RU TA, RU NGƯỜI

 

Ngủ ngoan, thôi hãy ngủ ngoan
Sáng chưa hạnh phúc đã oan nghiệt chiều
Ta trên sầu đạo buồn thiu
Mịt mù cõi đến, đìu hiu cõi về
Ru em nghiệp chướng não nề
Ru anh trái đắng đam mê vừa tàn
Ngủ ngon thôi hãy ngủ ngon
Một giây trở giấc cô đơn bốn bề
Sẽ nghe nước mắt chia lìa
Sẽ nghe tham vọng mộ bia chập chùng
Ru em hơi thở ngại ngùng
Ru anh bằng cái vô cùng lặng thinh
Ngủ im, thôi hãy ngủ im
Thoắt đà bờ mất bãi chìm hư vô
Và khi tỉnh kiếp hoang sơ
Bàng hoàng gặp lại ngày xưa tuyệt vời
Ru em theo tiếng ru đời
Ru ta sáng thế, ru người yêu nhau.

DUYÊN ANH

(Paris, 1984)

NHỮNG ĐOẠN VIẾT NGẮN VỀ QUÊ HƯƠNG

 

duyenanh

…Thù hận dân tộc khởi sự từ cây cầu định mệnh này. Nước mắt quê hương bắt nguồn từ dòng sông oan nghiệt này. Lịch sử nào cũng có những thời của chiến tranh và những thời của hòa bình. Thời của chiến tranh mười năm vừa qua trên giang sơn gấm vóc Việt Nam. Nó vừa qua bằng những giọt lệ. Không phải là giọt lệ reo vui hòa bình mà là giọt lệ bẽ bàng phân chia tổ quốc. Một lần huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ. Một lần Thập nhị sứ quân làm đau đớn ý nghĩa đồng bào. Một lần sông Gianh buồn tủi. Và, bây giờ, sông Bến Hải ô nhục. Vẫn một dòng sông biểu tượng của xa rời tình tự, của đứt khúc anh em, nhưng hôm nay, dòng sông ngầu đỏ ý thức hệ. Thù hận dân tộc có xuất xứ rõ nét bằng ý thức hệ, bằng chủ nghĩa hoàn toàn xa lạ với dân tộc chúng ta. Thì mặc kệ nó thôi, cái vĩnh cửu của Việt Nam là cần thiết. Tổ tiên chúng ta đã biết ngậm thống khổ, đã can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh, đã kiên nhẫn chiến đấu cho sự tồn tại vĩnh cửu của Việt Nam. Cuối cùng, sông Gianh chỉ còn là hồi tưởng một thời ta xa nhau, một thời tình yêu héo úa, một thời hạnh phúc ngẩn ngơ. Chúng ta cũng biết ngậm thống khổ, cũng biết can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh, cũng biết kiên nhẫn xây dựng lại một miền quê hương đổ vỡ sau hòa bình què cụt. Để lấp sông Bến Hải. Để con người gần gũi con người. Để anh yêu em, nhớ em như ca dao đã dạy chúng ta yêu nhau, nhớ nhau. Thế thì miền Nam thân yêu, cái nôi đời êm ái, đã ru chúng ta niềm hy vọng, đã phả vào hồn chúng ta nỗi ước mơ làm lại quê hương, làm đẹp quê hương, làm đoàn tụ quê hương, làm rực rỡ quê hương. Chúng ta tiếp nối kinh nghiệm của tiền nhân; ý chí của tiền nhân, dũng cảm của tiền nhân, vượt lên mọi thống khổ, vượt lên mọi thù hận. Để Việt Nam mãi mãi ngạo nghễ dưới mặt trời. Và, vậy đó sự phồn vinh bắt đầu ở miền Nam, ý nghĩa rạng ngời của đời sống bắt đầu ở miền Nam. Chúng ta sáng tạo một thời yêu thương thay đổi một thời thù hận. Chúng ta bắt nòng súng nở hoa thơm ngát hương nhân ái. Chúng ta bắt đạn câm. Chúng ta bắt tạo hóa mỉm cười độ lượng. Rồi, như tiền nhân, bằng trái tim bồi hồi, xao xuyến những giấc mơ xanh; bằng những nốt nhạc nhẩy múa trên môi: “Việt Nam, Việt Nam nghe tự vào đời… Việt Nam không đòi xương máu… Tự do, công bình, bác ái muôn đời…” Chúng ta đã có miền Nam, nơi đồn trú của tình tự dân tộc, của lãng mạn dân tộc, của cao thượng dân tộc, của thi ca chan chứa tình người, của tiểu thuyết tràn trề nhân bản, của âm nhạc đưa hồn lên cao. Để tô thắm triết lý Rồng Tiên, để keo sơn cái còn vĩnh viễn của Việt Nam. Chúng ta đã quên thở dài. Chúng ta cất tiếng hát…
Buồn thay, chúng ta chưa được hát no đầy giọng ca, chưa được hát đẫy đà nốt nhạc thì cây cầu định mệnh kia cựa quậy, dòng sông oan nghiệt nọ nổi sóng, thứ sóng tham vọng của chủ nghĩa cộng sản xâm lược. Những giọt nước mắt Việt Nam bắt đầu ứa ra từ miền Bắc. Rồi những giọt nước mắt chẩy dài theo tuổi nhỏ quắt queo đeo trên lưng cái hiện tại ê chề miệt mài bước đường vô định, theo dân hiền bị cưỡng bức chuyên chở đau thương mà lê chân dọc lối mòn vô vọng. Nước mắt cùng máu rướm chân không thấm vào lòng đất quê hương. Nước mắt trên vai phụ nữ dân công gồng gánh. Nước mắt lên thác xuống ghềnh. Nước mắt nhục nhằn của thân phận Việt Nam đã làm cỏ rừng xúc động, đã làm đá suối nghẹn ngào. Họ thiếu trái tim nên họ không ái ngại đất lún. Họ thiếu con mắt nên họ không thương xót trẻ thơ vác súng đạn băng rừng, vượt núi. Và họ gây chiến tranh. Súng đã nổ. Đạn cộng sản khiến ứa máu thanh bình của chúng ta. Bây giờ là nước mắt miền Nam. Nước mắt của chết chóc, của thương tích, của sợ hãi. Nước mắt của mẹ già. Nước mắt của em bé. Nước mắt của tất cả. Phải làm những giọt nước mắt ngừng chẩy. Phải ngăn chặn chiến tranh. Tuổi trẻ miền Nam giã từ gia đình đi lo việc cứu nước, giữ nước…

Tổ quốc gọi, tuổi trẻ lên đường. Vất bỏ lại những phù phiếm vật chất và chấp nhận cuộc đời gian nan. Bởi vì, đã là lính, đã tình nguyện vào nơi gió cát. Những vầng trán kiêu hãnh ngẩng cao: Danh dự, Trách nhiệm, Tổ quốc Vinh quang bao giờ cũng phải trả giá bằng nhiệt tình và lòng tự phụ. Nhiệt tình là phóng thẳng lên phía quân thù, là chỉ biết tiến không biết lùi, là chỉ biết thắng không biết bại, là thèm sống vinh và sợ chết nhục. Tự phụ là vừa chiến đấu bảo vệ non sông ngoài tiền tuyến vừa bảo vệ hạnh phúc cho đồng bào ở hậu phương.
Hãy hồn nhiên, em bé! Hãy nhẩy múa, hát hò, reo vui Em đừng thèm nghĩ đến chiến tranh, em bé nhé? Chiến tranh là ác quỷ. Đã có anh diệt ác quỷ. Em bé thiên thần ơi, mãi mãi là mắt ngọc, tóc ngọc, môi ngọc, lời ngọc, hồn ngọc. Để anh nhẹ bước chiến chinh. Người lính Việt Nam cộng hòa tuyệt vời. Chẳng còn ngôn ngữ nào cao quý hơn để vinh danh lính của chúng ta, những con người biết sống, biết chiến đấu và biết chết. Hơn cả hào hùng, lính của chúng ta lãng mạn nhất loài người, chấp nhận chiến đấu cho sự sống còn của dân tộc và cả cho tình yêu của mọi người. Nói rõ rệt, lính của chúng ta chiến đấu để làm rực rỡ ý nghĩa của Cái Thật, Cái Tốt, Cái Đẹp của con người. Đó là những người lính đi chiến đấu vì con người, vì tình người, vì đạo nghĩa Việt Nam, vì tình tự Việt Nam, vì những cái tồn tại vĩnh cửu của Việt Nam. Yên vui hậu phương, đó là mềm vui của người lính sa trường, đó là lý do chắc tay súng và ngắm đúng kẻ thù. Không có thứ huy chương nào xứng đáng cho sự hy sinh của người lính Việt Nam cộng hòa cả. Chắc chắn, họ không chiến đấu vì huy chương. Lý tưởng chiến đấu của họ chỉ được nhìn thấy khi chúng ta chứng kiến họ đứng giữa biên giới sống chết. Họ sống vì cái sống của mọi người. Họ chết cũng vì cái sống của mọi người. Người lính đã quên cả sự sống lẫn sự chết của mình. Và ngay cả lúc đứng giữa biên giới của sống chết, người lính Việt Nam cộng hòa vẫn còn thừa niềm xúc động để nhỏ nước mắt xót thương đồng bào mình trong điêu linh, tang tóc của chinh chiến. Có lẽ, chúng ta đã vô tình không chịu hỏi lính của chúng ta nghĩ gì. Vậy thì anh làm ơn trả lời đồng bào anh, anh đã nghĩ gì, người lính?

Không, anh còn khiêm tốn lắm, người lính Việt Nam cộng hòa. Đề đồng bào anh nghĩ về anh, nghĩ về lính lãng mạn, hào hùng mà biểu tượng là người lính nhẩy dù Nguyễn Đình Bảo. Quân sử việt Nam đã trân trọng viết bằng son thắm những trang chính xác về thiên thần mũ đỏ. Chẳng thể thiếu sót tên tuổi và chiến tích vang động đất trời của chiến sĩ dù. Hơn cả chính sử, ngoại sử, huyền sử, tiểu thuyết dã sử còn đưa lính mũ đỏ vào trong những lớp sương mầu thần thoại. Hãy hỏi những con chim đậu trên giây điện xem chúng có ngậm nhạc ngợi ca Nguyễn văn Đương, Nguyễn Đình Bảo. Hãy hỏi kẻ thù xem họ có nghiêng mình trước sự dũng cảm của những người lính dù ở lại Charlie. Cho phép tôi được nhỏ một giọt nước mắt muộn màng tưởng mộ những người lính dù đã đi vào lịch sử.

Chiến tranh là trò chơi thô bỉ. Không ai thích chơi trò chơi của chiến tranh cả. Con người sinh ra không phải để săn đuổi giết nhau. Chúng ta không chơi chiến tranh, chúng ta chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Vì thế, nước mắt còn ứa ra tội nghiệp cho tuổi trẻ miền Bắc bị cộng sản tước đoạt linh hồn đích thật Việt Nam để nhồi nhét vào đầu óc họ cái lý tưởng phi nhân bản, phi dân tộc, cái lý tưởng giải phóng bịp bợm của chủ nghĩa mù, của chế độ điếc, của lãnh tụ ngu. Hãy nhìn những người bộ đội “sinh Bắc, tử Nam”? Hãy nhìn họ, hãy suy nghĩ về cái chết của họ, sẽ có một lời kết án nghiêm khắc chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản cứ đẩy họ vào một chiến thắng ảo tưởng. Bộ đội miền Bắc cứ chết thảm, cứ thua nhục… Bằng súng đạn, hỏa tiễn của Liên xô, Trung quốc, cộng sản Việt Nam đã cầy nát quê hương miền Nam của người Việt Nam, đã sát hại người Việt Nam. Rõ ràng, cộng sản Việt Nam vì cái chủ nghĩa quốc tế vô sản mà phản bội quốc gia. Chính nghĩa quốc gia thuộc về chúng ta, của chúng ta. Chính nghĩa ấy đã được người lính Việt Nam thắp sáng ở khắp chiến trường. Nơi nào người lính Cộng Hòa đến, nơi ấy cộng sản thảm bại. Nơi nào cờ vàng chiến thắng tung bay, nơi ấy tự do, thanh bình, no ấm. “Việt Nam không đòi xương máu”. Chúng ta đòi hòa bình để xây dựng đất nước chúng ta phồn thịnh, dân tộc chúng ta hạnh phúc, thương yêu. đoàn tụ. Nhưng cộng sản điên cuồng “thề phanh thây, uống máu” chúng ta, chúng ta cần dạy dỗ họ những bài học nhân bản, để họ trở về con người đầy đủ nhân tính, để hủy diệt thú tính của họ. Chúng ta không thèm mơ ước chiến lợi phẩm tính bằng xác T-54, bằng AK, bằng B-40. Chúng ta mơ ước những cánh đồng lúa chín, những nhà máy phun khói, những chuyến tầu đến đi, những mái trường rộn rã tiếng chim non ca hót. Chúng ta không gây chiến mà chúng ta phải tham chiến. Và vì chiến tranh, chúng ta mất mát khá nhiều. Nước mắt vẫn rơi theo máu rơi. Những giọt nước mắt cay đắng nhất vẫn là những giọt nước mắt của người vợ lính đi nhận xác chồng tử trận.

Đã bao nhiêu người vợ lính mắt đẫm lệ đi nhận xác chồng? Đã bao nhiêu người vợ lính tìm thấy xác chồng và chẳng biết xác chồng mình ở đâu? Tôi lại xin được nhỏ giọt nước mắt muộn màng ngưỡng mộ chinh phụ của thời đại tôi. Và không thể nào tha thứ cho cộng sản. Chủ nghĩa hèn mạt của họ, thêm một lần, chứng tỏ sự phi dân tộc của họ. Họ đã xúc phạm đến cả những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Họ đã dẫm giép râu lên phong tục, tập quán ngàn đời của người Việt Nam. Cộng sản không khước từ một cơ hội nào để bắt máu chẩy, để đòi nước mắt rơi, để chém giết. Cộng sản đem chiến tranh vào thành phố. B-40 của họ đã thụt cháy bàn thờ tổ tiên của chúng ta ngày Tết. Họ đã bắn đạn AK nát phong bao mừng tuổi trẻ thơ. Đạn tội ác của cộng sản thay pháo đốt mừng xuân. Bầy thú dữ vô thành phố. Những gì đã xảy ra? Đi hỏi thùng rác đầu đường, thùng rác cũng phẫn nộ vì bị găm đạn cộng sản. Đi hỏi con chó rên rỉ dưới chân cột đèn, con chó cũng phẫn nộ vì bị găm đạn cộng sản. Đừng hỏi người. Đừng hỏi. Hãy nhìn khói bốc mù trời thành phố. Hãy nghe đạn nổ kinh hoàng. Hãy ngắm những khuôn mặt sợ hãi. Và những giọt nước mắt đêm xuân… Và rồi sẽ có một định nghĩa về những giọt nước mắt.
Đánh đâu thua đấy, càng đánh càng thua. Cộng sản đã phải trả giá chua cay cho vụ Mậu Thân đến nỗi Hồ Chí Minh phẫn mà chết. Cộng sản lại tiếp tục trả giá chua cay cho mùa hè đỏ lửa. Họ đã phiêu lưu vào chiến tranh một cách dại dột. Họ không thể ngờ họ đã phải đương đầu với anh hùng miền Nam. Mỗi người lính Cộng hòa là một hào kiệt, một tráng sĩ… Sa lầy quân sự ở chiến trường miền Nam vì tham vọng xâm lăng, cộng sản đã bóc lột đến giọt mồ hôi lao động cuối cùng của dân miền Bắc. “Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng”, dân miền Bắc đã phải dân công thủy lợi phục vụ chế độ bạo tàn hơn cả nô lệ thời thực dân. Phẩm cách con người hầu như bị tước đoạt hết và quyền sống thì chẳng còn. Vì “giải phóng miền Nam” mà dân miền Bắc đói khổ, ngu dốt, lạc hậu. Bộ đội đã mượn xuống tuổi 16? 16 tuổi phải cầm súng lao vào chỗ chết. Cái ưu việt của chủ nghĩa, cái nôi của loài người, cái đỉnh cao trí tuệ cộng sản ở những chiếc xe đạp thồ đá, thồ cây…

Nhưng mà giọt nước mắt cho Việt Nam bẽ bàng nhất, thê lương nhất thì lại ở đây, ở ngay nước Mỹ. Những kẻ phản chiến đã để lương tri của họ ngủ vùi trong một thời mê sảng. âu châu văn minh, âu châu của công bình, bác ái đã nhắm mắt lại toa rập với những kẻ phản chiến một chiều. Buồn cho âu châu ấy, âu châu của trí tuệ âu châu biết phán xét đã quên trí tuệ cựu lục địa, bám gót bọn chăn bò Mỹ để lên án bom đạn Mỹ và giả vở không đếm xỉa hỏa tiễn Liên xô, đại bác Trung quốc. Rốt cuộc, âu châu và Hoa Kỳ đều bị đám khố rách cộng sản huyễn hoặc một cách đáng thương hại. Thế trận thay đổi bằng sự trợ giúp đắc lực của phản chiến Mỹ, báo chí Mỹ, truyền thông Mỹ và âu châu. Chúng ta khó tin sự phản tỉnh. Bởi vì, cá sấu chưa cười khi nhai nghiến con mồi. Bởi vì, nỗi khổ của dân tộc chúng ta vẫn còn sáng giá cho bọn làm dáng tiến bộ, làm dáng hòa bình…

Nỗi khổ của dân tộc chúng ta còn là đường rầy oan nghiệt cho chuyến tầu hữu nghị phản phúc của nước lớn nghiến nát thô bạo. Bom Mỹ, hỏa tiễn Liên xô, đại bác Trung quốc đã tàn phá đất nước chúng ta hai mươi năm. Nhân danh ai, nhân danh cái gì? Lái buôn súng đạn, phù thủy chủ nghĩa đem thân phận tổ quốc chúng ta, đem xương máu dân tộc chúng ta mua bán, đổi chác? Chẳng có gì cao quý để nhân danh cả, ngoài quyền lợi tư bản và quyền lợi cộng sản. Những tâm hồn tư bản bần tiện, những tâm hồn cộng sản bần tiện, những tâm hồn bá quyền bần tiện, bọn đấu thầu chiến tranh lại lột lưỡi đấu thầu hòa bình. Mỏ con ó cứ nhọn. Móng vuốt con gấu cứ sắc ác điểu và ác thú ôm nhau hôn, ôm nhau khiêu vũ trên bãi tha ma. Cùng với sự phản phúc của tư bản, sự bẻ gẫy lương tâm của thế giới tự do, nước mắt Việt Nam ứa ra cho một chia lìa đòi đoạn…

Chúng ta lại ra đi. Lần này chúng ta bỏ tổ quốc ra đi. Làm sao có thể đo được mức độ nước mắt Việt Nam tuôn rơi cho một chuyến đi não nề? Nước mắt chia lìa tình tự dân tộc, hai mươi năm trước bắt nguồn từ dòng sông Bến Hải. Bây giờ, nó bắt nguồn từ dòng sông nào? Có lẽ, người Việt Nam sẽ đặt cho dòng sông ấy một cái tên. Phải, một cái tên. Để nhớ. Để kể cho con cháu nghe. Tên nó là Phản Bội. Thế thì nước mắt chia lìa tình tự dân tộc, hai mươi năm sau, bắt nguồn từ dòng sông Phản Bội. Hai mươi năm hai lần người Việt Nam sống đời du mục, thân phận du mục của thời đại đông đầy chó sói chủ nghĩa, cá sấu ý thức hệ. Lần thứ nhất, chúng ta tỵ nạn trên quê hương chúng ta. Lần thứ hai, chúng ta tỵ nạn ở những nơi chốn nào trên trái đất? Ôi, di cư? Ôi, di tản? Di tản ê chề gấp bội di cư. Hai mươi năm, tưởng chừng mới hôm qua. Mới hôm qua 1954…

Người Mỹ nói “lịch sử đã sang trang ‘? Chúng ta phải hiểu họ chẳng còn thiết tha gì tới lý tưởng khai phóng tự do, dân chủ nữa. Con thò lò nào cũng có sáu mặt lương tâm. Và nó có thể thản nhiên cắn gẫy bất cứ thứ lương tâm nào không có lợi cho nó. Nhìn lại di cư 1954 để so sánh di tản 1975, chúng ta mới vỡ lẽ. Nước Pháp thua trận vẫn còn chinh phục được lòng biết ơn của chúng ta, vì họ đưa chúng ta vào Nam tử tế, họ xứng đáng văn minh và nhiều văn hóa. Nước Mỹ thua trận là thua hết. Họ thiếu văn hóa. Tinh thần trọc phú bần tiện Mỹ thể hiện rõ rệt ở cuộc di tản 1975 tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở sài gòn. Họ cam kết bảo vệ tự do, dân chủ miền Nam, họ đem danh dự tiệp Chủng Quốc Hoa kỳ làm lời hứa. Rồi họ phản phúc. Chúng ta thật sự hiểu lòng dạ Hoa kỳ từ lúc Gerald Ford tuyên bố: “Lịch sử đã sang trang.” Sự sang trang của lịch sử hoa kỳ ngoạn mục nhất, đối với họ, là cảnh tượng người Việt Nam đi tìm tự do một mình bằng thuyền gỗ lênh đênh trên đại dương. Bây giờ, thuyền nhân Việt Nam dũng cảm hơn dân tộc Mỹ, hơn loài người. Thuyền nhân Việt Nam vinh danh Tự Do cao quý Thuyền nhân Việt Nam đã mở mắt cho thế giới hoan lạc, ích kỷ bằng những giọt nước mắt khó quên của một thời đại mê sảng. Chẳng hiểu bọn phản chiến Mỹ ngu xuẩn, tôi mọi không công cho cộng sản có dám căng mắt nhận diện thuyền nhân Việt Nam ở địa danh buồn bã Poulau Bidong, Poulau Tengah, Sikew, Palawan, Song- kla… Hãy nhìn kỹ, thế giới thiển cận và trí tuệ những kẻ lên án chiến tranh Việt Nam tại âu châu, Mỹ châu và úc châu! Hãy nhìn kỹ xem những người trải dài thân phận mình suốt cuộc chiến hai mươi năm có phải là những người hiếu chiến, có phải là những người gây chiến, có phải là tội phạm chiến tranh? Không, người Việt Nam đấy, người Việt Nam nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, của chủ nghĩa tư bản, của hỏa tiễn Liên xô, của bom đạn Hoa kỳ, của sự tráo trở, bịp bợm hèn mạt của các nước lớn đấy. Lý tưởng tự do dân chủ của Mỹ, lý tưởng cách mạng giải phóng của Liên xô đã bị người Việt Nam yêu quê hương mình tha thiết phải bỏ quê hương, bỏ sự nghiệp ngàn đời của tổ tiên để lại mà sống kiếp lưu đầy. Và những giọt nước mắt Việt Nam lưu vong ứa ra. Những giọt ngọc Việt Nam đánh dấu mốc đường oan của nhân loại. Em yêu dấu, hãy để những giọt nước mắt Việt Nam vang vọng đất trời…
Giọt nước mắt nhục nhằn
trên xiềng gông chung thân
Giọt nước mắt đợi chờ mòn nỗi đá ôm con
Giọt nước mắt thê lương
Giọt nước mắt quê hương
nghe buốt răng sâu, cây thù lá hờn…
Giọt nước mắt chẩy dài
theo thuyền nhân lênh đênh
Giọt nước mắt nghẹn ngào
biển ướp muối khô tim
Giọt nước mắt oan khiên
Giọt nước mốt cô đơn
ngơ ngác hỡi em quê người đảo điên
Giọt nước mắt lung linh màu nàng ngoan
hong tâm sự nát tan
mai em mình lớn khôn
ôi giọt nước mắt cho những thân phận sốt se
cho những tâm hồn tái tê
cho những con người não nề…
Giọt nước mắt tỏ tình thương ngàn xua hư vô
Giọt nước mất tội nghiệp còn thế giới hoang vu
Giọt nước mắt tâm tư
Giọt nước mắt ươm mơ
rơi xuống em ơi. xanh ngọc vàng tơ…
Phải lắm, em ạ, chúng ta chẳng cần những giọt nước mắt thế giới xót thương chúng ta. Chúng ta nhỏ nước mắt xót thương chúng ta và xót thương thế giới. Anh muốn giọt nước mắt của em, giọt nước mắt thuần khiết Việt Nam của em, nhỏ xuống làm lay động cái bóng tối u mê phủ kín lương tri của loài người. Hãy khóc, em ơi, bởi vì, những giọt nước mắt sẽ làm anh em mình khônlớn, sẽ làm anh em Việt Nam mình khôn lớn. Chúng ta cần thiết khôn lớn bằng những giọt nước mắt thống khổ. Để làm lại quê hương Việt Nam mai này. Chúng ta đi không phải ở lại. Chúng ta đi để về, sẽ về, phải về. Thiên đường đích thực là quê hương chúng ta, là Việt Nam yêu dấu, chỉ là Việt Nam thôi. Mọi nơi khác đều là cõi tạm và đều trống vắng. Vậy thì, anh rất sợ nước mắt không còn long lanh trong mắt em. Khi ấy, em đã quên nỗi khổ. Và em quên nỗi khổ, anh quên nỗi khổ, anh em mình không thể trở về Việt Nam được. Thế nên, những giọt nước mắt lưu vong sẽ nhắc nhở chúng ta một thời bơ vơ trên những thiên đường lạnh buốt. Giọt nước mắt hôm qua nhỏ xuống vuốt ve nỗi khổ. Giọt nước mắt hôm nay nhỏ xuống nuôi dưỡng nỗi khổ. Chúng ta quên nỗi khổ, ta quên luôn quê hương ta, dân tộc ta. Em yêu dấu, anh muốn tâm sự:
Giả sử ngày mai em về Sài gòn
em sẽ mang gì cho quê hương?
Em có còn gì cho quê hương?
sau nhiều năm biệt xứ
sau nhiều năm quá khứ nhầu úa?
Giả sử ngày mai em về Sài gòn
Em có còn là em nữa không?
Em có còn ngọt ngào suối trong
Em còn thuộc ca dao,
còn giữ áo cho nhau thuở nào?
Sợ em đã quên mùi hoàng lan đêm xuân
quên hương cau, thông vàng, bụi phấn
Dậu hoàng cúc thu dạt dào nỗi mình xưa
nhớ chăng em. thềm trưa mây mưa?
ôi giả sử ngày mai em về Sài gòn
Em thành người xa lạ quê hương
Em thành người đường quen xóa bóng
Linh hồn em lạnh cóng
Em vừa hay đã mất Sài gòn
Thế thì những giọt nước mắt lưu vong sẽ soi sáng nỗi khổ Việt Nam, em ơi! Nỗi khổ ấy ở quê nhà, nỗi khổ ấy ở quê người. Nỗi khổ ấy chỉ hết khi những giọt nước mắt vỡ ra thắp rực một hạnh phúc vĩnh cửu. Đó là ngày anh em mình hồi hương. Em, ngày mai sẽ đến. Anh em mình về Việt Nam như loài én báo hiệu mùa xuân trên khắp đất nước. Đêm đen của chủ nghĩa cộng sản tuyệt tích. Chúng ta đã xóa nó rồi.

