họ đã lịm hồn trong tiếng hát của thí sinh, và khẳng khái cám ơn thí sinh đã đem giọng ca đến với chương trình.
Giọng ca và tiếng hát ngọt ngào của Thu Dung, của Đỗ Quyên, của Thanh Bình, của sơ Cristina, và sơ Sourire đã cống hiến cho đời những giây phút tuyệt vời nhất. Đời ca hát ngày tháng… cho người mua vui. Khi những tiếng hát này cất lên, tôi biết cảm tạ Thượng đế đã cho đôi tai để nghe, còn thính giác để biết rung động trước vẻ đẹp trau chuốt của âm thanh. Họ, có cả Thanh Bình bạn tôi, đứng hát giữa đời thênh thang để rồi ngồi xuống giữa muôn muôn người, không phân biệt sắc tộc màu da, cùng nắm tay nhau lấy âm nhạc làm ngôn ngữ để cảm thông, để xóa hết hận thù và thương yêu nhau.
Tôi ước mơ như thế, Thanh Bình, cô bạn học thân mến của tôi ơi!

HÀ NGÂN