CHÉM

aminh

Khu công trình xây đến tầng mười một. Sẽ còn phải xây cao nữa. Thêm hàng tầng, để khu công trình trở thành cao ốc chọc trời, hải đăng của toàn thị trấn. Cuối mỗi tuần, những ông chủ họp bàn. Họ nói rằng cần phải chặt bỏ Xà Cừ. Bốn ông chủ, đều nhất trí với nhau. Đám trợ tá cũng gật theo ông chủ mình. Số người làm, bao gồm cả dân thị trấn biểu quyết 50/50.
Xà Cừ mọc sừng sững, án ngữ ngay trước tòa kiến trúc. Xà cừ cao trên hai mươi mét, sừng sững như cái cột chống trời. Phần thân của xà cừ rộng hơn vòng tay của mười người lớn. Lớp vỏ rắn như bọc thép. Cành Xà Cừ to, nhìn gân guốc và cơ bắp. Các tán cây mọc đan xen, lá cành xum xuê, xòe như cái ô khổng lồ. Không một ai ở thị trấn biết niên tuổi của cây. Chỉ mang máng, nhiều thế hệ đã sinh ra dưới tán cây Xà Cừ. Những bé trai, bé gái trưởng thành theo tháng năm, kết hôn, sinh nở rồi già chết. Xà Cừ vẫn đứng đấy, tại mô đất hoang giờ là khu công trình. Xà Cừ đổ bóng xuống khu công trình và che mát cho những ai đi lại dưới cây. Thị trấn này, chỉ có một cây xà cừ. Cây nảy mầm, bám rễ vào đất mẹ và uống mưa gió để ngày một vạm vỡ. Từng có những cành Xà Cừ vươn dài, và đổ bóng che cho những cây con đứng lẻ loi khỏi nắng mặt trời. Số cây nhỏ, lớn lên, vươn cao rồi già, chết khô. Mùa mưa, rồi bão nhiều cành Xà Cừ bị táp gãy. Những đợt bão quá mạnh, và dai dẳng từng ngày làm nhiều cây cao bị bật rễ hoặc gẫy đổ. Xà Cừ cũng nghiêng ngả trong bão, phần lớn cành gãy lìa, lá cây đổ rạp, bay tứ tung trong trận gió. Từng có trận mưa bão đủ lớn để một phần rễ Xà Cừ bị bật lên. Nhưng rồi, cây vẫn đứng vững. Phần cành lá bị gẫy trụi được tái sinh sau nhiều tháng, năm. Phần rễ bị bật được người thị trấn xén đi vừa đủ khi thấy phần rễ mới mọc và bắt đầu ăn xuống đất. Xà Cừ, là người già nhất trong cái thị trấn. Cao niên hơn mọi cây cối, mọi bia mộ phủ rêu xanh và còn trai tráng hơn mọi trai tráng tuổi mười bảy. Giờ đây, Xà Cừ đứng chắn trước khu công trình. Đấy sẽ là một trở ngại, đối với một những dự án vốn đã được kí. Tại đây, trong khu công trình đồ sộ nhiều tầng, nhiều phòng ban, nhiều hàng hóa và hệ thống máy móc…Phần lớn người thị trấn đã có việc làm và thừa thãi về chi tiêu. Bốn ông thầu, ở bốn phương hùn vốn để xây khu công trình này. Số máy móc, vật tư và chẳng gì mong đợi hơn việc thị trấn heo hút này sẽ sáng mãi ánh điện thành phố. Cây Xà Cừ, sừng sững như cái cột chống và cao hơn mười một tầng nhà xây dở. Cây, chẳng phải mối đe dọa về việc cành lá sẽ vươn dài, đâm hỏng cửa kính hay chui vào một phòng ban, hoặc, cũng khó để lo ngại một cái cành quá lớn chợt rơi và gây thiệt hại. Nơi Xà Cừ đứng cách khu công trình năm mươi mét. Nhiều cành xà cừ đã từng rơi gẫy nhưng chưa ai bị thương. Theo như lời bốn ông chủ thì đã án ngữ nơi cửa ngõ chính. Phần đất từ khu công trình đến Xà Cừ thừa đủ để xây thêm công trình, nhà để xe hay đài phun nước hình rồng.
Các ông chủ đã quyết chặt bỏ cây. Họ sẵn sàng rút khỏi thị trấn nếu cây còn, và làm ngáng trở việc hoàn thiện khu công trình. Mấy người sống lâu nhất ở thị trấn, lắc. Còn con, cháu họ thì gật. Những người đấy đã quen dần với hơi máy điều hòa, nhà cửa kính ba tầng, thang máy, bia lạnh và tương tư những chuyến du lịch dài ngay. Xà Cừ vẫn đứng đấy, bóng cây tỏa rộng cả một vùng lớn thị trấn. Bộ rễ lớn ngày một gồ ghề. Phần bệ xây đã bị bộ rễ sinh sau đập nứt. Bốn ông chủ ngày ngày đứng ở cửa sổ khu công trình. Họ nhìn Xà Cừ, rồi cau mày. Cái cây hẳn sẽ còn sinh trưởng, cao lớn nữa. Theo lời bốn người, thì “Cửa chính, nơi hướng gió không thể có vật cản.” Cũng theo lời ho, một lần nữa “Già, hoặc chết hoặc là thành tinh.” Thế rồi, Xà Cừ đã vào dự án chặt bỏ. Nhiều thợ được mời đến.