Tiếng khóc Việt Nam vút lên trời. Trăng ngậm ngùi. Tiếng khóc Việt Nam phóng ra biển. Biển xao xuyến. Mẹ già nằm đó. Mẹ đợi chờ định cư mòn mỏi. Mẹ chết. Linh hồn mẹ lại vượt biển về quê hương. Đất quê hương sẽ ấm hồn mẹ. Mẹ đã đến Sài gòn bồi hồi như đêm vĩnh biệt thành phố ấy.

Nhưng Sài gòn ra sao? Nước mắt vẫn cần cho thành phố bất hạnh đó. Một thi sĩ viết:
Sài gòn trong nhà gửi nỗi buồn
Ra sân, ra ngõ trống, đời trơn
Ra phường, ra phố, ra tăm tắp
Nơi những đề lao giữa núi rừng
Sài gòn trong nhà mẹ ngóng con
Mắt sông cát lấp đã rêu cồn
Miệng thầm kinh nguyện lòng nghi hoặc
Ôi mãi cầu xin vẫn mỏi mòn
Sài gòn trong nhà vợ nhớ chồng
Nhớ khùng, nhớ dại, nhớ lung tung
Nhớ nhiều, nhớ mãi. không quên nhớ
Buổi tối tay anh bị siết còng
Sài gòn trong nhà con đợi cha
Năm sáu mùa xuân bố vắng nhà
Bao giờ bố mới về đây bố
Con lớn khôn rồi biết xót xa
Sài gòn trong nhà đầy ưu phiền
Rất hài hoà cảnh tượng chìm đen
Tủ giường. bàn ghế, nồi, xoong, chảo
Cùng với người chung một nỗi niềm
Sài gòn trong nhà vắng như tờ
Lâu lâu giọt nhỏ vọng hồn xua
Chú thạch thùng quen thôi tặc lưỡi
Và con nhện cũng chán giăng tơ
Sài gòn trong nhà, Sài gòn ơi
Hãy thinh không nhé, hãy trùng khơi
Hãy im lặng đến thời lên tiếng
Vì tiếng em cao vọng tuyệt vời
Sài gòn trong nhà buồn bã, Sài gòn ngoài phố ủ ê. Khuôn mặt chính xác của phồn vinh không giả tạo của xã hội chủ nghĩa đã phơi bày rõ rệt dưới ống kính trung thực của Tây phương. Nó là phần thưởng cao quý của những kẻ đòi hòa bình tức khắc ở Việt Nam. Hòa bình rồi đó. Hòa bình lâu rồi đó. Người đổi đời sống với ma ở nghĩa địa. Người lượm từng chiếc túi ny-lông dơ bẩn rửa sạch để bán kiếm tiền mua gạo chợ đen. Hòa bình rồi đó. Thù hận khởi sự, nhân quyền bị chà đạp, nhà tù mở rộng cửa lùa con người vô tội vào. Hòa bình rồi đó, một hòa bình rỗng tuếch, đói khổ. Thiên đường bánh vẽ cộng sản lộ nguyên hình. Cách mạng cai trị bằng chính sách gạo.
Ngày xưa roi điện thì còn
Ngày nay roi gạo hao mòn thịt xương
Vẫn thứ roi gạo phũ phàng đã quất nát bao tử dân miền Bắc, lại quất ê chề bao tử dân miền Nam. Ông Hồ Chí Minh hứa hẹn: “Đánh xong giặc Mỹ ta sẽ xây dựng lại bằng mười năm xưa.” Chẳng phải thế đâu, chẳng bao giờ có xây dựng mà chỉ có băng hoại, băng hoại đến cả tình người. Con người tưởng đã được đoàn tụ trong khốn cùng, vẫn bị cưỡng bức ra đi. Lưu đầy tại quê nhà? Đi đâu? Những miền tù ngục ngụy trang kinh tế mới. Phấn cách mạng, son giải phóng đã nham nhở trên mặt hề chế độ cộng sản. Người Việt Nam lại đi, lại đói khổ, lại lếch thếch, lại bơ vơ. Và đó là định nghĩa tự do, hạnh phúc của Việt Nam dân chủ cộng hòa biến thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những ai còn ảo tưởng cộng sản nữa đây? Hãy nghe dân gian lên tiếng:
Từ khi ta có Bác Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào…
Mãi mà là khó khăn, là con người oằn vai, cong lưng thay trâu bò trong một xã hội tô son khẩu hiệu “Xã hội cộng sản không còn người bóc lột người”. Cái xã hội tồi tệ đó, lãnh tụ ăn đặc táo và dân chúng ăn khoai mì, ngô, gạo hẩm ròng rã ba chục năm và sẽ ngàn năm…
Ai sinh ra cái củ mì
Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà ăn
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì
Con người bị nô lệ hóa, bị bóc lột tận cùng sức lao động, bị đói khổ, bệnh hoạn. Vậy mà chế độ cứ trơ trẽn khoác lác “Lao động là vinh quang”. Vậy mà Tố Hữu cứ nịnh hót Hồ Chí Minh:
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa của em thơ, lụa tặng già
Sữa nào tặng em thơ? Lụa nào tặng cụ già? Cụ già nằm rên rỉ trên nền đất trong căn nhà ọp ẹp vùng kinh tế mới. Em thơ vừa nhay vú mẹ vừa khóc vì mẹ ăn khoai mì vú làm sao căng sữa? Đảng thay người bóc lột người. Và người lam lũ, khốn nạn gấp trăm lần người dưới ách thống trị thực dân, đế quốc. Người đã có cách mạng, vẫn lao động thi đua với trâu bò. Người đã bị cưỡng bức “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” tồi tệ.
Và đây là Cung Thiếu Nhi của xã hội chủ nghĩa ấy, là trường học dạy bài “trồng người” của ông Hồ Chí Minh. Ở Cung Thiếu Nhi, ở Nhà Trẻ, ở Mẫu Giáo, ở Tiểu Học cộng sản, tuổi thơ đập đá mưu sinh, đập nát hồn nhiên hoa bướm. Tuổi thơ vừa đập đá vừa hát:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng
Ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông
Ba mươi năm dân chủ cộng hòa kháng chiến
đã thành công…
Kháng chiến đã thành công. Và hạnh phúc của tuổi thơ là đập đá. Em bé Sài gòn ơi, ngưng đập đá một chút, được không? Người chị dân công phẫn nộ, quắc mắt diều hâu chống đối cộng sản bóc lột sức lao động ơi, ngưng phẫn nộ một chút, được không? Em gái Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt ơi, ngưng cấy lúa một chút được không? Cho tôi hỏi:
– Sài gòn vui không em?
Và chúng ta đã nghe câu trả lời:
– Sài gòn chỉ vui khi các anh về.
***
Các anh sẽ về. Quân ta sẽ về. Súng đạn sắp theo người về giải thoát dân tộc. Chúng ta có quyền hồi tưởng những chiến thắng Pleime, Bastogne, Bình Long, Kontum, Quy Nhơn, Quảng Trị, Đồng Tháp… Chúng ta có quyền nghĩ tới ngày động đất niềm vui. Bởi vì, chúng ta ra đi chiến đấu cho tự do, không đi tìm tự do. Bởi vì, chúng ta ra đi ngậm thống khổ và còn long lanh những giọt nước mắt, không đi tìm hoan lạc và những trận cười vô nghĩa. Đau khổ làm chúng ta khôn lớn, làm hy vọng phục quốc của chúng ta mọc mầm. Nước mắt làm chúng ta không quên nhục nhằn mất nước và tưới xanh hy vọng của chúng ta. Chúng ta sẽ về như những người lính Cộng hòa năm xưa đã về thủ đô Sài gòn sau mỗi vinh quang chiến thắng. Vùng trời quê hương ta sẽ rộn ràng câu ca nhân ái:
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đáp yên vui dài lâu
Bấy giờ, em ơi, giọt nước mắt cho Việt Nam đoàn tụ, hạnh phúc, thương yêu…

DUYÊN ANH
10-1987

SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (Chương 12)

duyenanh

23 giờ 20. Khí thế cách mạng tăng cường độ. Nhân dân chuẩn bị mít tinh, biểu tình sáng mai từ đêm nay. Đường phố đã nghẹt người, tiếng loa vẫn réo gọi nhân dân đừng quên bổn phận chào mừng cách mạng thành công. Chai rượu thứ hai của chúng tôi còn quá nửa. Tôi khó hiểu tại sao đêm nay tôi không say, dù mệt mỏi, dù ăn ít và uống quá nhiều. Bây giờ, tôi quyết định ra phố xem diễn tiến cách mạng 30-4-75 có giống cách mạng 19-8-45.
Phải thành thật nói rằng, hai mươi năm sống ở Sài gòn, tôi chưa hề thấy đêm nào Sài gòn cuồng nhiệt như đêm nay. Y hệt đêm 19-8-45 ở thị xã Thái Bình của tôi, năm tôi mười tuổi. Dân tộc Việt Nam luôn luôn khao khát cách mạng vì luôn luôn thèm khát hạnh phúc. Chúng ta đã lạm phát cách mạng, lạm phát chủ nghĩa. Mà chúng ta vẫn thiếu hạnh phúc, thứ hạnh phúc đơn sơ đủ làm con người gần gũi con người, đủ để tình tự kết đan tình tự. Khi con người bước gần biên giới của tuyệt vọng, nó sẽ thấy áng lên từ bên kia ánh sáng hy vọng. Bởi thế, cách mạng này hư đốn, chúng ta hy vọng cách mạng khác. Cách mạng khác hư đốn, chúng ta lại hy vọng cách mạng sắp xẩy ra. Nhân dân Sài gòn đang cuồng nhiệt đón chào cách mạng vô sản, sẽ nguội lạnh vài tháng sau. Có thể vài tuần sau. Tôi đoan quyết. Vì tôi đã kinh qua một lần cách mạng tháng 8. Cách mạng tháng 8 ở đêm 30-4 này còn khoác hào quang mười năm kháng chiến chống Pháp giành độc lập, được khoác thêm hào quang 20 năm chống Mỹ cứu nước.
Người ta không nhìn thấy thiên đường, dĩ nhiên. Người ta chỉ nhìn rõ trần gian, nơi người ta đang sống đọa đầy và, dù không biết địa ngục ra sao, người ta vẫn ví trần gian của người ta như địa ngục. Và người ta mơ ước thiên đường. Nếu thiên đường cộng sản, thiên đường xã hội chủ nghĩa miền Bắc Việt Nam được mặc khải như một thiên đường hoang lạnh, ở đó, con người bị tước đoạt quyền làm người, con người biến thành nô lệ thảm hại của thứ chủ nhân ông mới, điêu ngoa và bóc lột tận tình là Đảng, con người sống vô vọng trong đói khổ, ngu dốt, héo hắt, tàn tạ thì chẳng ai mơ ước thiên đường cả. Mặc khải một thiên đường bánh vẽ, đồng thời, phải hiện thực cái trần gian cho nó rực rỡ ý nghĩa làm người và no đầy hạnh phúc con người khao khát. Tiếc thay, cả hai điều đều không có. Và đó là tội ác của Mỹ và đám tướng lãnh thống trị cầy cáo. Kết quả là đêm nay, 30-4-75, dân Sài gòn như những con phù du dưới ánh đèn cực mạnh của chủ nghĩa cộng sản lạc hậu. Thiên đường cộng sản sẽ được người Sài gòn khám phá vào ngày mai. Nó sẽ rỗng tuếch, mốc meo, trơ trẽn, bịp bợm. Người ta sẽ ủ ê, cay đắng, não nề. Và người ta lại lặng thinh ôm ấp niềm hy vọng cách mạng mới. Rồi vẫn thế. Và nghìn năm dân tộc này sẽ tăm tối, sẽ chẳng biết hạnh phúc là cái gì! Thống trách gì đây? Chúng ta khan hiếm lãnh tụ lương thiện? Hay đất nước chúng ta chỉ có lãnh tụ bù nhìn, chỉ có lãnh tụ thích làm tôi mọi cho ngoại bang, chỉ có những thằng hề rẻ tiền múa may trò yêu nước bệ rạc?
Ánh sáng của đèn Mỹ trên những trụ đèn bằng cây Mỹ đem từ Mỹ sang đã soi rõ mầu cờ vô sản đêm Sài gòn đau thương. Tư bản và vô sản cần liên kết. Như môi và răng. Thiếu tư bản, vô sản mất đối tượng đấu tranh. Thiếu vô sản, tư bản hết chính nghĩa khai phóng tự do, dân chủ. Cho nên, tư bản không bao giờ muốn diệt vô sản và ngược lại. Hoa kỳ không thích hại Liên xô. Liên xô không thích hại Hoa kỳ. Cả hai kết hợp để hại các nước nhỏ chậm tiến. Nỗi thê lương nhất của thời đại, khốn nạn nhất của thời đại chúng ta là các nước nhỏ chậm tiến đã xâu xé nội bộ, nhân danh cả tư bản lẫn vô sản. Việt Nam là biểu tượng thê lương và khốn nạn. Hai mươi năm huynh đệ tương tàn để nghìn năm khó ngóc đầu dậy. Bao giờ mới lấp hết hố bom Mỹ? Bao giờ rừng mới hồi sinh tan thuốc khai quang Mỹ? Bao giờ mới trả nợ hết hỏa tiễn Liên xô? Bao giờ mới hết xuất khẩu nô lệ sang Sibérie, sang Đông âu? Không bao giờ cả. Những nước chậm tiến trên thế giới mãi mãi phải nghèo khổ. Để sáng danh chủ nghĩa vô sản. Và để sáng danh cả chủ nghĩa tư bản. Những nước chậm tiến trên thế giới lại mãi mãi cần phải có chiến tranh. Để Hoa kỳ và Liên xô đọ vũ khí mới. Thế thì ánh đèn tư bản soi rõ mầu cờ vô sản là chuyện đương nhiên. Liệu nó có soi sáng lương tri nhân loại? Liệu nó có soi sáng lương tri dân tộc Hoa kỳ?
Tiếng loa phóng thanh “giải phóng” ý nghĩ của tôi, bắt tôi trở về thực tại. Ngày mai, 1-5, còn là ngày Lao Động quốc tế nữa. Người Mỹ đã chọn ngày lành tháng tốt để tặng cộng sản Việt Nam. Và bài hát rất xưa lại vang vọng đêm nay:
Ngoài kia lời non nước
đang nhắc ta
mau nhắc cao giống nòi
yêu mến muôn giống người
Ngoài kia công nhân ơi
quốc tế đang giơ tay đón chào bầy con đoàn kết
từng nhớ những phút chiến thắng
tiền phong đua tranh bao năm
lầm than đau thương trong khốn cùng
Giải phóng thống nhất đất nước
Việt Nam ra công chen vai
cùng thế giới mới sống chung
tranh đấu cuối cùng là đời sống
với giang sơn
công nhân Việt Nam chiến đấu
cùng sống tập đoàn toàn thế giới công khai
và kiến thiết xã hội ngày mai
Lúc đế quốc đang sắp tan rã dần
Ta tiền phong tiến tới
Sức chiến đấu đi xuống miền Đông Nam
Lúc đế quốc đã tàn…
Tham vọng của cộng sản Việt Nam là nuốt gọn các nước Đông Nam Á. Họ không ngần ngại bộc lộ tham vọng này. Sớm hay muộn thôi, cộng sản sẽ thôn tính Thái Lan, Mã Lai… “Tiền đồn chống cộng của Đông Nam á” đã bị san bằng. Cộng sản đã nuốt miền Nam, họ sẽ nuốt Đông Nam á. Có khi lại là điều hay. Bởi vì, lúc ấy, sự phản công của các nước Đông Nam á sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho người Việt Nam giải thoát quê hương mình khỏi ách cộng sản. Nhân loại rất nên nếm mùi cộng sản. Chưa nếm mùi cộng sản, nhân loại vẫn ham… làm dáng cộng sản và tưởng rằng cộng sản là đồ trang trí cho vui mắt đời sống. Bài hát Công nhân Việt Nam dạo đầu cho cuộc mít-tinh, biểu tình ngày mai, 1-5, vừa chào mừng cách mạng thành công vừa chào mừng Lao Động quốc tế thành công thật hợp tình, hợp cảnh. Đảng cộng sản Việt Nam vẫn núp trong áo Đảng Lao Động Việt Nam. Tôi muốn bài hát bay vút sang Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba… Nhưng nó tắt ngủm, nhường cho bài Đảng Lao Động Việt Nam.
Đảng Lao Động Việt Nam
Đảng của chúng ta
vì giai cấp cần lao
Đảng mưu giải phóng nước nhà
Đảng chúng ta là mặt trời
Hồ Chí Minh là mặt trời
dìu dắt cho muôn lớp người vùng lên…
Hai đứa tôi đến một góc phố. ở đây, một chị cán bộ giép râu được bảo vệ bởi thanh niên Cờ Đỏ đang “phổ biến” những bài ca ngợi Bác cho các em nhi đồng. Các em yêu cầu chị hát bài ca cách mạng. Chị cao giọng:
Như bao cô gái ở trên non
Cô gái sông Ba đầu búi tóc thon
Tay vót chông miệng hát không nghỉ
Như bao cô gái ở trên non
Như bao cô gái ở Tây Nguyên
Ai nhanh tay vót bằng tay em
Chim hót không hay bằng tiếng hát em
Mỗi mũi chông nhọn hoắt căm thù
Xuyên thây quân cướp nào vô đây
xuyên thây quân cướp nào vô đây
Còn giặc Mỹ cọp beo
Khi còn giặc Mỹ cọp beo
Em chưa ngừng tay vót chông rào làng
Nhưng nay mai giặc chạy rồi
Tre rừng ta làm nhà làm chòi cao
Ê, chân ta đi chưa mỏi
Trời trong xanh
Em còn vót chông rào làng nữa
Ê quân xâm lăng nào vô đây
Chờ bọn bay
Diệt bọn bay…
Các em nhi đồng vỗ tay hoan hô. Chị cán bộ tuyên văn giáo dục tiếp các em nhi đồng Sài gòn những bài ngắn thù hận giặc Mỹ, thù hận đế quốc. Không có gì lạ cả. Tháng 7-1954, tôi đã thấy ở những góc phố thị xã quê hương tôi, các chị cán bộ tuyên văn giáo dục các em nhi đồng thù hận giặc Pháp, thù hận đế quốc, thù hận địa chủ, ca ngợi Bác Hồ, Bác Mao, ca ngợi Liên xô, Trung quốc Thù hận “trồng” từ 1954, tiếp tục “trồng” đến 1975, và vô tận, theo chủ trương “trồng người” của ông Hồ Chí Minh. Tôi biết, từ chập tối ở các góc phố, ở các khu phố, cán bộ tuyên truyền văn hóa của cộng sản đã tụ tập thiếu niên, nhi đồng để dạy những bài ca cách mạng cho rộn ràng cách mạng sáng mai. Về điểm này, cộng sản rất “nghề”. Trẻ con mau thuộc bài và hăng say hát. Tôi chợt nghĩ thân phận tôi. Tôi quả là không khá. Riêng bài thơ Em bé của tôi đăng trên tạp chí Chỉ Đạo năm 1960 đã đủ gây hệ lụy cho tôi rồi.
Hôm nay em đi học
Mắt ngời ánh hào quang
Những vì sao mới mọc
Thắp lửa rực huy hoàng
Trang vỡ lòng thầy dậy
Đánh vẫn chữ Việt Nam
Con đi nước con đấy
Đẹp tự bốn nghìn năm
Tay mềm tô nét viết
Xanh mướt nghĩa yêu thương
Chao ơi là tha thiết
Mộng ước gửi ngàn phương
Tiếng em mùa xuân ấm
Bài quê hương loài người
Không biên thùy ngăn cấm
Không ai khóc cuộc đời
Và mãi hồn thơ ấy
Cây hạnh phúc muôn thu
Xin đừng ai nỡ dạy
Em tôi nói căm thù
Tôi đã chống chủ trương “trồng người” của ông Hồ Chí Minh, của cộng sản. Họ dạy tuổi thơ thù hận, tôi dạy tuổi thơ thương yêu. Cả đời tôi, tôi loay hoay giáo dục tuổi thơ không thù hận. Rốt cuộc, thù hận hai phía trút xuống đầu tôi. Cộng sản không tha, quốc gia không dung là vậy
Tôi muốn đi xa thêm. Nhưng chỗ nào cũng thế, Sài gòn đêm nay. Với cộng sản là rập khuôn. Một cảnh tượng là triệu cảnh tượng. Giống nhau như khuôn đúc. Một khẩu hiệu là triệu khẩu hiệu. Không được thiếu. Không được thừa. Những kẻ thiếu sáng tạo mà cứ đòi “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” nghĩ thật buồn cười.
– Về chứ Long?
– Về thì về.
– Chẳng có gì khác hơn 19-8-1945.
– Giống hệt 1954.
– Thế mà nó thắng?
Đặng Xuân Côn thở dài. “Thế mà nó thắng”, bốn tiếng nghe sao não nùng, ai oán? Hai đứa tôi trở về nhà, tiếp tục cuộc rượu. “Cõi đời ngoảnh mặt quên xa tiếc”, tôi không nghĩ gì chuyện ngoài phố, chuyện ngày mai nữa. “Ngày mai ra sao rồi hãy hay”. Chúa Jésus đã dạy: “Ngày mai để cho ngày mai lo”.
– Long ạ. Tao cho rằng nó đã thắng, nó không cần hủy diệt bọn nhà văn đâu.
– Ông không hiểu cộng sản. Và ông càng không hiểu hệ lụy văn chương. Văn chương nó gắn liền với tư tưởng. Con người làm văn chương tư tưởng sẽ chết nhưng văn chương tư tưởng của nó tồn tại và ảnh hưởng mãi mãi. Cộng sản không tha bất cứ nhà văn nào chống đối tư tưởng của họ, trừ bọn nhà văn huê tình, rỗng tuếch… Uống đi và đừng lo cho tôi. Tôi được sống với ông trọn hôm nay là đáng sống rồi. Nếu tôi phải ân hận là tôi chưa hề làm cho ông vui lần nào. ông hy sinh cho tôi đủ thứ mà tôi không biết nhường cho ông đứa con gái, hồi chúng ta ba đào ở Nhà Hát Tây.
– Quên chuyện ấy đi!
– Làm sao mà quên? Ông thất tình ngã xước máu chân! Tôi nên thanh thỏa chuyện này trước khi tôi chết hay là tôi quằn quại trong ngục tù.
– Mày sẽ gặp hư vô?
– Mong lắm.
Hai đứa tôi cụng ly. Tưởng chừng, ngày xưa còn bé, Vũ và Côn uống những ly xi-rô Grenadine thơm phức ở đầu cầu Bo. Chúng tôi chơi với nhau từ tiểu học trường Monguillot. Nhật đảo chính Pháp, có chúng tôi chứng kiến. Chúng tôi chứng kiến Nhật chặt đứt tay người Việt Nam đói khổ ăn cắp thóc nuôi ngựa Nhật. Chúng tôi chứng kiến Nhật treo dộng đầu người xuống, trên cây cao. Rồi chúng tôi đi đếm xác người chết đói, đi ăn mày cơm gạo cứu đói. Chúng tôi chứng kiến cách mạng 19-8. Ký ức của chúng tôi còn nguyên vẹn Tầu phù tước khí giới Nhật, tiêu thổ kháng chiến, chiến tranh, di cư… Và hôm nay, giải phóng Chúng tôi đã trải dài đời mình theo những biến cố chập chùng của đất nước. Đã hết chưa? Côn chưa muốn hết. Nó đã dựa lưng vào ghế, mắt lim dim ngủ, tay còn cầm ly rượu.
***
Tôi không biết danh sĩ thời xưa đã mấy ai, chờ chết một ngày dài nhất đời mình, một ngày dài nhất của dân tộc mình, của thời đại mình. Hình như chẳng có ai. Thời của người xưa hiền như người xưa. Nên, “một ngày dài ghê” mới chỉ là “ba thu cộng lại”. Thời của người xưa đơn giản như người xưa. Nên, người xưa thản nhiên chờ đợi cái chết cơ hồ đợi chờ cuộc phiêu du vào hư vô. Người xưa không bị tưởng tượng cách chết, kiểu chết tính bằng co rút của tế bào, tính bằng héo khô của mạch máu, tính bằng rời rạc của nhịp tim. Ngày dài nhất của thời đại chúng ta là hai mươi năm cộng lại. Ròng rã hai mươi năm phiền muộn, chiến tranh, tang tóc, sinh ly, tử biệt. Chúng ta có ngày dài nhất lấy máu mà đo, đem nước mắt mà lường vì chúng ta được Hoa kỳ khai phóng tự do, dân chủ. Ngày dài nhất của chúng ta nghẹn ngào hơn bất cứ ngày dài nhất nào của loài người, từ khai thiên lập địa. Bởi nó là ngày dài nhất báo hiệu những ngày dài nhất, những vô tận ngày dài nhất, nhục nhằn nhất, cay đắng nhất, oan khiên nhất trên quê hương chúng ta. Muốn đo lường chính xác, và muốn cực tả niềm đau, phải dùng giây kẽm gai viện trợ Mỹ mà kéo chiều dài của ngày dài nhất. Hiểu tại sao chứ? à, giây kẽm gai viện trợ Mỹ không kịp di tản sẽ rào quanh nhà tù, trại tập trung cộng sản. Danh sĩ thời xưa thiếu hẳn cảm giác hứng đòn ý thức hệ. Người thời xưa không thèm nhìn mỏ Con ó, không thèm ngắm móng Con Gấu. Người thời nay bất hạnh hơn, bị Con ó mổ mù mắt, bị Con Gấu cào bấy tim. Để chờ chết một ngày dài nhất.
Còn hệ lụy văn chương của danh sĩ thời xưa thế nào? Mới chỉ nghe kiêu sĩ Cao Bá Quát lên đoạn đầu đài. Nhưng kiêu sĩ Cao Bá Quát bay đầu đâu phải tại văn chương – tư tưởng? Cái kiêu bước thêm vài bước thành cái cuồng. Cái cuồng biến thể sang ngông. Và họ Cao làm loạn tiêu sầu. Rượu chưa đủ là thế. Văn học sử chép lời giăng giối của Cao Bá Quát:
Ba hồi chuông dục: Đù cha kiếp
Một nhát gươm vung: Đéo mẹ đời
Tôi không nghĩ rằng khẩu khí của Cao Bá Quát bình thường vậy. Kẻ nghịch thiên Cao Bá Quát đếm xỉa chi cái kiếp, cái đời. ông đã chửi cái thế, cái thời. Theo tôi, ngạo nghễ bước lên đoạn đầu đài, Cao Bá Quát đã sang sảng:
Ba hồi chuông dục: Đù cha thế
Một nhát gươm vung: Đéo mẹ thời
Đấy mới là Cao Bá Quát. Há Ngô Thời Nhiệm chẳng đem thời thế trả miếng Đặng Trần Thường đó sao? Dẫu gì chăng nữa, Cao Bá Quát không hề bị bức tử vì văn chương – tư tưởng mình. Danh sĩ thời xưa hạnh phúc gấp bội danh sĩ bây giờ. Lan Khai bị nhốt vào rọ ngâm nước. Khái Hưng bị dìm dưới sông. Phan Khôi bị cô lập chết mòn. Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An nằm tù, Nhân Văn Giai Phẩm đi cải tạo…. Tôi hiểu thân phận tôi sẽ ra sao, sắp ra sao.
Nhưng tôi bằng lòng thân phận tôi, tự hào thân phận tôi. Tôi chống cộng sản tự nguyện. Mười lăm năm cầm bút của tôi, tôi không hề điếm nhục ngửa tay nhận tiền của Mỹ, của các chế độ Sài gòn để làm công việc đánh đĩ văn chương – tư tưởng. Tôi chống cộng sản và vì lý tưởng chống cộng sản, tôi chống luôn cả chính sách xấc xược của Mỹ áp đặt lên số phận dân tộc tôi, chống luôn cả tập đoàn thống trị bù nhìn và bè lũ điếu đóm, chống luôn bọn tham nhũng thối nát, bất tài, vô tướng, chống luôn đám hề chính trị rẻ tiền. Nói tóm lại, tôi chống tất cả những gì nuôi dưỡng cộng sản và làm sáng chính nghĩa cộng sản. Theo tôi, những bất công xã hội, những đàn áp phát-xít đã dồn dân chúng miền Nam vào con đường cùng. Dân chúng xa quốc gia, gần cộng sản là bởi lãnh đạo quốc gia ngu dốt. Tôi chống cả đảng phái hèn mạt lẫn những kẻ đội lốt tôn giáo lãnh đoạn chính trường. Người ta bảo tôi có lắm kẻ thù. Tôi không tin. Tôi đã viết 50 tác phẩm văn chương. Độc giả của tôi nuôi dưỡng tôi tận tình, cống hiến tôi đời sống vật chất dư dả. Tôi tự hào là một nhà văn chuyên nghiệp nhiều độc giả nhất nước, nhiều độc giả tuổi trẻ nhất nước. Những kẻ coi tôi là kẻ thù là những kẻ không được tôi xếp vào hạng kẻ thù của tôi Họ ở dưới kẻ thù của tôi vô số bậc. Còn những kẻ đố kỵ tài năng của tôi, cay cú với lòng yêu mến của độc giả của tôi dành cho tôi là những kẻ luôn luôn đứng sau tôi, xa tít tắp. Họ rất đáng tội nghiệp và cần được khích lệ như những người có triển vọng ở tương lai. Tôi cô đơn sáng tạo. cô đơn chiến đấu và cô đơn chết. Nhân danh điều thiện, người thiện chống việc ác, kẻ ác tôi chết. Tôi chưa biết cộng sản bức tử tôi kiểu nào.
Tôi bỗng có một nỗi sợ hãi mới, sợ hãi hơn cả sợ hãi chết trầm. Là cộng sản không quăng tôi vô biển máu hay bắt tôi chết mòn trong tù ngục. Nếu cộng sản không thèm trả thù tôi, không thèm đếm xỉa đến tôi, tôi sẽ bị sống nhục nhã. Vì văn chương, tư tưởng của tôi chẳng giá trị tí nào. Và con người tôi cũng vô giá trị. Tôi sẽ cúi gầm mặt ở bất cứ nơi đâu trên trái đất. Tôi hết dám chống cộng sản, trừ khi tôi là đứa vô liêm sỉ.
Nỗi sợ hãi mới đã giúp tôi thản nhiên chờ đợi đao phủ và hình cụ của nó.
***
24 giờ rồi. Tôi đã trải qua một ngày dài nhất trong đời tôi, một ngày mà nhiều đời người không có. Văn hào Walter Scott viết: “Không ai đủ giầu để mua lại dĩ vãng đích thực của mình”. ở đâu đó, ngoài nước Việt Nam, sẽ có một người Việt Nam tiếc rẻ: “Tôi là tỷ phú, thừa mứa tất cả, chỉ thiếu một Sài gòn, ngày dài nhất”. Và đó, bất hạnh trong hạnh phúc. Tôi đầy đủ ngày dài nhất ở Sài gòn. Và, cũng đó, hạnh phúc trong bất hạnh.

