Sài Gòn Ra Đường
Sài gòn ra đường không áo dài
Em sợ đang mùa gió chướng bay
Gió bay cuốn hút mùi hương cũ
Chỉ để riêng mình ta ngất ngây
Sài gòn ra đường không phấn son
Em sợ rừng sâu gỗ giận hờn
Chinh phu gió cát nghìn phương lạnh
Chinh phụ nào ham chuyện lược gương
Sài gòn ra đường không thích cười
Em sợ đèo cao lệ đá rơi
Nên đã mùa đông về tạm trú
Đã về sương tuyết phủ niềm vui
Sài gòn ra đường không líu lo
Em sợ âm vang động cõi hờ
Hãy nghe hơi thở còn xao xuyến
Trong đáy hồn nhau gọi ước mơ
Sài gòn ra đường không giống ai
Tóc mây lớp lớp khói u hoài
Mắt chim khuyên đã diều hâu hết
Cúi xuống nhìn lên vẫn ngậm ngùi.
Sài Gòn Trong Nhà
Sài Gòn trong nhà gửi nỗi buồn
Ra sân ra ngõ trống, đời trơn
Ra phường, ra phố, ra tăm tắp
Nơi những đề lao giữa núi rừng
Sài Gòn trong nhà mẹ ngóng con
Mắt sông cát lấp đã rêu cồn
Miệng thầm kinh nguyện lòng nghi hoặc
Ôi mãi cầu xin vẫn mỏi mòn
Sài Gòn trong nhà vợ nhớ chồng
Nhớ khùng, nhớ dại, nhớ lung tung
Nhớ nhiều, nhớ mãi, không quên nhớ
Buổi tối tay anh bị siết còng
Sài Gòn trong nhà con đợi cha
Năm sáu mùa xuân bố vắng nhà
Bao giờ bố mới về đây bố
Con lớn khôn rồi biết xót xa
Sài Gòn trong nhà đầy ưu phiền
Rất hài hòa cảnh tượng chìm đen
Tủ giường, bàn ghế, nồi, xoong, chảo
Cùng với người chung một nỗi niềm
Sài Gòn trong nhà vắng như tờ
Lâu lâu giọt nhỏ vọng hồn xưa
Chú thạch thùng quen thôi tặc lưỡi
Và con nhện cũng chán giăng tơ
Sài Gòn trong nhà, Sài Gòn ơi
Hãy thinh không nhé, hãy trùng khơi
Hãy im lặng đến thời lên tiếng
Vì tiếng em cao vọng tuyệt vời
Duyên Anh
Category Archives: Duyên Anh
NHÀ TÙ : CHƯƠNG 20
Tôi bắt đầu suy nghĩ về những chiếc còng made in USA mà người Mỹ bỏ lại quê hương tôi. Người Mỹ chạy trốn vội vàng không kịp di tản còng khoá hay người Mỹ cố tình tặng còng khoá made in USA cho Cộng sản? Tại sao sự khai phóng tự do, dân chủ cần thiết còng, khoá, khiên, ma-trắc, lựu đạn khói nhỉ? Câu hỏi tôi tự đặt ra rồi tôi tự trả lời bằng bài thơ tù:
Nhân danh chủ nghĩa tư bản
nước Mỹ chế tạo còng
và viện trợ cho những tên độc tài ở Sài Gòn
để bảo vệ tự do dân chủ
và xây dựng hạnh phúc con người nước nhỏ
Nhân danh tự do dân chủ
thi sĩ chống đối chế độ độc tài
và bị còng nhãn hiệu USA siết chặt tay
tống vào ngục
Nhân danh chủ nghĩa vô sản
Liên Xô giải phóng Việt Nam
tiêu diệt ảnh hưởng chủ nghĩa tư bản tan hoang
nhưng vẫn sử dụng hàng triệu chiếc còng
mà Mỹ quên di tản
Nhân danh quyền sống
và không nhân danh gì cả
thi sĩ phản kháng và bất động
đều bị Liên Xô dùng còng Mỹ siết chặt tay
tống vào ngục
Tôi nằm tù sáu năm
tìm hoài chưa thấy một định nghĩa chính xác
về cái còng ở thời đại của chúng ta
Chúng ta có nhiều cái nếu sau nhiều lần can thiệp của Tây phương trên đất nước chúng ta.
Nếu người Anh không can thiệp vấn đề Việt Nam, không dâng hiến cơ hội và khích lệ người Pháp trở lại gây chiến tranh 10 năm tạo thanh thế và chính nghĩa cho Cộng sản, lịch sử đã như thế nào? Chắc chắn, Cộng sản đã bị quốc gia nghiền nát. Người Pháp đã vội quên thân phận bị trị của mình, vội quên những giọt nước mắt mừng rỡ giải phóng dân tộc thoát ách phát-xít Đức để cố tình dẫm bước chân thống trị lên nỗi mừng rỡ độc lập của Việt Nam. Khác hẳn thực dân Pháp của thế kỷ trước, người Pháp năm 1946 là người Pháp vừa trải qua sự nhục nhằn mất nước, vừa trải qua cuộc kháng chiến chống xâm lăng hào hùng. Họ đem cái hào hùng đó xâm lăng nước ta. Tinh thần và tác phong của người Pháp dân chủ xâm lăng còn thô bạo gấp ngàn lần tinh thần và tác phong của người Pháp thực dân xâm lăng. Đó chính là dịp may ngàn năm một thuở để Cộng sản phát tín hiệu đoàn kết dân tộc rồi đẩy dân tộc lên tuyến đầu. Năm năm sau, đảng phái quốc gia bị tiêu diệt dần mòn. Năm năm sau nữa, Cộng sản chế ngự và chuyên chế. Cái tham vọng mù loà của người Pháp đã nuôi dưỡng Cộng sản khôn lớn bằng máu xương và nước mắt dân tộc Việt Nam.
Nếu người Mỹ không can thiệp vấn đề Việt Nam từ 1954, lịch sử đã như thế nào? Họ đến, họ làm đảo tung đạo lý Việt Nam, họ mang chiến tranh, ngục tù, còng xích họ viện trợ bọn độc tài bù nhìn, họ phá hủy, họ nuôi dưỡng Cộng sản rồi họ bỏ đi. Cái còn lại là gì? Là Cộng sản. Là ngục tù và còng xích made in USA. Bất cứ nơi nào người Mỹ can thiệp, mọi diễn biến sẽ giống hệt Việt Nam. Bọn cầy cáo tay sai ôm hàng tỷ đô-la cuốn gói về nước chủ. Dân chúng ở lại quằn quại, rên xiết. Nguyễn Văn Thiệu đó. Cao Văn Viên đó. Trần Thiện Khiêm đó. Marcos đó. Câu ca dao dưới đây diễn tả thật đúng tâm sự bẽ bàng của dân tộc Việt Nam.
Mỹ đưa Khiêm Thiệu đi rồi
Dân ta ở lại chịu đời đắng cay.
Thời đại chúng ta, cách mạng làm bằng phương tiện Mỹ. Lãnh tụ cách mạng chết vì âm mưu Mỹ. Chiến tranh bởi súng đạn Mỹ. Mất nước do… thiếu viện trợ Mỹ. Thế mà vẫn còn đứa ngu xuẩn trưng bằng cớ Mỹ nuốt lời hứa. Nước mình mình không lo, lo ăn cắp máu lính, lo ăn cướp xương dân, đem cái kiến thức tiến sĩ tôi đòi mà đổ vạ ông Nixon. Lại lắm kẻ mê muội cố bám lấv lòng trắc ẩn chẳng bao giờ có của Mỹ để mưu đồ giải phóng dân tộc. Xây dựng hạnh phúc giống nòi ở Caliíornia, ở Paris chẳng khác chi xây lâu đài trên cát. Bởi vì chưa nhìn còng made in USA còng tay người quốc gia chống Cộng tống vào tù Cộng sản.
Suy nghĩ về còng Mỹ bỏ lại tặng Cộng sản, tôi đâm ra ngao ngán và bi quan. Người giầu có thể thương người nghèo, nhưng nước lớn không đời nào tử tế với nước nhỏ. Sự phũ phàng là, chúng ta đang sống ở kỷ nguyên nước nhỏ không được phép quyết định thân phận mình. Tinh thần quốc gia cực đoan trở thành không tưởng. Tôi bế tắc. Tôi bế tắc vì tôi mệt mỏí, rã rượi. Giữa tháng 12-1977, Hoàng Mạnh Hùng và tôi được lệnh “chuẩn bị tư trang khẩn trương”
– Mình đi lao động chăng? Hùng hỏi.,
– Càng hay. Tôi thèm khí trời. Tôi nói.
Tính ra tôi đã trọ ở khách sạn quốc doanh Đề Lao Gia Định ngót 18 tháng, cổ nhân phán: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Nếu vậy tôi đã ở đề lao 540 ngàn năm. Có nên so sánh một ngày tù của cổ nhân và một ngày tù Cộng sản để nhân thêm số năm không nhỉ? Có nhiều tù nhân và nhiều chuyện đáng nhớ tôi lại quên. Có nhiều tù nhân và nhiều chuyện đáng quên tôi lại nhớ. “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Và tôi đã quên hết khi viết về đề lao Gia Định. Những chuyện đáng quên ấy không làm tôi khôn lớn.
– Hoàng Mạnh Hùng!
– Có.
– Vũ Mộng Long!
– Có.
– Xong chưa?
– Rồi.
Cai ngục mở cửa. Các bạn tù 4C-2 chúc chúng tôi thượng lộ bình an. Tôi đeo cái túi đựng phân bón đã khâu hai cái quai trên lưng, tay xách giỏ ni-lông chứa các chai hũ nước mắm, thịt kho, cá kho…, tay xách cái bị cói chứa mì vụn, bột đậu xanh, bột sữa, đường… Tôi không giống bất cứ ai ở xã hội loài người. Tôi là tù nhân của chủ nghĩa Cộng sản, đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Tôi vừa nhận tôi là tù nhân? Sai. Chủ nghĩa Cộng sản không có nhà tù. Tôi là sinh viên nội trú của Đại Học Đề Lao Gia Định. Năm ngoái, tôi học ở Đại Học sở Công An Thành Phố. Tốt nghiệp chứng chi Vỡ Lòng Cay Đắng, tôi ghi danh học Thống Khổ Nhập Môn 18 tháng. Tốt nghiệp chứng chỉ Thống Khổ Nhập Môn tôi ghi danh học tiếp Thương Đau Chín Rấm. Lát nữa tôi mới biết Đại Học nào nhận tôi, Bây giờ, các giáo sư Đề Lao Gia Định bảo tôi xếp hàng chung với các sinh viên khác. Tôi thấy Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Đặng Hải San, Phạm Quang Khai, Đỗ Văn Lựu và vô số bằng hữu các phòng học cũ. Như Phong học dốt bị đúp ở lại Đại Học Đề Lao.
Giáo sư Quản Giáo cầm danh sách đọc tên chúng tôi. Sợ chúng tôi ham vui nhẩy xuống xe đi lạc, giáo sư còng hai sinh viên một còng số 8 made in USA, tay phải sinh viên này dính sát tay trái sinh viên kia và ra lệnh cho chúng tôi lên xe. Xe trùm vải bố kín mít. Tôi giã từ Đại Học Đề Lao Gia Định với bao nuối tiếc. Giã từ các vị giáo sư Chấp Pháp khả kính. Gíã từ các vị giáo sư Quản Giáo khả ái. Giã tử lò bánh mì nung nấu cuộc đời. Tôi đi đây. Tôi đi học một mình chẳng cần “mẹ tôi nắm tay tôi dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp.” Ấy quên, giã từ Viện trưởng Hai Phận bất hủ và những cái ống cắm mỏ dầu hỏa ở Tiền Hải.
Nhưng mà xe bít bùng tối tăm, tôi không thể vẫy tay chào tạm biệt ai. Một giọng nói đùa nghịch hỏi vu vơ:
– Tu tủ tù tu đố mấy thằng tù?
Tôi bàng hoàng. Thì ra tôi đích thị tù nhân…
NHÀ TÙ: CHƯƠNG 19
Tôi không muốn gặp mặt vợ con một tí nào cả. Bởi vì, sau một lần gặp gỡ, tôi mềm yếu và đau khổ vô cùng. Tôi đã ao ước vợ con tôi vượt biên. Cứ vượt biên, sống chết ra sao không cần biết, miễn là đừng bị bắt vào tù. Tôi đã ao ước thô bạo hơn, vợ con tôi cùng chết một lúc và chết ngon lành. Và rồi, tôi ao ước tôi chết cho vợ con tôi khỏi bận bịu, tìm đường ra đi. Tôi cũng sợ hãi đọc thư nhà. Những bức thư ngô nghê của thằng con trai út thường làm tôi khóc. Mỗi khi thư loan tin bác này về vùng kinh tế mới, bác kia hồi hương,* tôi muốn điên lên. Bằng hữu tôi lần lượt ra đi, bỏ rơi vợ con tôi. “Bố ơi, chẳng ai thèm lại nhà mình, thấy mình họ ngoảnh mặt”. Tai họa còn là cái sàng đãi lọc tình nghĩa. “Bố ráng học tập cải tạo tốt để được Nhà Nước khoan hồng sớm về sum họp gia đình dạy dỗ chúng con”. Câu cuối của từng bức thư tù đó. Khuôn mẫu của chế độ giải phóng con người. Tôi ghét bị kiểm duyệt tình cảm, nên thư về của tôi chỉ là cái danh sách xin gửi những món cần thiết. Vợ tôi không hiểu, đã trách móc tôi. Và tôi im lặng. Tôi đã viết nhiều về nỗi cô đơn. Rất hời hợt. Một đêm ở 1C-1, hồi tôi bị ghẻ mủ nặng, nằm nghiêng trên hai gang chiếu. Tôi ngủ lúc nào không rõ. Và tôi có giấc chiêm bao. Vợ chồng tôi cãi nhau quyết liệt. Hai chúng tôi giận nhau, mỗi đứa nằm một mép giường, xoay lưng đâu nhau. Tôi thấy mình vô lý quá. Tại sao không nhường nhịn vợ? Tại sao không xin lỗi vợ? Bèn lăn một vòng ôm chặt vợ. Bị cái thúc cùi chõ vào bụng. Tỉnh giấc mới hay mình ôm bạn tù ghẻ. Phòng giam sáng trưng đèn nê-ông, Tất cả đều ngủ. 1C-l nhỏ bé, bốn bức tường kín mít. Mà tôi mơ hồ tưởng bờ bãi mênh mông. Và nỗi cô đơn dàn trải vô tận. Tôi đã thiếu khả năng viết bài thơ diễn tả nỗi cô đơn của tôi.
Và thế đấy, tôi không muốn gặp mặt vợ con một tí nào cả. Nhưng mà tôi lại gặp mặt vợ con lần thứ hai. Quản giáo Bàng dẫn tôi ra phòng tiếp khách gần cổng trại. Hắn bỏ ra ngoài để chúng tôi trò chuyện tự do. Con trai lớn của tôi, Vũ Nguyễn Thiên Chương, tức Chương còm, tức cu Tý, mất trường Taberd sang trường Marie Curie học. Bị Cờ Đỏ của trường nhốt một đêm, đánh đập tàn nhẫn. Bị ra phiên tòa của giáo viên thành phố, bị kết tội con của nhà văn phản động, bị đuổi học. Không thầy giáo… ngụy nào bênh vực nửa lời, dù phiên tòa có nhiều thầy giáo bạn của tôi. Con gái tôi, Vũ Nguyễn Thiên Hương, tức con Ki, vẫn học Régina Mundi (đổi tên Lê Thị Hồng Gấm), giỏi môn văn, được đề nghị ra Hà Nội thi văn, đậu cao sẽ sang Moscou, thương bố bị tù, thương anh bị đuổi học đã xin nghỉ học luôn. Con trai út tôi, Vũ Nguyễn Thiên Sơn, tức thằng Đốm, bị cấm đến trường. Vợ tôi bệnh hoạn dài dài, bị lừa gạt vượt biên, bị hăm dọa thủ tiêu nếu không rời căn nhà đường Công Lý. Thư hăm dọa trình công an. Công an lờ tít. Vợ con tôi bỏ nhà. ..lưu vong. Con chim đại bàng đã không đến ăn khế vườn nhà tôi. Và cổ tích của thằng Đốm là thất học.