Vỏ Xà Cừ rắn hơn mọi cưa máy. Năm, sáu cái cưa chém vào nhưng chỉ làm nứt vỏ. Phần thân vẫn được bảo vệ. Người thị trấn đứng xem. Số ít, tặc lưỡi tiếc. Số ít nữa, nghĩ ngợi về một công trình hoàn thiện. Một số ít khác thì can mấy người thợ, bằng lời. Cả buổi, cũng không cưa sâu được vào lớp vỏ. Lúc có gió, những tán cây vỗ ào ào tưởng như là trời mưa. Bốn ông chủ, tạm gián đoạn mọi công việc để thị sát việc chặt cây. Tiếng cưa, rồi rìu, búa đục ầm ầm cả ngày. Số cành lớn, từng che mát cho người thị trấn được chặt bỏ. Xà Cừ quá cao, nên phải dùng đến xe cần cẩu. Nhưng ngay cả loại cần cẩu lớn nhất, cũng không thể vươn lên trên ngọn Xà Cừ. Cần thiết phải húc đổ Xà Cừ. Tấm bảng với hàng chữ “Vì khu công trình vĩ mô của toàn thị trấn” đã giải nghĩa mọi thắc mắc của người trong trấn.
Họ chặt bỏ những cành lá ở gần. Một xe cành, rồi lá Xà Cừ. Rồi lại thêm một xe, cành và lá Xà Cừ. Nắng mặt trời đổ, nướng cháy từng cái mũ bảo hiểm. Người thị trấn chỉ đứng ngoài. Bốn ông chủ, vẫn đứng trên khu công trình. Người đứng, người ngồi ghế, có người hút thuốc, nhờ trợ lý đấm lưng.
Những cành lớn, xòe rộng như đuôi công bị vặt trụi, cứa đứt và thành dĩ vãng. Lá rơi xanh rì cả con đường nối vào khu công trình. Mặt gỗ Xà Cừ vẫn rất rắn. Những bộ cưa máy gãy lưỡi, vỡ thép. Cây rìu bổ vào Xà Cừ gãy cả cán. Phần thân bên trong vẫn chưa bị cắt vào. Lớp vỏ đen, sần sùi như da cóc nhưng rắn như vỏ xe tăng. Ngày đầu tiên, phần lớn cành Xà Cừ bị ngắt cụt. Những cành, nhiều nhánh với lá xanh xum xuê mọc vắt nhau vốn tạo thành cây nấm giờ đã loang lổ, hoang tàn như mùa Đông tàn bạo nhất đang thống trị. Hết ngày, người thị trấn về nhà ngủ, bằng lòng với tiền lương ứng trước.
Mấy hôm sau. Người thị trấn lo lắng hơn vì khu công trình chưa hoạt động lại. Nhiều người ngồi nhà, la cà quán rượu hoặc ngủ một mạch đến sáng. Xà Cừ còn đấy. Mất hết cành, lá nên một trận nắng to là khiến cả thị trấn sáng rực. Khu công trình mười một tầng dang dở cao ngút. Xà Cừ sừng sững hơn mười một tầng nhà. Trước khu công trình, là Xà Cừ và trước Xà Cừ là khu công trình. Từ tảng sáng, toàn thị trấn đã ồn ào bởi tiếng máy khoan. Vị trí từ khu công trình. Một máy khoan lớn, ba người khiêng đang ấn mũi nhọn vào thân Xà Cừ. Đầu khoan dài, nhọn quay vun vút nhằm đâm thủng vỏ Xà Cừ. Mấy người thợ vã mồ hôi. Mũi khoan vẫn đâm vào một điểm, rồi xoáy vun vút. Đến trưa, thì một đoạn nhỏ của máy khoan đã xuyên được vào thân cây. Tiếng vỏ cây vỡ rôm rốp như xương sọ. Từ phần vỏ bị xuyên thủng, một dòng nước rỉ ra và bắn toé. Thứ nước màu trắng, hẳn là nhựa cây. Một mùi thoang thoảng toát ra từ thứ nhựa màu trong vắt. Toán thợ rút đầu mũi khoan ra. Dòng nhựa xối mạnh. Thứ mùi hương nhẹ, không quá đậm đà và chẳng phớt nhẹ như hương hoa bám trong gió. Chẳng mang vị ngọt của đường, mật ong cũng không chua như quả mận cắn đôi. Chẳng giống mùi rơm cháy, mùi mưa phùn phả xuống mặt gỗ. Chỉ một