DUYÊN ANH
1988

SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (Chương 11)

duyenanh

22 giờ 30. Tiếng loa réo gọi tham dự mít tinh chào mừng cách mạng thành công sáng sớm mai làm rung cửa kính. Côn đề nghị bật đèn. Tôi đồng ý. ánh sáng ngập căn phòng. Tàn thuốc lá bừa bãi trên bàn xa-lông. Chúng tôi đã uống cạn chai rượu thứ nhất. Thiếu úy Bảo và trung sĩ Thân thấm mệt. Tôi dục hai thằng em kết nghĩa đi ngủ.
– Các em yên tâm, không có chết chóc gì cả, không có biển máu. Một nhà cách mạng chính cống đã quả quyết với anh rằng, cách mạng đại xá, đại đại xá.
– Sao lúc nãy anh không chịu nói? Bảo hỏi.
– Anh thử xem em can đảm đến đâu. Tôi đáp.
Bảo và Thân đi ngủ. Còn Côn với tôi. Chai rượu thứ hai được khui.
– Mày vừa nói gặp nhà cách mạng chính cống.
– Ừ.
– Ai đó?
– Phan Kim Thịnh.
– Thằng ấy?
– Nó chơi giép râu, nón tai bèo.
– Nó nằm vùng?
– Thứ rắn độc. ông đừng ngạc nhiên, nếu chúng ta không chết, sẽ có dịp nhìn rõ những thằng nằm vùng trong mọi lãnh vực. Và chúng ta sẽ há hốc mồm.
– Tại sao?
– Vì toàn những đạo đức gia khổ hạnh và chống cộng hơn cả người chống cộng hung hăng nhất.
– Nó nói cộng sản đại xá à?
– Ừ.
– Mày tin nó?
– Tin mẹ gì, tôi trấn an cu Bảo.
– Tao nghĩ nó đại xá thật.
– Ông nghĩ thì cứ nghĩ. Cộng sản nó làm gì, mình đâu đoán nổi. Nó bảo không là có, có là không. Nó qua mặt cả thế giới.
– Long?
– Đừng hỏi thêm nữa. Uống rượu đi.
– Tao mở ti-vi nhé?
– Chớ.
– Xem nó nói gì chứ?
– Nó khoe nó đánh Mỹ cút, Ngụy nhào.
– BBC vậy?
– Nó tường thuật cộng sản vào Sài gòn.
– VOA?
– Nó khen Việt cộng.
– Hay là mày với tao ra cổng ngắm nhân gian?
– Không. Ông làm ơn mở cửa cho khói thuốc tan loãng giùm.
Cửa mở. Khí thế cách mạng bên ngoài ùa vào nhà tôi “Nhân dân” ca hát, hô khẩu hiệu vang trời. “Nhân dân” không ngủ đêm nay. Họ không ngủ trong bóng tôi. Và họ khóc. Sao 30-4 dài thế? Với tôi, nó dài hơn cả đời tôi. Côn lại khép cửa. Chúng tôi uống rượu, hút thuốc chờ sáng. Đêm qua tôi đã chờ sáng. Đêm nay tôi vẫn chờ sáng. Tôi chẳng bao giờ ngu dại tin rằng cộng sản tha tôi. Ngày Chu Tử bị ám sát, tôi viết bài Nỗi cô đơn của người cầm bút đọc tại Viện âm nhạc và kịch nghệ quốc gia là tôi đã tiên đoán thân phận của tôi. Rồi tôi viết thêm bài nữa, đăng trên Sống*. Khẳng định tôi là kẻ cộng sản không tha, quốc gia không dung. Đến cuốn Tháng giêng ngon như một cặp môi gần xuất bản tháng 2-1975, tôi miệt thị cộng sản là bọn trả thù vặt và nói rõ, “đời sẽ có kẻ gọi ta là phản động.” Thế thì cộng sản phải trả thù tôi. Họ không trả thù tôi là họ thiếu lô-gích, họ hết là cộng sản. Cộng sản không tha tôi, đã đành. Nhưng tại sao quốc gia không dung tôi? Cái thứ gọi là quốc gia mà biểu tượng là Nguyễn văn Thiệu, Đặng văn Quang không được tôi xếp hạng quốc gia chân chính. Người quốc gia chân chính chưa hề nắm quyền bính tối cao. Tôi hằng coi Hà Nội như phỉ quyền, Sài gòn như ngụy quyền. Tôi thiết tha tranh đấu để có một chính quyền trên quê hương tôi. Muốn thế, cuộc chiến đấu của tôi phải loại bỏ phỉ quyền tôi tớ của Liên xô và ngụy quyền tôi tớ của Hoa kỳ. Và đích thị tôi là kẻ cộng sản không tha, quốc gia không dung. Họa may, quốc gia chân chính sẽ dung tôi. Tôi hy vọng thế.
Nhiều bằng hữu bảo tôi là kẻ nghịch thiên. Tôi không chối cãi. Tôi xác định thái độ nghịch thiên của tôi:
Thản nhiên ngước mặt ngạo trời
Trong cơn hồng thủy vẫn cười ngả nghiêng
Kể từ đời tắt lửa thiêng
Nỗi ta đối địa nghịch thiên mộng cuồng
Chém ngang độc nhất vô song
Tìm ra cái lẽ vô cùng thênh thang
Hỡi ơi tai đục trần gian
Sao nghe nổi máu cung đàn bão mưa
Hỡi ơi mắt trắng cõi thừa
Sao nhìn nổi ngọc trên thơ tỏ tình
Chung thân can tội nghịch thiên
Còn say cuồng mộng thản nhiên ngạo trời
Tên nghịch thiên ngồi uống rượu với bạn thơ ấu chờ sáng và chờ chết. Nó kiểm điểm nó. à, nó đã có 50 tác phẩm văn chương, 200 số báo Tuổi Ngọc, hơn 10 ngàn bài báo. Cộng sản không tha, quốc gia không dung nó nhưng đã có đứa nào bén gót nó?
– Này Côn.
– Gì?
– Người ta sẽ hâm mộ Con Thúy.
– Tại sao?
– Vì người ta sẽ thấy sau 30-4-75, giống hệt sau 19-8-45. Tôi đã viết về son phấn cách mạng nhạt nhòa.
– Mày nói đúng.
– Này Côn?
– Gì?
– Ông sẽ thoát biển máu. Tôi, có thể, sẽ thoát biển máu nhưng tù rục xương. Tôi muốn noi gương nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh.
– Sao?
– Khi tôi chết, đừng ai khóc. Cả ông nữa. Hãy cười, cười, cười?
Côn nín thinh. Giây lát, nó lảng qua chuyện khác.
– Mày biết ông Nguyễn Mạnh Côn làm quân sư cho tướng Vĩnh Lộc không?
Tôi ngạc nhiên xuýt rơi ly rượu:
– Thật à?
– Thật.
– Hèn chi Chậm bước tiên phong, muộn chiến trường. Chắc chắn, ông Vĩnh Lộc phải đợi ông Côn hút đủ cữ rồi mới hiến kế. Hóa cho nên, ông Vĩnh Lộc lên ti vi tối qua sốt ruột dữ.
Tôi nhớ cuối triều đại Ngô Đình Diệm, anh Nguyễn Mạnh Côn ra ứng cử dân biểu đơn vị quận 3, Sài gòn. Tôi cho anh ta vay tiền bán tập truyện Hoa thiên lý và đi a-lô vận động giúp anh ta. Hôm ra mắt cử tri ở trường tiểu học Chí Hòa, anh Côn là người nói thứ nhì, sau Huỳnh Thành Vị. Tốt quá. Vì họ Huỳnh mở màn cho anh Côn. Tôi ngồi đợi anh hút no thuốc phiện rồi mới rửa mặt, đánh răng. Rồi chở Vespa, đưa anh lên địa điểm. Chúng tôi tới, cử tri về gần hết. Vì anh đến trễ, nói sau cùng?
– Ông Ngô Đình Nhu xưa muốn cất nhắc ông Côn, chỉ chê tội nghiện.
– Nay ông Vĩnh Lộc xài. Vận nước đã hết. Tôi chờ chết là hợp lẽ trời.
Bèn nốc cạn ly:
– Đời nhà Thanh, dân Tầu mới hít tô phe bạo. Mừng cho Lưu Bang và mừng cho Lưu Bị. Vì Trương Lương, Tiêu Hà, Khổng Minh không đong thóc! Ông Vĩnh Lộc đồng hóa văn nghệ với quân sự. Hỏng, hỏng! Tại hạ có lời chê điểm này.
Đặng Xuân Côn dứt cuộc:
– Bây giờ, quân sư đang nằm “đong”, tân Tổng tham mưu trưởng đi đâu không rõ, “nhân dân” hồ hởi phấn khởi và nhân dân ôm nhau khóc trong bóng tối.
***
23 giờ. Không biết mấy giờ ở Guam? Bằng hữu văn nghệ của tôi đã đến đảo Guam chưa, hay còn lênh đênh ngoài khơi, trên hạm đội số 7? Tôi chợt nghĩ tới những người Việt Nam yêu tự do, chấp nhận báng súng của “lính thủy đánh bộ” Mỹ, dắt díu nhau leo lên nóc tòa đại sứ Mỹ rồi, sau 8 giờ 30, lủi thủi bước xuống, lếch thếch trở về. Những người Việt Nam thiếu may mắn di tản đang làm gì giờ phút này? Chắc chắn, họ đang sợ hãi, đang khóc và đang thèm được chết ngon lành. Đêm qua là đêm không ngủ của tôi. Đêm nay là đêm không ngủ của Sài gòn, của cả miền Nam. Không ngủ ngoài đường. Không ngủ trong nhà. Hoặc dẫu ngủ, chỉ là những giấc ngủ chập chờn như tên một tác phẩm của Nhật Tiến. Trong những giấc ngủ chập chờn, con người thấy chập chờn những huyệt sâu chôn sống tập thể, những mã tấu vung chặt ngang thây, những băng đạn ria phọt suối máu… Và tôi, không ngủ để hình tưởng một cái cần xé chứa tảng đá và tôi ràng giây kẽm gai kín nắp liệng xuống khúc sông nào đó. Tôi chết từng giây. Tôi biết tôi chết. Tôi sặc sụa. Tôi đau đớn. Tôi giẫy dụa. Trước đó, tôi phải đứng trước đám đông phán quan y hệt tên da trắng đứng trong vòng vây của dân da đỏ, phải tự thú mình có tội với Đảng, với Cách mạng, với Nhân dân? Tôi được phép mở to mắt để nhìn đám đông phán quan của thời đại tôi Chỉ có vài tên cộng sản chính thống. Còn rặt nhân dân bị cưỡng bức hận thù. à, trong đám nhân dân bị cưỡng bức hận thù, có vài đứa theo chủ nghĩa dậu đổ bìm leo. Những đứa này to mồm nhất, nỏ họng nhất. Chúng nó xỉa xói tôi, kết tội tôi, ném đá trúng thân thể tôi. Chúng nó vớ được cơ hội ngàn năm một thuở để tuyết hận thua kém tôi mọi mặt. Cỏ hèn vươn vai chống đại thụ. Tôi sợ hãi chứ. Nhưng không sợ hãi bọn dậu đổ bìm leo. Tôi xón đái ra quần. Tôi nghĩ những giọt nước tiểu của tôi dành cho bọn dậu đổ bìm leo ở khắp nơi trên trái đất Tôi đã tưới mát cỏ hèn. Đại thụ đã ban phước cho cỏ hèn. Hãy nhận phước ấy, cỏ hèn? Hãy nhận và đừng ân hận sự hóa kiếp. Bởi vì, cây cỏ luân hồi vẫn cỏ cây. Chỉ có con người, con người công chính và việc làm công nghĩa mới được phục sinh rạng rỡ. Và mãi mãi là con người.
– Long!
– Gì?
– Nếu ngày mai mày chưa chết?
– Thì ngày mốt.
– Nếu không có biển máu?
– Thì chết mòn trong tù ngục.
– Mày chấp nhận chết mòn?
– Tại sao?
– Vì tôi mong gặp hư vô.
– Hư vô là con mẹ gì?
– Là mềm bí ẩn của đời sống. Niềm bí ẩn này chỉ tìm gặp trong ngục tù, thống khổ và cô đơn.
– Mày sảng chưa?
– Còn rất tỉnh để sợ chết, dẫu chết cách nào, kiểu nào.
– Nghĩa là mày thèm sống.
– Dĩ nhiên.
– Sống mòn và chết mòn?
-Tôi vừa nẩy ý tưởng mới. Tôi muốn tìm hạnh phúc trong bất hạnh.
– Mày lãng mạn.
– Luôn luôn lãng mạn. Lãng mạn đến chết.
Hai đứa tôi cụng ly. Bên ngoài, đường phố xôn xao tiếng nói, rầm rập bước chân. Tôi không còn tin rằng nhân dân bị cưỡng bức ra đường hoan hô cách mạng thành công nữa. Nhân dân nghèo khổ đã thật tình và nhiệt tình hoan hô cách mạng. Tội nghiệp nhân dân! Nếu họ đã đọc Con Thúy của tôi. Đừng trách móc nhân dân. Nhân dân là thế. “Bạc như dân” mà! Nhân dân oán ghét chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và nhân dân hoan hô cách mạng 1-11-1963. Cách mạng của lũ thoán nghịch không đem lại hạnh phúc cho nhân dân trong vòng ba tháng, nhân dân lại oán ghét và hoan hô đảo chính, chỉnh lý. Dưới chế độ quân phiệt Nguyễn văn Thiệu, tham thũng ngập ứ, thối nát tận óc, bất công đầy rẫy, đàn áp không thương xót, nhân dân thù hận và mong đợi tân cách mang. Nhân dân lại hoan hô như đã hoan hô. Và rồi, ba tháng sau thôi, nhân dân sẽ ủ ê với cách mạng vô sản. Kể từ dân tộc Việt Nam làm quen cách mạng, chưa bao giờ niềm vui kéo dài quá ba tháng. Rốt cuộc, cái dân tộc hẩm hiu này không thiết đoái hoài tương lai nữa. Tương lai tồi tệ hơn hiện tại và nghiệt ngã hơn dĩ vãng.
– Long?
– Gì?
– Lúc mày đi mua rượu, thằng Tự chạy ngang qua cổng nhà mình.
– Nó là lính thủy sao không theo tầu mà chạy?
– Phải thi hành sứ mạng đến tận 9 giờ. Vả nữa, vợ con nó còn nằm nhà.
– Sứ mạng gì?
– Gài mìn đánh sập cầu Đồng Nai ngăn chặn xe tăng cộng sản vào Sài gòn.
– Cầu không sập?
– Tại sao?
NHỮNG NGƯỜI LÍNH THỦY VIỆT NAM CỘNG HÒA NHÂN BẢN
Những người lính thủy được chỉ huy can đảm giao cho sứ mạng đánh sập cầu Đồng Nai trên xa lộ Biên Hòa để ngăn chặn xe tăng cộng sản tiến vào Sài gòn đã hoàn tất nhiệm vụ lúc 9 giờ ngày 30-4- 1975. Cả tấn TNT gài kín gầm cầu, bọc kín chân cầu. Xe tăng cộng sản từ Long Khánh bò vô, bị quân dân Tam Hiệp đón đánh. Trận chiến hào hùng và lãng mạn này kết thúc mau lẹ nhưng đã làm chậm bước tiến của cộng sản. Xa lộ lúc ấy, hai bên cầu Đồng Nai, nườm nượp dân chúng chạy giặc và đông đầy binh sĩ tan hàng. Dân chúng Sài gòn chạy xuôi. Dân chúng Biên Hòa chạy ngược. Cầu Đồng Nai nghẹt người và xe cộ. Cùng với ông già, bà lão, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng, những anh lính thủy giữ trọng trách đánh sập cầu còn nhìn rõ xe tăng cộng sản, bộ đội miền Bắc. Sức công phá của TNT gài dưới cầu sẽ làm tung bay cốt sắt xi-măng, phạm vi một cây số vuông. Và dân chúng sẽ bị chết, bị thương vô kể.
Những người lính thủy quay giang dinh, lao nhanh về căn cứ. Cầu Đồng Nai không bị đánh sập. Nếu là Mỹ, cây cầu sẽ bị đánh sập. Nếu là cộng sản, cây cầu sẽ bị đánh sập Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng với Việt Nam, cây cầu không bị đánh sập. Hình như nhận loại chưa biết chuyện này. Chúng ta thua trận, còn vì tình thương và lòng nhân đạo nữa…