Tôi vác bị quà về phòng giam, lòng rã rời, tan nát. Xưa, viết truyện, tôi đã chỉ xin làm cây leo lên hạnh phúc của con tôi. Giờ, nằm tù, tôi không được leo lên cả bất hạnh của con tôi. Và cả niềm bất hạnh của tôi, của gia đình tôi, cho đến hôm nay, vẫn còn bị đâm thêm những ngọn dáo phi nhân, vẫn còn bị phì thêm nọc rắn ác độc. Nhưng mặt trời chiếu cho mọi người. Và Chúa Jesus đã dạy: “Phúc cho kẻ chịu bắt bớ bởi sự công nghĩa. Vì nước Trời là của kẻ ấy. Phúc cho kẻ bị lăng nhục và vu cho mọi điều ác. Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng trên Trời là lớn”. Cho nên, tôi vẫn đi, tôi mãi đi không mỏi, nhân danh niềm bất hạnh của tôi. Phần thưởng trên Trời tôi chưa thấy. Phần thưởng dưới thế tôi đã thấy: Tôi đã viết thêm 20 cuốn sách từ khi ra khỏi nhà tù. Tôi còn trẻ măng, còn dồi dào phong độ, còn tràn trề sinh lực và năng lực. Nếu nước Trời là Sáng Tạo, nước ấy của tôi. Cứ phì nọc độc vào tôi đi rồi lùi lại, nhỏ bé. Cứ chấp nọc độc, tôi phóng xa về phía trước, cao lớn, sừng sững. Đó là tín hiệu của bất cứ ai sáng tạo.
Tháng 7-1977, Doãn Quốc Sĩ từ 6C-l qua 3C-l.Tác giả Dòng sông định mệnh tỏ vẻ mừng rỡ gặp tôi. Anh Sĩ vẫn khoẻ mạnh. Doãn Quốc Sĩ chuẩn bị áo len, bí-tất găng tay. Anh tiên đoán một chuyến đi xa về phương Bắc. Thường xuyên lạc quan, đó là thái độ ở tù của anh.
Chúng tôi hàn huyên… chấp pháp.
– Thằng rỗ huê mặc áo sơ-mi trứng sáo chửi tôi khiếp lắm. Nó đòi chặt tôi làm ba khúc xem thân thể tôi có là kim cương. Doãn Quốc Sĩ nói.
– Anh trả lời sao? Tôi hỏi.
– Im lặng.
– Anh thiền à?
Doãn Quốc Sĩ cười.
– Thằng Vũ Hạnh báo cáo hết về anh em mình. Nó viết tôi thường xuyên lăng nhục Bác của chúng nó.
– Tôi biết.
– Duyên Anh cũng làm việc với thằng rỗ huê?
– Và bị nó chửi tưng bừng hoa lá. Nó chơi xỏ, tống tôi vào cachot buổi sáng, buổi tối đuổi về. Mình đang ghẻ thèm ở riêng, nó chỉ cho “bán trú”.
Chúng tôi cùng cười.
– Khi cụ Tú Mỡ chết, anh đang nằm cachot.
– Nhà báo tin.
– Cáo phó đăng báo Nhân Dân.
– Nhà đã gửi vào.
Doãn Quốc Sĩ là con rể Tú Mỡ, tác giả Dòng nước ngược, thủ qũy Hội Nhà Văn Việt Nam. Nghịch cảnh của tác giả Khu rừng lau là anh có người em ruột, Doãn Nho, nhạc sĩ, con cưng của Đảng, được sang Moscou học sáng tác nhạc hòa tấu cổ điển. Doãn Nho cũng là con cưng của Công An vì anh sáng tác vài ca khúc ngợi ca công an. Thế mà mấy lần Doãn Nho xin gặp Doãn Quốc Sĩ đều bị từ chối, bắt tội thân mẫu Doãn Quốc Sĩ từ Hà Nội vào đợi thăm con hoài. Hoàng Mạnh Hùng đã hỏi lý do nào Doãn Quốc Sĩ chống Cộng mãnh liệt thế. Họ Doãn đáp gọn:
– Tuổi trẻ tôi bị lừa gạt.
Anh Sĩ hơn tôi một con giáp, cùng tuổi Hợi. Năm nay anh 65. Thế hệ anh, người ta khao khát độc lập, khao khát cách mạng. Nguyễn Ái Quốc đã là kỳ vọng của trí thức trẻ hồi ấy. Anh Sĩ không ngại ngần nói rằng anh đã chỉ sợ Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc. Rốt cuộc, Hồ Chí Minh vẫn là Nguyễn Ái Quốc nhưng không phải Nguyễn Ái Quốc lý tưởng của Doãn Quốc Sĩ. Anh đã, nói theo Nguyễn Mạnh Côn, lạc đường vào lịch sử. Những vụ thủ tiêu Lan Khai, Khái Hưng và, lần lượt, các đảng phái quốc gia cùng với những cuộc đấu tố mở màn ở trung du khiến anh thức tỉnh. Anh coi như mình bị lừa gạt. Khi niềm tin của tuổi trẻ bị lừa gạt thì phản ứng của nó dữ dội lắm. Phản ứng ấy dàn trải cùng khắp tác phẩm của anh. ‘‘Mỗi dòng chữ của Doãn Quốc Sĩ là một viên đạn bắn cộng sản”. Nguyễn Đình Toàn đã viết thế. Anh Sĩ chống Cộng cả bằng cổ tích, bằng thiền. Doãn Quốc Sĩ chống Cộng tự nguyện, khác hẳn loại bồi bút chống Cộng, loại đánh đĩ văn chương giá rẻ cho Juspao, Usis. Ngọn đuốc Doãn Quốc Sĩ lúc nào cũng sáng, lúc nào cũng soi tỏ cho tuổi trẻ bị lừa gạt niềm tin. Chỉ tiếc tuổi trẻ hôm nay thiếu chất phẫn nộ của tuổi trẻ Doãn Quốc Sĩ. Và người ta lặng thinh sau những lần bị bịp, bị làm guốc cho lãnh tụ giẻ rách. Người ta hờ hững để mặc bạo lực của quyền uy ảo tưởng diễn hành. Ngọn đuốc Doãn Quốc Sĩ vẫn rực rỡ ở quốc nội. Buồn thay, ở quốc ngoại, có kẻ gục mặt nhận mình là ngọn hải đăng mù. Mà nó mù thật sự. Nó mù vì sự phản phúc, vì sự ích kỷ, vì sự tự mãn với cái chẳng ra gì của nó. Hơn cả mù, nó đã chết.
Tôi có một kỷ niệm nhỏ với anh Sĩ ở 3C-l. Một hôm, Đặng Hải Sơn “vô thất”, anh Sĩ hỏi.
– Cậu bắt chước Bá Di, Thúc Tề à?
Sơn đáp:
– Không, em muốn bao tử nghỉ mệt.
Anh Sĩ nói:
– Bá Di, Thúc Tề ở Đông Chu.
Tôi nói:
– Ở Phong Thần, thề không ăn thóc nhà Chu.
Có thế thôi mà thằng Đoan báo cáo. Anh Sĩ và tôi bị cúp thăm nuôi. Hai Phận gọi tôi ra “giáo dục”
– Cấm vợ anh tiếp tế cho anh xem anh có chê cơm cách mạng không?
Doãn Quốc Sĩ cũng bị gọi ra nghe Hai Phận vĩ đại sỉ vả. Chúng tôi “phèo” chất tươi nửa tháng. Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Mạnh Hùng và tôi bị Hai Phận “đánh dấu”. Giờ học báo Đảng, anh Sĩ ngồi thiền. Anh dễ ăn và dễ ngủ. Tôi phong anh biệt danh Dị Miên Sư Tổ. Khi 3C-l thêm Lý Thành Cầu, anh Sĩ có tri kỷ chữ Nho. Lý Thành Cầu người Trung Hoa, nói tiếng Việt rất giỏi. Ông ta thuộc Kiều và thơ Đường vanh vách, vốn là đại tá tình báo của Lư Hán, ông theo Tiêu Văn sang Việt Nam tước khí giới Nhật. Ông ta kể chính ông ta dẫn Hồ Chí Minh vào yết kiến Tiêu Văn. Ông Cầu ở lại Việt Nam, lấy vợ Việt Nam bỏ vợ Tầu. Năm 1954, ông di cư và làm quản lý cho hãng tầu vị yểu Hai Con Bướm ở Gò vấp. Chỉ vì ngứa miệng khoe mình quen Hồ Chí Minh mà ông bị vào tù, may là cộng sản chưa thủ tiêu ông. Lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh không thể quen biết anh Tầu già bán xì dầu. Ông Cầu nằm cachot mà Doãn Quốc Sĩ đã nằm. Ra cachot, ông vào 3C-1. Thấy cái bị viết tên Doãn Quốc Sĩ, ông ngạc nhiên hỏi tôi:
– Doãn Quốc Sĩ còn sống à?
– Còn.
Tôi giới thiệu ông ta với anh Sĩ. Ông ta ôm chặt anh Sĩ, nước mắt ròng ròng:
– Tôi đọc tên ông khắc ở tường cachot, tưởng ông chết, xì xụp lạy ông phù hộ tôi. Ai ngờ gặp ông.
Doãn Quốc Sĩ cảm động lắm. Ông Lý Thành Cầu đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Hải Thần, khen thơ Nguyễn Hải Thần hay hơn thơ Hồ Chí Minh, ông ta nói oang oang. Bị chấp pháp gọi ra bắt câm miệng, ông ta phê bình Nguyễn Hải Thần mê thơ quên việc nước.
– Tưởng Giới Thạch rất bận, tiếp khách có mười phút. Mỗi lần xin yết kiến Tưởng khó vô cùng. Vậy mà gặp Tưởng, cụ Nguyễn đem thơ ra khoe và bình mất hết thì giờ, chẳng nói chuyện nước non chi cả.
Ông Lý Thành Cầu trên 70, tóc bạc phơ. Ông ta bình Đường thi, Doãn Quốc Sĩ mê mẩn. Ở với chúng tôi hai tuần, ông bị chuyển trại. Chúng tôi đón Nguyễn Ngọc Tân, người biết hơn cả người biết quá nhiều. Doãn Quốc Sĩ có tri kỷ mới. Nguyễn Ngọc Tân cận nặng, một chân nhỏ tót, đi khập khiễng. Anh ta bắt chước Tôn Tẩn, ăn mặc như thằng điên. Mỗi ngày anh bị gọi ra một lần… tra tự điển Đại Việt.. Kiến thức của Nguyễn Ngọc Tân mênh mông. Chuyện gì anh biết cũng đến nơi đến chốn. Anh kể cho chúng tôi nghe chiến khu Nam Ngãi, những ngày lưu vong bên Nam Vang. Chuyện của anh hấp dẫn vô tả. Thời huy hoàng của anh là thời Đại Việt nắm quyền bính. Ngày Nguyễn Hữu Trí làm thủ hiến Bắc Việt, anh ra Hà Nội với tư cách Xứ ủy miền Nam. Tính tình cởi mở, anh giúp đỡ mọi người bằng khoa chữa bệnh điểm huyệt. Ngày thăm nuôi, anh đem quà cho hết đám “con bà phước”. Ít ai hào sảng trong tù như Bẩy Bốp, Phạm Thái, Nguyễn Ngọc Tân. Ngoài đời, tôi tưởng anh cũng thường như Nguyễn Ngọc Huy thôi. Gặp anh mới thấy anh là nguời đáng kính trọng. Cụ Đỗ Văn Lựu ra làm việc luôn luôn ăn mặc bảnh bao. Và cụ chê anh Tân “mất mặt quốc gia” vì anh dùng giây thắt lưng. Cụ đâu hiểu anh Tân giả khùng.
Doãn Quốc Sĩ ở với chúng tôi hai tháng. Đầu tháng 9-1977, anh bị tập trung với các tù nhân khắp nơi tại hai phòng C-1 và C-2. Anh ngủ một đêm rồi đi lao động cải tạo ở Pleiku. Chuyến đi này có Trịnh Viết Thành, Tô Ngọc, Trần Dạ Từ, Nguyễn Hải Chí, Hồ Văn Đồng, Thái Thủy, Mặc Thu, Thanh Thương Hoàng, Mộc Linh, Thế Viên, Nguyễn Sĩ Tế, Nguyễn Viết Khánh. Doãn Quốc Sĩ bị canh chừng một thời gian, mỗi tuần phải “mạn đàm” với chức sắc Sở Công An một lần, phải kể đã gặp gỡ những ai, nói chuyện gì… Ra tù, tôi đi chơi với Doãn Quốc Sĩ nhiều lần, rủ anh vượt biên, anh không dám. Có lẽ, anh tin cộng sản sẽ cho anh đi chính thức. Nếu vậy, anh đã sai lầm. Sự sai lầm của anh đã bị trả giá thêm ở nhà tù. Cộng sản không bao giờ cho “biệt kích văn nghệ” đi chính thức cả.
Nguyễn Đức Đạt, Bùi Xuân Bật khu A sang “làm mới” 3C-1.
Trưởng phòng Nguyễn Đức Đạt, dân làng Nghi Tàm, từ Hà Nội vào Saigon giữ chức Đồn trưởng công an Cầu Kho. Thành ủy Hà Nội cử người vô Saigon mua xe hơi, tủ lạnh, tivi… Đồ đạc nhiều món gửi tạm ở Đồn công an Cầu Kho vì người mua đồ là đồng chí, là bạn của Nguyễn Đức Đạt. Thành ủy Saigon “chơi” thành ủy Hà Nội. Sở công an khám xét hàng hóa và đòi chứng minh biên lai. Không có. Bị kết tội mua đồ ăn cắp và tiếp quản trái phép. Những kẻ chứa đồ bị truy tố. Nguyễn Đức Đạt bị lột quân hàm trung úy công an, bị tịch thu hết đồng phục, bị mất luôn chiếc Honda tiền túi, tiền của bao nhiêu năm dành dụm. Và vào tù, bị khai trừ khỏi Đảng.
Thư ký Bùi Xuân Bật, con trai út của cụ Bùi Xuân Học, chủ nhiệm nhật báo Loa Hà Nội trước 1940. Gia đình Bùi Xuân Bật có vai vế tiền chiến và hậu chiến. Anh trai Bật học ở Pháp, theo Hồ Chí Minh về nước làm thông dịch. Người anh này lấy cô vợ Quảng Ngãi. Cụ Học, nhân dịp xuân về cảm tác bài thơ trách móc chế độ. Bị cô con dâu tố cáo. Cụ Học nằm tù ở Lào Kay chết ở đó. Bùi Xuân Bật lên rừng bốc xương cha về Hà Nội. Từ đó, Bật lách mà sống, mà học. Tốt nghiệp kỹ sư luyện kim, Bật cộng tác tại Thái Nguyên. Bật có người chị di cư năm 1954, lấy chồng Tầu, rất giầu. Năm 1976, Bật công tác ở Saigon, được chị cho căn nhà và chiếc xe Mustang. Đẹp trai, trắng trẻo, mũi cao và tóc bồng bênh như Tây lai lại vốn con nhà giòng dõi, Bật thích ứng ngay nếp sống Saigon, ăn diện như công tử. Thế là bị chụp mũ liên hệ với phản động, Bùi Xuân Bật vào đề lao Gia Định.
“Triều đại” Nguyễn Đức Đạt, 3 C-l trầm lặng. Cụ già đông hơn thanh niên, cụ già ho, cụ già hen, cụ già khạc nhổ đầy nắp cống. Cực hình đề lao, đối với tôi, là những ngày trực bị mở nắp cống xối nước chà sạch những bãi đờm như những con thạch thùng chết. Với Nguyễn Đức Đạt, mục học báo Đảng dẹp bỏ và ngủ tự do. Chính anh ta cần ngủ quên đời. Hễ nhắm mắt, bất kể ngày đêm, anh ta mớ. Chuyện dặn con khoá kỹ xe đạp, dặn vợ đừng chặt bụi tre. Và trách móc Đảng tước đoạt công lao của anh ta. Đạt bị phong thấp, có thể tê bại. Đang là con Đảng biến ra “con bà phước”. Anh ta xin chúng tôi vitamine A. Chúng tôi cho. Tù phản động giúp tù cộng sản bị khu trừ. Tôi nghĩ anh ta đã hiểu quốc gia và tình nghĩa của người quốc gia. Bùi Xuân Bật chửi Đảng ra mặt. Anh ta chưa được kết nạp vào Đảng, vì là con tư sản. Câu nói bất hủ của Bùi Xuân Bật: “Lãnh tụ vĩ đại của tôi là củ cà rốt của tôi. Bởi chỉ củ cà rốt của tôi mới làm tôi sướng và làm vợ tôi sướng”.