lượng hương vừa đủ ngái, và đám người ngây ngây. Dòng nước trắng rỉ từ vết đâm trên thân Xà Cừ và chảy xuống gốc. Mùi của nhựa vẫn toát ra, và dậy lên đều đều. Đám thợ, rồi những người dân đứng quanh đó bước lại gần Xà Cừ. Ai ở quá xa cũng vì ngửi thấy mùi hương mà chạy đến. Hít ngửi bằng mũi, rồi chợt chép miệng. Người bạo dạn nhất đã quệt ngón tay vào nhựa. Chẳng dính. Thậm chí, thứ nước trắng còn chảy vuột đi rất mau. Cũng ngón tay dính nhựa, người đấy ngậm lên miệng. Ngón tay ở mãi trong miệng, và tiếng mút chùn chụt kéo liên hồi. Mấy người khác cũng nếm thứ nước của Xà Cừ. Họ hứng bằng ngón tay, rồi ngậm trong miệng và mút. Một giọt nước mắt rỉ ra, chỉ một bên mắt. Đám thợ quỳ xuống, hứng nhựa Xà Cừ và xoa lên mặt. Có người hứng vào lòng bàn tay và cũng vuốt lên mặt, lên tai, chà lên tóc và khắp thân mình cho đến khi nước cây ngấm biến. Cái cưa máy bị bỏ xó. Một ông già đã về nhà, lấy một tấm lụa vàng và căng ra, cuốn quanh vết thương Xà Cừ.
Bốn ông chủ, đã xuống đến tầng một. Không một gương mặt nào tỏ vẻ dễ gần. Từng người hô hoán, rồi nhéo tai toán thợ. Có người bị tát tai và nằm còng queo dưới gốc Xà Cừ. Người thị trấn đến ngày một đông. Họ cố nói, để việc chặt bỏ cây gián đoạn vĩnh viễn. Tiếng “Không” từ bốn cái miệng phát ra, lặp lại và tiếp tục lặp lại không tạo thành tấm gỗ lớn để chặn dòng lũ xiết chảy. Một trong bốn người rút ra một khẩu súng và bắn chỉ thiên. Tiếng đạn nổ như bàn tay thép bít chặt tiếng nói của đám người. Ba người còn lại bảo rằng “Cây đã vào dự án, và tất cả các người đều đồng ý, dù chưa chính thức.” Nòng súng còn tỏa khói. Họng súng chỉ vào ai, người đấy liền run rẩy. Tay ủy ban của thị trấn chạy lại phía bốn ông chủ. Tên cầm súng bóp cò. Ba người còn lại sờ tay vào túi quần, túi áo vét và sờ soạng. Hẳn họ cũng có súng. Chẳng một ai rút súng, chỉ mò mẫm, sục sạo tay vào túi. Tấm lụa vàng bị xé đôi. Dòng nhựa còn đấy. Tên chủ cầm súng bắn vào phần thân đục. Nhựa xối ra. Ông ta cũng nếm nhựa, và nhổ phì vào chính thân Xà Cừ.
“Đừng hạ mình bằng con bọ hung háu cứt.”
Tiếng súng nổ, chỉ thiên.
“Muốn ánh sáng, phải giết bóng tối. Cách mạng đẻ ra văn minh.”
Tiếng súng nổ liên tục, rồi cò súng lách cách, hết đạn. Thân Xà Cừ nứt toác, nhựa chảy ộc ra.
Toán thợ bật lại máy khoan. Người thị trấn đứng lùi ra. Không một tiếng nói. Chỉ tiếng mũi khoan đâm vào thân Xà Cừ. Bốn ông chủ vẫn đứng đấy. Người cầm súng đang lau nòng, và thay ổ đạn mới. Thế rồi, cũng hết chiều và trời tối đi. Đến hôm sau, cũng tinh mơ, hai xe tải chạy vào thị trấn. Trong xe, một toán thợ khác bước ra. Người ta thấy cả mấy ông trung niên, diện vét. Nghe đâu người trên thành phố, và cũng là người quen của khu công trình. Vết thủng trên thân Xà Cừ đã sâu hoắm. Toán thợ mới, gồm mười bốn người được trang bị áo quần bảo hộ và mặt nạ chống độc. Trông họ chẳng to khỏe hơn mấy người thợ cũ nhưng động tác dứt khoát và chuyên nghiệp hơn. Những cái máy cưa cắt vào Xà Cừ, bắt đầu từ vị trí lỗ thủng. Mặt gỗ vẫn còn rất chắc nên phải cưa cắt lâu dài. Bốn người chủ, đã rút lên tầng trên, và vẫn giám sát mọi công đoạn. Đến trưa, toán thợ lấy xẻng đào quanh gốc Xà Cừ. Mấy người ở thị trấn đều có mặt, và đứng ngoài. Đã có một hàng rào sắt bao quanh Xà Cừ, với lí do để cách li người dân khi cây đổ. Độ vài tiếng, một số cán bộ trên ủy ban thị trấn đi xuống và đứng trước làn hàng rào. Mấy cụ già, bảo về việc dừng chặt Xà Cừ.