DUYÊN ANH

SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (Chương 10)

duyenanh

21 giờ. Tôi đứng vỉa hè Công Lý số chẵn nhìn sang nhà tôi. Đặng Xuân Côn đợi tôi trước cổng. Con đường Công Lý như con đường Hai Bà Trưng, như tất cả những con đường của Sài gòn, cuồn cuộn sóng người. Người người, lớp lớp. Phải nói lớp lớp người, lớp lớp cờ, lớp lớp khẩu hiệu. Không phải là sự sách động ngoạn mục của cộng sản đâu. Cũng không phải là sự tình nguyện hoan hô cách mạng vô sản đâu. Mà chỉ là lời hăm doạ biển máu của người Mỹ vất lại, trước khi họ cuốn cờ cút chạy. Người Mỹ thí quân dân ta khá nhiều. Người Mỹ bỏ ngỏ Mậu Thân cho cộng sản tiêu diệt quân dân ta, cho những nấm mồ chôn sống tập thể ở Huế. Người Mỹ đẩy quân ta sang Hạ Lào cho một chiến trường đợi sẵn của cộng sản để quân ta thảm bại. Người Mỹ oanh kích tự do như khai phóng tự do, dân chủ xuống những vùng nông thôn khó kiểm soát an ninh. Người Mỹ thả bom CBU thí nghiệm lương tâm dân tộc Mỹ và lương tâm nhân loại. Chẳng có phản ứng gì? Người Mỹ dọa biển máu, tặng cộng sản một cuộc tiếp rước linh đình của dân miền Nam. Và, một số người Việt Nam lý luận rằng, nhờ Mỹ dọa biển máu mà cộng sản không dám chơi biển máu. Người ta không chịu hiểu rằng thời đại của tàn sát đã cáo chung. Biển máu của Mỹ chỉ nhắm mục đích khiến chúng ta sợ hãi tìm lối thoát thân để quên hết chuyện kết đoàn chiến đấu ngăn chặn cộng sản. Và rồi, vì sợ hãi biển máu, dân Sài gòn cam đành ra đường phố hoan hô cộng sản. Chẳng còn nỗi đau đớn nào hơn nỗi đau đớn mỉm cười hoan hô cộng sản trong cảnh huống rụng rời sợ hãi. Con người có khôn lớn chút nào từ nỗi đau đớn này không nhỉ?
Tôi cố lách băng qua đường. Không còn chỗ cho xe đạp lưu thông nữa. Cũng không thấy bóng dáng bộ đội miền Bắc và giải phóng quân miền Nam trong người người, lớp lớp. Toàn là dân Sài gòn. Đủ mọi thành phần. Cỏ đuôi chó và bọn nằm vùng, tay đeo băng đỏ, điều khiển an ninh, trật tự. Tôi vất vả lắm mới len tới cổng nhà mình, hai chai rượu còn nguyên. ‘
– Mày đi lâu thế? Côn hỏi.
– Gặp thằng Thế Phong, ăn tô mì, uống chai bia. Tôi đáp.
– Bình yên.
– Bình yên cái gì?
– Chưa có dấu hiệu hỏi thăm mày.
– Đêm nay sẽ có.
Tôi nhìn hai lá cờ giấy dán trên hai cánh cổng sắt, ngao ngán:
– Ai dán cờ?
Côn thở dài:
– Cu Tý và con Ki.
Côn nói:
– Thằng Bảo và thằng Thân đang núp ở trong nhà.
Bảo và Thân là hai đứa em kết nghĩa của tôi. Bảo, thiếu úy bộ binh. Thân, trung sĩ thủy quân lục chiến. Chúng tôi vào nhà. Thảm cảnh đầu tiên trong nhà tôi lúc 21 giờ 10 phút là vợ tôi cầm lá cờ quốc gia, lá cờ vàng ba sọc đỏ đứng khóc. Tay vợ tôi run rẩy. Nàng nức nở:
– Làm sao bố?.
– Cái gì?
– Cái cờ.
– Em gấp lại, cất vào tủ quần áo.
– Nhỡ nó xét nhà?.
-Thế thì em xé đi, đốt đi, liệng ra đường.
– Không được.
– Vậy gấp lại, cất đi.
Giữa lúc đó, thiếu úy Bảo từ trong buồng bước ra, ôm chặt lấy tôi:
– Em lạy anh, anh cứu em, anh cứu em…
Tôi xoa lưng người em kết nghĩa:
– Anh không cứu nổi anh, cứu em sao được.
– Vậy em trốn đâu?
– Em cứ ở đây với anh rồi cùng chết với anh.
Tôi trấn an Bảo:
– Cả nước sắp chết. Anh em mình sống với ai. Có rượu đây, anh em mình ngồi uống chờ chết.
Trung sĩ Thân đã lò dò ra:
– Anh nói đúng.
Tôi lắc đầu:
– Anh sai lớn. Đáng lẽ các em phải bám sát bọn tướng lãnh đào ngũ mà chạy. Thì giờ này các em đang ở đảo Guam tội nghiệp anh. Nhưng các em đã can đảm chiến đấu đến phút chót, cũng nên can đảm đến phút chết. Ai mà không sợ chết, song nếu biết mình phải chết, hãy chọn thái độ chết. Đừng chết sảng.
Bảo hỏi:
– Anh nói mình thoát chết?
Tôi đáp:
– Anh nói mình chờ chết. Người khôn ngoan là người biết chờ đợi.
Vợ tôi đã gấp xong lá cờ. Tôi bảo nàng dọn cơm cho anh em tôi rồi đưa trẻ con vào hết trong phòng ngủ. Gia đình Đặng Xuân Côn ở lại với chúng tôi. ăn qua loa cho xong bữa, bốn chúng tôi rời bàn ăn tới xa-lông uống rượu, hút thuốc lá. Dù đã đóng chặt cửa, âm thanh hỗn loạn bên ngoài vẫn lọt vào. Chúng tôi uống Cognac không đá, không soda. Tôi đã tắt đèn để khỏi nhìn nhau. Đốm lửa đỏ đầu điếu thuốc, mỗi khi rít, chẳng đủ soi rõ khuôn mặt méo mó của từng người. Im lặng trong chúng tôi Tôi nghĩ đến Bảo. Nó không cha mẹ, không anh em như tôi. Nó tìm tôi bằng tiểu thuyết của tôi, yêu tôi như yêu nhân vật chú Nghị ở Con sáo của em tôi và ông Nghị thầy tuồng ở Mây mùa thu. Năm 1968, khi tôi viết về một ca khúc chống phản chiến Mỹ của một nhạc sĩ Mỹ, Bảo thích lắm. Bài hát thịnh hành ở Mỹ thời đó, có đoạn:
Bố yêu nước Mỹ như yêu con
Nếu con xé bỏ thẻ quân dịch
Con đã xé bỏ nước mỹ
và con đã xé bỏ tình yêu của bố cho con….
Năm 1971, vì không chấp nhận thái độ phản chiến trốn lính của bọn sinh viên thân cộng, cũng bầy trò đốt lệnh trưng binh, Bảo bỏ ngang đại học tình nguyện nhập ngũ. Nó thích làm lính chiến. Bao nhiêu tuổi trẻ miền Nam đã như Bảo và đã, hôm nay, vất bỏ quân trang, quân dụng, võ khí, chạy về nhà tìm chỗ nấp? Tôi nghĩ đến Thân. Nó kết nghĩa anh em với tôi vì mê nhân vật Trần Đại ở Điệu ru nước mắt. Thân đăng lính thủy quân lục chiến, chọn quốc gia làm lý tưởng. Nó yêu lý tưởng quốc gia đến nỗi xâm ở cánh tay mình hai chữ Sát cộng trên da thịt mình. Tôi nghĩ đến những người lính hiên ngang và chung thủy của quân lực Việt Nam cộng hòa, đã phẫn nộ buông súng, lột bỏ chiến bào chạy về nhà mình như những kẻ chiến bại thê thảm. Những con người không biết sợ chết ngoài sa trường ấy, giờ này, đang ngồi núp xó nhà, rên rỉ vết thương tươi rói. Và nước mắt của mẹ họ, của vợ họ, của con họ tưới xuống vết thương làm xót xa thêm. Người ta sẽ diễn tả thế nào về những tiếng khóc, tiếng rên rỉ trong bóng tối của kẻ thua trận và thân nhân họ? Ai đã được nghe những tiếng khóc và tiếng rên rỉ đó? Chưa đủ não lòng, tiếng loa bên ngoài còn vọng vào, réo gọi, răn đe. “Ngày mai, 1 tháng 5, mọi người, mọi nhà, bất kể ai, phải tập họp ở khu phố để đi mít-tinh chào mừng cách mạng thành công”! Này người may mắn di tản trước 30-4-1975, người suy nghĩ gì về tiếng khóc, tiếng rên rỉ, và tiếng loa réo gọi? Này, người tướng đào ngũ trước 30-4-1975, người suy nghĩ gì về tiếng khóc, tiếng rên rỉ và tiếng loa réo gọi? Này, người chính khách, người nghị sĩ, người dân biểu, người trí thức khoa bảng may mắn di tản trước 30-4-1975, người suy nghĩ gì về tiếng khóc, tiếng rên rỉ và tiếng loa réo gọi? Vết thương vẫn còn tươi rói. Xin hãy để chúng tôi ngồi liếm vết thương trong cô đơn. Xin đừng rắc muối, vắt chanh xuống vết thương của chúng tôi bằng những hô hoán vô tích sự. Người ta chỉ biết chiến đấu, chỉ dám chiến đấu với điều kiện tiên quyết:
Chửa khi nào quên táo bạo
Chửa khi nào quên hát, quên đau
Những kẻ đào ngũ, đào nhiệm, chạy trốn là những kẻ chưa một lần táo bạo để quên, chưa một lần hát, chưa một lần dám thử đau đớn. Thì chiến đấu của họ chỉ là chiến đấu giả. Tổ quốc và dân tộc Việt Nam triền miên bất hạnh đã chán chường những cuộc chiến đấu giả. Hãy chiến đấu thật? Bằng không dám thì nên im lặng. Để tiếng khóc, tiếng rên rỉ và tiếng loa réo gọi nguyên vẹn cảm xúc và phẫn nộ.
TƯỞNG TƯỢNG RA TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM XÂM TAY HAI CHỮ SÁT CỘNG
Anh ta ngồi trước bếp than. Con dao nung trong đó. Người lính Việt Nam đã lột bỏ chiến bào, quăng vũ khí, liệng quân trang xuống vỉa hè sau lệnh đầu hàng của Dương văn Minh. Anh ta trở về nhà mình lúc hoàng hôn thoi thóp. Mẹ anh ta ôm anh ta khóc tức tưởi.
– Thua trận hả, con?
Người lính nghẹn ngào:
– Vâng, thua trận!.
– Rồi có sao không?
– Con chưa biết!
Người lính buồn bã, mệt mỏi. Anh ta không thể giải thích cho mẹ hiểu anh không hề thua trận, quân đội Việt Nam cộng hòa không hề thua trận. Mỹ thua trận giả vờ. Bọn tướng lãnh ngu dốt thua trận thật. Lũ thống trị tham nhũng thua trận thật. Chúng nó cút và đào ngũ, đào nhiệm cả rồi. Chỉ còn anh và chiến hữu anh chiến đấu tới giây phút cuối cùng. Anh đầu hàng theo lệnh của Tổng tư lệnh quân lực Dương văn Minh. Vì anh là lính tôn trọng kỷ luật. Mẹ anh an ủi anh rồi để anh một mình ngồi góc phòng ve vuốt vết thương đời.
Người lính mân mê cánh tay mình. Anh ta quyết định xuống bếp nhóm than. Và nung con dao. ánh lửa soi rõ hai chữ Sát cộng trên da thịt anh. Nó nổi bật như chữ đắp. Anh nhìn hai chữ Sát cộng, ôn lại chuyện hai mươi năm…
***
Người Mỹ hiện diện ở Việt Nam với chiêu bài khai phóng tự đo, dân chủ cho một dân tộc kém mở mang. Đó là chiêu thức đầu tiên của ngụy quân tử Hoa-kỳ trong chính sách tân biên cương. Theo tiếng trống thúc dục của Kennedy, tuổi trẻ Việt Nam phấn khởi xây dựng đất nước mình. Muốn hưởng tự do, dân chủ phải bảo vệ tự do, dân chủ. Chống cộng sản được nâng lên hàng quốc sách. Lý tưởng quốc gia là chống cộng sản. Đơn giản lắm. Ngụy quân tử Hoa-kỳ tung ra các khẩu hiệu phó thác sự nghiệp chống cộng cho Nam Việt Nam. “Nam Việt Nam là thành trì bảo vệ tự do của Đông Nam Á.” “Nam Việt Nam là tiền đồn bảo vệ thế giới tự do”… Nghe sướng tai. Chủ tịch Liên minh á Châu chống cộng là người Việt Nam. Dân Việt Nam nức lòng chống cộng cho Thái Lan, Mã Lai hòa bình và mở mang đất nước, phát triển kinh tế. Ngụy quân tử Hoa-kỳ sát hại anh em Ngô Đình Diệm để sự nghiệp chống cộng vẻ vang hơn. Quân Mỹ sang ầm ầm. Chiến tranh leo thang. Nông thôn mất gần hết. Bắc tiến xôm tụ. Bắc phạt inh ỏi. Người lính Việt Nam chỉ biết tổ quốc mình, dân tộc mình, không thèm hiểu âm mưu của ngụy quân tử Hoa-kỳ và đám tướng lãnh thống trị cầy cáo. Noi gương người xưa xâm lên tay hai chữ Sát thát, anh ta cũng xâm lên tay hai chữ Sát cộng, thề vì nước vì dân tiêu diệt cộng sản để bảo vệ tự do, dân chủ và hạnh phúc cho giống nòi. Trung thành với lý tưởng quốc gia, người lính đã xông pha vào chiến trận, coi cái chết tựa lông hồng.
***
Con dao đã đỏ. Người lính nhấc ra. Anh ta định đốt da thịt để tiêu hủy hai chữ Sát cộng. Nghĩ sao, anh ta lại đút con dao vào bếp. Anh ta tự hỏi: Có ông tổng thống Mỹ nào đã xâm tay hai chữ Sát cộng; có ông nghị sĩ, dân biểu diều hâu nào đã xâm tay hai chữ Sát cộng (Tôi có thể trả lời anh ta rằng không). Anh ta lại tự hỏi: Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Cao văn Viên, Đặng văn Quang, Trần Thiện Khiêm và các tướng lãnh có xâm tay hai chữ Sát cộng không nhỉ? (Tôi có thể trả lời anh ta rằng không). Người lính phân vân một lúc rồi lẩm bẩm:
– Mẹ kiếp, mình chống cộng thật. Chúng nó chống cộng giả vờ!
Người lính Việt Nam cộng hòa anh dũng rút con dao đã nung đỏ ra. Anh ta nhúng con dao vào chậu nước. Tiếng xèo kéo dài. Nước sủi bọt. Anh ta đứng dậy, đứng thẳng. Anh ta mân mê hai chữ Sát cộng. Đôi mắt rực sáng, anh ta sảng khoái:
– Dẫu sao, mình vẫn chống cộng, mãi mãi chống cộng. Ta cần cho kẻ thù nhìn rõ Sát cộng trên tay ta.

DUYÊN ANH

SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (Chương 9)

duyenanh

19 giờ. Bóng tối trùm thành phố. Đèn đường chưa lên. Đạn vẫn nhằm ông Trời mà bắn. Tôi đi trong cái âm u của Sài gòn lịm chết. Hình tưởng một nghĩa địa hoang vắng? Sài gòn ở đó. Tiếng đạn bắn chỉ thiên cơ hồ tiếng nứt vỡ của hàng triệu trái tim. Rồi tiếng đạn ngưng hẳn. Dân chúng bỏ chạy tán loạn. Bộ đội miền Bắc và quân giải phóng xuất hiện trên các vỉa hè. Mạnh phe nào phe ấy nhặt nhạnh “chiến lợi phẩm”. Bộ đội miền Bắc chú trọng quân trang, quân dụng nhiều hơn võ khí. Chắc chắn, họ thèm quân trang, quân dụng của lính ta. Họ liệng “chiến lợi phẩm” lên mô-lô-tô-va. Quân giải phóng chú trọng vũ khí. Họ thu lượm vội vàng và phương tiện chuyên chở là xe ba bánh đạp và gắn máy. Đường phố, lúc này, đầy người. Chỉ còn xe quân sự của cộng sản qua lại Cộng sản nằm vùng đã sách động quần chúng xuống đường làm mùa vui giải phóng. Tôi thấy dọc phố Công Lý, cờ mới đã treo nhiều. Quả thực, tôi không nhận ra mầu cờ nữa. Vì bóng tối. Vì mắt tôi mờ. Tai tôi cũng đã điếc, chẳng thể nghe nổi tiếng hoan hô xem chừng đã cuồng nhiệt. Nhạc cộng sản muốn lấp vùng trời Sài gòn.
Hãy chọc mắt tôi mù
để khỏi nhìn người Babylone
Hãy đâm thủng tai tôi
để khỏi nghe nhạc Babylone
Hãy cắt lưỡi tôi
để khỏi hát nhạc Babylone…

Tôi không nhớ rõ có phải là Thánh vịnh trong Cựu ước. Mười tuổi, tôi đã nghe:
Nhanh bước nhanh nhi đồng
theo cờ đỏ sao vàng…
Mười chín tuổi tôi đã nghe:
Quê hương chúng ta
xanh ngát cánh đồng bao la
Noi gương Trung quốc, Liên xô ta xây cuộc đời
Quê hương chúng ta
toàn dân trường kỳ kháng chiến
Tiến bước dưới cờ Malenkov vinh quang
Bốn mươi tuổi, tôi lại nghe:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng
Ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông
Ba mươi năm dân chủ cộng hòa kháng chiến đã thành công
Việt Nam
Hồ Chí Minh
Việt Nam
Hồ Chí Minh…