Thời gian này, cachot C-1 “đói” khách sộp. Còn mỗi Đinh Xuân Cầu tóc bạc phơ, râu bạc phơ, ria bạc phơ, lông mày bạc phơ, chân đeo xích, tay mang còng bước từng bước ngắn đi làm việc. Tôi nhìn ông ta liên tưởng tới nền tù ngục quê hương tôi ngót nửa thế kỷ. Người chiến sĩ Đại Việt này chế độ nào cũng nằm tù. Những tài năng của đất nước tôi cứ bị lưu đầy, cứ bị giam nhốt, cứ bị hủy diệt. Và tổ quốc tôi gầy mòn với bộ lòng lổn nhổn sán sơ mít. Như thế vẫn chưa đủ, sự thù hận trải dài vô tận. Thù hận trong hạnh phúc và thù hận cả trong thống khổ. Người ta hay nói đến cảm thông đến khoan dưng, đến đại lượng. Nhưng ba món hàng xa xỉ này không bầy bán. Định nghĩa và cách xử dụng phải tra tự điển. Rốt cuộc, con người Việt Nam đành phải ước mơ cổ tích. “Bà tiên hoá phép, đứa nào hay nói những danh từ cảm thông, khoan dung, đại lượng thì hễ dứt lời là phọt ra cóc, nhái, rắn, rết”… Hình như, người quốc gia của chúng ta đã lạm dụng hai khẩu hiệu ngắn: Đại nghĩa thắng tà đạo, thương yêu xoá căm thù. Đôi khi, tôi thấy, một số người quốc gia tà đạo hơn cả cái tà đạo họ muốn thắng, căm thù hơn cả cái căm thù họ muốn xoá. Một điều lúc nào cũng có thể thấy là người quốc gia căm thù bạn đối lập hơn cả căm thù kẻ thù đối nghịch. Như vậy có hò hét nghìn năm, chẳng bao giờ chúng ta có dân chủ, tự do và hạnh phúc thực sự. Vương đạo của Vệ Ương mãi mãi ế ẩm, dẫu đã rao bán mấy ngàn năm. Trong mọi lãnh vực, bá đạo cứ thích ứng, thích ứng luôn cho trò chơi văn nghệ. Điều sai lầm căn bản của người quốc gia lưu vong hôm nay là chúng ta không chịu nhìn nhận cái đã có của chúng ta chưa ra ngô ra khoai gì cả. Do đó, khi mất nó, chúng ta mê mải đấu tranh tìm lại nó. Cuộc đấu tranh cho hư ảo là cuộc đấu tranh phục hồi quá khứ. Chúng ta không dám bắt đầu cho tươnglai. Chúng ta sợ hãi tương lai. Vì hiện tại chúng ta rách bươm. Và, vì bắt đầu, chúng ta không có vốn, không thể tạo nổi vốn ngoạn mục. Vốn liếng cũ, những lãnh tụ đảng phái gỗ mục, những tướng tá tham nhũng chạy dài, những ngọn giả sơn văn học cạn trương mục rồi. Giá trị của nó không đủ mua gói khô mực. Bất hạnh thay cho dân tộc, gỗ mục và giả sơn ngổn ngang chất đống dọc đường phóng lên phía trước của tuổi trẻ. Và tuổi trẻ vẫn ngại ngần, vẫn chần chừ. Người ta trông đợi tuổi trẻ hào sảng đầu tư nhiệt tình và lòng tự phụ cho tương lai trong cuộc chiến đấu mới, thái độ mới, tư tưởng mới. Chỉ tuổi trẻ mới đủ khả năng thiêu hủy phép tích của bà tiên và sau mỗi cảm thông, mỗi khoan dung, mỗi đại lượng là hoa nhân ái nở, trái hạnh phúc kết. Và, khi ấy, không còn tù ngục xích chân còng tay con người. Khi ấy, không còn thù hận trên quê hương khốn khó Việt Nam, không còn thù hận giữa người Việt Nam với người Việt Nam, không còn những thằng điên cưỡng bức đồng bào mình tung hô mình muôn năm vĩ đại, không còn những thằng ễnh ương ham làm bò lãnh tụ, không còn những thằng thảo khấu chính trị lạc quyên xổ số, không còn những thằng hề cách mạng rẻ tiền, không còn những thằng ngu đòi thống lĩnh đỉnh núi văn học. Khi ấy, cả dân tộc lương thiện được lãnh đạo bởi những tài năng lương thiện. Khi ấy, mọi việc công khai ngoài ánh sáng, chấm dứt phục kích đánh lén. Khi ấy là nghệ thuật, cáo chung thủ thuật. Khi ấy là chung thủy, loại trừ phản phúc. Khi ấy, “mọi người là anh em”. Và khi ấy, là thời lên tiếng sau thời im lặng. Khi ấy mới quyết định cái gì còn để lại.
Đinh Xuân Cầu là tù nhân duy nhất của đề lao Gia Định bị xích chân, còng tay dẫn đi làm việc. Phong sương của tù ngục không làm trán ông thấp xuống và mắt ông mờ đi.
Có ba vị tiên phong đạo cốt của đề lao Gia Định.
Một: Thượng tọa Thích Quảng Độ. Quản giáo Sáu lé đặc trách dẫn thượng tọa đi làm. Gã cai ngục này tuân hành Nội quy triệt để. Nó gọi thượng toạ bằng anh, đọc tên khai sinh của ngài.
– Sao lâu dữ, khẩn trương lên! Nó dục sau khi mở khóa.
– Anh mở cửa ra. Thượng tọa nói.
– Mở rồi, anh ra đi!
– Mở rộng ra.
Sáu lé mở tung cánh cửa thượng tọa mới chịu bước ra. Ngài mặc quần áo nhà chùa chỉnh tề. Ngài ngẩng mặt, bước thong dong. Ở nhà tù cộng sản, các thượng tọa, đại đức Ấn Quang phản động là tù nhân de luxe. Các ngài đòi ăn chay và gọt đầu nhẵn. Và được chấp thuận. Những vị sư khác bị để tóc và ngả mặn. Làm việc xong, Sáu lé dẫn thượng tọa Quảng Độ về cachot.
– Vô đi chứ?
– Anh mở cửa rộng ra.
Cửa mở rộng tù nhân Thích Quảng Độ mới chịu ra vào.
Hai: Nhà phản động già Phan Vô Kỵ quắc thước, bình thản, coi nhà tù như công viên.
Ba: Đinh Xuân Cầu.
Những người này nằm cachot không lên tiếng, không thèm yêu sách một ân huệ nào. Doãn Quốc Sĩ cũng vậy. Đời sống ở cachot C-l thú vị ra phết. Tù nhân già biến thành con nít. Người ta có thể trao đổi quà cáp và tin tức cho nhau từ cachot đầu dẫy đến cachot cuối dẫy.
– Số 2 nghe rõ không?
– Rõ.
– Nhắn số 11. Mặt trời đã lặn. Số 1 thông tin.
– Rõ.
– Số 3 nghe rõ không?
– Rõ.
– Số 1 nhắn số 11. Mặt trời đã lặn.
– Rõ.
– Số 4 nghe rõ không?
Đó là thông tin. Còn gửi quà cho nhau thì tù nhân cachot rút giây ni-lông ở túi phân bón (gia đình dùng túi này đựng quà gửi vào), se thành sợi giây dài buộc chặt món quà muốn gửi. Rồi luồn tay qua cửa gió tung sang cachot bên cạnh. Cachot bên cạnh cũng luồn tay qua cửa gió đợi chụp sau khi được thông báo. Thường phải chụp mấy lần mới trúng. Cứ vậy, quà chuyền đi… Màn phòng tập thể tặng thuốc lá cachot vất vả nhất. Nếu điếu thuốc mồi lửa rồi thẩy sát cửa cachot, tù nhân thò tay qua chân cửa là được ngay. Nếu điếu thuốc xa bàn tay thò qua chân cửa, tù nhân cachot bèn cởi quần áo, nối lại, luồn qua ô cửa gió tung xuống khều điếu thuốc. Nhìn tù nhân cachot hút thuốc, nhả khói, bạn sẽ thấy rõ chân dung của hạnh phúc, hạnh phúc chỉ khám phá ra trong niềm bất hạnh. Tôi có thú vui đứng sát cửa phòng, giả vờ hít thở quan sát sinh hoạt cachot. Nhờ Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường, Hoàng Mạnh Hùng, Nguyễn Ngọc Tân, Doãn Quốc Sĩ, Hoàng SơnTrường tả đầy đủ chi tiết các cachots các khu của đề lao mà họ đã nằm, tôi biết hết cachots đề lao Gia Định. Hoàng Mạnh Hùng còn kể cho tôi nghe các phòng giam ở quận 3, quận 1 sau 1975. Ở đó mới là địa ngục. Và chế độ vua phòng vẫn tồn tại.
Thú tiêu khiển giết thì giờ của tôi ở 3C-1 là tham dự cuộc chơi đô-mi-nô uống nước lạnh từ sáng đến tối. Chúng tôi say sưa chơi. Chơi quên nhớ nhà, quên gãi ghẻ. Chúng tôi uống nước căng rốn. Ai rồi cũng thua và thua mỗi bàn uống hai ca nước. Bốc bài xong, vội bỏ vào túi, đi tiểu ào ào cái đã. Đô-mi-nô uống nước là môn thuốc xổ và lọc nước tiểu diệu kỳ.
Bất ngờ, 3C-l đón tiếp Trần Anh Linh. Cả phòng sôi nổi. Trần Anh Linh, giáo viên tiểu học Phương Lâm. Hè 1977, anh ta đưa vợ và đứa con nhỏ xuống Rạch Giá thăm bà dì. Anh ta mua vé máy bay Saigon-Rạch Giá. Chuvến máy bay này bị không tặc trấn áp sau hai mươi phút bay. Không tặc có bốn người.
– Họ dưới 30 tuổi, đẹp trai và hào hoa lắm.
Trần Anh Linh kể lớn.
– Trên máy bay có hai công an an ninh. To con và gồ ghề. Một tên định động thủ, một không tặc phóng lưỡi dao trúng tim tên công an. Hắn gục ngay. Không tặc mỉm cười. Người thứ hai rút khẩu rouleau, quay nhanh và đẹp như cao bồi. Tên công an còn sống ngồi bất động. Hắn bị tước khí giới. Hai không tặc khác lên phòng của phi hành đoàn. Hấp dẫn hơn phim gián điệp.
– Rồi sao? Tù nhân nóng ruột hỏi.
– Phi cơ chao lộn vài giây. Người không tặc hạ tên công an trấn an hành khách “Đồng bào bình tĩnh, nếu chết, chúng tôi cũng chết, nhưng không chết đâu. Chúng tôi không phải là không tặc, chúng tôi ra đi có sứ mạng”. Trong khi ấy, người không tặc thứ hai vẫn quay súng và cười rất tươi.
Linh kể tiếp: Phi cơ đáp xuống căn cứ Utapao. An ninh Thái Lan xua đuổi, phi cơ dọa lao vào phá hủy căn cứ. Thái Lan bằng lòng đổ đầy xăng, sạc no bình điện và tiếp tế mỗi hành khách một hộp bánh xăng-uých, nước uống. “Họ nói tiếng Anh quá hay”, Linh bình luận. Rồi máy bay đáp xuống phi trường Tân Gia Ba. Không tặc chào tạm biệt đồng bào, bảo ai muốn chọn tự do tùy ý.
– Một nửa chọn tự do. Một nửa xin về. Tân Gia Ba sửa sang máy bay, tặng xác chết một quan tài. Thời gian đi hay về chỉ có 3 ngày.
– Cậu xin về à?
– Báo chí, phát thanh, truyền hình phỏng vấn tôi. Tôi ở khách sạn sang lắm. Tôi chần chừ chọn nước định cư. Chưa kịp chọn, vì mình không chủ ý tìm tự do, thì quá hạn. Tân Gia Ba bắt ném lên máy bay đuổi về.
– Vào tù?
– Phải, tất cả hành khách và phi hành đoàn bị bắt ở Tân Sơn Nhất.
Một tù nhân tuổi trẻ phán:
– Bạn xứng đáng ăn một thùng cứt. Cơ hội ngàn năm một thuở lại bồng bế vợ con vào tù. Thiên đường chê, ham địa ngục!
Trần Anh linh tặc lưỡi.
– Tôi xứng đáng ăn một trăm thùng cứt.*
Trần Anh Linh ca ngợi bốn không tặc hết ngôn ngữ. Anh ta bị tống vào cachot để khỏi “tuyên truyền xuyên tạc”. Nhưng mà vụ cướp máy bay này đã trở thành huyền thoại ở đề lao. Hoàng Mạnh Hùng cũng có một “đệ tử” tên Nhân. Cậu sinh viên làm giấy tờ công dân Phi Luật Tân giả, leo máy bay tới Vọng Các lại nhớ mẹ đòi về… vào tù. Thế là 3C-1 có hai tù nhân tình nguyện vào tù, hai tù nhân chê bai ân sủng của Thượng Đế. Trần Anh Linh rời 3C-1 để lại một đề tài cho tù nhân trẻ già bàn luận, suy diễn, vai trò và sứ mạng của bốn không tặc. Trong không khí bàn luận sôi nổi vụ không tặc, tôi bị gọi ra làm việc.
Chấp pháp số 12 ăn mặc bảnh bao. Hắn dân Hà Nội chính cống nói giọng y hệt giọng Bùi Xuân Bật.
– Anh khoẻ chứ, anh Duyên Anh?
– Cám ơn anh, tôi vẫn bình thường.
– Hết ghẻ chưa?
– Còn lai rai.
Hắn mời tôi uống trà, hút thuốc.
– Anh đã suy nghĩ kỹ?
– Thưa anh, suy nghĩ gì?
– Cái gốc vô sản của anh.
– Tôi chỉ biết tôi là con nhà nghèo.
– Cái gốc vô sản của anh sẽ cứu anh đấy.
Tại sao tôi phải vô sản? Ồng nội tôi là thầy đồ nho. Ông nội tôi chết, gia sản của bà tôi có một mẫu ruộng (một mẫu 3600 mét vuông). Bố tôi lưu lạc buôn bán khắp nơi. Năm 1956, bà nội tôi bị quy vào thành phần trung nộng, thoát cảnh đấu tố nhưng bị truy thuế nhiều năm. Bà tôi không có thóc, không có tiền nộp thuế. Bố tôi nằm tù hai năm thay thế mẹ già. Bố tôi phải chăn bò bên bờ sông Trà Lý, ở đợ cho Đảng và Nhà Nước thế tiền thuế. Tại sao tôi phải vô sản? Những kẻ khoe khoang mình vô hay tư sản, bần cố nông hay địa chủ đều là những kẻ đần độn. Là người tôi khước từ mọi giai cấp chụp lên đầu tôi.
– Tôi không vô sản đâu anh ạ.
– Đó là sự bất lợi cho anh. Anh muốn làm kẻ phiêu lưu vô định trong đời sống mãi ư? Phải có nơi chốn trở về chứ? Nghiên cứu anh, chúng tôi chung một nhận định: Anh chỉ là người bất mãn nhằng, chống đối tiêu khiển, chính trị giải phiền. Anh không có gì nguy hiểm cả. Đừng tưởng anh nguy hiểm. Giam giữ anh chẳng phải vì anh nguy hiểm mà nhằm mục đích soi sáng lối về cho anh. Anh ngây thơ lắm. Anh biết chúng tôi thả Trương Phiên rồi chứ? Bọn miền Nam đã bịp anh từ cuối năm 1954.
Tôi im lặng nghe chấp pháp số 12 “mắng mỏ”
– Với chúng tôi, Nguyễn Văn Sao quan trọng hơn anh nhiều. Trí thức, văn nghệ sĩ các anh sợ khó, sợ khổ, ham vui, chóng chán. Cỡ anh, nếu các anh có mật khu, anh sống hai tuần là bỏ cuộc.
Thằng này khinh thường tôi quá. Nhưng đã “đi khách” cả chục bận, “vành ngoài, vành trong” tôi hiểu hết. Tôi kệ hắn nói cho sướng miệng. Mình nằm trong tay nó, tranh luận vô ích.
– Anh biết tình hình bên ngoài không?
– Không.
– Lung tung lắm. Bạn bè anh công kích chế độ gửi lén bài ra ngoại quốc.
Hắn cười nhạt.
– Không có Nhân Văn giai phẩm ở Saigon đâu. Anh Hoàng Hải Thủy chẳng biết điều tí nào. Đã tha không bắt, lại viết phóng sự Đen như mõm chó riễu cợt chế độ.