“Xà Cừ là nền tảng thị trấn này, hãy để yên.”
“Già thì phải chết, già quá thì sẽ thành ma, thành quỷ. Cứ chặt.”
“Đập bỏ cái cũ, khai sáng văn minh.”
Tiếng hô hoán, hò reo. Những biểu ngữ, băng rông giăng chằng chịt, bo quanh nơi chặt Xà Cừ.
Tiếng xẻng đào. Từng ngày, từng ngày. Người ta nói đừng đào gốc. Thợ vẫn đào. Bốn ông chủ theo dõi bằng ống nhòm. Rồi, toán thợ đào tiếp. Một hố lớn, như nấm mộ người khổng lồ. Phần rễ lớn của Xà Cừ lộ ra. Cái bộ rễ vẫn còn tươi mùi đất. Phân nhánh rễ mọc dài, chùm bao quát như bộ râu vĩ đại bốn nghìn tuổi. Toán thợ xách ra một cái can, rồi mở nắp. Một mùi nồng nặc khiến những ai không mang mặt nạ chống độc phải ói mửa. Người thị trấn dù đứng ở xa, vẫn thấy rát họng. Không ai đứng vững, ôm cổ, rồi nôn khan. Mấy cán bộ thị trấn bịt mũi, vẫn ói mửa. Thứ mùi trong can như cái miệng không ngừng ngoác rộng, táp hết mùi Xà Cừ. Chẳng có gió, và mùi trong can mạnh hơn cả trận bão. Lúc can dốc ra, thứ nước cũng màu trắng nhưng đặc sệt đổ xuống. Có khói bốc lên từ hố lớn. Rồi, một lúc lâu, từ dưới rễ Xà Cừ dâng lên một mùi cũng nồng nặc không kém. Thứ mùi tanh, sền sệt như hắc ín. Hai loại mùi trộn vào nhau, cùng cắn xé và đẻ rớt thành thứ mùi hỗn độn, tạo thành khí đỏ, đặc, cuồn cuộn như ngọn lửa xé xác nhà thờ.
Ngày qua ngày, toán thợ đổ thứ hóa chất xuống rễ cây. Khí đỏ dày đặc, tỏa cả trong gió và phủ quanh thị trấn như sương mù. Ba ngày, mùi nhạt đi, rồi tan. Vị tanh vẫn bao trùm. Từng người nhìn tay, chân, và sờ tay, chân, đầu. Tất cả đều nguyên vẹn. Họ sờ lên miệng, và lau, và chẳng thấy gì. Cưa máy tiếp tục. Lưỡi thép bổ sâu vào thân. Phần vỏ đen như khuôn mặt người già nổ toác. Không còn nhựa trắng. Bốn ông chủ còn trên khu công trình. Người thị trấn tập trung ở góc nhỏ bên lề. Họ chỉ còn góc đường này. Phần đất đứng rộng hơn được phong tỏa bởi những công an, trật tự ủy ban trấn. Một lớp hàng rào sắt, rồi bàn, ghế được dựng chắn. Người già khấn vái, đốt hương và buộc khăn trắng. Một số khác tự tách ra, vào trong khu công trình, cầm biểu ngữ và phất cao. Máy cưa phá gỗ rầm rầm. Mười cái mặt nạ chống độc vẫn bấu chặt đầu mười bốn người thợ. Người cưa ở dưới, người trên cần cẩu, đều đeo mặt nạ. Nhìn họ như bầy châu chấu đột biến hình người.
“Cây đổ! Tránh ra.” – Tiếng hô lớn. Người người đứng rạt.
“Đổ rồi!” – Tiếng hô to hơn. Bốn ông chủ vươn cao người khỏi lan can và ngó bốn đầu xuống.
“Khu công trình sẽ cao hơn, cao hơn, hơn nữa…” – Tiếng rổn rảng.
Xà Cừ nghiêng ngả. Chưa hoàn toàn đổ. Toán thợ đạp lên thân. Rồi một toán người khác, cũng đạp, đẩy tay để cây nhanh đổ. Tiếng hò dô ta. Tiếng súng nổ, chỉ thiên. Tiếng hò dô ta tiếp tục. Người bên ngoài chưa thể vào khu công trình. Hàng rào thép còn đó. Các cán bộ, công an ủy ban đứng ưỡn người, và che hết tầm nhìn. Người xông vào, người ngăn lại. Bàn ghế đổ nhào, hàng rào sắt ngả chệnh một bên. Tiếng toét còi. Tiếng dùi cui bổ xương. Một cuộc xô xát cuốn bụi mù. Lại tiếng súng bắn, chỉ cây. Súng nã từng viên. Một người trong đám, không rõ phe nào chợt ngã dính xuống đất. Dường như đạn lạc.
Xà Cừ bật gốc. Bóng cây, giờ chỉ theo đường thẳng như ngọn tháp đổ, chém ngược xuống khu công trình mười một tầng dang dở…