Lần thứ nhất, nghe nhạc, tôi còn bé. Lần thứ hai, nghe nhạc cộng sản, tôi bỏ vào Sài gòn. Lần thứ ba tôi mắc kẹt lại Sài gòn để bị nghe nhạc cộng sản. Mà không dám đâm thủng lỗ tai! Ai đã dám đâm thủng lỗ tai? Ai đã dám cắt lưỡi? Có lẽ, người ta đang lột lưỡi để hát nhạc kẻ thù cho ngọt ngào.* Tôi nghĩ kẻ viết Thánh vịnh hay Thánh thi đã không chọc mắt mình, đâm thủng tai mình, cắt lưỡi mình. Tôi thì không đủ can đảm đó. Mà tôi cần sáng mắt, thính tai. Chưa hiểu số phận mình ra sao trong biển máu, nhưng tôi cứ mơ mộng những tác phẩm lớn của đồng nghiệp của tôi về một Sài gòn, ngày dài nhất
***
– Long ạ!..
– Gì?
– Hay là mày để tao về nhà trước xem có chuyện gì xẩy ra không đã.
– Chuyện gì?
Tôi nói tiếp:
– Nếu xảy ra chuyện gì, tôi sống vô ích.
Đặng Xuân Côn gạt đi:
– Mày có ích lắm. Ít ra, xuất bản trọn bộ Vẻ buồn tỉnh lỵ.
-Tôi và ông cùng về.
– Suy nghĩ kỹ đi.
-Tôi vững tin.
– Cộng sản?
– Không. Người Sài gòn không thích biển máu. Người vô sản Sài gòn không thích biển máu. Người Sài gòn sẽ khước từ học tập căm thù. ông thấy rồi đó, chưa có villa nào trên đường Công Lý bị người vô sản hay là nhân dân xông vào đập phá, cướp của, giết người. Ngay cả cái bảng “coi chừng chó dữ” cũng vẫn còn nguyên vẹn. Đó là một dấu hiệu, ông hiểu chứ?
-Sao?
– Sài gòn vẫn là Sài gòn. Chúng ta không mất Sài gòn bởi vì Sài gòn chế ngự mọi thù hận. Bằng thù hận, mọi sự đổ vỡ. Sự đổ vỡ thê thảm nhất là đổ vỡ tình người. Còn chế độ vỡ đổ, chả nghĩa lý gì cả. Thù hận đạp đổ tất cả nhưng thù hận không xây dựng lại tất cả những gì nó đạp đổ. Thù hận không chinh phục nổi lòng người.
– Mày sẽ viết về cái đó?
– Tôi đã viết từ lâu. Tư tưởng của tôi đã gây nhiều hệ lụy cho tôi, sẽ còn gây nhiều nữa, nếu tôi sống sót sau cơn hồng thủy 30-4.
– Mày phải sống sót.
– Cám ơn ông, tôi mong được sống sót.
Hai chúng tôi đi sát bên nhau, như thuở mười tuổi, chúng tôi đã đi sát bên nhau trong buổi tối thị xã miền Bắc đầy xác chết đói.
– Long!
– Để tao về trước.
-Tôi đi đâu?
– Mày ghé sang Tân Định xem có “bắt” được vài chai Cognac không.
– Rồi sao?
– Tao đợi mày ở cổng. Hễ không thấy tao, mày vù lẹ.
– Vù đâu?
– Long Xuyên.
– Tôi đi mua rượu và tôi cứ về, dù ông không đợi tôi ngoài cổng.
Chúng tôi chia tay. Vỉa hè Tân Định không còn những đống quân trang, quân dụng, võ khí nữa. Mà thay bằng những lái buôn cờ. Nhà máy nào sản xuất cờ cộng sản nhanh thế? Cờ đảng, cờ “tổ quốc”, cờ mặt trận. Chắc chắn Chợ Lớn đã “chế tạo” từ lâu. Dân chúng sợ hãi cộng sản, chen chúc nhau mua cờ mới. Tôi cố tình quan sát những người mua cờ. Khuôn mặt người nào, người nấy ủ ê. Cảnh tượng này không lọt vào ống kính điện ảnh cộng sản đã đành, còn không lọt vào ống kính điện ảnh Tây phương. Tại sao vậy? Dễ hiểu thôi, Tây phương luôn luôn mù. Có thể, họ còn giả vờ mù đề không thích nhìn một người đàn bà mà chồng “thua trận” đang nằm rên rỉ trong phòng kín ở nhà, phải ra phố xếp hàng mua cờ của kẻ chiến thắng? Tôi không biết vợ con tôi đã “sắm” cờ mới và nhà tôi đã treo cờ mới chưa?
***
19 giờ 30. Thành phố lên đèn. Đèn phố giúp tôi nhìn rõ một thay đổi mới của Sài gòn, 9 tiếng đồng hồ sau lệnh đầu hàng. Sự sang trọng của Sài gòn đã vội vàng dấu biến. Dân chúng ra đường ăn mặc tiều tụy. Đàn bà, con gái không áo dài, không son phấn, không sơn móng tay hoặc là đã rửa móng tay sơn. Nhiều bà, nhiều cô sợ hãi móng tay dài nhọn hoắt là lười biếng lao động, sẽ bị dùng kìm rút đi, đã nhanh nhẹn cắt móng tay. Đàn ông con trai, áo bỏ ngoài quần, lê giép Nhật made in Chợ Lớn. Xe Honda hết lạng bay bướm. Xe đạp chạy êm đềm. Khu Tân Định nhẫy nhụa những bài ca cách mạng tiết ra từ những cái loa gắn chung quanh chợ. Nhưng mà những kẻ gây khí thế cách mạng ồn ào, những kẻ cách mạng hơn cách mạng, vẫn chỉ là cỏ đuôi chó và sư đoàn 304. Rất lẹ, cỏ đuôi chó đã kết hợp thành những đội ngũ vác cờ, mang khẩu hiệu diễn hành.
– Long, Long….
Tôi ngó vào tiệm mì cạnh rạp Kinh Thành. Người vừa gọi tên cúng cơm của tôi là Thế Phong, tác giả Nửa đường đi xuống, một trong những phản đồ của Văn Nghệ chủ quan viễn kiến môn phái Nguyễn Đức Quỳnh. Thế Phong vẫy tay ra dáng bí mật. Tôi bước vô tiệm.
– May còn tiệm chú Ba mở cửa. Thế Phong nói.
Tôi ngồi xuống ghê. Thế Phong mời mọc:
– Ăn một tô nhé?
Tôi gật đầu. Cần thiết ăn một tô mì vịt trước khi bị ném vào biển máu. Tôi cũng thấm đói rồi.
– Mày không lọt lưới à? Mỹ bỏ rơi à?
– Ừ. Còn mày?
– Xêm xêm. Tao “đào ngữ’ từ đêm qua. Tụi nó pháo kích khiếp quá, không vào “sở” được.
Trung sĩ văn nghệ không quân Thế Phong vẫn thích khôi hài. Tác giả Tôi đi dân vệ Mỹ nhấp ngụm bia:
– Mày đi đâu qua đây?.
– Xem Sài gòn đổi cờ và định ghé mua rượu về uống đợi chết.
– Không chết đâu.
-Tại sao?
– Không có biển máu nhưng chúng ta sẽ chết dần chết mòn, chết như cây cỏ, chết chẳng ai thèm biết.
– Nửa đường đi xuống!
– Đi xuống địa ngục.
– Vậy đó. Bố Quỳnh đã không sai.
– Nhưng mày thì là phản đồ Văn Nghệ chủ quan viễn kiến.
– Đồng ý. Bố Quỳnh đã tiên đoán Sài gòn sẽ bị đổi thành Hochiminhgrad.
-Tao cũng tiên đoán, sau ông Quỳnh.
-Trong Sa mạc tuổi trẻ?
– Đúng. Tao đã viết, rồi sẽ có ngày, bừng mắt dậy, chúng ta thấy cờ đỏ sao vàng treo trên nóc Việt Nam quốc tự, trên nóc chùa ấn Quang, trên nóc Hạ Viện, trên nóc nhà thờ Đức Bà…
-Tiếc rằng ông Quỳnh không còn sống.
Nguyễn Đức Quỳnh, nhà văn, nhà lập thuyết, kiện tướng của nhóm Hàn Thuyên, đồng chí đệ tứ quốc tế của Trương Tửu. Cuộc đời bôn ba hải ngoại của ông không thua gì Hồ Chí Minh. Kiến thức của ông thì Hồ Chí Minh khó mà sánh nổi. Nhưng ông là con người thiếu may mắn với lịch sử. Rốt cuộc, tác giả những Thằng Kình, Thằng cu So, Con Phượng cam đành sống những ngày còn lại ở miền Nam với bút hiệu Hoài Đồng Vọng và lập Đàm trường chủ trương nền văn nghệ chủ quan viễn kiến. Những khuôn mặt văn nghệ lớn của hai mươi năm văn nghệ Sài gòn đều đã ghé Đàm trường. ông có thiện ý giúp những người văn nghệ trẻ tiến xa. Và ông đã cho họ mang hia bẩy dặm. Thế Phong là người được ông ví như Marxime Gorki. Đáng lẽ, Thế Phong phải kiên nhẫn học hỏi và cố gắng sáng tạo cho bằng Gorki. Thì anh ta lại đem cái kỳ vọng của Nguyễn Đức Quỳnh nơi anh ta làm một sự tự mãn. Anh ta công kích vung vít. Cuối cùng, anh ta công kích luôn cả ông Nguyễn Đức Quỳnh.
– Bây giờ mày mới thương ông Quỳnh?
Thế Phong gật đầu, đôi mắt chớp nhanh:
– Tài của tao bất cập ý ông ấy. Ông Quỳnh là phù thủy cự phách mà tạo chỉ là âm binh hạng tồi. Tất cả bị tẩu hỏa nhập ma.
-Trừ một tên.
– Đứa nào.
– Lý Đại Nguyên.
– A, đúng đấy. Nó khá đủ mọi nghĩa, mọi mặt.
Thế Phong nằng nặc đòi trả tiền mì, tiền bia. Lúc chia tay tôi, anh ta nói một câu buồn bã:
– Tao và mày không biết thằng nào về đất trước. Vậy vĩnh biệt mày, Duyên Anh?
Dứt câu, Thế Phong bước nhanh. Anh ta khuất vào đám đông hoan hô giải phóng. Tưởng chừng người bạn văn nghệ của tôi đi vào cõi chết, tôi nghe lòng tôi những tiếng rạn nứt hãi hùng. Đứng ngẩn ngơ cả mấy phút tôi mới lết đi. Tôi đi đâu trong nỗi khôn cùng tịch mịch của đất nước tôi? Thế mà tôi vẫn cứ đi, tôi cứ đi. Đường phố đã đông nghẹt người. Xe cộ không chạy nổi. Người và cờ. Tự nhiên, trời lất phất mưa. Tôi chợt nhớ mấy câu thơ của Trần Dần:
Tôi đi không thấy phố, thấy nhà
chỉ thấy mưa sa
trên nền cờ đỏ
Mấy câu thơ này rất hợp với tâm trạng của tôi chiều 30 tháng 4. Tôi đi, không thấy gì cả, ngoài cờ đỏ sao vàng, cờ trên đỏ dưới xanh giữa sao vàng dưới ánh đèn hiu hắt và trong bụi mưa ảm đạm. Tôi đi, không nghe thấy gì cả, ngoài tiếng hoan hô cách mạng điên cuồng. Tôi đi giữa cảnh đổi đời oan nghiệt. Ai đã đi như tôi? Ai đã thấy như tôi? Ai đã nghe như tôi? Nếu người ta đã thấy đã nghe như tôi, người ta sẽ thay đổi hẳn nhân sinh quan khi người ta thoát biển máu, luân lạc phương trời nào đó ngoài nước Việt Nam. Nhưng người ta không thấy, không nghe như tôi đã thấy, đã nghe. Nên cái nhân sinh quan đáng lẽ cần phải được hủy diệt thì nó.lại rực rỡ ánh sáng bần tiện. Và dưới ánh sáng bần tiện ấy, những người tưởng mình hạnh phúc đã trở thành những kẻ bất hạnh nhất. Bất hạnh và nhỏ bé thêm. Đó là những con người không dám thoát ly cái quan niệm sống ích kỷ, thủ lợi, hám hư danh, đố kỵ, gian dối… Ngay cả một số người bị kẹt lại Sài gòn, đã thấy, đã nghe như tôi – những người văn nghệ và tự nhận mình văn nghệ – cũng vẫn loay hoay trong cái nhân sinh quan cũ, thứ nhân sinh quan trải trên chiếu rách ăn mày. Và, hôm nay, trốn thoát sang Hoa Kỳ, họ vẫn thi triển nhân sinh quan hôi hám cũ và cộng thêm tính chất lưu manh họ tiếp thu của cộng sản Nếu Như văn úy là tên đã biết khai thác cái miệng của mình để thành dân biểu to mồm – tuy rất rỗng và ngu dốt – của chế độ Nguyễn văn Thiệu thì, ít ra, sau nó, khối kẻ đã làm sáng danh nó bằng cái miệng lớn hơn khỏa lấp thiên hạ. Để phô diễn “tài năng” chính trị, văn hóa. Hình như, ít ai suy nghĩ về hai tiếng đổi đời của cộng sản. Vậy thì một mình tôi đi…
Không thấy phố, thấy nhà
chỉ thấy mưa sa
trên nền cờ đỏ.
..
***
Rồi tôi cũng mua được hai chai Courvoisier. Trên đường về nhà, bất ngờ tôi gặp Phan Kim Thịnh, chủ nhiệm tạp chí Văn Học. Xuất thân của ông chủ nhiệm họ Phan từ chân tùy phái của tạp chí Quê Hương. Tạp chí Quê Hương do ông Nguyễn Cao Hách đứng tên chủ nhiệm, quy tụ nhiều trí thức khoa bảng khuất thân chế độ Ngô Đình Diệm. Tạp chí Quê Hương nhận tài trợ của Sở nghiên cứu chính trị. Phan Kim Thịnh là mật vụ thứ yếu của Sở nghiên cứu chính trị được biệt phái “nằm” ở Quê Hương, giữ chức loong toong khiêm tốn để theo rõi sinh hoạt của tòa soạn Quê Hương. Thời ông Diệm, các nhật báo đều có người của Sở nghiên cứu chính trị “nằm” cả. Các “người” này, đa số là nhà văn, nhà báo có danh. Do đó, dưới chế độ ông Diệm không có nạn “tự ý đục bỏ” và “tịch thu bừa bãi”. Riêng tạp chí Quê Hương, Sở nghiên cứu chính trị đã tỏ ra khôn ngoan, chỉ “cài” chân tùy phái sai vặt. Khoảng năm 1962, tùy phái Phan Kim Thịnh rầm rộ quảng cáo tạp chí Văn Học do ông ta làm chủ nhiệm. Xuất bản báo có nghị định của nhà nước vào thời kỳ này rất khó. Phan Kim Thịnh đã “vượt” khó, vì là người của Sở nghiên cứu chính trị. Với chủ bút Dương Kiền, mấy số đầu Văn Học thật giá trị. Về sau, Dương Kiền thành luật sư, bỏ chức chủ bút. Văn Học xuống dốc từ chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Năm 1968, Phan Kim Thịnh sang Gia Định làm phụ tá cho cò Tùy ở Ty cảnh sát. Tạp chí Văn Học ra số đực, số cái.
Phan Kim Thịnh luôn luôn để lộ sự hèn mọn của mình khi ông ta tiếp xúc với các nhà văn, nhà báo. Bà cụ thân sinh của ông quét dọn sân trường Régina Mundi. Ông thân sinh của ông bán hình Chúa, tượng Chúa, sâu chuỗi, sách kinh ở cửa nhà thờ Đức Bà. ông ta sống như những người cần cù làm ăn và ai cũng hiểu ông ta là mật vụ trốn lính. Bất ngờ, tối nay, tôi gặp chủ nhiệm Văn Học trên vỉa hè Hai Bà Trưng. ông ta mặc bộ quần áo xuềnh xoàng, chân diện giép râu, đầu đội nón tai bèo, vai đeo cái xặc cột vải Phan Kim Thịnh vỗ vai tôi:
– Đi đâu đấy, ông Duyên Anh?
Tôi không trả lời mà hỏi:
– Thay đổi lẹ thế?
Phan Kim Thịnh cười:
– Rồi sẽ thay đổi hết.,
Nhìn hai chai rượu kẹp nách tôi, ông ta nói:
– Uống tiêu sầu à?
Tôi đáp:
– Uống mừng cách mạng.
Tôi hất đầu:
– Mua mũ và giép ở đâu vậy?
Phan Kim Thịnh nhún vai:
– Ông về nhà ông uống rượu đi. Nhớ đừng say sưa. Sáng mai gặp nhau ở Trung tâm Văn Bút.
– Tôi sợ khó gặp ông.
– Tại sao?
– Vì tôi sắp bị liệng vào biển máu.
– Ai bảo thế?
– Mỹ.
– Mỹ cút rồi. Cách mạng đại xá, đại đại xá. Tôi quả quyết không một nhà văn, nhà báo nào bị trả nợ máu cả. Rồi Huy Cận sẽ đến tận nhà ông tìm ông.
– Ông lấy tư cách gì mà quả quyết?
– A, à… Khó nói lắm. Thôi, chia tay nhé!
Phan Kim Thịnh rảo bước. Tôi ngơ ngác. Chưa bao giờ tôi đánh giá Phan Kim Thịnh là một tên nằm vùng. Trời ơi, chúng ta đã có Phan Kim Thịnh nằm ở Sở nghiên cứu chính trị và Huỳnh văn Trọng nằm ở Dinh Độc Lập?
CHÂN DUNG MỘT TÊN NẰM VÙNG THƯỢNG THẶNG
Vũ Hạnh là một tên nằm vùng bị cháy. Vì cả nước đều rõ. Chỉ riêng linh mục Thanh Lãng không thèm rõ, không thích rõ nên ông ta mới cứu Vũ Hạnh ra khỏi Tổng nha cảnh sát quốc gia, cam kết với ông Nguyễn văn Thiệu và cho Vũ Hạnh làm việc tại Trung tâm Văn Bút Việt Nam, đường Đoàn thị Điểm. Trước khi bị cháy, Vũ Hạnh hoạt động ra sao?
Nó chỉ viết truyện đường rừng. Từ Mùa xuân trên đỉnh non cao đến Lửa rừng của nó, toàn là truyện vô tội vạ Nó tinh quái, biết ngụy trang bằng cách miêu tả những nhân vật vô sản của nó như hạng người bần tiện. Chưa hề thấy Vũ Hạnh đề cao một nhân vật vô sản chính thống nào trong sách của nó cả. Đi từng bước, Vũ Hạnh viết ngôi trường đi xuống rồi Con chó liêm sỉ, nó hơi hơi lộ văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng không mấy ai chú ý. Vì nó viết không hấp dẫn, ít người đọc nó. Vũ Hạnh không có tài lôi cuốn độc giả. Hà Nội đã sai lầm xử dụng nó và tưởng nó có thể thao túng văn nghệ Sài gòn. Thất bại sáng tác, Hà Nội chỉ thị Vũ Hạnh phê bình văn học. Nó dùng tạp chí Bách Khoa, phê bình văn nghệ với bút hiệu Phương Thảo. Cô Phương Thảo dịch sách Người Việt cao quý của nhà văn Y đại lợi. Rõ ràng dụng ý đạo đức dân tộc của nó. Nó đã thành công ngay khi nó phê bình một bà vợ ông chủ đồn điền ở Blao hám danh nhà văn. Bà này (tôi quên tên rồi) xuất bản tập truyện ngắn. Bất hạnh cho bà ta là có một truyện “thuổng” nguyên con của Vũ Hạnh. Cô Phương Thảo khám phá ra. Bà nhà văn chủ đồn điền đành “cáo lỗi”. Từ đó, văn học Việt Nam mất một tài năng. Vì bà nhà văn “đạo văn ‘ không bao giờ viết nữa. Tất cả những bài phê bình văn nghệ của Vũ Hạnh đều đặt nặng vấn đề đạo đức văn chương, thứ đạo đức giả hình mác xít. Vũ Hạnh nhắm đối tượng mà phê bình.
Những năm 65, 66, 67, là những năm cực thịnh của nhật báo Sống và Chu Tử. Báo Sống chống cộng rất hỗn và rất ngoạn mục. Báo Sống nhiều độc giả nhất nước. Báo Sống lố bịch hóa lãnh tụ cộng sản. Báo Sống bảo “Hồ chủ tịch làm thơ như cục kít”. Đảng cộng sản điên lên, chỉ thị cho Vũ Hạnh nhằm những điềm vô luân trong tiểu thuyết của Chu Tử mà đánh. Vũ Hạnh đánh luôn Lê Xuyên về phương diện dâm đãng. Đảng cộng sản lầm lẫn tai hại. Là đụng vào… báo phiệt, đụng vào thần tượng. Kết quả, Vũ Hạnh bị cháy, hết dở trò, kéo theo sự lộ hình của Lương thịt chó nằm ở Đài phát thanh Sài gòn và hai tờ báo thân cộng bị đóng cửa.
Thái Bạch là tên nằm vùng bị cháy. Ít ai dám nghĩ Thái Bạch nằm vùng, trừ ông tướng Nguyễn Ngọc Loan. Cảnh sát đặc biệt bắt nhốt Thái Bạch. Chủ nhiệm nhật báo Xây Dựng là linh mục (lại linh mục?) Nguyễn Quang Lãm xin ông tướng Loan thả Thái Bạch ra. Ông tướng Loan nể tình linh mục Lãm bèn thả Thái Bạch ra.
Ít ai dám nghĩ Thái Bạch nằm vùng. Tại sao thế? Vì vóc dáng và diện mạo của nó như con gà mái ướt. Nó mặc quần ống thấp ống cao, môi dề ra, mắt lơ láo. Nó “chuyên trị” ca dao miền Nam và luận cổ suy kim. Tôi làm việc chung với nó khá lâu ở toà soạn Xây Dựng mà cũng không biết nó nằm vùng. Ngày nó bị bắt, tôi tưởng nó bị bắt oan. Ngày nó được tha, tôi ngồi ăn ở quán Ngọc Hương, đường Gia Long, thấy nó thất thểu trên vỉa hè.
Tôi gọi nó lại:
– Thái Bạch!
Nó vào quán.
– Anh đi đâu vậy?
– Đi đòi tiền nhuận bút.
– Ăn uống cái gì đã.
– Tôi phải đi ngay, vì nó thất hẹn ba lần rồi, lần này bảo trả nhưng bắt đến đúng giờ.
– Bao nhiêu?
– Có tám trăm.
Thái Bạch nghèo nàn và thường tỏ ra hèn hạ.
– Ngồi xuống ăn một đĩa bánh cuốn, rồi tôi tặng anh một ngàn.
Thái Bạch ngoan ngoãn ăn bánh cuốn, ngoan ngoãn nhận một ngàn. Sau 30-4 một tuần lễ, văn nghệ sĩ phải đăng ký địa chỉ ở Tòa đại sứ Đại Hàn, đường Nguyễn Du. Tôi gặp Thái Bạch đeo súng lục, ngời bàn giấy oai vệ lắm. Nó đã quên đĩa bánh cuốn và ngàn bạc của tôi. Nó không còn tỏ ra hèn hạ nữa. Nó đã là… cách mạng! Bấy giờ tôi mới biết nó nằm vùng.
Những thằng nằm vùng lõa lồ như Thế Nguyên, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, không có gì đáng nguy hiểm cả. Vì chúng nó chỉ biết đi về một phía và húc đầu vào một phía. Thằng nằm vùng tôi sắp kể là thằng nằm vùng thượng thặng. Nó là biểu tượng của bọn cộng sản nằm vùng nên tôi không nêu đích danh. Có thể, nó vừa mới ăn phở với bạn ở California, vừa uống bia với bạn ở Stuttgart, vừa nhâm nhi cà phê với bạn ở Paris. Cũng có thể, nó vừa phẫn nộ, rất phẫn nộ chuyện bạn bị chụp mũ cộng sản và xui bạn nộp đơn kiện kẻ chụp mũ bạn. Và, rất có thể, nó đang điều khiển một cơ sở truyền thông chửi cộng sản vung xích chó. Tại sao kỳ vậy? A, xin bạn nhớ giùm câu này “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Đó là bí kíp… nằm vùng?
Thằng nằm vùng này, ta tạm đặt tên nó là Biểu Tượng, hành tung bí mật lắm. Biểu Tượng không thèm biết trường Bộ Binh Thủ Đức, dù nó tốt nghiệp đại học. Người ta mơ hồ hiểu rằng nó làm việc cho CIA. Hôm nay, ta gặp nó ra vào Juspao, ngày mai, ta gặp nó lởn vởn trong sân Usis. Khi nó tới Ấn Quang, khi nó lui Việt Nam quốc tự Buổi sáng nó ở báo đối lập, buổi chiều nó ở báo thân chính quyền. Nó quen với linh mục Hoàng Quỳnh, quen luôn thượng toạ Trí Quang. Sinh hoạt phát triển học đường, nó dính một tí. Du ca nó dính một tí. Phong trào bài trừ tham nhũng, nó dính một tí. Nó giao du đủ mặt nghệ sĩ lớn, nhỏ, đủ ngành sáng tác, trình diễn. Chẳng ai biết chỗ làm cố định của nó và lương bổng của nó. Bề ngoài, nó sống giản dị, không mất lòng ai, không hề tham vọng làm lớn. Nó thường ngồi đấu láo với Phạm Xuân Ẩn, Ngô Công Đức, Võ Long Triều và cả Cao Dao, Chu Tử, Mặc Thu, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hạnh…
Biểu Tượng chống Mỹ, chống Cộng hơn bất cứ ai chống Mỹ, chống Cộng. Đạo đức của nó vút lên Bắc đẩu. Tinh thần dân tộc của nó nặng như Thái sơn. Nó hoan hô tất cả những người chống Cộng quá khích, cổ võ Mặt trận kháng chiến HCM, khích lệ người quốc gia chụp mũ cộng sản lên đầu người quốc gia rồi xui kẻ bị chụp mũ kiện cáo. Đòn kiện ép-phê mạnh. Người quốc gia hết dám tố cáo cộng sản. Đòn chụp mũ cũng ép-phê mạnh. Hai tiếng cộng sản bị vô hiệu hóa. Riết rồi cộng sản chính cống và quốc gia bị chụp mũ cộng sản bình đẵng và hóa nhàm. Biểu Tượng rất ngại chức vụ. Nó sợ chường mặt. Nó khoái làm con bài chưa chia, con bài còn nằm trong bó bài bầy bán ở tiệm chạp phô. Nếu Biểu Tượng nuôi tham vọng thì tham vọng của nó là quy tụ các danh sĩ dưới trướng nó. Nó sẽ ban phát cơ hội tiến thân rồi đẩy danh sĩ vào quỹ đạo của nó.
Như Thái Bạch chỉ nói về ca dao miền Nam, chỉ luận cổ suy kim; như Vũ Hạnh chỉ viết truyện đường rừng, chỉ phê bình đạo đức văn chương; như Thế Nguyên chỉ đặt vấn đề lương thiện của người cầm bút, Biểu Tượng khoái viết về Nguyễn Du, Nguyễn Trãi y hệt cộng sản Hà Nội hăng say ca ngợi Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, làm như là quốc gia không biết đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du, Nguyễn Trãi. Có kẻ nói: Cộng sản bốc Nguyễn Trãi lên chín tầng mây, thiếu một điều quật mả Nguyễn Trãi, dựng ngài đứng dậy, thấy tay trái ngài cầm Gia huấn ca, tay phải ngài cầm Lê-nin toàn tập! Biểu Tượng ca ngợi Nguyễn Trái, Nguyễn Du theo “chỉ đạo” của cộng sản. Nó dân tộc quá. Ai bảo nó cộng sản nằm vùng, nó sẽ kiện. Hoặc nó lôi CIA ra hù.
Này anh Biểu Tượng và các anh Biểu Tượng? Người quốc gia không mù, không điếc, không câm và không biết sợ hãi. Trần Dần đã viết:
Tôi chửa khi nào quên táo bạo
Chửa khi nào quên hát, quên đau

Chúng tôi cũng thế. Sở dĩ tôi chưa đánh anh là vì anh chưa dở trò cụ thể. Vậy đó. Anh đừng quên chúng tôi đã nhận diện anh.

DUYÊN ANH

SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (Chương 8)

duyenanh

17 giờ. Đường phố Sài gòn ngập đầy bộ đội miền Bắc nón cối và giải phóng quân mũ tai bèo và cỏ đuôi chó. Cỏ đuôi chó mỗi lúc một đông thêm! Chắc ăn rồi, chắc ăn lắm rồi, lính sư đoàn 304 gây khí thế cách mạng. Xe tăng của cộng sản, trước sau chỉ có mười chiếc, nghiến xích sắt thị uy khắp đường phố Sài gòn. Xe tăng thị uy xong đến mô-lô-tô-va Liên xô và GMC Trung Quốc. Máy phóng thanh oang oang bài ca Giải phóng miền Nam của Lưu Hữu Phước.
Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước
Giết lũ đế quốc
Phá tan bè lũ bán nước
Ôi xương tan máu rơi
Lòng hận thù ngút trời
——-
Vùng lên nhân dân Việt Nam anh hùng
Vùng lên xông pha vượt qua bão bùng
Thề cứu lấy nước nhà
Thề Chiến đấu tới cùng
Cầm gươm ôm súng xông tới
Vận nước đã tới rồi
Bình minh chiếu khắp nơi
Nguyền xây non nước vững yên muôn đời…
Và bài ca Tiến về Sài gòn:
Tiến về Sài gòn
ta quét sạch giặc thù
Tiến về Sài gòn
ta giải phóng thành đô *…

Cỏ đuôi chó hát theo. Vì hai bài hát lải nhải hoài nên cỏ đuôi chó thuộc lòng. Tôi nhớ lại: Hoạt cảnh này đã ba lần tôi được chứng kiến trong đời. Lần thứ nhất, buổi chiều 19-8-1945, năm tôi lên mười. Và tôi đã diễn tả thật trung thực trong cuốn Con Thúy, cuốn sách đã đưa tôi vào nhà tù cộng sản để chịu đựng những hệ lụy tự khai. Lần thứ hai, buổi sáng giữa tháng 7-1954. Một thị xã được giải phóng. Bộ đội cộng sản tiến vô thong thả. Cỏ đuôi chó mọc nhanh, tung hô những khẩu hiệu nịnh bợ. Bài hát thuộc nhanh của cỏ đuôi chó hồi ấy là bài Bàn tay chúng ta:
Hoan hô bàn tay anh Komsomol
đã khơi dòng Volga đông.
đã khơi nguồn hạnh phúc cho toàn dân..
Hoan hô bàn tay anh bạn Trung Hoa
chắn sông Hoài
ngăn đau thương
nước không về toàn dân no ấm
Raymondielle ngăn xe cho ngừng máu rơi
ngăn chiến tranh cho đời huy hoàng
ta nhớ ghi tên người tươi sáng
bàn tay anh đem về thêm bông
bàn tay anh đem về thêm lúa
bàn tay ta băng miền thương xót
dắt dìu nhau tiến lên…

Hoạt cảnh giải phóng lần hai, tôi đã viết ở cuốn Vẻ buồn tỉnh lỵ chưa kịp xuất bản và bản thảo đã bị tich thu. Hôm nay, lần thứ ba, tôi biết thêm hoạt cảnh giải phóng 1975. Ba mươi năm. Vẫn thế. Vẫn thế ở mỗi biến động lịch sử trên quê hương tôi. Nếu cái vẫn thế còn làm cho tôi xúc động là, ngay cả tâm hồn cỏ đuôi chó, đã không dấy lên giông bão thù hận khi họ được khích lệ tuyết hận bừa bãi. Có phải tình nghĩa Việt Nam mãi mãi chế ngự chủ nghĩa cộng sản. Sài gòn chỉ bị cộng sản và cỏ đuôi chó quấy rầy ngoài phố. Sài gòn không hề bị cỏ đuôi chó đập phá nhà cửa, giết người. Cộng sản không dám ra mặt hành động. Cộng sản bất lực thủ đoạn châm lửa phẫn nộ cho người Sài gòn sát hại người Sài gòn. Không có bạo động đổ máu vô lý cho hợp lý khi cộng sản vào Sài gòn. Đừng bao giờ nghĩ cộng sản nhân đạo. Mà nên hiểu miền Nam nhân bản, Sài gòn nhân bản không chấp thuận tàn sát theo ý cộng sản hay theo ý của bất cứ một chủ nghĩa phi nhân nào: Lịch sử nào sẽ ghi chép chính xác? Thứ lịch sử gian dối của Mỹ và Tây phương thân cộng đã toa rập cộng sản, đã giả vờ quên tình nghĩa Việt Nam mà đề cao sự khoan dung, đạo lý cộng sản khi cộng sản xuất hiện ở Sài gòn. Đạo lý làm người của cộng sản đã thể hiện rõ nét ở Huế vụ Mậu Thân. Nó sẽ thể hiện rõ nét hơn, sẽ “phanh thây uống máu quân thù’, sẽ “cờ in máu chiến thắng” ở Sài gòn 30-4-75 nếu người Sài gòn muốn. Nhưng người Sài gòn không muốn, cả cỏ đuôi chó đáng ghét cũng không muốn, cộng sản đành thúc thủ. Để được tiếng nhân đạo. Cộng sản nói nhân đạo như tư bản nói nhân đạo, còn đốn mạt hơn cả đĩ điếm, ma cô giảng giải luân lý. Người ta cố tình quên rằng, chỉ cần mảy may lương tâm, cộng sản hết là cộng sản. Và người ta nên sáng suốt, nên thức tỉnh nhớ ràng, cái vỏ ngoài của cộng sản giống hệt áo thầy tu chân chính, những lời cộng sản nói hay hơn Chúa nói, Phật nói. Cộng sản quán triệt bí kíp “một thời im lặng và một thời lên tiếng” ở bất cứ không gian nào. Cộng sản xúi dục người quốc gia lăng nhục người quốc gia, chia rẽ người quốc gia rồi hô hào đoàn kết. Cộng sản nằm vùng, cộng sản hải ngoại còn tinh vi đến độ biết ẩn thân thật lâu, dám sống nghèo hèn, cố tình phô bày tác phong đạo đức, trình diễn đạm bạc, khuất thân hòa hoãn với những kẻ chống cộng dữ dội nhất. Để trở thành biểu tượng gương mẫu của người quốc gia chống cộng. Và, sau hết, đòn muôn thuở nằm trong bản chất cộng sản: Tìm mọi cách hạ bệ uy tín các tài năng của quốc gia để vô hiệu hóa sự chống cộng sản của các tài năng này; công khai đề cao tài năng của quốc gia trên các cơ quan truyền thông cộng sản để cô lập các tài năng này với quần chúng thù ghét cộng sản.
Sài gòn động bên ngoài, tĩnh bên trong – cái tĩnh lo âu Cái động đã tôn vinh cái tĩnh. Đã không có “đấu tranh giai cấp” tình nguyện, tự nguyện và… tự học tập như cộng sản mong muốn. Điều đó đã “giải phóng” biển máu đe dọa của Mỹ và biển máu toan tính của cộng sản. Chúng tôi thả xuống chợ Bến Thành. Ngạc nhiên vô cùng, tôi thấy, ở các đầu đường, góc phố, người ta đã bán cờ đỏ sao vàng và cờ trên đỏ, dưới xanh, giữa sao vàng. Cờ may ở đâu nhanh thế? Vải của chúng ta nhập cảng cả đấy Chúng ta đã có những thằng bán thuốc âu Mỹ cho kẻ thù, bán súng đạn cho kẻ thù, chúng ta còn những thằng sản xuất cờ cho kẻ thù nữa. Cờ bán đắt như tôm tươi Kẻ hân hoan chào mừng cộng sản mua cờ, kẻ sợ hãi cộng sản cũng mua cờ. Những người bán cờ trúng mối lớn. Con buôn biết cách khai thác… cách mạng vô sản! Đã nhiều nhà treo hai mầu cờ, hai thứ cờ. Tôi thấm mệt:
– Về chứ, Côn?
– Tao nghĩ mày nên đi quan sát thêm.
– Không đủ sức. Chỗ nào ở Sài gòn chiều nay cũng giống chỗ nào thôi.
Chúng tôi trở lại. Tòa Đô Sảnh đã treo cờ kẻ thù. Công viên trước Hạ Viện đã hết náo động. Xác chết của Trung tá Long đã được kéo đi vất ở xó xỉnh nào. Pho tượng thủy quân lục chiến Mỹ đổ rạp nằm úp xuống đất. Chẳng thể diễn tả nỗi ngập ngùi. Chúng tôi cắm cúi bước qua nhà thờ Đức Bà. Giáo đường đóng cửa kín mít. Bưu Điện đã treo hai thứ cờ và giải phóng quân kè kè AK canh gác. Trong khuôn viên Dinh Độc Lập, “nhân dân” đông đầy. Cánh cổng dinh mở rộng, “nhân dân” tự do ra vào, tự do chạy nhẩy, tự do la hét. Và đó là chiêu thức giải phóng đánh đúng tâm huyệt bầy cừu. Người ta có một sự so sánh giản dị: Nguyễn văn Thiệu phong tỏa Dinh Độc Lập, cách mạng giải phóng Dinh Độc Lập. Dinh Độc Lập, cái triều đình của những tên cầy cáo, rồi sẽ có một Hồ sơ đầy đủ về nó như một thâm cung cố sử. Thiệu cấm dân lai vãng quanh Dinh. Cộng sản mở bung cho dân vào Dinh. Sư mị dân của cộng sản, ít nhất, đã làm trí thức Lý Chánh Trung bồi hồi, cảm động mà rên rỉ “xin được nhận Hồ chủ tich làm Bác”. Tôi không thích nhìn cái Dinh ấy. Nó mang tên Độc Lập. Không, nó phải mang tên Nô Lệ. Nhưng không thích nhìn Dinh… Nô Lệ – còn nô lệ dài dài – tôi lại phải nhìn cách mạng tuyết hận danh nhân Trương Vĩnh Ký. ở cuối vườn sao góc phố Duy Tân – Thống Nhất, đối diện với hãng xe Peugeot, pho tượng Trương Vĩnh Ký đã bị giật sập. Trương Vĩnh Ký có tội gì với cách mạng vô sản? Kẻ thừa thãi công lao với nền văn hóa Việt Nam, kẻ tiên phong mở đường văn chương quốc ngữ cũng là kẻ thù của cộng sản ư? Người ta sẽ được trả lời ngay khi nghe bài hát này:
Ta là người nông dân
mặc áo lính
chiến đấu vì giai cấp bị áp bức
từ bốn nghìn năm* …