Hắn rút ngăn kéo lôi ra tập bản thảo của Hoàng Hải Thủy đặt giữa bàn. Tôi nhận liền thủ bút của Gã Thâm, tác giả những phóng sự sôi nổi trước 1963. Hoàng Hải Thủy là nhà văn ăn diện nhất trong số các nhà văn Việt Nam. Có nhiều nhà văn, nhà thơ mà diện kiến họ, bạn sẽ thất vọng. Hoàng Hải Thủy thì không. Đẹp trai, bảnh bao, lịch sự. Một vài kẻ không thích công nhận Hoàng Hải Thủy như một nhà văn. Chẳng hạn kẻ Trần Phong Giao, kẻ Nguyễn Quốc Trụ. Điều này không quan trọng. Quan trọng là Trần Phong Giao, Nguyễn Quốc Trụ cũng chưa được công nhận như những nhà văn. Vậy mà đã mất công Nguyễn Mạnh Côn viết tựa tiểu thuyết của Thủy bênh vực Thủy. Nhà văn là cái gì nhỉ? Hễ ai viết chữ, người đó là nhà văn. Há những người viết đơn thuê trước cửa Toà Án, viết thư mướn trước cửa Bưu Điện chẳng được gọi là nhà văn công cộng đó sao? Những tên viết văn chuyên nghiệp, những tên đổi chữ nghĩa lấy cơm áo sống trọn đời mình như chúng tôi, không lấy làm thích thú cái tước vị nhà văn. Hoàng Anh Tuấn đã chế… chữ nôm đặt tên nghề nghiệp vô cùng hữu lý. Viết văn mưu sinh là thợ viết. Vẽ mưu sinh là thợ vẽ. Hát mưu sinh là thợ hát. Đánh đàn mưu sinh là thợ đàn. Lái phi cơ là tài xế tầu bay. Vân vân… Chúng ta nên dành các tước vị nhà văn, nhà thơ cho qúy vị viết văn tài tử, sống bằng nghề khác, không sống bằng ngòi bút. Nhưng còn một hạng qúy vị lạy lục xin xỏ qũỵ trợ cấp ngoại quốc, viết sách xuất bản bán vung vít, chúng ta gọi qúy vị ấy là nhà gì? Nhà thầu, nhà buôn, nhà mồ, nhà đòn hay… nhà thổ? Tôi thấy có những thi sĩ hì hục làm thơ suốt đời, ấn loát cả chục pho mà gom lại vẫn không hay bằng một bài thơ hạng bét của thợ thơ Hoàng Anh Tuấn. Cá nhân tôi, tôi , nói thật, học dốt và yếu sức, không thể làm ông thông, ông phán, ông phu xích lô, tôi viết văn nuôi vợ con. Tôi là thợ viết. Tôi không ham đi vào văn học sử hôm nay, vì hôm nav không anh nào đáng viết văn học sử. Tôi không đợi đi vào văn học mai sau, vì mai sau tôi chết rồi. Vậy thì xin cho phép chúng tôi làm thợ viết như thợ đóng giầy, thợ hồ, thợ mộc, thợ dệt, thợ may… Hãy là người thợ chăm chỉ làm việc, nỗ lực sáng tạo, có lương tâm nghề nghiệp, có chính kiến rõ rệt hơn là nhà văn lười biếng, gặm sứ mạng như chuột nhắt gặm sắt, rúc đầu xuống cát như đà điểu hèn mọn. Người ta không muốn bạn tôi là nhà văn thì bạn tôi là thợ viết.
Thợ viết Hoàng Hải Thủy là tấm gương lớn cho những người tự học. Tiếng Pháp tự học. Tiếng Anh tự học. Tiếng Tầu tự học. Rồi dịch và phóng tác truyện Pháp, truyện Anh, truyện Tầu. Thủy đọc nhiều, nhớ kỹ. Thông minh và sâu sắc. Chỉ mắc một tội, lụy vợ. (Các bà sẽ hài lòng lắm). Vợ mà giận bỏ đi, Thủy buông xuôi mọi việc. Vợ mà trở về, Thủy viết lách hăng say. Cô đào xi-nê-ma Dạ Yến mê Thủy đến bỏ chồng Mỹ. Ân ái gần đêm thì bò về với vợ. Thủy đã đi lính trước 1954, đeo lon trung sĩ, từng coi tù ở Phú Quốc. Anh đã viết một truyện ngắn về tháng ngày coi tù, kể một kỷ niệm viết thư giùm anh tù binh cộng sản gửi vào đất liền cho vợ anh ta. Anh tù binh, hơn hai mươi năm sau, ở cục R về giải phóng Saigon và làm chủ nhiệm nhật báo Giải Phóng. *** Anh tù binh mang ơn trung sĩ Hoàng Hải Thủy. Nhờ vậy, Thủy thoát chiến dịch 2-4-1976. Anh tù binh bảo Hoàng Hải Thủy chôn chết tên Hoàng Hải Thủv đi rồi viết cho cách mạng.
– Bút hiệu cửa tôi gắn liền với đời sống của tôi. Hoặc tôi viết ký Hoàng Hải Thủv hoặc tôi không bao giờ viết nữa.
Đó là câu trả lời quyết liệt của Thủy trong bữa rượu tái ngộ cố nhân. Sau 30-4-1975, Hoàng Hải Thủy đến nhà tôi một lần, chờ tôi cả tiếng đồng hồ để báo tin con trai Vũ Trọng Phụng, bậc thầy phóng sự Việt Nam, đã gặp Thủy và muốn gặp tôi. Năm 1977, Thủy bị bắt về tội gửi bài ra nước ngoài. Anh nằm đề lao Gia Định, về Tổng nha cảnh sát cũ rồi được tha, ngót hai năm tù ngục. Tôi ra tù, Thủy đến thăm ngay. Chúng tôi có nhiều ngày đi chơi với nhau. Buổi chiều, trước đêm vượt biên, tôi mời Hoàng Hải Thủy “phê” một bữa với ông Ký già tại toà soạn Văn.
– Mày nói rằng, đứa nào vượt biên dấu mày, đều bị bắt. Vậỵ tao cho mày hay, đêm nay tao phú lĩnh.
– Thoát không?
– Chưa biết.
– Làm sao tao có tin mày?
– Tao đánh điện cho cô Tuấn.
Chúng tôi chia tay nhau ở bùng binh cửa rạp Khải Hoàn. Tôi đã thoát. Thoát chưa phải là đến. Ở trại tiếp cư Achères, tôi gửi cho Thủv tấm bưu thư. Thủy viết thư nhờ một ni cô chuvển cho tôi. Thủy nói, tôi đi rồi thỉ Thủy bị khủng hoảng, muốn “noi gương” tôi. Anh cảm giác bị đe dọa thường xuyên. Cảm giác ấy đă hiện thực. Hoàng Hải Thủy bị bắt lại vào tháng 4 năm 1984.
– Các anh vẫn tiếp tục chống phá cách mạng.
Hắn bỏ tập bản thảo của Hoàng Hải Thủy vào ngăn kéo.
– Anh nghĩ thế nào?
– Tôi nằm đây biết gì chuyện bên ngoài.
– Bên ngoài ảnh hưởng bên trong. Các anh sẽ khó về đấy.
Cuộc mạn đàm ngắn ngủi. Như thể người ta không quên tôi. Tôi về phòng. Tuần lễ sau, Hoàng Mạnh Hùng và tôi chuyển phòng. Chúng tôi cùng sang 4C-2.
* Ngôn ngữ tránh kiểm duyệt, có nghĩa là vượt biên
** Vụ này, các đài ngoại quốc có thuật. Sau 1975, một số phi công của Hàng Không dân sự được xử dụng cho Hàng Không dân dụng nhưng xăng chỉ cấp đủ lộ trình đến. Từ nơi đến đổ xăng đủ về. Người phi công chuyến bay này là bố của Vinh nhí, bạn Chương còm. Theo Linh kể, máy bay chỉ chở về một quan tài Việt Cộng loan tin không tặc sát hại phi công. Tôi cho rằng Việt Cộng đã thủ liêu phi công. Phi công của Hàng Không dân sự cũ bị sa thải hết, sau vụ này, và sự bán vé được kiểm soát chặt chẽ.
*** Khác với nhật báo của thành ủy là Sàigòn Giải Phóng
NHÀ TÙ: CHƯƠNG 18
Ba ngày Tết, các tù nhân nguy hiểm ở cachot được “giải phóng” xiềng xích. Nguyễn Việt Hưng, tướng Phục Quốc Nguyễn Việt Hưng, thường đứng dán mặt vào ô cửa nói chuyện với chúng tôi. Các bạn trẻ của 1 C-1 đấu ào ào, bất chấp Nội quy. Ổng Hưng hỏi thăm tôi chuyện “nội các” Đinh Xuân Cầu khiến tôi tê tái. Ở đề lao Gia Định, tất cả can phạm phản động đều qúy mến ông Đinh Xuân Cầu. Chuyện Hai Nghiêm mỉa mai ông “Mặt anh mà đòi làm thủ tướng à?” đã thành giai thoại ở đề lao. Ông Cầu đang nằm tại 7 C-2, vào cachot vì Sao giò trốn trại. Sau ba ngày Tết, Nguyễn Việt Hưng bị máng chân vào cùm ở ngay tường, ông ta phải nằm ngửa suốt ngày đêm, trừ hai bữa ăn. Tù nhân vụ Vinh Sơn có người nhái AIi Hùng thổi sáo tuyệt diệu, về khuya, Ali Hùng trổ tài Trương Lương. Tiếng sáo của anh ta buồn não nuột. Cả khu C-l thức nghe anh ta thổi sáo. Trong hơi sáo sau của Ali Hùng, chợt nổi lên một giọng nữ gai góc từ khu B vọng sang “Báo cao cán bộ phòng 4 có người bệnh nặng”, tưởng chừng nhạc thiều âm ty. Tôi đã sống những phút giây hãi hùng và kỳ ảo đó. Nghĩa đời không phải ở đấy. Nhưng ở đấy, người ta tìm thấy nghĩa đời.
Hạ tuần tháng 2-1977, Toà án Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh xử vụ Vinh Sơn. Sáng sớm, mỗi tù nhân được phát một ổ bánh mì rồi bị xích chân còng tay đưa tới Tòa án. Buổi chiều được dẫn về. Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn Vãn Nghị, linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp và hai người tôi không biết tên ở cachot l, 2, 3, 4, 5, 6, 7 đã hầu toà ba ngày liên tiếp. Buổi chiều cuối cùng của phiên tòa chung thẩm, khi trở lại cachot Nguyễn Việt Hưng dơ ba ngón tay rồi dùng gan bàn tay chặt lên gáy mình, ông ta báo tin có ba tù nhân bị xử tử. Vài hôm sau, bẩy tù nhân vụ Vinh Sơn chuyển cachot. Chúng tôi hết được nghe Ali Hùng huýt sáo đêm khuya. Bẩy cái cachots dành cho tù nhân mới mà hai cái là nơi “ngự trị” của hai nữ hoàng cachot Hoàng Thị Nga và Ngô Thị Lan. Doãn Quốc Sĩ, hình như, ở cachot số 9. Tôi lại bị gọi sang khu A làm việc với chấp pháp số 11, người Thanh Hoá.
Chấp pháp số 11 yêu cầu tôi bổ sung bản tự khai liên hệ với văn nghệ sĩ Hà Nội. Hắn muốn biết ngoài tôi còn anh em nào thù tạc văn nghệ sĩ Hà Nội không và tôi nghe thấy gì do anh em khác kể lại. Bản tự khai bổ sung rất ngắn. Vì tôi không biết, không nghe, không thấy. Chấp pháp số 11 nhã nhận. Hắn không hạch hỏi. Tôi viết buổi sáng là xong. Buổi chiều hắn mạn đàm:
– Anh Duyên Anh, tại sao anh giao du nhiều mà chỉ khai có một bạn thân.
– Tôi ít bạn.
– Tại sao?
– Vì tôi ưa viết báo công kích, không ai thích thân với tôi.
Câu trả lời của tôi hợp lý quá. Chẳng còn gì nhảm hơn là khai hết tên bạn bè để làm phiền họ, nhỡ họ bị công an chiếu cố. Mà thực ra, bạn thân đúng nghĩa trước 1975, tôi chỉ có một người. Là Đặng Xuân Côn. Ngày Đặng Xuân Côn vượt biên, tôi bị hạch hỏi, bị quay chóng mặt- Như ngày Nhật Tiến vượt biên, dù đã được tha, Nguyễn Đình Toàn vẫn bị gọi lên Sở Công An viết… tự khai.
Chấp pháp số 11 không yêu cầu gì thêm, hỏi vẩn vơ hai ba câu rồi nói chuyện văn nghệ… tiền chiến. Tôi làm việc với hắn vỏn vẹn một ngày. Bất thình lình, 1C-l bị giải tán. Từng nhóm, từng nhóm, tù nhân khăn gói quả mướp chuyển tới các phòng ở khắp đề lao. Tôi vào tuốt 7 C-1, phòng giam tăm tối và hôi hám. Vì cần tiến nhanh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa nên ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh đã xây cái chuồng heo tại góc sân sát vỉa hè Phan Đăng Lưu, sát tường sau 7C-1. Tù nhân tha hồ hít thở phân tiểu heo cách mạng, hương thơm của chủ nghĩa ưu việt. Tôi “tái ngộ” vua cachot Đoàn Kế Tường ở đây. Ở đây, đầy đủ mặt phản động. Già có cụ Cao Văn Diên, cụ Trần Văn Liễu, cụ Nguyễn Văn Thông. Trẻ có Hoàng Sơn Trường, Đinh Cường, Nguyễn Hữu Trí. Tư sản mại bản có Đỗ Bá Thúc đã từng làm Thứ trưởng thời Diệm và dạy ở trường Luật. Linh mục Phạm Minh Thiện cũng về 7 C-l “họp đàn”. Ngoài phản động còn có vài tù nhân vượt biên, vài cảnh sát đặc biệt trốn trình diện. Sĩ quan mới phải trình diện. Riêng an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, hạ sĩ quan cũng phải trình diện học tập cải tạo. Và Phủ trung ương tình báo thì anh gác cổng, anh bưng nước đều… tinh báo hết. Ra đi lâu về. Hoặc ra đi không về. Trưởng phòng tên Nguyễn Văn Mâu do Hai Phận chỉ định. Tôi đã có tí chức tước: Thư ký tù, chuyên viết biên bản các buổi họp cuối tuần và lập danh sách mua hàng chợ.
Hai Phận sáng tạo kiểu điểm danh mới. Ngày hai lần, sáng và chiều, hắn bắt tù nhân ra xếp hàng đôi ngay ngắn. Trưởng phòng hô “nghiêm” rồi báo cáo:
– Báo cáo ông Trưởng khu, phòng 7 hiện diện 56 người đủ.
Hai Phận vĩ đại hất tay:
– Được.
Chúng tôi lần lượt dơ tay đọc số, đọc tên và vào phòng. Hai Phận mở cuộc thi đua vệ sinh, ngăn nắp cho tù nhân. Khẩu hiệu của hắn: “Bỏ cờ trắng, vượt cờ xanh, giành cờ đỏ”. Điểm danh cũng được tính điểm thi đua. Tù nhân thi đua ở tù! Nhờ màn thi đua nên có cuộc họp trưởng phòng toàn khu. Thư ký đi ghi chép biên bản. Tôi được gặp Mặc Thu Nguyễn Viết Khánh, Thanh Thương Hoàng và được biết anh em của tôi đã “họp đàn” hết tại đề lao Gia Định, Đủ mặt. Lúc này, Hai Phận vĩ đại thống lãnh lưỡng khu C-l, C-2. Chúng tôi có một tháng thi đua. Phái đoàn trưởng phòng tham quan các phòng và… chấm điểm. Tù chấm điểm tù. 7 C-l cầm cờ trắng hạng bét vì toàn mùi phân heo và mùi ghẻ mủ. Hai Phận chửi chúng tôi ăn ở bẩn thỉu. Hắn ví chúng tôi với heo và ra lệnh cho chúng tôi “phải khắc phục mùi phân heo”!
Năm 1977 có hai biến cố. Biến cố thứ nhất: Toàn dân ăn độn. Biến cố này được dân gian đánh dấu bằng lời ca số 2 của ca khúc Miền Đông đất đỏ:
Ai đã qua miền Đông đất đỏ
Xem xe chở vào thành phố khoai mì
Cả khoai lang và rồi thì khoai bí
Dân mình xếp hàng mua kí về ăn
……
Tổ quốc ơi!
Ăn khoai mì ngán quá
Từ giải phóng đến nay
Ta ăn độn dài dài
Từ giải phóng đến nay
Ta ăn độn bằng khoai…
Hai Phận “triệu tập” một phiên họp “đột xuất”. Các trưởng phòng và thư ký đi phó hội. Hai Phận buồn bã nói:
– Trung Quốc nó đòi nợ, ta phải trả nợ nó, ta không thèm khất nợ, ta trả hết, trả khẩn trương. Do đó, từ mai, các anh sẽ ăn độn. Các anh khắc phục ăn khoai, ăn sắn nhé! Cũng đầy đủ vi-ta-min. Đấy, gà nó ăn ngô béo ra phết. Lợn nó ăn khoai thịt vẫn ngon.
Chúng tôi không dám cười. Hai Phận đau đớn:
– Người ta cứ bảo đất miền Nam tốt, làm không ăn có, ném thóc giống rồi nhắm mắt chờ mùa gặt. Thế mà từ giải phóng, hết hạn hán lại lụt lội…
Hai Phận vò đầu bứt tóc.
– Trời hại ta, trời cũng theo đế quốc Mỹ!
Tôi thấy Hai Phận đích thực vĩ đại hơn Hồ Chí Minh vĩ đại. Hắn trấn an chúng tôi:
– Nhưng ta đã có mỏ dầu hỏa ở Tiền Hải, Thái Bình. Mỏ ngay trên đất, không cần giàn khoan, không cần nhà máy lọc…
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Hai Phận đã dạy bài này bên Sở Công An. Hắn dạy lại.
Hai Phận, tinh hoa của cộng sản đấy. Chúng tôi đã được học tập cải tạo tư tưởng như thế với những ông thầy như thế. Sau buổi họp “chuẩn bị tư tưởng” ăn sắn, ăn khoai, chúng tôi ăn sắn, ăn khoai thay cơm. Tại sao Hai Phận phải “triệu tập” cuộc họp “đột xuất”? Vì đề lao Gia Định là đề lao kiểu mẫu của thành phố. Chế độ muốn làm dáng dân chủ trong nhà tù. Đã xẩy ra một lần cơm đầy thóc, nhiều phòng… tuyệt thực. Tù nhân phản đối: Chúng tôi không giống gà. Chấp pháp phê bình quản giáo, thay đổi một trưởng khu. Họ sợ giữa thành phố, tù nhân nổi loạn sẽ tạo tiếng xấu cho cách mạng.
Biến cố thứ hai: Nổ kho đạn ở Long Bình. Tù nhân sung sướng, tưởng chừng sắp xô gục cửa ngục mà ra. Cả buổi chiều, hành lang vắng bóng công an. Đạn nổ ầm ầm. Nhưng đâu lại vào đó. Đạn ngưng nổ, ước mơ của tù nhân tắt lịm. Ngoài đời, dân gian cũng tuyệt vọng không kém. Những tù nhân “to tiếng bàn luận” vụ nổ bị làm kiểm điểm, bị cúp thăm nuôi. 7 C-l bình yên nhờ “lãnh tụ” Đoàn Kế Tường bảo anh em “im iặng” nghe đạn nổ. Sinh hoạt đề lao bình thường.
Thêm một sáng tạo ăn. Nghe đồn Đức Giáo Hoàng bán đấu giá vương miện lấy tiền mua bột mì tặng tù nhân chính trị Việt Nam. Đề lao xây lò bánh mì. Bánh mì đề lao thiếu bột nổi. Ăn nóng thì rát họng, ăn nguội thì mỏi răng. Để đến ngày mai thì y hệt cái giầy tã. Bèn đề xuất bánh tầm bì không bì heo. Rồi bánh cuốn. Rồi mì sợi nấu với nước muối. Mì sợi bị chê, đề lao trở về cơm hẩm. Tiêu chuẩn ca đầy ngọn chì còn lưng ca.
Đúng dịp cơm tù bị bớt để trả nợ chiến tranh giải phóng, Doãn Quốc Sĩ ra cachot sau 11 tháng “thiền” trong bóng tối. Anh về 6 C-1 ở chung với Thái Thủy. Tôi bị đuổi qua 3 C-l. Thời gian ở 7 C-l, Đoàn Kế Tường tả cho tôi nghe các cachots anh đã nằm, các hình phạt anh đã chịu. Hồi ở 5 C-2, tôi đã chứng kiến Đoàn Kế Tường chửi quản giáo Hùng kẽm gai. (Hùng mở cửa cho cơm vào phòng. Một tù nhân thấy thùng canh rau muống già, ngao ngán nói: “Lại canh kẽm gai”. Hùng bắt bẻ. Tù nhân tặng nó biệt danh Hùng kẽm gai). Hùng kẽm gai báo cáo Hai Phận. Hai Phận đến tận phòng hỏi:
– Đứa nào dám chửi cán bộ cách mạng dã man?
Đoàn Ké Tường đáp:
– Không có đứa nào cả. Tôi đây, Nội quy cấm ông ăn nói lỗ mãng.
Hai Phận nổi giận:
– Nội quy của ai?
– Của nhà tù. Tôi đọc cho ông nghe: “Can phạm gọí cán bộ là anh xưng tôi. Cán bộ gọi can phạm là anh xưng tôi”.
– Anh dám chửi cán bộ.
-Tôi chửi luôn chế độ dã man!
Hai Phận bắt Đoàn Kế Tường ra làm việc. Vị anh hùng đề lao Gia Định, người nằm cachot bị ra phòng tập đã đập cửa hò hét xin trở lại cachot, đâu ngán cachot.
Tù nhân ở C-2 phục chàng quá. Hai Phận làm việc xong, đưa chàng về. Hắn cho chàng gặp vợ con. Hắn cho chàng khiêng đồ ngày thăm nuôi. Hắn cho chàng chế thuốc ở Y Tế. Chàng nóng tính đánh nhau với ai, kẻ bị chàng đánh đi kỷ luật, chàng bình yên.
– Đang là anh hùng, em trở thành “ăng-ten” anh ạ! Cộng sản thâm hiểm thật.
Cộng sản thâm hiểm, dĩ nhiên. Hạ gục uy tín vị anh hùng, tạo mâu thuẫn để tín đồ bôi bẩn thần tượng rồi bỏ rơi thần tượng. Lúc ấy, thần tượng đã nhào, anh hùng đã hèn mọn! Thay vì người ta “học tập” thủ đoạn cộng sản, người ta chỉ nghị luận “ăng-ten”. Người ta khó mà khôn lớn, dẫu nằm tù cộng sản suốt đời.
Đến 3 C-1, tôi gặp cụ Đỗ Văn Lựu, nhạc phụ của tướng Phạm Văn Phú. Vị đại tá Ngự Lâm Quân này, thời còn đeo lon trung úy, đã đóng ở tô giới Thượng Hải, đã có những trang tình sử với các kiều nữ Tô Châu. Trung thành với Bảo Đại, cụ Lựu chống Ngô Đỉnh Diệm, bị Diệm bỏ tù. Hôm nay, cụ vào tù cộng sản về tội phản động, về tội phó thủ tướng chính phủ Liên Bang Đông Dương.* Tôi gặp Hoàng Mạnh Hùng, tiến sĩ, giáo sư đại học Bách Khoa Thủ Đức. Tôi gặp Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long. Tôi gặp Tổng giám đốc nhà phát hành Nam Cường. Tôi gặp Đặng Hải Sơn. Tôi gặp nhóm bạn trẻ Song Vĩnh. Tôi gặp cụ Nguyễn Đồng chăn bò làng Song Vĩnh bỗng trở thành đại phản động. Trưởng phòng 3 C-1 là gã Việt cộng gốc QuảngNam. Tôi quên họ của hắn, chỉ nhớ hắn tên Đoan. Hắn vào tù vì tội tham nhũng. Đoan tập kết trở về. Trong số các trưởng phòng tôi biết, Đoan là thằng khốn nạn nhất. Giữa hắn và tù nhân có một sự cách ly ngấm ngầm. Chúng tôi không nói chuyện với hắn. Đoan cấu kết với tên Ba, can tội vượt biên. Không khí 3 C-1 căng thẳng. Hắn bắt chúng tôi thay phiên nhau đọc báo Nhân Dân và phát biểu cảm tưởng những gì mình thu hoạch. Giờ đọc báo, Đoan quan sát các tù nhân có ngủ gục. Hắn yêu cầu ngồi nghiêm chỉnh nghe báo Đảng. Những giờ hành chính, tù nhân không được nằm.
Các bạn trẻ 3 C-l thường tụ tập quanh tôi nghe “quay phim” Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng. Và tôi bị Đoan báo cáo là tuyên truyền phản cách mạng, bị Hai Phận gọi ra nạo dũa tơi bời. Không sao, bù lại tôi gặp Nguyễn Văn Quả,** binh nhì Thủy quân Lục chiến, hiền như đất, nói ngọng níu lưỡi mà dám làm phản động có đại liên, có tổ chức. Tôi yêu những ngời như Quả biết mấy. Đi chiến đấu là để chiến đấu. Thế thôi. Khác hẳn những ông sư đoàn trưởng Phục Quốc Quân vốn đeo lon hạ sĩ, trung sĩ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. A, tôi còn gặp Quang dù (anh ta bảo anh ta là đại úy), người thấp, ngực đầy lông, chân mang thương tích, nắm chức vụ Tư lệnh Lực Lượng Kháng Chiến thủ đô. Anh em quen gọi đùa Quang dù là ông Đô trưởng. Đô trưởng rất ham nói, dẫu nói nhăng nói cuội, và rất dễ chọc giận. Anh ta bị quân báo bắt, bị nhốt ở Tô Hiến Thành, bị đánh sưng phổi. Vài hôm quen với 3 C-l, Hoàng Mạnh Hùng*** sang chỗ tôi tâm sự còm:
– Trước ngày bị bắt, tôi định đi gặp ông?
– Làm gì?
– Mời ông xuất ngoại với chúng tôi.
– Đê làm gì?
– Chiến đấu!
A, lại thêm một người mời tôi chống cộng vào lúc “trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn.”
– Chừng đi gặp ông thì hay tin ông đã bị bắt.
– Và ông cũng bị bắt.
– Không ngờ gặp ông tại phòng này.
Hoàng Mạnh Hùng du học ở Mỹ về. Anh ta đã từ chối không nhận chức thứ trưởng Văn hóa Giáo dục của chính phủ Thiệu. Quốc gia cực đoan như Duy Dân, anh ta xếp các chính phủ Việt Nam từ sau 1945 là ngụy quyền. Để tiện phân biệt, anh ta chia hai: Hà Nội phỉ quyền, Saigon ngụy quyền. Anh ta muốn chiến đấu cho một chính quyền. Và như thế, cần thiết cuộc chiến đấu phải mới, thật mới với tư tưởng mới và lãnh đạo mới. Tôi đồng ý. Chúng tôi trở thành thân. Tôi bắt đầu sống bằng ước mơ ở 3 C-l. ít nhất còn một người hiểu giá trị tung hoành của ngòi bút của tôi. Tôi kể cho Hoàng Mạnh Hùng nghe “nội các” Đinh Xuân cầu. Anh ta nói:
– Cộng sản đã lưu manh hoá thị dân miền Bắc và cả nông dân miền Bắc nữa. Mỹ và ngụy quyền đã lưu manh hóa thị dân miền Nam, bây giờ, thêm cộng sản. Chúng ta phải nghĩ đến nông dân miền Nam còn chân thật mà chiến đấu. Và phải quên những thứ Trương Phiên, Bùi Ngọc Phương nhan nhản cuộc sống hôm qua, hôm nay. Tôi chỉ còn tin đám trẻ. Ông đã đi nhiều phòng giam, chắc ông đã rõ, đám trẻ hào sảng và nhiệt tình vô cùng. Họ không biết thở đài.
Tôi ghi nhận điểm son chói lọi này.
– Tại sao trước J 975 ông không tìm tôi.
– Tôi ngại!
– Ngại gì?
– Ông cao ngạo bỏ mẹ đi ấy, tìm ông sợ bị ông đồng hoá với bọn bẩn, ông chửi mất mặt. Nhiều người ghét ông vì ông cao ngạo!
– Ngộ nhận cả, ông ạ!
Chưa ai gặp tôi nói chuyện có ý nghĩa cho cuộc đời phải thất vọng về tôi hết. Người ta không gặp tôi rồi bảo tôi cao ngạo! Một lần, người ta đề nghị tôi vào ban giám khảo văn chương toàn quốc, tổng trưởng Ngô Khắc Tinh nói: “Đừng đừng, ông ta nhận không sao nhưng ông ta từ chối, ông ta sẽ chửi bới um sùm.” Toàn tưởng tượng rồi ghim thành kiến xấu. Lại một lần, có ông tướng hồi hưu muốn ra nhật báo, nhờ người kiếm tôi làm chủ bút. Tôi đặt vấn đề lương: 200 ngàn một tháng. Đáng lẽ 150 ngàn thôi. Chủ nhiệm một tuần báo đi làm thuê cho chủ nhiệm một nhật báo phải 200 ngàn. Ông tướng đồng ý. Tôi đòi trả trước 5 tháng lương. Tại sao? Vì nhỡ báo ông xuất bản được hai tháng, cao hứng ông dẹp tiệm hay cạn vốn ông dẹp tiệm, tôi mất tiếng cần gỡ tiền. Làm báo phải chịu đựng, ít nhất, sáu tháng. Ông tướng lắc đầu và bảo tôi cao ngạo. Quyền lợi hợp lý mà cũng cao ngạo à? Thêm lần nữa, ông Nguyễn Văn Bé xuất bản nhật báo Thách Đố mời tôi viết vài mục. Tôi đòi 200 ngàn một tháng, đưa trước một tháng và sẽ viết từ số 2 nếu báo của ông ta đúng lập trường tôi đã đồng ý với ông ta. Ông Bé lôi tên tôi quảng cáo om sòm. Báo Thách Đố ra số 1. Đó là nhật báo đốn mạt, tôi không viết. Đem tên tuổi tôi quảng cáo đã đủ 200 ngàn. Chưa kể tôi sẽ kiện Thách Đố để Tô Văn viết bài ký tên tôi. Có gì đâu mà cao ngạo?
– Tôi nghĩ thế.
– Bây giờ ông còn thấy tôi cao ngạo không?
– Không, với tôi.
– Dĩ nhiên là với những người đừng để tôi coi thường, bất cứ nơi chốn nào. Tôi yêu và phục tất cả những người tài năng, những người có tâm hồn. Tôi ít học, có dốt nhưng không ngu. Nói chuyện với tôi vài câu là, hoặc tôi yêu mến, hoặc tôi khinh bỉ. Tôi không cao ngạo. Ai sống có chính kiến cũng đều giống tôi. Tôi không thích làm hòn bi với triết lý ba phải. Tôi chỉ có thể là nghệ sĩ là chiến sĩ mà không thể là chính khách hay chính trị gia. Tôi không thích làm vừa lòng mọi người. Với tôi, thiện và ác rõ rệt, xấu và đẹp phân minh, dối và thật sáng tỏ. Sự lầm lẫn của tôi là yêu ai thì yêu hết mình, ghét ai thì ghét hết mình. Tôi bằng lòng sự lầm lẫn đó và trung thành suốt đời với sự lầm lẫn đó. Bởi tôi không cần ai bỏ phiếu cho tôi.
– Người ta sẽ dùng ông như một kẻ châm lửa cho một phong trào.
– Ai là người ta?
– Tuổi trẻ có tâm hồn.
– Tôi rất mong được hầu hạ những người ấy. Những người ấy có quyền cưỡi lên lưng tôi. Tôi tình nguyện làm con ngựa già nhẫn nại. Những thằng lãnh tụ khụ khị thì đừng hòng. Chúng nó có gì hơn tôi? Và chúng nó cứ ghét tôi, cứ bảo tôi cao ngạo. Tôi phục vụ cho tương lai, không cho dĩ vãng.
Tháng 6-1977, một số bạn trẻ rời đề lao đi lao động cải tạo, một số bị chuyển phòng vì chống tên Đoan. 3 C-1 tiếp nhận người mới, có Nguyễn Văn Mẫn bộ đội đào ngũ (anh này đã ở với tôi tại 6 C-I, 7 C-I) và Lê Văn Nhân, trưởng phòng thương nghiệp. Anh Nhân “30 năm đời ta có Đảng,” tập kết năm 1954, về Nam năm 1975. Anh quê Rạch Giá, hồi hương giữ chức trưởng phòng thương nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Vợ anh người Hà Nội, cháu nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Muốn loại bỏ thành phần tập kết, chế độ lấy lý do anh ở nhà lầu, đi xe Fiat (của gia đình ở Saigon cho), chụp lên đầu anh ta cái mũ “mất phẩm chất cách mạng”, tịch thu thẻ Đảng, khai trừ anh ta ra khỏi Đảng rồi tống anh vào nhà tù. Khi khép cửa phòng lại, Hai Phận nói với anh ta:
– Bây giờ anh đã trở thành kẻ thù của Đảng, của nhân dân, anh hết là đồng chí của chúng tôi. Anh được đối xử như mọi can phạm.
Tình nghĩa và tình cảm cộng sản đó. Những anh chị cộng sản làm dáng, làm cảnh, vừa tích cực hoạt động Hội vừa nhẩy đầm nên suy nghĩ. “Ba mươi năm đời ta có Đảng” vẫn nằm tù. Thì cái thứ cộng sản dây máu ăn phần… về quê thăm nước ra cái gì nhì? Anh Nhân có vẻ khoái tôi. Tôi thì méo mó nghề nghiệp cứ thích “phỏng vấn” can phạm Việt cộng.
– Thật sự anh can tội chi?
– Chiến chinh đã tàn, cung nỏ đốt cháy. Đấy, tội của tôi. Chúng nó muốn người Bắc nắm mọi chức vụ.
– Bác Hồ dạy “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” mà?
– Ổng nằm hòm kính rồi.
– Anh tin ai nữa?
– Hết, tôi không tin ai nữa. Có mỗi thứ để tin là Đảng, Đảng chơi quá nặng tin ai bây giờ?
Cùng với anh Nhân, một đảng viên trung kiên cũng vô cachot đối diện 3 C-l. Anh này tối ngày chỉ hát hai bài và mỗi bài hai câu:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời bác nay thành chiến thắng huy hoàng…
……..
Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay
Đất nước thanh bình lòng ta mê say
– Thằng ấy dân tập kết như tôi, anh Nhân nói.