Từ bốn nghìn năm đã có… cộng sản. Và các nhà nghiên cứu mác xít bảo là cộng sản nguyên thủy. Hùng Vương là kẻ thù của giai cấp vô sản. Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt… đều là kẻ thù của giai cấp vô sản cả. Địa chủ Lê Lợi đã bóc lột giai cấp nông dân kỹ nhất? Thế thì Trương Vĩnh Ký, người đã tích cực đóng góp vào công cuộc làm thăng hoa chữ quốc ngữ để, từ chữ quốc ngữ, cộng sản Việt Nam xử dụng như võ khí tư tưởng mà truyền bá chủ nghĩa của mình, có bị thù hận là… “lô gích” rồi. Với cộng sản Việt Nam, tổ tiên của họ là Karl Marx, là Freiderich Engels, là Lénine… Họ rất nên vô ơn tiền nhân và rất nên thù hận tiền nhân tự bốn nghìn năm. Họ là quắc tế. Họ phủ nhận quốc gia. Những kẻ thân cộng sản làm dáng, những kẻ theo cộng sản ở hải ngoại nghĩ gì về “giai cấp bị áp bức từ bốn nghìn năm”? Pho tượng Trương Vĩnh Ký bị giật sập nằm úp mặt xuống đất vườn sao. Cuốn sách trên tay ông chưa bị đập nát. Tôi mở mắt ngắm pho tượng. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi lại nghĩ đến thân phận những nhà văn chống đối tư tưởng mác xít hai mươi năm Sài gòn tự do. Và, hôm nay, khi ngồi viết những giòng chữ này ở thị trấn lrvine của Orange County thuộc tiểu bang California, tôi còn nghĩ đến thân phận những kẻ làm tay sai cho cộng sản Việt Nam trong lãnh vực chữ nghĩa và nghệ thuật. Họ có hiểu vì lý do gì Trương Vĩnh Ký cũng bị xóa bỏ. Và họ, họ là cái thứ gì, giá trị bao nhiêu để hy vọng tồn tại.
***
18 giờ 30. Chúng tôi có mặt ở ngã tư Hiền Vương – công Lý. Quân trang, quân dụng, võ khí vẫn xếp đống ngổn ngang trên vỉa hè. Súng đạn sẵn sàng, thừa mứa, tha hồ lượm mà bắn giết nhau vô tội vạ. Nhưng, người Sài gòn không giết người Sài gòn. Nhiều thanh niên biết xử dụng M16 đã lượm súng, bắn chỉ thiên vung vít. Bắn cho hả giận. Bắn cho quên nỗi nhục. Bắn rồi liệng súng, nước mắt ròng ròng. Thành phố rền vang tiếng đạn nổ chỉ thiên…Chúng tôi thản nhiên đi. Lúc này, vẫn còn nhiều người lính trên đường chạy về nhà mình. Tôi nhận ra những kẻ chiến bại bất đắc dĩ và tội nghiệp ấy, vì họ mình trần, quần xà lỏn, chân đất. Làm sao tôi biết chia xẻ tâm sự uất nghẹn của người lính quốc gia đường chiều 30-4? Những trang sách nào của những ông đại tá, trung tá của Cục tâm lý chiến “không chịu đứng chung đẳng cấp xã hội và văn học nghệ thuật” với người khác đã soi tỏ tâm sự uất nghẹn này? Bầy hạc gỗ của vua Vệ, bọn ý gẩy bút cùn chỉ đủ khả năng xướng họa thơ con cóc và vấy bẩn thiên hạ thì làm nổi trò trống gì mà cũng hiệu hiệu khẩu khí ôm mối thù nặng nghìn cân? Cho nên, chúng ta có hơn một nghìn trang “Việt Nam máu lửa quê hương tôi”, gần một nghìn trang “Hồ sơ dinh Độc Lập”, vẫn còn thiếu một trang viết về người lính buông súng, lột bỏ quân phục chạy về nhà mình tức tưởi, phẫn nộ và lo âu. Chưa bao giờ tôi thấm thía thơ Đặng Trần Côn bằng lúc này:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu, tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…

NHỮNG TỬ SĨ KHÔNG CẦN AI GỌI HỒN
Xe tăng cộng sản từ Long Khánh qua Gia Kiệm, Hố Nai định ra xa lộ Biên Hòa đã bị chặn đánh tại Tam Hiệp trước lệnh đầu hàng của Dương văn Minh. “Chiến lũy Tam Hiệp”, phải coi như thế, được sáng tạo bởi một số lính nhẩy dù, lính thủy quân lục chiến mà đại đơn vị đã tan hàng từ đêm 29-4. Họ phối hợp cùng nhân dân tự vệ và dân chúng Tam Hiệp, dùng máy cầy ủi đất đắp mô ụ nghênh địch. Mẩu chuyện này nghe kể và xem những thước phim của đài truyền hình Pháp ghi lại.
Trận chiến thật ngắn ngủi nhưng rất anh dũng. Không cần hỏa tiễn Tow của Mỹ viện trợ, không cần không lực Hoa Kỳ yểm trợ. Lúc ấy, người Mỹ đã “cút”, ông đại sứ Martin cũng cuốn cờ sao xọc leo lên trực thăng bay ra hạm đội số 7. Thế giới nên công bình ghi nhận rằng, Mỹ đã “cút”, ngụy đã “nhào”, chỉ còn quân dân miền Nam chiến đấu chống cộng sản xâm lăng. Xe tăng cộng sản phải dừng lại. Chúng nổi giận bắn thẳng vào chiến lũy. Đạn của T-54 khạc tới tấp, khạc không thương xót. Quân dân ta chống trả kịch liệt. Những em nhỏ trên 10 tuổi bám sát các anh lính để được sai bảo. Một em trúng đạn giặc, máu me đầy mặt. Hai anh lính dìu em vào chỗ an toàn, băng bó cho em. Em bé khóc. Khuôn mặt hai anh lính ưu tư. Một hình ảnh đẹp nhất, nhân bản nhất của lính quốc gia. Cuộc chiến vẫn tiếp tục. Những người lính mà tướng lãnh đã bỏ trốn phóng lên phía trước. Đạn thù bắn như mưa. Lính của ta gục ngã trên những vũng máu danh dự, trách nhiệm, tổ quốc. Họ chết hết. Họ yên lòng vì họ thật sự biết họ chết vì tổ quốc, vì dân tộc. Trận chiến kết thúc mau lẹ. Xe tăng cộng sản nghiến lên xác lính của ta, nghiến lên xác của dân ta, san bằng mô ụ.
Chúng ngạo nghễ bò ra xa lộ và tiến vào Sài gòn. Bất ngờ, đến cây cầu nhỏ gần nhà máy xi măng Hà Tiên, xe tăng cộng sản bị lính chi khu Thủ Đức chặn đánh thêm. Súng phóng lựu đạn, súng mọc chê, súng đại liên của lính chi khu dũng cảm đã bắn cháy một T 54. Chiến trận cũng không thể kéo dài. Cộng sản làm chủ tình hình và kết thúc lẹ. Chúng khẩn trương chạy vô thành phố.
Những người lính nhẩy dù, thủy quân lục chiến và chi khu Thủ Đức đã hy sinh vào buổi sáng 30-4. Họ không cần ai mạc mặt, gọi hồn cả…

DUYÊN ANH

SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (Chương 7)

duyenanh

Tôi không hiểu, trong Dinh Độc Lập, Dương văn Minh và bọn hàng thần lơ láo đến mức độ nào trước ống kính xấc xược của bọn phóng viên cộng sản và trước những câu hạch hỏi hỗn láo của bộ đội giải phóng cấp tá. Họ có nghe những tiếng súng danh dự, trách nhiệm, tổ quốc của lính văn nghệ diệt T-54 ở cầu Thị Nghè, của lính nhẩy dù cách cổng Dinh Độc Lập chẳng bao xa? Chúng tôi vào trung tâm thành phố. Dân chúng đang bu kín công viên dựng hai người chiến sĩ thủy quân lục chiến Việt Nam họng súng nhắm thằng vào Hạ Viện. Những chiếc loa gắn trên cây cao đã oang oang giọng nói mới chào mừng giải phóng miền Nam. Bài hát Tiến vào Sài gòn ta quét sạch giặc thù muốn rung chuyển thành phố. Nhưng trời vẫn thiếu nắng. Cộng sản đã tiếp thu Đài phát thanh, Bưu điện… Giọng nói cầy cáo của Lý Quý Chung và ca khúc Nối vòng tay lớn không còn nữa.
Chúng tôi lách đám đông. Dưới chân tượng đài của thủy quân lục chiến, xác một người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người sĩ quan cảnh sát đeo lon Trung tá. ông ta mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Trung tá cảnh sát Long đã tự sát ở đây Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng, thây kệ những bài ca cách mạng, những lởi hoan hô bộ đội giải phóng.
Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng trấn Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Đô trưởng Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia đã đào ngũ. Không có Hoàng Diệu, ở những trạng lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và trên những tiểu thuyết đấu tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự nhởn sống hùng mọi hoàn cảnh, người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết tuyệt vời của trung tá Cảnh sát tên Long. Cộng sản đã chẳng ngu dại phong anh hùng, liệt sĩ cho quốc gia. Họ độc quyền anh hùng, liệt sĩ. Ở những cuộc đấu thầu anh hùng, liệt sĩ quốc gia tại hải ngoại, chưa thấy một nén tâm hương tưởng mộ trung tá Long. Có lẽ, liệt sĩ đích thật không lãi lớn bằng liệt sĩ giả vờ thế thì thời đại chúng ta đang sống là cái thời đại gì nhỉ? Nó không chịu, không thích vinh tôn cái thật, đã đành, nó còn nhởn chìm cái thật và vấy bẩn lên cái thật một cách thô bạo, ẩn ý và lạnh lùng. Khi cái thật bị nhận chìm, bị vấy bẩn, cái giả nổi bật, sáng giá và chói lọi, thơm tho. Như vậy, mọi giá trị về tinh thần, về đạo nghĩa bị nhởn chìm theo. Rốt cuộc, bọn giả hình sống với cái giả của chúng, huyễn hoặc mọi người bằng cái giả với bạo lực của quyền uy hợp pháp và cả quyền uy ảo tưởng hậu thuẫn. Và người công chính thụ động, buông xuôi. Cuối cùng, con cháu chúng ta sẽ chỉ biết liệt sĩ đất sét, anh hùng gian dối, vĩ nhân phường tuồng.
Tôi muốn biểu dương trung tá Long như Hoàng Diệu hôm nay, Hoàng Diệu của Sài gòn. ông ta đang nằm kia, dưới chân tượng đài thủy quân lục chiến Việt Nam anh dũng. Máu trung tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ. Cái chết của trung tá Long nếu chưa thức tỉnh được sự u mê của thế giới tự do thân cộng, của bọn phản chiến làm dáng thì, ít ra, nó cũng biểu lộ cái khí phách của một sĩ quan Việt Nam không biết hàng giặc. Tôi không mấy hy vọng cái chết của trung tá Long lay động nổi cái bóng tối vô liêm sỉ trùm đặc tâm hồn những ông tướng đào ngũ. Chúng ta hãnh diện làm người Việt Nam lưu vong vì chúng ta còn trung tá Long không đào ngũ, không đầu hàng giặc và biết chết cho danh dự miền Nam, danh dự của tổ quốc.
– Tôi chứng kiến tự phút đầu.
– Ông nói sao?
– Tôi nhìn rõ ông ta rút súng bắn vào thái dương mình.
– Thật chứ?
– Đáng lẽ tôi phải nói dối.
– Tại sao?
– Vì nói thật lúc này không có lợi.
Tôi nghe hai người Sài gòn nói chuyện. Và tôi được nghe “Huyền sử một người mang tên Long” do một trong hai người kể. Truyện như vầy: 10 giờ 30, Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng, quân đội và cảnh sát tuân lệnh Tổng thống, lột quần áo, giầy vớ, nón mũ, vất súng đạn bỏ chạy về nhà mình hay nhà thân nhân của mình. Một mình trung tá Long không lột chiến bào, không phi tang tích huân chương, không liệng súng đạn. Trung tá Long từ nơi nào đến, chẳng ai rõ. ông xuất hiện ở công viên trước Hạ Viện hồi 12 giờ. Ngồi trên ghế đá, ông ta trầm ngâm hút thuốc. Rồi ông ta nhìn trước, nhìn sau, ngó ngang, ngó dọc. Rồi ông ta đưa tay ôm lấy đầu, cúi thấp. Khi ấy, Sài gòn đã ồn ào tiếng hoan hô cộng sản giải phóng. Bất chợt, ông ta đứng dậy, chậm rãi bước gần chân tượng đài. Trung tá Long đứng thẳng. ông ta ngẩng mặt. Thản nhiên, ông ta rút khẩu Colt, kê họng súng vào thái dương mình bóp cò. Tiếng đạn nổ trùm lấp tiếng hoan hô cộng sản. Trung tá Long đổ rạp.
– Đó, diễn tiến cái chết của trung tá Long.
– Ông có mặt ở đây trước lúc trung tá Long xuất hiện?
– Phải. Tôi tuyệt vọng, không thiết về nhà nữa.
– Rồi sao?
– Dân chúng bu quanh xác trung tá Long. Cộng sản chưa có thì giờ kéo xác ông ta đi. Phóng viên truyền hình Pháp thu cảnh này kỹ lắm. Chỉ tiếc họ đã không thu được cái oai phong lẫm liệt của trung tá Long. Họ đến quá chậm và họ chỉ quay phim một xác chết. ông hãy nhìn cho kỹ. Trung tá Long tuẫn tiết cùng chiến bào, cùng cấp bậc, cùng tên mình.
Tôi đã nhìn kỹ. Lịch sử của chúng ta đã có những vị anh hùng chỉ có tên mà không có họ. Như Đô đốc Tuyết, Đô đốc Long… Hôm nay, chúng ta có thêm trung tá Long. Những ai sẽ viết lịch sử? Và liệu sử gia đời sau có soi tỏ niềm u ẩn của Trung tá Long chảy máu mắt nhìn quê hương lạc vào tay quân thù mà bất lực cứu quê hương, mà chỉ còn biết đem cái chết tạ tội quê hương, dân tộc. Đã hàng tỉ tỉ chữ viết về những chuyện khốn nạn, viết về những tên khốn kiếp, viết về những sự việc khốn cùng. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Người ta đã viết cả pho sách dày cộm để nguyền rủa xác chết. Người ta cũng đã viết cả pho sách dầy cộm để suy tôn xác sống. Người ta ồn ào. Người ta vo ve. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Ai đã làm công việc sưu tầm lý lịch đầy đủ của vị liệt sĩ đích thực này? Than ôi, lịch sử đã hóa thành huyền sử. Cho nên người ta nhìn quốc kỳ mà không cảm giác linh hồn tổ quốc phấp phới bay. Chúng ta đang bị sống trong cái thời đại của những ông tướng đào ngũ, của những ông tổng trưởng đào nhiệm không hề biết xấu hổ. Thời đại của chúng ta còn đòi đoạn ở chỗ, kẻ sĩ và kẻ vô lại đồng hóa trong “lý tưởng” nguyền rủa xác chết và suy tôn xác sống.
Xưa, Hàm Nghi 8 tuổi, hỏi cận thần:
– Tay bẩn lấy gì rửa?
Cận thần đáp:
– Nước.
Hàm Nghi hỏi thêm:
– Nước bẩn lấy gì rửa?
Cận thần ngơ ngác:
– Tâu bệ hạ, thần không hiểu.
Hàm Nghi nói:
– Nước bẩn lấy máu mà rửa!
Trung tá Long đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính nhẩy dù đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính văn nghệ đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Những kẻ tạo ra ô nhục 30-4 lấy gì nhỉ? Họ đang cầm ca, cầm đĩa xếp hàng ngửa tay lấy cơm, lấy nước ở đảo Guam. Biết đâu chẳng xẩy ra tranh cơm như tranh quyền bính. Và biết đâu chẳng bị ông quân cảnh Mỹ đen tặng một vài cái tát xiếc! Những kẻ này vẫn thừa thãi vô liêm sỉ để họp bàn, hiến kết cứu nước. Lịch sử lại thêm vài phụ trang chó đẻ.
Giải phóng quân đã đổ đầy trước thềm Hạ Viện. Cỏ đuôi chó hoan hô tưng bừng. Dân chúng chiêm ngưỡng Trung tá Long tản mạn. Trung tá Long nằm nguyên chỗ ông ngã rạp cho máu rửa nhục Sài gòn. Giã từ liệt sĩ! Vĩnh quyết liệt sĩ. Xin hãy phù hộ tôi kéo dài cuộc sống hèn để có ngày được viết vài dòng về Trung tá.
Đặng Xuân Côn và tôi qua Hạ Viện. ở đây, chỉ có bộ đội của Mặt trận giải phóng miền Nam mà người ta quen gọi là quân giải phóng. Quân giải phóng mặc quần áo bà ba, quấn khăn rằn, đội mũ tai bèo, chân mang giép râu. Nhiều người mặc quần xà lỏn. Bộ đội miền Bắc mặc đồng phục, đội nón cối, mang giép râu luôn. Quân giải phóng treo cờ Mặt trận, thay thế cờ vàng ba sọc đỏ. Khi lá cờ của Việt Nam cộng hòa bị vất xuống, cỏ đuôi chó bày tỏ lòng căm hờn Mỹ-ngụy, xúm nhau giành giật, xé nát. Có đứa dẵm dí dưới chân mình. Có đứa quấn quanh hạ bộ. Bây giờ, tôi đã nhận diện cỏ đuôi chó. Chúng nó là sinh viên ồn ào xuống đường tranh đấu năm xưa. Chúng nó là mấy thằng ký giả thân cộng sản. Chúng nó cách mạng hơn cách mạng. Chúng nó giải phóng hơn giải phóng. Truyền hình Tây Đức thu hết cảnh tượng này. Cỏ đuôi chó ôm quân giải phóng hôn hít thắm thiết, đưa thuốc lá mời mọc vồn vã, chuyện trò thân mật. Tôi cố gắng quan sát và chỉ quan sát giải phóng quân.
Trên thềm Hạ Viện, một gã giải phóng quân béo tròn trùng trục. Anh ta để ria. Mặt mày nở nang, phấn khởi. Mặc quần xà lỏn, chân đất, anh ta đeo hai giây đạn tréo trước ngực như Django. Chưa đủ, anh lính giải phóng máng hai khẩu Colt trễ xuống gần đầu gối. Trông anh ta hề như Fernando Sanchoz. Đó là hình ảnh người lính giải phóng không đội mũ tai bèo. Rõ ràng một thứ thảo khấu. Giải phóng quân vào thành phố còn đeo lá cây ngụy trang. Tôi nhìn những quả đạn B-40, B-41, những quả đạn này đã thụt sập nhiều nhà cửa, đã sát hại vô số lương dân hồi Mậu Thân. Người Sài gòn chưa quên một đám tang tập thể. Những chiếc quan tài khiêng qua khắp đường phố. Lúc này, người Sài gòn đứng đây, ngẩn ngơ nhìn cỏ đuôi chó “ôm hôn thắm thiết” những kẻ đã âm mưu giết mình.
Tôi vừa hiểu tại sao hôm nay Sài gòn không có nắng. Nếu tôi có thể có mặt ở khắp đầu đường, góc phố, xó chợ, gầm cầu Sài gòn hôm nay? Không ai có thể có cái có thể này. Tự nhiên, tôi cảm giác mình được an ủi vì đã được sống với Sài gòn từng phút giây buồn bã của Sài gòn 30-4. Tự nhiên, tôi cảm giác trời đất cũng chia xẻ nỗi buồn Sài gòn. Có tiếng la hét ở công viên nơi Trung tá Long tuẫn tiết. Chúng tôi chạy sang, đứng trước cửa Sài gòn ngân hàng.
***
Một nhánh cỏ đuôi chó, tên lính sư đoàn 304, leo lên tượng đài thủy quân lục chiến Việt Nam. Nó buộc hai sợi giây cáp vào cổ hai pho tượng. Nó siết chặt, kỹ lưỡng. Nó dùng cái búa bổ mạnh trên đầu pho tượng cao nhất. Cỏ đuôi chó hồ hởi phấn khởi reo hò. Ống kính điện ảnh của cộng sản thu kỹ cảnh này, cảnh mà họ đã dàn cảnh. Phóng viên truyền hình Pháp, Mỹ, Đức, Nhật… quay không tiếc phim. Phía dưới, cỏ đuôi chó, búa dài, búa ngắn chuẩn bị đập phá tượng đài. Xác Trung tá Long đã được kéo lết ra xa. Vũng máu bất khuất của ông chưa kịp khô. Khi tên cỏ đuôi chó ở trên tụt xuống, cỏ đuôi chó ở dưới xúm nhau lại đập nát chân hai pho tượng Cộng sản thuyết minh là “nhân dân Sài gòn đã biểu lộ lòng căm thù Mỹ-ngụy cao độ.” Rồi tất cả cỏ đuôi chó kéo hai sợi giây cáp Pho tượng thủy quân lục chiến từ từ ngã rạp. Cỏ đuôi chó vỗ tay, hoan hô cộng sản. Truyền hình Pháp diễn giải: “Biểu tượng của miền Nam sụp đổ.”
Vỗ vai tôi, Côn nói:
– Đi chỗ khác, Long.
Tôi hỏi:
– Đi đâu?
– Đi đâu không có cảnh ô nhục này.
– Phải ở đây mà nghiến răng nuốt nhục.
Tôi không biết đã có người lính thủy quân lục chiến nào chứng kiến cảnh tượng này. Tôi cũng không biết ông tướng Lê Nguyên Khang, ông tướng Bùi Thế Lân đã xem những thước phim giật đổ tượng đài thủy quân lục chiến mũi súng nhắm thảng Hạ Viện chưa. Rất bất bình với tượng đài khi người ta dựng lên. Thủy quân lục chiến, những người lính của dân tộc, của tổ quốc, của quê hương như tất cả lính của các binh chủng khác, đã bị bọn ngu xuẩn nịnh bợ chế độ quân phiệt độc tài dùng làm bình phong đe dọa lập pháp, chế ngự dân sự. Tại sao họng súng nhắm thằng Hạ Viện? Lúc này, 16 giờ thiếu 10 phút, đứng ngắm hai pho tượng ngã gục, nứt vỡ, tôi quên bất bình cũ. Và cứ tưởng những nhát búa bổ xuống đầu pho tượng là những nhát búa bổ xuống đầu mình.
– Đã có những ông tướng đào ngũ nuốt nhục giùm mày bên Mỹ.
– Bọn bất tri vong quốc hận ấy nuốt gì? Chúng nó đã nuốt máu xương của lính, chúng sẽ tiếp tục nuốt tiền bán xương máu lính.
Lảng chuyện, Côn hỏi tôi:
– Trong Dinh Độc Lập có gì lạ?
Tôi dịu giọng:
– Có gì lạ? Tôi đang muốn biết đây…
HÀNG THẦN VÀ HÀNG THẦN BẤT ĐẮC DĨ
Cuốn phim tài liệu của cộng sản nhan đề Tháng 5, những khuôn mặt do Đỗ Chu* viết lời thuyết minh, chiếu ở các rạp Sài gòn ngay trong tháng 6-1975 đã khiến dân Sài gòn buồn nôn. Nó mở ra bằng cảnh trống vắng của phòng họp của Hội đồng An ninh Quốc gia trong Dinh Độc Lập. Nó vào bằng cảnh triều đình Dương văn Minh quy hàng. Rồi nó bung ra những xóm lao động tăm tối trước tháng 4-1975. Nó giới thiệu đầy đủ khuôn mặt cỏ đuôi chó buổi sáng một tháng 5-1975. Những chủ báo nào vác cờ đỏ sao vàng. Những nhà văn nào căng khẩu hiệu chào mừng cách mạng… Mẩu bài này chỉ viết về những khuôn mặt hàng thần bất đắc dĩ.
Khuôn mặt thứ nhất là tiến sĩ Nguyễn văn Hảo, phó Thủ tướng đặc trách Kinh tế, Tài chính kiêm Tổng trưởng Canh nông của nội các Trần Thiện Khiêm. Tiến sĩ Nguyễn văn Hảo đã mất hết chức tước từ khi Nguyễn văn Thiệu thoái vị, nhường ngôi cho thầy giáo Trần văn Hương. Nội các Nguyễn Bá Cẩn không có tiến sĩ Hảo. Nội các Vũ văn Mẫu không có tiến sĩ Hảo. ông tiến sĩ họ Nguyễn đã quá xa “chính quyền” bằng hai đời… Tổng thống. Tại sao ông ta lại có mặt trong đám hàng thần lơ láo ở Dinh Độc Lập trưa 30-4-1975?
Truyện kể rằng, tiến sĩ kinh tế Nguyễn văn Hảo và thống đốc ngân hàng Lê Quang Uyển đem bầu đoàn thê tử leo lên nóc ngân hàng Việt Nam Thương Tín, đường Hàm Nghi, từ sáng 29-4. Đây là điểm hẹn của người Mỹ. Tiến sĩ Hảo và thống đốc Uyển tin chắc người Mỹ không thể, không nỡ bỏ rơi hai ông. Hai ông kiên nhẫn chờ đợi. Sáng qua, trưa tới, tối đến… Trực thăng Mỹ vẫn chưa đến. Sao không thấy em lại? Tiến sĩ Hảo và thống đốc Uyển chơi một đêm không ngủ trên nóc ngân hàng Việt Nam Thương Tín. 9 giờ ngày 30-4, biết chính xác bị người Mỹ cho đi tầu suốt, hai ông dắt díu bầu đoàn thê tử xuống đường. Thống đốc Lê Quang Quyền về nhà lo sợ biển máu. Rồi ông trình diện học tập cải tạo. Trại cuối cùng của ông là Hàm Tân Z30D. ở đây, thống đốc Uyển đã nổi tiếng là người phá kỷ lục ăn thịt chuột. Ông ăn đủ các loại chuột. Chẳng hiểu sự ăn chuột có giúp ông soi sáng nghĩa đời hôm nay, khi ông hiển vinh tại Kuweit? Tiến sĩ Nguyễn văn Hảo không về. ông bảo bà Cao thị Nguyệt về căn nhà đầu đường Miche, gần nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi và bà vợ nhỏ về căn nhà đường Yên Đổ. Còn ông tiến sĩ Hảo chạy vô Dinh Độc Lập làm hàng thần lơ láo.
Mưu của tiến sĩ Hảo rất cao. ông sẽ thoát biển máu vì quốc tế chứng kiến ông “hàng” ở Dinh Độc Lập. Cộng sản khó thủ tiêu ông ta. Có thể, cộng sản còn đánh giá cao cái thiện chí… hàng của tiến sĩ Hảo. Y trang. Tiến sĩ Hảo, nhờ khuôn mặt nghiêm túc trong những thước phim Tháng 5, những khuôn mặt mà sau 30-4 lại phom phom mặc sơ-mi hoa hòe hoa sói lái DS-19 chạy rông trên nỗi quằn quại của Sài gòn. ông ta tiếp tục chơi ten-nít ở sân quần vợt Duy Tân, Hồng Thập Tự. Rồi ông ta ra Bắc tham quan và nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Rồi cùng tiến sĩ Nguyễn Xuân Oanh, ông ta giúp Võ văn Kiệt “mở bung kinh tế” thành phố Hồ Chí Minh. Rồi ông ta leo lên Air France… di tản – cũng có thể gọi là tỵ nạn chính trị – và được phép mang theo cả trăm chiếc áo dài thêu sẵn làm vốn lưu vong.
Hàng thần lơ láo “tỵ nạn chính trị” bên Pháp có Dương văn Minh, Nguyễn văn Hảo. Dương văn Minh còn biểu diễn xé giấy thông hành qua cửa phi trường Tân Sơn Nhất do cộng sản cấp phát khi máy bay của Air France sắp đáp xuống Charles de Gaulle! Nguyễn văn Hảo thì tiết lộ Nguyễn văn Thiệu đã ăn cắp vàng của quốc gia mang theo. Tự nhiên, hàng thần lơ láo đổi màu như kỳ nhông, biến thành những người yêu nước chống cộng. Nguyễn văn Hảo tình nguyện làm hàng thần lơ láo thì được, vì ông ta đã từng là phó thủ tướng. Nhưng nghị sĩ Nguyễn văn Huyền sao cũng cam đành làm hàng thần? Ông ta do dân bầu. Dân đâu có hàng giặc. Dân đâu có thua trận. Nghị sĩ Huyền mình hạc vóc mai không thể leo lên hàng rào phi trường Tân Sơn Nhất được. Ông ta trở về. Thay vì đợi số phận mình chìm trong biển máu hay đem tấm thân già tạ lòng cử tri, ông ta vẫn tham sinh bon chen vào đám hàng thần. Rồi ông ta cũng đã chết già, chết bệnh. Cái chết của ông không để lại một ý nghĩa sống nào cho đời sống kế tiếp. Rốt cuộc, những vạt nắng óng lên trong hoàng hôn của lịch sử hiu hắt Sài gòn chỉ là máu lính văn nghệ cầu Thị Nghè, máu lính nhẩy dù đại lộ Thống Nhất, máu Trung tá cảnh sát Long dưới chân tượng đài thủy quân lục chiến Việt Nam.

DUYÊN ANH

SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (CHƯƠNG 6)

duyenanh

Chuông điện thoại reo. 11 giờ 40 phút. Tôi nhấc máy:
– Phạm Lê Phan đây.
– Sao?
– Xong rồi. Tao đã giao Cục cho họ. Tốt đẹp cả. Tự nghĩ mình chỉ là thượng sĩ nên tao không đủ tư cách làm Hoàng Diệu. Tao về. Thôi nhé!
Phạm Lê Phan đã về. Tôi rủ Côn ra đường. Vỉa hè nhà tôi, vỉa hè bên kia phố đã ngổn ngang mũ sắt, mũ vải, giầy vớ, ba lô, súng đạn. Không ai thèm lượm nhặt. Không ai nỡ lượm nhặt. Vợ tôi và ba đứa con cũng mở cổng ra đường. Khi nhìn quân trang, quân dụng, võ khí của quân đội ta xép lớp trên vỉa hè, vợ tôi òa lên khóc. Các con tôi khóc theo. Những tiếng khóc, những giọt nước mắt muộn màng. Tại sao người ta chỉ biết khóc vào hoàng hôn? Cảnh tượng bây giờ, đã thay đổi chút chút. Tôi thấy có nhiều người đeo băng vải đỏ ở cánh tay phải. A, những người này tôi đều biết. Họ ở dưới chợ Xóm Lách. Họ đã là nhân dân tự vệ chọc chó, hái trộm khế nhà tôi và gây phiền nhiễu cho dân lương thiện. Họ đã là những tên sống cù bơ, cù bất ngoài vòng pháp luật. Họ đã là ông thợ may hiền lành, bà chạp phô dễ tính. Họ đeo băng đỏ chờ đợi hoan hô cách mạng, hoan hô quân giải phóng. Họ thuộc sư đoàn 304 tân lập* . 11 giờ 45 phút, xe tăng cộng sản thị uy trên đường Công Lý. Nó tiến vào thành phố theo ngả Hàng Xanh, Bạch Đằng, Chi Lăng, Võ Tánh, rồi rẽ sang Cách Mạng, qua cầu Công Lý. Nó ngang qua nhà tôi. Năm chiếc. T-54 treo hoa ny-lông phía trước. Nóc xe đầy nhóc lính 304 phất lia lịa cờ đỏ sao vàng và cờ trên đỏ, dưới xanh, giữa sao vàng. Bên hông xe đeo tòng teng lồng gà, lồng vịt. Hẳn là tăng cộng sản đã dừng lại để nhận quà của “nhân dân” và để lính 304 leo lên… giải phóng Sài gòn. Gà và vịt cũng hãnh diện tham dự chiến dịch Hồ Chí Minh!
Những người đeo băng đỏ dơ cao tay, hét lớn “Hoan hô bộ đội giải phóng”. Tôi có thể làm chứng nhân rất trung thực cái phút giây buồn bã này. “Nhân dân” đã không hoan hô theo. “Nhân dân” đứng trố mắt nhìn. “Nhân dân” suy nghĩ gì khi họ gặp xe tăng cộng sản, tôi không biết. Nhưng tôi đọc từ trong ánh mắt của họ một nỗi bẽ bàng. Chính nỗi bẽ bàng đó đã giữ tình nghĩa Việt Nam nguyên vẹn. Và Sài gòn không hề có đấu tranh giai cấp Xe tăng đi qua một lát thì mô-lô-tô-va và GMC Trung quốc tiến vào. Bộ đội miền Bắc đội nón cối. Quân giải phóng đội mũ tai bèo. Tất cả đứng trên xe cười thỏa mãn, vẫy tay rối rít. “Nhân dân” vẫy tay chào theo phép lịch sự. Tuyệt nhiên, “nhân dân” không hoan hô, dù cò mồi cách mạng 304 đã lấn xuống đường hô những khẩu, hiệu chào mừng quân giải phóng. Không còn cách mạng “diễn binh” nữa, “nhân dân” tản mạn về nhà mình. Đường phố nổi bật lính sư đoàn 304 đeo băng đỏ.
Tôi bảo vợ tôi đưa các con vào nhà, đóng cổng, khóa kỹ rồi rủ Đặng Xuân Côn đi bộ lên Sài gòn.
-Ông thấy gì?
– Thấy gì?
-Tôi sợ biển máu của nhân dân, không sợ biển máu của cộng sản. Rất may, nhân dân không thích biển máu.
– Sẽ không có biển máu.
-Phải, biển máu sẽ là đại dương nước mắt.
Dọc vỉa hè số lẻ đường Công Lý, chúng tôi rảo bước. Tôi không thấy đi, thấy khát. Quân trang, quân dụng, võ khí từng đống, từng đống trên vỉa hè. Tôi đã no nghẹn ngào. Mười tuổi, tôi đi đếm xác đồng bào tôi chết đi tháng ba năm ất Dậu, 1945. Cái thị xã Thái Bình nhỏ bé của tôi, xác chết đói cùng khắp. Gầm cầu. Xó chợ. Vỉa hè… Tôi đã nhìn đồng bào tôi chết từ từ. Tôi đã nhìn người mẹ chết, đứa bé nhay vú mẹ một lúc rồi chết theo. Hồi đó, tôi chỉ biết sợ hãi, thương xót mà chưa vỡ lẽ đau đớn. Những người bạn thơ ấu của tôi như Côn, như Luyến đã cố gắng làm những gì mình có thể làm được để cứu đói Và chúng tôi, đã đi ăn mày xin cơm cứu đói. Hôm nay, 30-4-1975, ba mươi năm sau, 40 tuổi, tôi lại nhìn quần áo, nón mũ, súng đạn của quân đội nước tôi nằm ngổn ngang, chất đống trên vỉa hè Sài gòn. Tôi đã vỡ lẽ đau đớn. Nón mũ, giầy vớ, quần áo của quân đội tôi yêu dấu, cơ hồ xác chết đói năm 1945. Đời tôi sao lại phải chứng kiến nhiều thảm cảnh thế? Nước mắt ròng ròng, hai chúng tôi bước nhanh.
– Long, cuộc chiến đấu chống cộng sản của dân tộc ta thật sự bắt đầu từ năm nào?
– 1951.
– Tại sao?
– Vì cuối 1950, cộng sản quy định thành phần, giai cấp Quốc gia bị loại bỏ khỏi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập, tự do.
– Như thế, dân tộc ta đã chống cộng sản 24 năm. Bốn năm chống cộng sản với Pháp thì mất nửa tổ quốc. Hai mươi năm chống cộng sản với Mỹ thì mất cả tổ quốc và nuốt nhục.
– Chúng ta có thể xin cơm cứu đói 1945 mà không thể cất dấu xác chết 1975.
– Chúng ta làm gì?
– Làm gì? Lúc nãy, Phạm Lê Phan nói nó không đủ tư cách làm Hoàng Diệu nên nó về nhà nó. Ông muốn làm gì? Trong một biến cố lịch sử nào đó, có những người cần chết và những người cần sống. Chúng ta không có cả hai. Chúng ta chỉ có những kẻ sợ chết, cho nên, chúng ta thiếu sự chết cho sự sống.
-Mày nghĩ sao, nếu Trần văn Hương không chịu “hy sinh” cho Dương văn Minh?
– Có thể có đánh đấm.
– Rồi sao?
– Ông ta sẽ sống như Dương văn Minh thôi.
– Nếu mày là Dương văn Minh?
Những kẻ như Nguyễn văn Thiệu, Dương văn Minh, ngoài tham vọng quyền bính còn tham vọng đi vào lịch sử. Dương văn Minh đã có cơ hội duy nhất đi vào lịch sử, nhưng ông ta tình nguyện khước từ. Từ một tên lính của thực dân Pháp, nhờ sự chuyển mùa của đất nước khan hiếm tài năng, ông ta trở thành tướng lãnh của chế độ Ngô Đình Diệm, trở thành người anh hùng của các chiến dịch tiêu trừ loạn quân Bình Xuyên, Hòa Hảo… Tên lính Xuân tóc đỏ của quân đội, đáng lẽ, đứng ở đó là đẹp rồi. ông ta không chịu. ông ta nhúc nhích vì ngỡ mình là Nasser. ông ta bị dìu vào tội ác thoán nghịch. Và Dương văn Minh thỏa chí Quốc trưởng. Triều đình của Dương văn Minh thật phù du. Tên vũ biền không thích truy nã thân phận mình, ông ta tưởng ông ta có… đế mạng. Bị tước đoạt quyền bính, bị đuổi khỏi đất nước, Dương văn Minh cựa quậy quay về giành bằng được tước vị tổng thống. ông ta thỏa mãn. Thánh nhân thường đãi kẻ khù khờ. Thánh nhân đãi thêm đứa ngu dốt. Đất nước phải có đến thứ Dương văn Minh gánh vác, kể như đất nước tàn tạ. Dương văn Minh, trong diễn văn nhận chức vụ Tổng thống, biết nói về Trằn văn Hương: “Thầy đã hy sinh nhiều rồi” mà không biết ông ta đã già rồi và ngôi vị tổng thống ngáp ruồi vào giờ thứ hai mươi lăm của ông ta là cáo phó tuyệt vời bế mạc cuộc đời mình. Dương văn Minh chỉ cách biên giới lịch sử một sợi tóc: Nếu Dương văn Minh không ngu, lệnh đầu hàng của ông ta sẽ như thế này: “Đồng bào thân mến… Tôi, Dương văn Minh, tổng thống nước Việt Nam cộng hòa kiêm Tổng tư lệnh quân lực Việt Nam cộng hòa, tưởng đã đem những ngày cuối cùng của đời tôi chuyển vần lại vận mệnh của đất nước vào thời kỳ nghiêm trọng nhất của lịch sử, nhưng suy nghĩ lại, tôi thấy không đủ tài năng, e rằng xương máu của đồng bào đổ thêm vô ích. Vậy tôi tuyên bố đầu hàng cộng sản và xin đem cái chết của tôi để tạ tội cùng đồng bào, cùng chiến hữu, cùng tổ quốc…” Và Dương văn Minh tự sát ngay tại chỗ, ngay sau khi tuyên bố đầu hàng. Phát súng Minh tự bắn vào đầu ông ta cả nước sẽ được nghe trên vô tuyến truyền thanh, cả thế giới được nghe. Và đó là cái chết cần thiết cho cái sống. Dương văn Minh bất trí. ông ta không nên làm hàng tướng, vì sự sống của ông ta vô tích sự.*
– Không có so sánh hay “nếu” quái đản ấy. Dương văn Minh là tên lính tẩy chưa vỡ lẽ sống chết.
Hai chúng tôi vẫn cắm cúi bước. Lính của sư đoàn 304 xuất hiện khắp đường phố Sài gòn. Triết lý sống cỏ đuôi chó mà Lý Cẩm Dương đề cập trong cuốn Mạ nháy và chế độ mới đang là cái mốt ở đây. Nhưng cỏ đuôi chó mới chỉ mọc ngoài đường phố và là thứ cỏ dân giả. Những con thò lò trí thức chờ đợi quay. Góc độ còn tùy hoàn cảnh. Không thể thiếu cỏ đuôi chó vương giả. Mỗi biến cố lịch sử, chúng ta lại thấy lòi mặt một hạng người không ra cái giống người. Cái hạng người này sáng tạo thứ nhân sinh quan đốn mạt. Chỉ cần cái miệng hét lớn. Họ đã hoan hô Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại. Họ đã hoan hô hụt Nguyễn Chánh Thi đảo chính Ngô Đình Diệm. Họ đã hoan hô Dương văn Minh tàn sát Ngô Đình Diệm. Họ đã hoan hô Nguyễn văn Thiệu loại bỏ Nguyễn cao Kỳ. Họ đã hoan hô hụt cộng sản tổng tấn công Mậu Thân. Trí thức cả đấy. Bây giờ, họ chuẩn bị hoan hô cách mạng “đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào”…
Sư đoàn 304 tự đảm trách việc hướng dẫn lưu thông đường phố, bảo vệ an ninh, trật tự công cộng. Cách mạng vô sản thường ồn ào nhờ cỏ đuôi chó. Tôi nghĩ, cỏ đuôi chó đã mọc khắp vỉa hè Sài gòn. Chúng tôi đã đến Dinh Độc Lập. Lá cờ Mặt trận giải phóng miền Nam đã thay thế cờ vàng ba sọc đỏ. Nó không phất phới bay theo khí thế giải phóng. Nó rũ rượi trong ngày thiếu nắng, thiếu gió. Chiếc xe tăng thứ nhất theo ngả Thị Nghè, Hồng Thập Tự, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thống Nhất đã vào khuôn viên Dinh Độc tập ngon lành. Cổng mở rộng sẵn. Không hề bị T-54 ủi sập như báo chí cộng sản tường thuật. Sư đoàn 304 đông đầy hai bên cổng dinh. Dân chúng đứng xa ngó vào. Lác đác ở vườn sao hai bên đường, vài người đứng nhìn về phía sau nhà thờ Đức Bà. Ở phố Hàn Thuyên nhỏ hẹp, dân chúng thập thò ngoài cửa. Cộng sản vào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.
Chúng tôi băng sang nhà thờ Đức Bà. Một người quen vỗ vai tôi, nói nhỏ:
– Cách đây nửa tiếng, quân ta nghênh giặc ở sau lưng nhà thờ.
– Quân ta?
– Một trung đội nhẩy dù quyết tử.
– Có diệt được chiếc T-54 nào?
– Không.
– Đánh đấm ra sao?
– Đánh lấy chết. Chết vinh. Tôi vừa mới khô nước mắt. Trung đội nhẩy dù chết hết. Giặc cũng chết bộn. Xác quân ta và xác giặc đã được mang đi. Chiến trường đã rửa sạch vết máu. Ông ra mà xem, đường còn ướt mèm.
– Ngoại quốc có quay phim?
– Họ tới không kịp. Chỉ quay T-54 vào Dinh Độc Lập. Tôi ngỡ chúng ta đã bất hạnh cả đến phút chót.
– Tại sao?
– Bọn ký giả ngoại quốc chỉ quay những cảnh có lợi cho cộng sản.
Đặng Xuân Côn và tôi lần ra phía sau nhà thờ Đức Bà. Quả thật, một khúc đường Thống Nhất cạnh vườn sao còn ướt mèm. Cộng sản đã hiện diện khắp cơ cấu quốc gia. Bọn nằm vùng chỉ đợi thời cơ hành động. Chúng đã kịp thời đưa xe vòi rồng tới tải xác chết, rửa đường. Đề chứng minh với thế giới rằng, quân đội ta tan hàng bệ rạc, cộng sản vào Sài gòn như vào chỗ không người.
– Côn.
– Hả?
– Ai sẽ viết trận đánh này? Ai sẽ vinh tôn lính nhẩy dù, lính Việt Nam cộng hòa? Ai biết ngọn ngành trận đánh mà viết? Chắc chắn, phải có vài trang tiểu thuyết. Ai sẽ viết những trang này? Tôi đã là bạn của lính nhẩy dù. Nguyễn Minh Tiến, Hà Huyền Chi, Hoàng Ngọc Liến, Vũ Khắc Niệm, Phạm Huy Sảnh… Bạn tôi cả đấy, lính nhẩy dù cả đấy.
– Vậy mày cần sống.
– Phải, dù sống hèn.
NHỮNG THIÊN THẦN MŨ ĐỎ CỦA CHƯƠNG CÒM, DZŨNG ĐAKAO, BỒN LỪA, HƯNG MẬP
Một vài trang nhỏ mọn dưới đây trích từ truyện tuổi thơ Nhánh cỏ mộng mơ của tôi viết năm 1985 ở Paris mà nhà xuất bản Nam á Paris đã phát hành. Tôi không muốn thế hệ con cháu tôi quên trận đánh danh dự này. Và tôi, tự cho mình còn thiếu nhiều thành thật khi vinh tôn những người lính mũ đỏ. Vậy nên để tuổi thơ trong sáng, hồn nhiên, đôn hậu bày tỏ hết lòng ngưỡng mộ lính quốc gia bằng những rung động thuần khiết, nguyên khối của các em. Với riêng tôi, vài trang truyện nhỏ mọn này nằm trong ý nghĩ: Sự thật nói ra không ai tin, thì nó biến thành tiểu thuyết. Lịch sử bỏ quên thì vẫn còn dã sử, huyền sử…
***
Hai chiếc xe cam-nhông từ đâu không rõ, chạy tới đậu ngay chỗ bùng binh, sau nhà thờ Đức Bà. Lính trên xe nhẩy hết xuống. Dzũng Đakao vui mừng:
-Lính nhẩy dù!
Bốn ông nhóc đứng dậy, tiến sát ra lề đường. Những thiên thần mũ đỏ còn nguyên vẹn là thiên thần. Vị đại úy chỉ huy rất trẻ, mai vàng rực rỡ trên cổ áo. ông cằm cây gậy nhỏ, say mê nhìn quốc kỳ ủ rũ trên nóc Dinh Độc Lập. Rồi ông xoay lưng lại, quan sát phía Phủ Thủ Tướng. ông hơi cúi đầu giây lát. Đoạn, ông ngó thằng chiến hữu của mình, dõng dạc nói:
– Lần cuối cùng, tôi nhắc nhở anh em: Dương văn Minh đã đầu hàng. Nhiệm vụ của anh em chấm dứt. Ai muốn về nhà cứ thản nhiên về. Anh em không nợ nần gì tổ quốc nữa.
Những người lính nhẩy dù đứng nghiêm, đồng loạt trả lời:
-Chúng tôi ở lại chiến đấu với đại úy. Vì danh dự của người lính.
Đại úy dơ tay chào:
-Cám ơn anh em. Chúng ta chuẩn bị nghênh địch.
Dzũng Đakao, Chương còm, Hưng mập, Bồn lừa phóng tới ôm chặt lấy vị đại úy.
– Thưa chú, tên chú là gì? Chương còm hỏi.
Vị đại úy xoa đầu bốn ông nhóc, giọng cảm động:
-Lính nhẩy dù. Mà cháu hỏi tên chú làm chi?
Chương còm nắm tay vị đại úy:
– Mai này, tên chú sẽ thay tên đại lộ Thống Nhất.
-Chú tin không?
Vị đại úy chớp mắt:
– Chú tin, thế hệ các cháu phải làm lại lịch sử, phải xóa bỏ dấu tích ô nhục hôm nay.
Dzũng Đakao nói:
-Chúng cháu đặt tên chú cho con đường này. Chú cho biết tên chú đi.
Vị đại úy vỗ nhẹ vai Dzũng Đakao:
-Tên chú gắn liền với lính nhẩy dù. Lính nhẩy dù là tên chú. Các cháu nhớ đặt tên đại lộ này là đại lộ Mũ Đỏ nhé? Bây giờ chạy thật nhanh về nhà. Sắp nổ súng.
Bồn lừa hỏi:
– Cháu có thể giúp chú việc gì?
Vị đại úy lắc đầu:
– Các cháu đã giúp chú rồi, đã làm tăng ý nghĩa chiến đấu của chú, đã sưởi ấm lòng chú. Chú không còn cô đơn nữa. Nào chạy lẹ, các cháu yêu dấu…
Bốn ông nhóc co cẳng chạy. Nhưng chúng không chạy về nhà, mà núp dưới gốc cây đầu đường Alexandre de Rhôdes. Phía bên kia, đường Hàn Thuyên, dân chúng cũng đang lấp ló dưới những gốc cây sao. Nhiều người vào nhà thờ Đức Bà để xem chiến tranh qua kẽ hở của mấy khung cửa bên hông. Nhiều người tụ tập ở sân Bưu Điện. Xe tăng cộng sản, từ xa lộ Biên Hòa, vô Sài gòn hai lối Lối thứ nhất: Hàng Xanh, qua Gia Định, qua đường Chi Lăng, đường Võ Tánh đến Tổng Tham Mưu, rẽ trái qua đường Cách Mạng, qua cầu Công Lý. Rồi chạy thị uy khắp phố Sài gòn. Mười hai giờ trưa, xe tăng vô lối này đã xuất hiện. Lối thứ hai: Thị Nghè, qua cầu Thị Nghè (bị chặn đánh). Mãi gần bốn giờ mới lại qua cầu Thị Nghè, qua Hồng Thập Tự rẽ trái, qua Nguyễn Bỉnh Khiêm, rẽ phải, qua Thống Nhất để vào Dinh Độc Lập.
– Xe tăng cộng sản rét rồi.
– Bọn điên ấy không rét đâu.
-Bao giờ chúng đến?
-Cứ từ từ.
Vị đại úy đứng ngạo nghễ giữa đại lộ Thống Nhất, khẩu Colt của ông trễ xuống bên đùi. Lính của ông đứng sau những thân cây sao với tư thế sẵn sàng khạc đạn..
-Chú ấy oai quá.
– Cứ như shérif đợi bọn cướp.
– Tao hồi hộp thấy mồ.
– Im lặng.
-Thằng nào chạy ra, ngó xuống Sở Thú xem chúng nó vô chưa?
– Tao.
– Để Bồn lừa đi. Mày mập chạy đâu nổi, Hưng.
Bồn lừa cắm cổ chạy ra đường Thống Nhất. Nó chạy vào ngay, hổn hển:
– Rồi, rồi, sắp tới!
Tiếng xe tăng nghiến xích sắt trên đường nhựa nghe rõ dần rồi sôi sục trong tâm hồn bốn ông nhóc. Như chính mình tham dự trận đánh, Dzũng Đakao hét:
– Nó kia kìa.
Chiếc xe tăng dẫn đầu đã đến bùng binh. Nó có vẻ làm bộ làm tich. Nó có vẻ khinh khi, ngạo mạn. Đằng sau nó, đám bộ đội nón cối, dép râu ngụy trang cành lá trông dễ ghét. Chúng ôm súng AK lò mò bước y hệt chúng diễn trò khỉ. Vị đại úy đâu rồi? Chiếc xe tăng thứ hai lừ lừ bò ở cửa Bộ Tư Pháp. Một phát súng nổ. Lính nhẩy dù xuất hiện. Không thèm nấp. không thèm nằm, lính nhẩy dù đứng thẳng, bước tới, chắc tay súng, nhằm xe tăng và kẻ thù nhả đạn xối xả. Vị đại úy đó, thần tượng của Dzũng Đakao, Chương còm đó, sát cánh chiến hữu, phóng nhiệt tình và danh dự vào trận chiến cuối cùng. Để trả lời thế giới: Chúng tôi không đầu hàng. Bọn Mỹ và bọn tướng phường chèo khiếp nhược đầu hàng. Lính Việt Nam không biết đầu hàng. Chiến trường kết thúc mau lẹ. Vị đại úy và hơn ba mươi người lính nhẩy dù gục chết trên đại lộ Thống Nhất. Máu của họ, máu Việt Nam anh dũng, bất khuất đã thấm đỏ đường lịch sử tháng 4. Lính nhẩy dù, tại sao anh không chạy trốn ở phi trường, ở tòa đại sứ Mỹ, ở bờ sông? Tổ quốc đã cho anh cái gì? Dân tộc đã cho anh cái gì? Ngôi sao nào trên cầu vai anh, trên mũ anh? Bảo quốc huân chương nào, Bắc đẩu bội tinh nào trước ngực anh?
-Thế là xe tăng nó vào Dinh Độc Lập!
Bốn ông nhóc, nước mắt đầm đìa, thằng nọ nhìn thằng kia mếu máo.
Xe tăng nghiến lên xác chết của lính nhẩy dù. Chúng nó thù hận cả xác chết. Bọn bộ đội phân tán, bao quanh khu vườn sao. Dzũng Đakao và Chương còm muốn tới vuốt mắt vị đại úy và những người lính cũng không được. Chương còm thầm thì:
– Vâng, mai này, đại lộ này sẽ mang tên Mũ Đỏ và chỗ các chú chết sẽ là Đài Tưởng Niệm Anh Hùng. Cháu hứa, các cháu hứa…