Dân tập kết, giám đốc công ty xuất khẩu thảm Trương Văn Loan nằm ở 5 C-l, chủ nhiệm công ty ăn uống quốc doanh nằm ở 4 C-l, vân vân. Anh Nhân thường để dành miếng cháy bữa chiều làm điểm tâm sáng sau. Lúc anh nhai cháy, anh nhìn tôi, nghẹn ngào hát: Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay. Hoàng Mạnh Hùng bảo, cuộc chiến đấu mới cần mở rộng cho những Lê Văn Nhân tham dự. Họ đã thấm đòn cộng sản, họ sẽ phóng lên tuyến đầu. Tôi đồng ý. Nhưng sự đồng ý của tôi, sự gần gũi những người cộng sản đã “trở thành kẻ thù của Đảng, của nhân dân” đã làm khó chịu những người quá khích. Họ không muốn nhìn kẻ bị cộng sản khu trừ như một con người, con người đang khốn khổ như những con người trong ngục tù cộng sản, con người đang khao khát chiến đấu phục hận. Cái nhìn xa không giống cái nhìn gần. Cận thị và viễn thị khác nhau. Không giống và khác nhau tạo thành bất đồng quan điểm. Khi quan điểm bị nâng lên, sự bất đồng thay đổi triệu chứng. Cái triệu chứng khốn kiếp nhất là bôi bẩn nếu chưa quyền bính, là tàn sát nếu có quyền bính, Con người muốn sống đích thực với lòng mình thật khó. Nó sẽ cô đơn khôn cùng. Để thoát khỏi cô đơn, nó phải toa rập với đám đông thường là mê muội, độc đoán, ngu xuẩn. Thế thì con người chọn cái đích thực phải căng ra mà hứng những mũi tên tẩm thuốc độc. Hơn bất cứ ai, nghệ sĩ sáng tạo cần thiết cô đơn. Bởi vì, từ trong nỗi cô đơn, anh sẽ soi sáng được chân lý, anh sẽ dâng hiến cho đời sống những ý nghĩa mầu nhiệm về con người, về cuộc đời. Tôi bắt đầu chê bỏ thứ tiểu thuyết mua vui của các chuyên viên phơi-ơ-tông. Loại penilletonistes rỗng tuếch tư tưởng xem chừng đã lạc hậu ỏ cái thế lưu vong của chúng ta. Không thể réo gọi thời đại bằng nước mắt những cuộc tình lẩm cẩm. Cũng dễ hiểu thôi, loại này trăm năm chưa biết cô đơn là cái gì. Những kẻ ồn ào dễ a dua, toa rập. Họ cần có im lặng và bóng tối để truy nã bản thân mình.
3 C-l cho tôi nhiều suy nghĩ. Một trong những suy nghĩ của tôi là trường hợp ôngNam Cường. Vợ ông nằm vùng làm tới chức Phường trưởng. Ông vẫn đi tù. Trường hợp thứ hai không đáng suy nghĩ nhưng cũng nên nhắc: Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam tổng phát hành, cậu ruột của Mai Văn Bộ, tê liệt ở đề lao Gia Định, Bộ vào thăm mà không thể xin cho cậu mình được tha. Bạn sẽ có một định nghĩa nào về tình cảm cộng sản?
DUYÊN ANH
* Sẽ viết chi tiết về Chính Phủ Liên Bang Đông Dưưng ở phần ba.
** Năm 1978, Qủa ra tòa cùng tổ chức, lãnh án 25 năm, bị đưa sang chí Hòa.
*** Đã có mặt tại Santa Ana, California, USA.
NHÀ TÙ: CHƯƠNG 17
NHÀ TÙ: CHƯƠNG 16
NHÀ TÙ: CHƯƠNG 15
NHÀ TÙ: CHƯƠNG 14
NHÀ TÙ; CHƯƠNG 13
NHÀ TÙ: Chương 12
Bạn biết người y tá tù là ai không? Đoàn văn Toại, tác giả Goulag Vietnamien láo lếu đấy. Cái xó xỉnh đề lao Gia Định này là biểu tượng của nền ngục tù ô nhục của công sản ư? Đoàn Văn Toại chỉ quanh quẩn ở đề lao Gia Định. Anh ta bị bắt trước tôi vài tháng. Khi tôi đến đề lao, Đoàn Văn toại được ban phát ân huệ giúp việc Phòng Y Tế. Trưởng phòng Y Tế, bác sĩ Quang, y sĩ trung úy Thủy Quân Lục Chiến … nằm vùng. Sau 30-4-1975, anh ta mang quân hàm trung úy công an. Có lẽ, Quang là bí danh của anh ta. Đoàn văn Toại nghiền, tán thuốc dân tộc và phát thuộc các phòng tập thể C-1. Anh ta chưa được bén mảng ở cửa cachot. Toại hưởng quy chế ăn uống, tắm giặt thoải mái trên Phòng Y Tế. Mỗi tuần, Toại ra cổng trại, nhận thuốc của thân nhân tù nhân đăng ký. Bề ngoài nhận xét, Đoàn Văn Toại có vẻ là một cán bộ bị kỷ luật hơn một tù nhân chính trị. Lý do nào anh ta được cộng sản tin cẩn, tôi không hiểu. Toại biết thân, biết phận, không bàng nhàng với anh em. Một cách vô tư mà nhận xét, dưới mắt tôi, Đoàn văn Toai chỉ khúm núm cầu an. Anh ta chưa hề hại ai. Mà cũng chẳng ai có thể hại ai ở trong tù. Những kẻ xử dụng ngôn từ đao to búa lớn “Bước lên xác anh em, bán xác anh em” là những kẻ gian dối. Nó đã chứng tỏ kiến thức nhà tù cộng sản quá thấp. Cộng sản không bao giờ tin cả những tên họ xử dụng làm tai mắt cho họ. Hễ tên “ăng-ten” báo cáo một tù nhân nào, ít nhất, hai tù nhân khác bị gọi ra làm việc trước. Và câu hỏi như vậy: “Anh thấy anh X có khả năng làm việc đó, nói điều đó không?” Nếu hai tù nhân “chứng nhân” trả lời “không”, tù nhân bị báo cáo bình yên, và tên “ăng-ten” viết tự kiểm. Tôi đã trải qua ba nhà tù lớn nhất và hãi hùng nhất của miền Nam, tôi chưa thấy một tù nhân nào bị chết vì bị “ăng-ten” báo cáo. Tôi cũng chưa thấy một tù nhân nào được thả sớm nhờ làm “ăng -ten”. Chuyện “ăng-ten” là chuyện nhỏ nhặt đấy. Bạn còn nhớ Vũ Thành An, tác giả Những bài ca không tên chứ? Tất cả viên chức cao cấp “ngụy quyền” ở Lòng Thành đều rõ. Vũ Thành An đã sáng tác ca khúc có đoạn:
… Nay mới rõ, đế quốc Mỹ là quân xâm lược
Nay mới rõ, lũ ngụy quyền là lũ tay sai
Bao nhiêu năm mình cúc cung phục vụ miệt mài …
Nhờ ca khúc … nín thở qua câu này, Vũ Thành An ho lao đỡ phải vác cuốc, ngồi nhà làm Thông Tin Văn Hóa tù. Rốt cuộc, anh ta vẫn bị đày ra Bắc và trở về bệnh hoạn tiều tụy. Người ta có nỡ kết án Vũ Thành An làm “ăng-ten”, Vũ Thành An “bán xác anh em” không? Vẫn ở trại cải tạo Long Thành, bác sĩ N. Ng. T. (hiện đang định cư ở Mỹ) phục vụ tại bệnh xá tù, đã tình nguyện vác cả tủ lạnh, ti vi đem vào dâng Trưởng trại Ba Tô để hưởng nhàn, để tích trữ thuốc và để Chánh án Đào Minh Lượng mất nửa lá phổi, để Vũ Thành An ói máu thì sao không ai nói? Chưa đủ đê tiện, bác sĩ T. còn dụ đưa Ba Tô về Sàigòn chơi, cho Ba Tô ăn uống no say, để được ngủ với vợ. Và bầy trò khám các nữ tù trại Long Thành để bọn cai tù … coi xi nê thỏa thích 1. Sao không nghe ai nói nhỉ? Tôi sẽ bênh vực đến cùng, nếu ai bảo Đoàn Văn Toại làm “ăng-ten”. Toại, ban ngày, ở ngoài phè phỡn, ban đêm, vào phòng 7C-1. Phòng 7C-1 có phóng viên lùn Văn Chi, dũng sĩ quốc gia đã đánh hai Pháp kiều thân Cộng treo cờ Giải Phóng ở trung tâm Sàigòn trước 1975. Sau năm 1975, Văn Chi bán phở và tham gia tổ chức phản động. Anh ta đã “chào mừng” tôi bằng trái xoài nhờ Đoàn Văn Toại chuyển. Phòng 7C-1 có tỷ phú Phạm Quang Khai, vua tàu dầu, tư sản mại bản. Ông Khai có 50 chiếc tàu chuyên chở dầu chiến lược. Ông không tin thủy thủ đoàn Việt Nam, chuẩn bị một chiếc tàu với thủy thủ đoàn Đại Hàn. Chổi cùn, dế rách ở biệt thự nguy nga số lẻ đường Công Lý, đối diện trường Régina Mundi, được khuân hết xuống tàu. Vợ con ông đã đi từ khuya. Ngày 29-4-1975, ông khệnh khạng xuống tàu. Thủy thủ đoàn Đại Hàn ớn cộng sản đã chuồn rồi. Ông tỷ phú đứng khóc. Ông muốn điên. Ông lú lẫn. Ông không kiếm người khác. Ông sợ tàu… chìm. Và ông … vào tù y hệt tinh thần luân lý giáo khoa thư: “Ba quan đắt quá, thà chết còn hơn”. Phòng 7C-1 có cụ Cao Văn Diên, phản động già và cụ Trần Văn Liễu, phản động gân. Nhân vật Cao Văn Diên hiện diện trong Goulag Vietnamien của Đoàn Văn Toại như một ông già bị bắt oan và chết tại đề lao Gia Định. Sẽ đề cập sau.
Nhờ thảnh thơi ban ngày ngoài phòng giam, Đoàn văn Toại đã thoát dịch ghẻ 1976 kéo dài từ tháng 4-1976 đến tháng 10-1976. Cuối năm 1976, Toại bị tống vào phòng vì sự liên hệ lèm nhèm nào đó. Chức vụ y tá C-1 rơi vào tay Lý Sen, chủ nhà băng Đông Nam Á, tư sản mại bản Chợ Lớn. Đoàn Văn Toai bắt đầu bất mãn. Vợ anh ta, quốc tịch Pháp, con gái nhạc sĩ Võ Đức Tuyết, đã ẵm con sang Tây. Toại ở chung phòng với Đặng Giao bên khu A. “Ngày nào thành công, tôi sẽ sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống!” Đoàn Văn Toại tâm sự với Đặng Giao và Đặng Giao kể lại ngày chúng tôi tái ngộ ở Chí Hòa. Rồi Toại được thả, được leo lên máy bay Air France, đoàn tụ gia đình. Tôi vượt biển sang Pháp, biết Đoàn Văn Toại đã kể chuyện đề lao cho Minh Đức Hoài Trinh và Minh Đức Hoài Trinh thông dịch cho một ký giả Tây. Và Goulag Vietnamien xuất bản. Tôi lại biết Toại đã vận động định cư ở Mỹ và theo Trương Như Tảng. Tảng theo Hoàng Văn Hoan, chỉ chống tập đoàn Lê Duẩn – Trường Chinh, chứ không chống cộng sản Việt Nam. Họ đã xác định lập trường. Hồ Chí Minh vẫn là xác chết được tôn thờ. Cậu Đoàn Văn Toại từng bầy tỏ chí khí “Sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống”. Bây giờ, cậu Đoàn Văn Toại “phản tỉnh”, “thức tỉnh”, cậu hò hét “Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”. Giữa Toại và tôi đã có biên giới.
Mùa thu 1985, Đoàn Văn Toại, qua Paris, với tư cách cựu tù nhân đề lao Gia Định, mời tôi ăn tối. Với tư cách cựu tù nhân đề lao Gia Định, tôi nhận lời. Chúng tôi hẹn nhau ở quán Đào Viên quận 13. Đoàn Văn Toại tặng tôi cuốn Goulag Vietnamien. Tôi nói:
– Tôi đã đọc. Sách của cậu đáng liệng vào thùng rác. Vì có những ba điều bố láo. Một: Ở đề lao Gia Định, giấy và bút bị nghiêm cấm. Công an kiểm tra hành lý tù thường xuyên, cậu đào đâu ra giấy bút mà lập kiến nghị? Rồi tù nhân bị nhốt kỹ 24 trên 24, cậu liên lạc với ai mà xin được hàng trăm chữ ký? Hai: Cụ Cao Văn Diên phản động nặng, cụ bị đầy lên Pleiku và chết tại Gia Trung, cậu bảo cụ ấy chết ở đề lao. Cậu được tha, cụ Diên vẫn còn nằm ở đề lao. Cụ Diên rời đề lao sau 2-9-1977. Ba: Cậu quả quyết tôi chết rồi. Còn rất nhiều bố láo. Ba điều thôi đã đủ liệng sách “Chứng nhân” của cậu vào thùng rác. Tôi sẽ chửi nhà xuất bản Laffort cái tội rủa tôi chết.
Đoàn văn Toại cười cầu tài:
– Tôi kể đại ông ơi!
Tôi nhìn thẳng mặt anh ta:
– Điều nầy ngoài cuốn sách. Cậu là thằng bất nhân. Đã cho tôi chết, cậu còn bảo tôi làm “ăng-ten”
Toại chối:
– Tôi thề với ông, tôi không hề bêu nhục ông. Đứa nào nói với ông vậy?
Tôi chậm rãi:
– Bạn cậu, Vũ Ngọc Yên, tạp chí Độc Lập bên Đức.
Đoàn Văn Toai câm họng. Tôi cười xòa và bốc anh ta chín từng mây. Toại khoái chí chửi Trương Như Tảng cù lần, Hoàng Văn Hoan đần độn, Nguyễn Công Hoan ngu dốt, Tô Văn cố đấm ăn xôi… Anh ta nói về đài phát thanh sẽ lập ở Tân Gia Ba, gợi ý mời tôi bằng cách than thở thiếu nhân tài. Nội tình của phe nhóm anh ta, anh ta kể vanh vách. Tôi nghĩ thầm: Mẹ kiếp, mày nhóc tì, tuổi ít hơn ông, ngu hơn bò mà cứ đòi đi mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc ông à? Ông vừa trổ đòn nhà báo, mày đã tự khai vung xích chó. Hết chai rượu đỏ, tôi nói:
– Thôi nhé, chut tình đồng tù đề lao đến đây chấm dứt. Cậu đi đường cậu, tôi đi đường tôi. Mai này tôi đánh, cậu rán mà đỡ. Tôi thích sòng phẳng.
Chúng tôi chia tay. Ít tháng sau, Toại gửi cho tôi một bức thứ từ Liễu Châu. Anh ta ba hoa: “Đã thăm mộ các liệt sĩ quốc gia, sẽ không còn sai lầm như họ”. Tôi suýt chửi thề. Đó, người y tá tù đề lao Gia Định khu C-1, nhà cách mạng lưu vong Đoàn Văn Toại, với đầy đủ tài năng và tư cách, người đang chu du thế giới bằng tiền Tàu, tranh đấu cho giấc mộng Tôn Sĩ Nghị cùng đám Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng. Và tôi, tôi ngồi trên lầu 8 của cái immeuble bên bờ sông Seine, thành phố có thị trưởng Jacques Laloe, là đảng viện cộng sản, có tổng hành định của Georges Marchais, Tổng bí thư Đảng cộng sản Tây, viết sách mưu sinh. Bởi nghèo, nên bị cư trú tại Ivry Sur Seine. Bởi chống cộng, nên bị Jacques Laloe lờ tít mọi trợ cấp xã hội, y tế. Không sao, tôi đã chống cộng, tôi đang chống cộng, tôi còn chống cộng đến tối. Tôi anh dũng thấy mẹ, tôi chống cộng trong lòng địch!
Trở lại đề lao Gia Định, nơi tôi đang học môn Thống Khổ Nhập Môn. Tôi ở 6C-1 đã 2 tuần, đã quen với sinh hoạt phóng này. Tôi không còn gớm ghiếc nhìn đống mài ghẻ mà trực sinh quét gom buổi sáng. Bạn thử tưởng tượng mài ghẻ mủ và mủ ghẻ dính nhớp nhúa trên bục nằm, mỗi sáng. Người ta phát cho chúng tôi miếng bố tời, vừa để chùi chân bước lên cầu tiêu vừa để lau bục nằm. Ở đề lao, dép cất kỹ trong bị, chỉ mang khi bị gọi lên phòng chấp pháp làm việc. Làm việc, danh từ cộng sản, có nghĩa là làm việc với công an, có nghĩa là viết tự khai và chịu đựng những cuộc thẩm vấn điên đầu. Người cộng sản chơi chữ rất xảo quyệt. Một ông Ba Tàu đã phát biểu ý kiến ở phòng B, Sở Công An: “Lù má ló, pắt pỏ tù lại pảo li học tập. Lấy cung lại pảo làm việc. Nhà tù lại pảo trường học. Cai ngục lại pảo quản giáo, cán pộ!” Chữ nghĩa của cộng sản đã huyễn hoặc thế giới. Cho đến hôm nay, báo chí người và cả báo chí mình vẫn viết nhà tù, trại tập trung khổ sai lao động là Trại học tập cải tạo! Ở khắp nơi tôi đi làm chứng nhân, người ta đều hỏi tôi: “Ông được học tập ra sao?” Và tôi đã trả lời: “Tôi chẳng được dạy dỗ gì cả. Người cộng sản có một mục đích rõ rệt. Họ làm chúng tôi sợ hãi, bắt chúng tôi khổ cực và bỏ chúng tôi đói. Càng kéo dài sự sợ hãi, khổ cực và đói, chúng tôi càng sa sút tinh thần. Khi biết chúng tôi tàn lụi ý chí phấn đấu, đó là lúc họ thả chúng tôi về. Và họ đã đạt kết quả. Đa số, chúng tôi về mất trí, thành phế nhân. Có nhiều người đã được xuất ngoại chính thức theo chương trình ODP, sang Mỹ, sang Tây … vẫn chưa hết ngẩn ngơ, ngơ ngác. Chúng tôi học tập sợ hãi, khổ cực và đói. Bất cứ tù nhân nào vượt qua sợ hãi, khổ cực và đói, thì sẽ tự học ở đó những ý nghĩa rạng ngời của cuộc sống, của lý tưởng chiến đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền.” Tôi không dám nói thêm: “Nhưng không dám vượt qua sợ hãi, khổ cực và đói thì sẽ ăn vụng thịt dưới bếp, ăn cắp cơm cháy, ăn tranh phần cơm heo và tự đòng hóa mình với súc vật”. Vậy thì, làm việc là danh từ hãi hùng của tù nhân. Bạn sẽ mệt lữ cò bơ với làm việc. Làm việc ở đề lao Gia Định, là bị truy nã dĩ vãng, hiện tại; ở Chí Hòa là bị đánh học máu mồm; ở các trại tập trung là vào nhà lô, ăn đòn nhừ tử.
Tôi chưa bị ghẻ. Hồng Dương đã bắt đầu. Nhờ không biết ăn mắm ruốc và cá biển, một vài mụn ghẻ nước của tôi chịu thuốc xanh ngay. Tôi dùng mũi kim băng khều mụn, nặn đến máu chảy ra rồi thấm khô, chấm thuốc. Là mụn ghẻ mọc mài. Mỗi tù nhân đề lao đều có một cái kim băng và phải dấu kỹ. Khi bị ngứa, ngày cũng như đêm, tôi lấy bàn chải đánh răng chà lên chỗ ngứa. Nếu gãi bằng móng tay, gãi cho đã, da sẽ bị xước. Và chỉ cần da xước một tí là ghẻ mủ cấp kỳ. Ghẻ nhà tù “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” hơn xã hội chủ nghĩa. Hàng chục thứ bệnh truyền nhiễm ở phòng giam tập thể, nhưng tù nhân không được chích thuốc ngừa. Sự khôn ngoan chống ghẻ của tôi bắt tôi phải đánh răng bằng cái bàn chải tôi đã gãi khắp thân thể. Không có sự khôn ngoan nào không bị trả giá. Sự khôn lớn của con người bị trả giá đắt nhất. Phòng 6C-1, ngoài mấy tên trộm cắp vô lại, mấy tên Mafia cơm nước, mấy “chuyện buồn nhỏ nhặt”, không đáng chi phải để phòng. Tôi yêu nhóm anh em trẻ phản động Hóc Môn, Bà Điểm. Người của Mười tám thôn vườn trầu đã được hai kép hát Út Trà Ôn và Thành Được diễn tả điêu luyện và rung động trong Người ven đô như những chiến sĩ “Chống Mỹ cứu nước” phi thường lại cũng chống cộng cứu nước phi thường. Nếu tôi đã ngờ vực Trương Phiên, tôi hoàn toàn ngưỡng mộ và tin tưởng tinh thần chống cộng của nông dân trẻ miền Nam. Bắt đầu, ở phòng 6C-1, tôi suy nghĩ về cuộc tân cách mạng Tây Sơn 2. Tôi đã nói chuyện nhiều với nhóm anh em Mười tám thôn vườn trầu. 6C-1 có một người tên Nga, tâm sự na ná Moritz của Gheorghiu. Anh ta nuôi heo cho một chủ trại ở Thủ Đức. Vợ anh ta đã chết. Anh ta làm gà trống chăm sóc đứa con gái 8 tuổi. Chủ trại bị bắt. Anh Nga bị bắt theo. Người ta chụp lên đầu anh cái mũ phản động … nuôi heo để dễ ăn cướp bầy heo. Anh Nga xin đem con gái vào tủ. Người ta từ chối. Cả ngày, anh ta ngồi xổm trên thành hồ nước hết khóc lại thở dài. Này bạn chống cộng sản và bạn thân cộng sản, có bao giờ bạn thấy một người vô sản ngồi khóc nhớ con trong nhà tù cách mạng vô sản về tội nuôi heo? Chẳng bao giờ bạn thấy cả. Vì bạn không bao giờ ở tù cộng sản. Vậy bạn nên suy nghĩ về cái gọi là bản chất và hiện tượng cộng sản, xuyên qua thân phận người vô sản cùng khốn tên Nga. Chừng suy nghĩ đắn đo, chín muồi, bạn sẽ có thái độ chính trị quyết liệt, dù chống cộng hay thân cộng. Tôi vốn khinh bỉ mọi sự làm dáng chính trị. Nó không thấm khô nước mắt của anh Nga nuôi heo, nó không lau sạch mủ ghẻ trên bục xi măng nhà tù.
Tôi chưa kể chuyện người bạn tuổi nhỏ của tôi, nhà văn Từ Kế Tường, cũng bị bắt, bị đưa về đề lao Gia Định và đã tạm trú ở 7 C-1. Từ Kế Tường trốn quân dịch. Giám đốc Nha Quân Pháp của Bộ Quốc Phòng ký cho cậu ta đầy đủ giấy tờ hợp lệ như một sĩ quan. Từ Kế Tường lãnh lương và đóng thêm tiền mồ hôi nước mắt, nộp cho cai thầu lính kiểng. Cậu ta mặc quân phục, mang phù hiệu quân pháp, đeo lon thiếu úy công khai. Sau hai năm, lên trung úy. Từ Kế Tường dại dột diện quân phục về ngõ nhà mình. Khi các sĩ quan đi trình diện học tập hết, không thấy Từ Kế Tường ra đi, mấy đứa ác độc gần nhà cậu ta tố cáo cậu ta trốn học tập cải tạo. Từ Kế Tường bị bắt. Nằm đề lao chưa kịp ghẻ, nhờ ông bố tập kết bảo lãnh nên hồ sơ… lính kiểng được cứu xét lẹ. Từ Kế Tường về đời xã hội chủ nghĩa, làm tới chức Chủ nhiệm Nhà Văn Hoá quận 4. Báo Tuổi Ngọc phá kỷ lục vào tù. Chủ nhiệm Duyên Anh, chủ bút Đinh Tiến Luyện, thư ký tòa soạn Từ Kế Tường. Cuối năm 1981, được tin tôi ra trại, Từ Kế Tường, Nguyễn Thanh Trịnh, Đinh Tiến Luyện đến thăm tôi. Luyện đã phiêu lưu các trại tập trung Suối Máu, Bù Gia Mập, Tống Lê Chân và làm nghề buôn bán hạt giống, nước mắm. Trịnh làm công nhân xưởng dệt quốc doanh, cộng tác với báo Tuổi trẻ. Pham Đình Thống bán thuốc tây chợ trời. Chúng tôi vẫn dành cho nhau nguyên vẹn tình cảm nhưng tư tưởng đã tạm ngăn cách. Và đó là nỗi buồn của chúng tôi. Pham Đình Thống khấm khá nhờ những kinh nghiệm và thủ đoạn chợ trời. Trước ngày tôi bỏ Sàigòn, Thống mở hiệu bán thuốc với công ty bằng hữu ở đường Đồng Khánh. Chẳng biết hiệu thuộc của Thống còn tồn tại? Từ Kế Tường đã bị loại khỏi sinh hoạt văn nghệ. Nguyễn Thanh Trịnh mỗi năm chỉ được đăng hai truyện ngắn ca ngợi lao động sản xuất. Đinh Tiến Luyện vượt biên hoài không nổi, đành kết hôn với một nữ thuyền nhân hụt và yên phận chọn Tam Hiệp, Biên Hòa. Luyện đã có con gái đầu lòng. Cuộc đời đã đổi thay hết.
Một thứ không hề thay đổi. Là cung cách chiến đấu chống cộng sản. Một thứ dừng lại. Là tư tưởng văn chương của các tiên chỉ, lý trưởng văn nghệ. Một thứ trở về. Là lối kiếm tiền chụp giật để chóng giàu. Một thứ tiến bộ. Là tinh thần ăn cắp, ăn quỵt, chụp mũ.
Đầu tuần lễ thứ ba, sau khi điểm tâm, chúng tôi được lệnh chuyển trại cả phòng. Lệnh khẩn trương. Tù nhân hạ bị, giỏ, tháo gỡ hết giây, gom góp mọi đồ “tế nhuyễn”, đem ra xếp thứ tự thành một hàng dài ngoài hành lang. Tất cả sợ hãi và băn khoăn. Ngày mai thăm nuôi, chuyển trại đột xuất, chưa kịp báo tin, vợ con khuân quà cáp tới sẽ mất công khuân về và sẽ lo lắng không hiểu chồng, cha mình ở đâu. Như ở bên Sở, tù nhân được nhận quà của gia đình mỗi tuần một lần. Ngày này, danh từ cộng sản gọi là ngày thăm gặp. Thực ra, không có thăm, cũng chẳng có gặp. Thân nhân bỏ quà cáp (thịt khô, mì vụn, mắm ruốc, nước mắm, kẹo bánh, cà phê, thuốc lá, thuốc bệnh, thuốc rê, thuốc lào, giấy quấn, diêm quẹt, trái cây… và 10 đồng) vào bị cói hay túi vải, túi phân bón, kèm tấm giấy ghi các món quà. Công an kiểm soát các món ở sân ngoài, rồi ký tên xác nhận lên tấm giấy “danh sách quà cáp”. Món nào cấm, công an gạch xóa. Được nhận quà, thân nhân tin là tù nhân không bị kỷ luật, bèn về ngay. Những người được Sở cho phép gặp tù nhân thì ngồi chờ trong phòng khách. Các Trưởng phòng khiêng những túi quà vào một căn nhà khám xét quà cáp của khu mình. Đề lao Gia Định có ba khu, mỗi khu một ngày nhận quà. Ở căn nhà khám xét, công an chiếu cố quà cáp kỹ lưỡng. Món nào dính dáng tới nước mắm, bị đổ ra cái thau nhựa. Đũa, muổng, dĩa khoắng, quậy, gắp, rỉa xem có thư gửi lén. Rồi lại dồn vô túi ni-lông. Thịt kho ướp mắm ruốc, cá kho là vì cái thau nhựa bới tung mắm ruốc, cá kho bới tung thịt.. Đường, cà phê… bị nắn bóp. Bánh chưng bị cắt làm tư. Quà tù nghe chừng cũng đau đớn. Dưới mắt công an cộng sản, cái gì của tù nhân phản động đều … phản cách mạng cả. Thuốc lá bị xé bao, dẫu là thuốc lá cách mạng, dồn vào túi ni lông. Dồn cả 200 điếu. Vẫn thuốc lá ấy, nhà tù mua giùm tù nhân thì để nguyên trong bao! Khám xét … nát quà cáp, rồi vất bừa vô bị, vô giỏ. Lúc ấy, trưởng phòng khiêng về cửa phòng theo tên tù nhân và số phòng. Cai ngục mở cửa. Tù nhân dở đồ ra sắp xếp. Chuối là dập nát. Xoài là dập nát. Bún chả tanh mùi cá. Phở xào nặng hương vị mắm tôm. Mì vụn vương đầy thuốc rê. Thăm gặp, dùng chữ của công sản, là một thủ đoạn. Đừng tưởng cộng sản ban phát ân huệ. Thăm gặp nhằm những mục đích:
° Chính sách cải tạo của Đảng và Nhà Nước nhân đạo.
° Đỡ tốn thức ăn và thuốc men.
° Tù nhân dinh dưỡng bằng thực phẩm của gia đình mình sẽ khỏe mạnh để ở tù lâu.
° Cho tù nhân hưởng phè phỡn thành thói quen. Sẽ dọa cúp thăm gặp làm áp lực tình cảm và vật chất.
Bởi vậy, ngoài thăm gặp hàng tuần, còn cho mua hàng hóa hàng tuần. Tù nhân sợ chuyển trai, phần lớn, vì sợ mất liên lạc gia đình, ít ra, nửa tháng. Đến trại mới được gửi quà.
Sau khi tù nhân ra ngoài hết, cửa phòng khóa chặt. Mỗi tù nhân đứng cạnh hành lý của mình. Cai ngục điểm số. Chúng tôi, từng người đọc tên và số thứ tự xếp hàng.
– Số 1, Vũ Mông Long.
– Số 2, Nguyễn Thanh Chiểu.
…
– Số 52, Lâm Văn Thế.
Điểm số xong, cai ngục nói:
– Các anh nhớ số của mình.
Cửa phòng lại mở. Chúng tôi nhận lệnh trở vào. Cai ngục gọi:
– Số 1.
Tôi hô “có” và đi ra. Cai ngục bắt tôi đứng nghiêm, dơ hai tay lên. Hắn rờ nắn thân thể tôi khám xét túi quần, túi áo tôi. Những tên vệ binh đeo súng ngắn, đứng canh chừng. Khám người xong, cai ngục bảo tôi đổ từng đồ “tế nhuyễn” ở túi, bị, giỏ ra. Hắn kiểm soát từng món, cật vấn đủ điều. Thư vợ tôi gửi, cai ngục tịch thu. Ảnh vợ con tôi, hắn giữ lại “nghiên cứu”. Hành lý của tôi bừa bãi trên nền xi măng của hành lang khu C. Cai ngục hạ lệnh “Khẩn trương”. Tôi quơ vội nhét vào giỏ, bị. Nước mắm lẫn với quần áo. Tôi được đem hành lý vào phòng. Tù nhân thứ hai, Nguyễn Thanh Chiểu, bị gọi ra. Cứ vậy, tới tù nhân số 52. Một buổi tổng kiểm tra phòng. Cai ngục nói dối chuyển trại để tù nhân có cất dấu cái gì trong phòng cũng sẽ phải thu quén bỏ hết vào bị. Thêm một thủ thuật. Thủ thuật biến ảo. Nó không thành qui luật chết. Nên tù nhân mắc bẫy dài dài. Lần sau chuyển trại thật sự, tù nhân tưởng tổng kiểm tra, công kênh nhau dấu những thứ cần dấu trên những xà gỗ trần phòng. Thế là vất lại những gì đã dấu. Nửa tháng, có khi một tuần, tù nhân, tiếc rẻ món này bị tịch thu, mừng húm món kia thoát nạn. Là đầu óc bớt căng thẳng, sự nổi loạn ở phòng giam được bảo đảm. Tôi đã nhìn rõ tôi qua hình ảnh Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Hải Chí và tất cả tù nhân đề lao ngoài ánh sáng. Mặt chúng tôi trắng bệch, ngơ ngác. Mới đứng tại hành lang khám tư trang của tù nhân đã thấy mình hèn mọn. Mọi sự hung hăng biến đâu mất. Tôi chợt nhớ bài thơ L’albatros của Beaudelaire. Con hải âu đã rơi xuống sàn tàu. Tôi chợt nhớ bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Con hổ đã nằm trong chuồng. Tôi chợt nhớ thiên hồi ký ngắn của Nguyễn Mạnh Côn, nhắc lại kỷ niệm ở tù Việt Minh với nhà văn Trọng Lang 3. Anh Nguyễn Mạnh Côn, viết rất thật, rất người rằng, vì thương con, Trọng Lang đã lạy cộng sản để nó đừng giết mình. Trọng Lang đã phản ứng bằng cách miệt thị Nguyễn Mạnh Côn nói láo. Tôi vừa tìm ra sự thật. Chưa có ai lạy cai ngục cả. Nhưng tất cả đều lễ phép khi bị cai ngục cật vấn, xét hành lý. Tôi lại chợt nhớ lời khuyên của Thanh Thương Hoàng bằng thơ Sông Hồ “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”.