DUYÊN ANH

SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (CHƯƠNG 5)

duyenanh

10 giờ 40, mười phút sau lệnh đầu hàng cộng sản của Dương văn Minh, Đặng Xuân Côn và tôi ra vỉa hè trước cửa nhìn Sài gòn chờ đợi cộng sản vào. Tại sao chưa đánh đã đầu hàng? Tôi nghe rõ câu hỏi nghẹn ngào đó trong những ánh mắt ngơ ngác của người Sài gòn quanh tôi. Trời hết âm u, nhưng vẫn chưa có nắng. Vẫn thiếu nắng vàng rực rỡ. Dân Xóm Lách kéo lên. Lề đường Công Lý, gần nhà tôi đông nghẹt. Dẫu lòng ngổn ngang bối rối, tôi còn chút hạnh phúc trên những khuôn mặt buồn bã của đám dân “vô sản” Xóm Lách. Không một nụ cười. Khó tìm ra niềm hân hoan. Ngay cả những người đã truy nã kỹ thân phận mình, sự nghiệp của mình ròng rã hai mươi năm Việt Nam cộng hòa, thấy chẳng dính líu gì tới “nợ máu” với cộng sản, cũng hồi hộp vì “biển máu.” Chưa bao giờ tôi thấy, kể từ nhận Sài gòn làm quê hương, một cảnh tượng Sài gòn não nề đến thế. Tôi có cảm tưởng Sài gòn đang sợ hãi cơ hồ tôi đang sợ hãi, cơ hồ mọi người đang sợ hãi. Xe cộ ngưng chạy. Những gia đình có “máu mặt” rút hết vào nhà. Cổng đóng kín mít. Cửa sổ gác cao he hé mở. Ai đã nhìn tôi qua ô cửa kính mắt lệ mờ?
Tôi sinh ra ở miền Bắc, thị xã nhỏ bé, êm đềm Thái Bình. ấu thơ của tôi, trải dọc theo hàng cây hồi thấp và vương vấn cùng khắp cầu Bo. Niên thiếu của tôi lãng đãng vùng trời Hà Nội. Tôi khôn lớn ở Sài gòn. Sài gòn cho tôi những bước xuống đời cay đắng để tôi làm cuộc đời tôi Sài gòn cho tôi tình yêu, cho tôi thi ca, cho tôi tiểu thuyết. Công sinh không nặng bằng công dưỡng. Sài gòn đã nuôi dưỡng tôi. Sài gòn là mẹ tôi. Mẹ Sài gòn săn sóc tôi hai mươi năm. Tôi đã làm gì cho Sài gòn? Đã làm gì, vẫn chưa đủ, vẫn chỉ mới là cái hữu hạn trong cái vô hạn. Bây giờ, đứa con phóng đãng ôm ghì mẹ mình bằng đôi tay rời rã, nước mắt ròng ròng. Đứa con bất lực, đứa con hèn hạ, đứa con khiếp nhược, đứa con mải rong chơi nỡ để mẹ mình lạc vào tay thù. Mà chỉ biết khóc. Mà chỉ rên rỉ Mà chỉ luyến tiếc hàng me xanh, ghế đá công viên và những cuộc tình phù phiếm. Tôi hiểu những giọt nước mắt của tôi vô nghĩa, chẳng dám khóc, chẳng thiết khóc, mà mắt tôi cứ căng mọng và lệ cứ rơi. Tôi đã biết khóc vì Sài gòn, vì một thành phố kỷ niệm.
Một toán quân xuất hiện. Quân ta. Tôi đếm: 19 người. Mười chín người lính, mười chín người chiến sĩ, đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun, máng súng trên vai, mũi chúc xuống, mặt cúi gầm, lầm lũi bước. Tối hôm qua, tôi đã thấy quân ta ngang qua đây. Quân ta và xe tăng. Hình ảnh người lính sửa xích tăng đã in vào tiềm thức tôi. Tối hôm qua, tôi đã thấy tướng Vĩnh Lộc chủ chiến. 10 giờ 30 hôm nay, tôi nghe Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Và, sau lệnh đầu hàng của Dương văn Minh, tôi lặng người ngắm toán quân chiến bại. Cảm giác đầu tiên của tôi là ngậm ngùi. Tôi nhớ một câu thơ của Corneille: “ô cruel souvenir de ma gloire passée” mà Thế Lữ cảm hứng viết: “Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu? Thời oanh liệt đâu? Những chiến tích rực rỡ dội vang sông núi của quân lực Việt Nam cộng hòa, những chiến tích làm bàng hoàng thế giới, làm vỡ mộng xâm lược của cộng sản, nay còn đâu? Tôi không bao giờ quên người Do Thái đã bầy tỏ công khai với nhân loại rằng, họ mơ thành người An Lộc. Tôi vốn không ưa các chế độ, các nhà lãnh đạo, một số tướng lãnh bất tài vô học, tham nhũng của miền Nam sau 1963, nhưng, luôn luôn, tôi yêu mến và cảm phục quân đội. Chế độ đã xóa bỏ chế độ, lãnh đạo đã hạ bệ lãnh đạo, quân đội tồn tại như quê hương. Bởi vì quân đội bảo vệ quê hương. Quân đội không phải là công cụ riêng của chế độ, của lãnh tụ. Một số tướng lãnh hèn mạt, vì quyền lợi cá nhân, vì địa vị khốn kiếp, đã bán mình cho chế độ, cho lãnh tụ để bán xương máu của quân đội và làm nhạt nhòa cái kiêu sa của người lính. Kẻ bán xương máu của lính nhiều nhất, kẻ dùng quân đội làm thang lưng leo lên danh vọng là Nguyễn văn Thiệu.
Bây giờ, Thiệu đã bỏ đi. Cao văn Viên đã bỏ đi. Vô số tướng lãnh đã đào ngũ chạy trốn. Dương văn Minh đã đầu hàng. Quân đội tiếp tục chiến đấu. Quân đội sẽ tiếp tục chiến đấu, nếu Dương văn Minh không hám cái hư vị “tổng thống miền Nam trung lập” đến nỗi thỏa hiệp với cộng sản. Tham vọng bằn tiện của Dương văn Minh còn là tham vọng của vài ông tướng, vài ông nghi sĩ, vài ông dân biểu “nhất định” ở lại làm Tổng trưởng. Bùi Tường Huân là một thí dụ. Những người khác đã đi học tập cải tạo, đã vượt biên sang âu châu, Mỹ châu thì xin miễn kể tên, sợ mất ép-phê chống cộng của quý vị ấy.
Thế giới đã thiếu sự công bình tối thiểu để khắc nghiệt lên án sự tan hàng bệ rạc của quân đội ta. Họ không thèm quan tâm tới sự tôn trọng kỷ luật tối đa của quân lực Việt Nam cộng hòa. Quân đội không tuân lệnh đầu hàng của Dương văn Minh mà tuân lệnh đầu hàng của vị Tổng thống nước Việt Nam cộng hòa kiêm Tổng tư lệnh quân lực Việt Nam cộng hòa. Quân đội nước nào cũng thế cả, trừ trường hợp người ta làm cách mạng, làm đảo chính lật đổ Tổng thống. Tôi yêu quân đội của đất nước tôi. Tôi không xuẩn ngốc phán xét quân đội. Tôi có bổn phận ngưỡng mộ quân đội quốc gia. Và tôi đau đớn nhìn quân đội của tôi đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun, máng súng trên vai, mũi chúc xuống, mặt cúi gằm, lầm lùi bước. ông Nguyễn văn Thiệu không chứng kiến thảm cảnh này. Các ông tướng đào ngũ không chứng kiến thảm cảnh này. Tôi nghĩ các ông ấy chẳng nên nói về quân đội, nhắc đến quân đội nữa.
Một bà mẹ hớt hơ hớt hái, từ dốc chợ Xóm Lách, chạy lên đuổi theo toán quân, (tôi quả quyết quân đội ta không thua trận. Quân đội ta mãi mãi chiến thắng, mãi mãi anh dũng. Chế độ Nguyễn văn Thiệu thua trận, các ông tướng đào ngũ thua trận và chính sách Mỹ ở Việt Nam thua trận). Bà mẹ già ôm chặt lấy một người lính:
– Mày đi đâu nữa con? Sao không về nhà? Hết chiến tranh rồi, hòa bình rồi. Về thôi, con?
Người lính cố gỡ nhẹ tay mẹ mình ra:
– Con không thể về được. ‘
Bà mẹ khóc. Bà mẹ khóc tức tưởi:
– Sao vậy? Có lệnh hàng rồi mà.
Người lính lắc đầu:
– Con không thể về được.
Toán quân đã băng qua ngã tư Công Lý – Yên Đổ. Bà mẹ vẫn níu chặt người con chiến sĩ lại:
– Mày đã đi đánh nhau bao lâu nay, có được hưởng gì đâu?
Người lính nghẹn ngào:
-Con không thể nào bỏ các bạn con.
Bà mẹ rên rỉ:
-Bỏ hết, bỏ hết đi con, về với má, không sao đâu.
Người lính gỡ mạnh tay mẹ mình ra:
– Má về đi, con phải theo các bạn con.
Người lính chạy nhanh để bắt kịp các chiến hữu. Bà mẹ đứng bên đường mắt đẫm lệ, nhìn theo con mình…
***
– Rồi người lính có về không?
Đó là câu hỏi của ký giả Patrick Sabatier của nhật báo La libération đã đến tận nhà tôi ở Ivry sur Seine phỏng vấn tôi để làm số báo đặc biệt cho ngày 30-4-1985. Tôi đã kể câu chuyện trên nhằm trả lời câu hỏi “Điều gì còn làm ông nhớ Sài gòn nhất”?
– Tôi không biết, ông Patrick ạ! Sau 6 năm tù đầy trở về, tôi hỏi thăm người Xóm Lách, được rõ là bà mẹ còn sống, và người con vẫn biệt tăm…
– Anh ta đi đâu?
– Tôi nghĩ rằng anh ta đi làm cuộc chiến đấu mới, không cần viện trợ Mỹ, cố vấn Mỹ và lính Mỹ. Dân tộc tôi cần thiết cuộc chiến đấu mới mẻ này.
– Tại sao?
– Nó mới đích thực là cuộc chiến đấu của dân tộc tôi nhằm tiêu diệt chế độ cộng sản, chủ nghĩa cộng sản để giành lại tự do, dân chủ, độc lập cho Việt Nam. Cuộc chiến đấu mới của dân tộc tôi loại bỏ hết tay sai của Mỹ, của ngoại bang. Như thể, chúng tôi gọi là một cuộc chiến đấu có chính nghĩa, tuy cô đơn, lãng mạn nhưng tổ tiên chúng tôi đã lãng mạn, cô đơn chiến đấu.
-Rất đẹp, rất cao quý.
– Ông ủng hộ cuộc chiến đấu mới của chúng tôi chứ?
-Vâng, tôi hết lòng.
Số báo đặc biệt của La libération, một tờ báo khuynh tả, xuất bản ngày 30-4-1985 viết về Việt Nam đã như gáo nước lạnh hắt vào mặt đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Số báo này có đăng thêm một đoạn trong bài thơ Sài gòn ra đường của tôi trên trang nhất.
***
19 người lính đi tới đâu, đi về đâu, tôi không biết. Hình ảnh bi thảm của họ khiến lòng tôi se lại nhưng cũng sưởi ấm tâm hồn tôi. ít ra, tôi còn được tự hào là người Sài gòn, người miền Nam. 19 người lính quốc gia đã anh dũng chiến đấu cho tới phút giây nghe lệnh đầu hàng. Vẫn 19 người lính này, biểu tượng của quân lực Việt Nam cộng hòa bất khuất, tháo bỏ quần áo Mỹ, giầy nón Mỹ, tiếp tục chiến đấu sau lệnh đầu hàng. Tôi đã thèm sống hèn, càng thèm sống hèn hơn. Để nói lên được cái hào hùng của người lính, cái tâm sự não nề của người lính, những con người không được phép chiến thắng, những con người bị tước đoạt quyền chiến thắng cộng sản. Thế giới đã không có hân hạnh nhìn 19 chiến sĩ Việt Nam. Thế giới đã không có hân hạnh nghe người lính giã từ mẹ mình lên đường nhập cuộc chiến đấu mới. Thế giới, cái thế giới mù lòa, điếc, ngọng đã bảo chúng ta thua trận đã miệt thị quân đội chúng ta tan hàng bệ rạc. Tôi đợi, tôi đã đợi, tôi đang đợi những kẻ tự nhận mình sống hùng viết những trang tâm sự của người lính sau 30-4-1975.
Thú thật, tôi đã chai lỳ từ dạo cắm sừng nhọn vào đầu đề đương đầu với cuộc đời và người đời. Thế mà tôi còn khóc được hôm nay, khóc như kẻ mau nước mắt nhất. Giống hệt người mẹ anh lính, tôi cũng mắt đẫm lệ nhìn theo anh ta.
– Buồn quá hả, Long? Côn hỏi.
-Buồn hơn một chuyện tình buồn trong tiểu thuyết. Tôi nói.
-Nếu mày còn sống và có cơ hội viết nhỉ?
– Ở đâu?
-Mỹ.
– Ông mơ mộng hơn cả tôi rồi.
– Sống phút nào mơ mộng phút ấy.
11 giờ, đường Công Lý nườm nượp những người đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun cắm cúi rảo bước. Nhiều người chạy. Đó là lính, là sĩ quan của chúng ta. Họ đã liệng súng đạn. Họ về nhà mình, nhà thân nhân của mình. Khuôn mặt họ, sự sợ hãi pha trộn sự phẫn nộ. Dân chúng hai bên đường im lặng. Không một nụ cười rè bỉu. Không một ánh mắt khinh khi. Người ta đã thù ghét chế độ, thù ghét Nguyễn văn Thiệu và tập đoàn thống tri tôi mọi cùng đám tướng lãnh dốt nát, hống hách nhưng chẳng bao giờ người ta thù ghét quân đội* . Chỉ thiếu những tiếng hoan hô nồng nhiệt, những tràng pháo tay bất tận như những lần quân ta chiến thắng sau mỗi chiến dịch trở về thành phố. Tiếng nhạc quân hành, tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay, lúc này, là tiếng vỡ của trái tim, tiếng nứt của mạch máu, tiếng rơi của nước mắt. Lúc này, cả thành phố thấy mình chiến bại, cả thành phố chia xẻ nỗi đau chiến bại, bởi vì, những kẻ đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun là anh, là chồng, là cháu, là em của người Sài gòn. Của Sài gòn. Có phải khi người ta đã quá sợ chết thì người ta hết biết mình sợ chết? Tôi bỗng quên nỗi sợ chết của tôi. Hoặc là tôi đã chết rồi, linh hồn tôi đậu trên chân đất của người lính tìm về nhà mình. Người lính ấy, hai mươi năm ròng rã đứng giữa biên giới sống chết, hai mươi năm chưa một lần cúi đầu, nửa tiếng đồng hồ trước vẫn ngẩng mặt và, lúc này… Tôi hết biết mình sợ chết. Hơn cả thế, tôi biết mình nên sống hèn, không nên sống hùng để cùng bị chết hèn lãng nhách.
-Côn!
-Hả?
-Ông nhớ sau hôm đảo chính 1945 chứ?
-Nhớ.
-Thực dân Pháp đã chạy dài, đã lột bỏ quần áo, giày vớ, đã chân đất, đội nón mê cắm cúi bước. Đã bị phát xít Nhật truy lùng.
– Chúng ta đứng bên kia cầu Bo nhìn các ông Tây kéo xe bò chở đất, các bà Đầm khóc sướt mướt và phát-xít Nhật cười hoan hỉ.
-A, chúng ta đã vỡ lẽ chiến bại và chiến thắng từ năm mười tuổi.
Chúng tôi trở vào nhà, đóng cổng kỹ lưỡng. Chuông điện thoại reo vang. Tôi nhấc máy.
– Alô, alô, tôi muốn nói chuyện với Duyên Anh.
-Chính tôi.
-Phạm Lê Phan đây…
Phạm Lê Phan, nhà văn, nhà thơ, tác giả nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên các tạp chí Bách Khoa. Chi Đạo từ 1960 là bút hiệu của thượng sĩ Phạm văn Kiệm, phục vụ tại Cục tâm lý chiến. Anh ta đã viết thi phẩm Chiến ca mùa hè mà Phạm Duy phổ nhạc. Chiến ca mùa hè như những trang quân sử bằng thơ ghi lại mùa hè đỏ lửa.
– Mày chạy không thoát à?
-Ừ.
– Tao gọi bạn bè, chẳng còn thằng nào. May quá, còn mày.
– May cái con c…? Mày chưa về nhà ư?
-Về hả? Tao là thượng sĩ nhưng là chiến sĩ, hơn cả, tao là kẻ sĩ. Tao đại diện quân lực Việt Nam cộng hòa chuẩn bi tiếp xúc với Việt cộng.
-Cục mày hết người… lớn rồi à?
– Còn mỗi mình tao. Tao là tân Cục trưởng. Cục trưởng cút lâu rồi. Cục phó Phan Trọng Thiện vừa về… nhà.
– Mày cũng nên về đi.
-Tại sao tao lại phải về? Lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè. Tao thủ trái lựu đạn, ngồi tại văn phòng Cục trưởng Tâm lý chiến thuộc Tổng cục chiến tranh chính trị của quân lực Việt Nam cộng hòa. Chai whisky trên bàn vơi quá nửa rồi. ông tu chất cay. Bọn nó vào mà tử tế, ông giao Cục, dở trò hỗn láo, ông cho lựu đạn nổ… Tao sẽ gọi mày sau. Thôi nhé!
Người lính văn nghệ, thượng sĩ Phạm Lê Phan không muốn cộng sản vào Cục tâm lý chiến như vào nhà hoang. Anh ta ngồi đợi kẻ thù tới tiếp thu. Không còn cấp bậc và huy chương nào tưởng thưởng anh ta cả. Anh ta có quyền về nhà, được phép về nhà mình mà không ai dám kết tội anh ta đào ngũ hèn nhát. Nhưng mà “lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè.” Anh ta kiêu hãnh nói “tại sao tao phải trở về”? Sẽ chẳng một ai đủ liêm sỉ bắt chước Phạm Lê Phan tự vấn lòng mình “Tại sao tôi lại đào ngũ”. Tôi ngồi hút thuốc, chờ điện thoại của Cục trưởng Tâm lý chiến: Thượng sĩ Phạm văn Kiệm.
XÁC T-54 BÊN KIA CẦU THỊ NGHÈ
“Lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè”. Tôi biết rõ những người lính ấy. Họ là nhà báo vô danh, là kép cải lương thứ yếu, là ca sĩ tân nhạc hạng xoàng. Họ còn là thanh niên Chợ Lớn, thanh niên con nhà giàu sợ hãi chiến trường, được ẩn thân ở Cục Tâm lý chiến dưới sự “bảo trợ” của tướng bà Cao văn Viên. Hai hạng người dưới, lương quân đội lĩnh xong phải cộng thêm tiền gia đình nộp cho người bảo trợ hàng tháng, chưa kể khoản tiền nặng ra mắt và được chấp thuận bảo trợ. Lính văn nghệ cơ hữu của Cục tâm lý chiến chỉ có bổn phận canh gác giữ an ninh cho Cục ngày và đêm. Sự canh gác mang tính cách trình diễn, dù đã học 9 tuần quân sự ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Vòng đai an ninh của Cục bé nhỏ. Đã có lực lượng bảo vệ an ninh của Cục an ninh quân đội, của Đài phát thanh Sài gòn lo giùm hết. Vậy bên đây cầu Thị Nghè, kế sát Cục, là nơi lính văn nghệ canh gác ban đêm để bảo vệ Đài phát thanh quân đội, tòa soạn nhật báo Tiền Tuyến, văn phòng của các quan văn nghệ… Nói ra hơi buồn, lính văn nghệ gác cầu, chỉ nhằm trình diễn tinh thần kiểng và tạo oai phong cho các quan tâm lý chiến chơi xì-phé, mạt chược những đêm trực.
Truyện kể về những người lính văn nghệ gác cầu Thị Nghè sáng 30-4-1975 như sau: Xe tăng cộng sản vào thành phố Sài gòn để vô Dinh Độc Lập bằng hai ngả. Ngả thứ nhất: Từ ngã tư xa lộ Hàng Xanh, T-54 của cộng sản chia đôi. Không nhiều gì đâu. Có 10 chiếc thôi. 5 chiếc rẽ phải vô Hàng Xanh, qua đường Bạch Đằng, qua đường Chi Lăng, Võ Tánh Phú Nhuận, bọc lên đường Cách Mạng, Công Lý. 5 chiếc rẽ trái vô Thị Nghè, qua cầu, qua đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, qua đường Thống Nhất. Chiếc thứ nhất bị lính văn nghệ chặn đánh ở bên kia cầu. Với súng M- 16, lính văn nghệ đã nhắm T-54 mà khạc đạn. Lúc ấy, 10 giờ 45 phút, sau lệnh đầu hàng của Dương văn Minh 15 phút. Lính văn nghệ đã gây cảm hứng cho quần chúng. Sự phẫn nộ nổi lửa, nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ Thị Nghè bốc phừng phừng. Bất chấp cái chết, thanh niên Thi Nghè đã viết những trang sử đấu tranh mới bằng những chai xăng châm lửa ném tới tấp vào T-54 của kẻ thù. Lửa cháy trên nóc T-54. Lửa cháy dưới T-54. Lửa cháy xích T-54. Lửa cháy đàng trước T-54. Lửa cháy đàng sau T-54. Lửa Thị Nghè bất khuất. Lửa Thị Nghè của Sài gòn. Ngọn lửa tiên phong của cuộc chiến đấu mới. Chiếc T-54 dẫn đầu đứng khựng. Nó bất động. Năm người bộ đội xe tăng, công cụ tội nghiệp của cộng sản, đã chết thảm dính chùm trong một sợi xích khốn kiếp. Đã chết mà không biết mình bị mê hoặc:
Năm ngón tay trên một bàn tay
Như năm người con cùng một mẹ
Năm ngón tay trên một bàn tay
Không xa rời nhau
Như năm người con cùng một mẹ
Năm người bộ đội trong xe tăng
Như năm ngón tay trên một bàn tay
Như năm người con cùng một mẹ
Không xa rời nhau
Sống bên nhau và chết bên nhau*
Một chiếc T-54 bị bốc cháy. Là thừa thắp sáng cuộc chiến đấu mới. Là thừa mở mắt thế giới đui mù. Bốn chiếc sau phải dừng lại, ngơ ngác. Kẻ thù hoảng sợ. Nó hung hãn khạc đạn. Nó trấn áp. Nó vất vả qua cầu Thị Nghè. Hà Nội phải hiểu họ không có đại thắng. Bởi vì, theo Ngô Khởi, chiếm được đất mà không chiếm nổi lòng người thì không bao giờ chiến thắng cả. Xác chiếc T-54 nằm nhục nhã bên kia cầu Thị Nghè trọn ngày 30-4 và những ngày kế tiếp là biểu tượng bất hủ của lịch sử nòi giống và của quân sử Việt Nam cộng hòa.
Tôi nhớ đã xem một phim, hình như tên phim là El Alamein do Frederick Stafford thủ vai đại úy quân đội ý, diễn tả một trận đánh tuyệt vọng giữa đám quân đồn trú ở sa mạc Phi Châu với đạo quân xe tăng của tướng Montgomery lừng danh Anh Quốc. Tăng của tướng Montgomery đã phơi xác lớp lớp. Và rồi, kẻ chiến thắng đã nghiêng mình kính cẩn chào tinh thần chiến đấu quả cảm tới phút chót của kẻ chiến bại. Người cộng sản, chắc chắn, thiếu sự hào sảng đó. Và, tôi còn thấy, thiếu cả những trang sách vinh tôn những người lính văn nghệ đã chết hay vẫn sống đã hạ chiếc T-54 của cộng sản bên kia cầu Thị Nghè buổi trưa ngày 30-4-1975 của những ông quan văn nghệ tự cho mình sống hùng trong ngục tù cộng sản rồi thoát ra ngoại quốc. Tôi cố tìm ở hồi ký dầy cộm của họ. Chẳng thấy gì ngoài sự kể khổ, lên án cộng sản man rợ và phô diễn cung cách sống bần tiện của mình.