Chúng tôi ăn cơm trưa muộn. Vì bận bịu sắp xếp và treo hành lý tù. Buổi trưa, không ngủ, tôi mò sang chỗ ông Lâm Văn Thế đánh cờ tướng. Đánh cờ để tâm sự. Chúng tôi nói thật nhỏ.
– Ông Thế, ông nghĩ bao lâu họ thả chúng ta?
– Chịu. Không ai đoán nổi. Mọi suy nghĩ về cộng sản của người quốc gia đều sai hết. Ông sẽ đi lao cải, sẽ về, tùy vào sự ổn định tình hình sớm hay muộn.
– Còn ông?
– Tôi sẽ ở đây với các ông Thái Đen, Nguyễn Thiện Giai, Như Phong chờ phép lạ. Hai nơi đến và đi của chúng tôi: Sở và Đề Lao. Người ta không cho chúng tôi ra ánh sáng đâu.
– Tại sao?
– Chúng tôi là tự điển!
Tự điển, ông Lâm Văn Thế, thiếu tá cảnh sát đặc biệt giải thích:
– Tôi đặc trách một cụm tình báo. Rất nhiều cộng tác viên tình báo không có tên. Họ lãnh lương bằng hàng trăm mật danh ổi, xoài, mít… Tôi cũng không thể biết mặt họ toàn thể. Một số nào quan trọng thôi. Cơ quan của tôi, kẻ đã di tản, người trốn trình diện. Và tôi bị bắt ngay đêm 30-4. Tình báo đánh giá đúng mức tình báo. Họ dùng tôi làm tự điển.
– Họ tra … ông?
– Phải. Bắt được nhân viên của tôi trốn trình diện hay một người họ ngờ vực là cộng tác viên của tôi, trước hết, họ khai thác người bị bắt. Nếu người bị bắt chối, họ bảo người bị bắt làm tự khai danh dự, chấp nhận mọi hậu quả nếu gian dối. Rồi họ gọi tôi ra. Họ nêu tên tuổi người bị bắt, hỏi tôi có quen biết không. Tôi nói không quen, họ dẫn tôi về phòng. Rồi họ lại gọi tôi ra, cho tôi gặp mặt người mà tôi nói không quen biết. Họ quan sát mặt chúng tôi, cử chỉ của chúng tôi để tìm ra sự thật.
– Nếu ông trả lời ông quen biết?
– Thì người chối không hề quen biết tôi can tội gian dối. Và anh ta đích thị là công tác viên tình báo.
– Có trường hợp ngược?
– Có chứ. Tôi đâu biết người bị bắt khai làm việc với tôi, tôi nói không quen. Họ dí vào mặt tôi tờ tự khai và dẫn người bị bắt ra gặp tôi.
– Rồi sao?
– Tôi bắt buộc phải làm tự điển trung thực.
Ông Thế buồn bã:
– Với công ăn ở bất cứ chế độ nào ông có thể dấu diếm được tư tưởng trong đầu óc ông mà không thể dấu diếm được các sự việc đã xảy ra. Ngoài tôi, còn các cuốn tự điển khác mà tôi không biết. Có lẽ, họ cũng bị bắt sớm như tôi. Cá nhân tôi, tôi cũng chẳng rõ ai chạy thoát, ai kẹt lại, ai trình diện, ai bị bắt, ai còn lẩn trốn. Họ sợ tình báo, họ cần quét sạch tình báo, từ lính đen sĩ quan, từ gác cổng đến bưng nước văn phòng.
Tôi hỏi:
– Như Phong dính dáng tình báo?
Ông Thế đáp:
– Ông ấy là tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Tôi đã thấy Trịnh Quốc Tài tự tra … tự điển bên Sở Công An. Và tôi đã thấy ông ta tra bạn tôi, Thanh Thương Hoàng.
– Họ cũng tra tự điển tôi về các nhà văn, nhà báo. Cơ quan của tôi không phụ trách “hồ sơ” văn nghệ sĩ.
Chúng tôi ngừng cuộc cờ. Tôi trở lại chỗ của tôi, ngồi dựa lưng vào tường suy nghĩ. Có hai đối tượng cộng sản đang truy lùng: Tình báo và đảng phải. Cộng sản thù hận các đảng Đại Việt, Duy Dân, Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đó là mối thù “truyền kiếp”. Rất nhiều đảng viên của ba đảng này không trình diện và tiếp tục chống đối cộng sản. Cụ thể hóa sự sợ hãi và lòng thù hận của cộng sản là Mai Chí Thọ đã đích thân chỉ huy cuộc hành quân, vây bắt trọn vẹn đàn ông (thanh niên, phụ lão) của hai làng Sống Vinh (Bà Rịa), hai làng do Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập trong kế hoạch khẩn hoang lập ấp của Phan Quang Đán. Họ sợ hãi những nhân vật chìm, những con bài chưa lật tẩy. Thứ đã lật tẩy, đã om sòm tên tuổi cỡ Vũ Hồng Khanh, Hà Thúc Ký, Đặng Văn Sung, Phạm Huy Cơ, đi hay ở, chẳng có gì quan trọng. Vũ Hồng Khanh, kẻ ngang vai vế với Hồ Chí Minh (Ở bối cảnh lịch sử 1946, còn trên cơ là khác), đã lẽo đẽo đi trình diện, đã trả lời câu hỏi “Tai sao ông chống cộng?” của tên thiếu tá quân đội nhân dân như vầy: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống cộng là chết!” Câu trả lời bất hủ nầy phẩm định giá trị chiến đấu của đại lãnh tụ quốc gia. Ông Vũ Hồng Khanh đã già lắm, đáng lẽ, ông đã khước từ trình diện và chỉ chấp thuận trả lời Phạm Văn Đồng, Trương Chinh. Ông đã sợ … chết già. Ông ta ham sống như bọn lãnh tụ già bất tài vô tướng ham sống vậy. Câu trả lời bằng tiếng nói đích thực của Vũ Hồng Khanh đã được truyền thanh khắp nước, ròng rã hàng tháng. Biểu tượng quốc gia bị bêu nhục. Ông giáo Giản 4 đã tiêu diệt các đảng phải quốc gia nhỏ để Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông chiếm đa số ghế trong Quốc Hội bịp 1946. Ông giáo Giản suýt thủ tiêu Nguyễn Mạnh Côn (Việt Nam Phục Quốc Đảng), nếu Nguyễn Tường Tam không kịp can thiệp 5. Nhà lãnh tủ đa sát này đã đứng giữa hoàng hôn giăng giối: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống cộng là chết!” Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Tú (ký giả nhật báo Chính luận, tên thật Nguyễn Ngọc Tú, nhân vật quan trọng của Đại Việt quan lai, từng chấp chính giữ ghế Tổng Giám đốc Nha Thanh Niên thời Tổng Trưởng Nguyễn Văn Kiểu) bị bắt ngay đêm 30-4-75 mà Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng, Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng vẫn đạp xe mini suốt tháng 5-1975, Tự điển người! Ghê gớm thay thủ đoạn cộng sản. Tôi bắt đầu lo ngại cho Thanh Thương Hoàng.
Anh ta đã thức giấc đúng lúc nước sôi buổi chiều vào. Thanh Thương Hoàng pha cà phê mời tôi uống.
– Vụ ấy, mày không nhận là may. Anh em bảo mày OK.
Tôi ngẩn tò te.
– Vụ nào?
Thanh Thương Hoàng cười ruồi:
– Vụ anh em đưa vợ con mày đi.
Tôi nhớ rồi.
– Bị bắt hết. Bị Mai Chí Thọ cài người gài bẫy bắt hết.
– Có chuyến đi?
– Có. Chuyến đi dính lưới toàn bộ.
– Có chiến khu?
– Có. Một nhóm sĩ quan, một nhóm lính. Đang nằm trong tay Quân Báo bên Tô Hiến Thành.
– Sao mày biết?
– Tao không dám ta-pi. Tao từ chối. Một người quen thoát lưới chuyến đi, nhờ hối lộ tên công an Phước Tỉnh hai lạng vàng, cho tao rõ. Mấy hôm sau, người ấy báo cáo thêm cả tổ chức bị sa lưới.
– Không phải là tao không nhận. Vợ tao đau nặng hôm đó.
– Vận may. Đàn bà con nít không nên vào tủ. Họ phải ở ngoài tiếp tế cho bọn mình.
Thanh Thương Hoàng thở dài:
– Bốn phương mù mịt cả. Tổ chức nào cũng dính lưới. Có tổ chức cài người vào Phường, khi bị công an bảo vệ chính trị bắt, Phường trưởng không tin người bị bắt là phản động. Trước hôm mày vô 6C-1, thằng Chín bị đổi phòng. Nó được cài vào huyện đội công an Thủ Đức. Nó chửi Mỹ tổ chức chống cộng rồi xúi cộng sản bắt!
Tôi bỗng nhớ Trương Phiên. Người Mỹ âm mưu gì nữa? Tôi hoàn toàn mù tịt. Vỗ vai Thanh Thương Hoàng, tôi hỏi:
– Mày thận trọng nhé! Tao thấy thằng Trịnh Quốc Tài viết báo cáo có tên mày, Trịnh Viết Thành, Tô Ngọc. Mày dính dáng Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình báo hả?
Thanh Thương Hoàng giật mình:
– Không, không…
Tô Ngọc phục vụ cảnh sát đặc biệt để trốn lính như Y Vân. Trịnh Viết Thành làm báo Quật Cường của Trung ương Tình báo với Anh Quân. Còn Thanh Thương Hoàng chỉ tai tiếng vụ Làng Báo Chí. Anh ta có dính liếu với Trung ương Tình báo hay không, tôi không biết. Nhưng khi tôi nhắc nhở anh ta có tên trong báo cáo của Trịnh Quốc Tài, anh ta rầu rĩ vô cùng. Sáng hôm sau, cai ngục đến 6C-1 trước giờ phát nước sôi. Tên hắn là Sáu, dân Sàigòn, vì bị lé nên tù nhân tặng hắn biệt danh Sáu lé.
– Nguyễn Thanh Chiểu.
– Có
– Mặc quần áo ra làm việc.
Thanh Thương Hoàng vội vàng mặc bộ bà ba vải mỏng, mầu gụ. Anh ta cầm đôi giép Nhựt bước tới cửa phòng. Tù nhân ra làm việc, bất kể làm gì, đều phải ăn mặc tươm tất, đi giép. Đầu tóc có thể rối bù. Râu ria có thể rậm rạp. Quần áo không thể thiếu nghiêm chỉnh. Ở đề lao, hàng tháng, tù nhân được cắt tóc, cạo râu một lần. Tù cắt tóc cho tù. Cai ngục đứng giám sát. Cuối khu C-1, người ta dựng cột lợp tôn làm cái chái. Do đó, phòng 7C-1 thiếu ánh sáng. Tù nhân khu C-1 ra cắt tóc ở cái chái nầy. Buổi sáng một phòng. Buổi chiều một phòng. Ba thợ cắt tóc tù làm việc khẩn trương. Cai ngục mở cửa. Ba tù nhân ra một lượt. Cửa khép chặt, ấn khóa. Không có khăn quàng. Không có dao cạo. Không có kéo. Không có gương. Tông-đơ Trung quốc lưỡi thưa, thứ tông đơ cắt lông ngựa liếm tóc tù nhân. Giáo điều cắt tóc của cách mạng vô sản:
– Cắt dài là thiếu nếp sống văn hóa mới.
– Cắt trọc là chống đối.
Bởi thế, tông-đơ đẩy lưng chừng. Đẩy xong những đường tóc, tông-đơ đẩy râu ria. Tông-đơ chấm bát luôn. Năm phút một cái đầu. Cằm bị chảy máu, mép bị chảy máu, ráng chịu. Tông-đơ nhai tóc, đừng kêu ca. Ba anh này vào, ba anh kia ra. Anh nọ soi gương bằng cách nhìn đầu anh kia. Thấy mình giống quái vật. Cắt tóc xong thì bước vô phòng tắm, dùng khăn khô phủi tóc cho nhau, đợi sáng mai hãy tắm (nếu cắt tóc chiều). Ngủ một đêm với tóc vụn dính mồ hôi có sao. Ngứa thì gãi chung với gãi ghẻ cho tiến bộ, đuổi kịp nếp sống văn hóa mới.
Đầu tóc, râu ria Thanh Thương Hoàng khiếp lắm. Rõ là thằng tù! Sáu lé mở cửa. Hắn khóa lại. Tù nhân đi trước, cai ngục đi sau, đề phòng đánh lén. Cách mạng luôn luôn cảnh giác cao. Sau bữa ăn sáng, Thanh Thương Hoàng trở về. Anh ta mệt mỏi, bỏ cơm. Kẻng tù báo thức giấc trưa, anh ta ra làm việc. Cứ vậy, sự làm việc của Thanh Thương Hoàng kéo dài cả tuần. Trong khi ấy, Chóe, Hồng Dương, Thân Trọng Kỳ, Cao Sơn và tôi chưa bị gọi ra. Một buổi tối, chúng tôi ngồi bên nhau hút thuốc lá, chuyện gẫu. Thanh Thương Hoàng nói :
– Tao đã kết thúc tự khai.
Anh ta kể:
– Tao viết một câu rất hòa giải dân tộc.
Thanh Thương Hoàng đọc:
– “Chúng tôi sẵn sàng bắt tay với các anh xây dựng lại đất nước”.
Hồng Dương dẫy nẩy:
– Hỏng rồi.
Thanh Thương Hoàng vốn phục Hồng Dương thông minh, đọc nhiều. Anh ta hỏi.
– Hỏng sao?
Tôi nhanh miệng đáp:
– Mày bỏ tù nó, mày viết thế là mày cao thượng, quốc gia cao thượng. Nó bỏ tù mày, mày nói thế là mày xấc. Nó sẽ hành mày. Nó ví chúng ta là thú vật. Mày hiểu chưa? Nó đòi cắt đuôi chúng ta để chúng ta làm người. Sức mấy nó chìa tay cho mày bắt. Xấc thì hay đấy nhưng thiếu lô-gích. Thằng nào chấp pháp mày?
– Hai Nghiêm.
– Dân gì?
– Quảng Bình.
– Nó đọc chưa?
– Rồi.
– Phát biểu?
– Tốt.
Hồng Dương lắc đầu. Hôm sau, Thanh Thương Hoàng lại lên làm việc. Lúc về, anh ta uể oải:
– Chúng mày đúng. Nó bảo tay tao chưa sạch tội ác. Tao chuẩn bị vào cachot. Nó bảo vậy.
Thanh Thương Hoàng sửa soạn hành lý. Ngay buổi chiều, anh ta rời phòng 6C-1 vào cachot số 4 của khu C. Thanh Thương Hoàng nằm cachot một tuần thì bị đưa trở lại Sở Công An. Từ đó, tôi mất tin anh. Tháng 9 năm 1981, về đời, tôi biết anh bị lưu đày lên Pleiku cùng chuyến đi với Doãn Quốc Sĩ. Gặp Sĩ, anh nói tác giả Cánh chim mỏi rã rượi lắm. Anh ta rụng hết răng, tê liệt. Người vợ thứ nhất của Thanh Thương Hoàng là con gái của Lê Khải Trạch đã không còn ở với anh từ lâu. Mọi sự nuôi anh trong tù do người vợ thứ hai. Người nầy tiếp tế anh đầy đủ. Nhưng chị ấy đã vượt biên. Người vợ thứ nhất lo việc tiếp tế. Chị ta nghèo, thiếu phương tiện thăm chồng xa xôi. Thanh Thương Hoàng trở thành “con bà phước” ở rừng núi Gia Trung 6. Anh ta hào sảng lắm, ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định. Trên Pleiku có ai hào sảng với anh? Tất cả đã là tù nhân. Tất cả đều là bạn tù. Bạn tù trong danh ngôn nghiệt ngã “Bạn tù, tình nhà thổ”. Khi nỗi khổ kéo dài mòn mỏi, khi sự phú quý đi giật lùi, con người đâm ra bần tiện, chỉ còn biết nghĩ đến mình. Mọi thù hận lẫn nhau phát xuất từ đó. Anh em nguyền rủa lẫn nhau, nói xấu lẫn nhau. Ra khỏi tù, anh em không quên thù hận, vẫn nguyền rủa nhau, nói xấu nhau, gặp nhau không thèm nhìn mặt. Đó là mục đích trong những mục đích của học tập cải tạo tư tưởng!
Chú thích
Đọc Sỏi Đá Ngậm Ngùi, cùng một tác giả, Nam Á Paris xuất bản 1985.
Trong bộ tiểu thuyết Hồn Say Phấn Lạ, tôi khai triển tư tưởng cách mạng Tây Sơn.
Đã đăng trên tạp chí Bách Khoa, tôi quên số và tháng, năm phát hành.
Vũ Hồng Khanh, xuất thân là giáo làng.
Đọc Hồi Ký Nguyễn Mạnh Côn, tạp chí Bách Khoa.
Nghe nói anh đã được tha vào năm 1986.