Á Minh

Advertisement

Những Bình Minh

aminh

Ngày xửa ngày xưa…

Mọi câu chuyện đều sinh ra từ dòng chữ này.

Ngày xửa ngày xưa…Làng tôi thờ Phượng Hoàng. Ngày nay, làng tôi thờ Phượng Hoàng. Làng tôi là làng Phượng Hoàng.

Chuyện kể rằng, làng tôi từ xưa bị bao phủ bởi đám mây nghìn năm tuổi. Ngày cũng như đêm, đều một màu om om. Một ngày, Phượng Hoàng từ phương xa bay tới, kịch chiến và xé tan đám mây ma. Một số người kể rằng nguyên hình của đám mây là một con rắn khổng lồ. Phượng Hoàng đã bắt rắn. Rồi thì, Phượng Hoàng nhổ lông để hóa phép xây nhà, Phượng Hoàng đuổi thổ phỉ hay Phượng Hoàng…Đại loại là làng tôi từng chịu ơn Phượng Hoàng nhiều năm về trước.

Tượng Phượng Hoàng dựng chính giữa làng. Nơi đây là đường đất, cũng là con đường lớn của làng. Không ai biết người đã tạc ra tượng Phượng Hoàng. Tảng đá dùng để tạc hình Phượng, là nơi Phượng Hoàng đã bay đến. Quanh con đường có nhiều cây dại. Những cây cao quá, cỡ đại thụ đều bị chặt. Những cây tầm vóc vừa vừa, cỡ cây khế ba năm tuổi cũng đều bị đốn. Ngay đến những cây cao quá một mét cũng không được giữ. Nhờ thế đường cái rộng hơn. Dù còn lầy lội, nhiều lúc bị vấp, chảy máu chân vì những hòn đá cạnh sắc.

Tượng Phượng Hoàng cao hơn một mét. Phượng Hoàng đứng khép cánh, dân làng kể nếu cánh Phượng mở ra, ngài sẽ bay mất. Cổ cao, giống với loài Hạc, mỏ Phượng Hoàng khép và cái đầu nghếch lên trời. Phượng Hoàng đứng trên một bệ đá. Cái bệ chẳng cao lắm nhưng khiến Phượng Hoàng cao hơn. Đôi chân Phượng Hoàng duỗi thẳng, theo thế đứng. Tôi đếm được năm móng chân vuốt sắc. Bốn hướng ra ngoài, ngón cuối cùng, to nhất thì quặp ở sau. Đuôi Phượng trải xuống, quét đất. Bức tượng được tạc đã lâu nên nhiều lớp đã bị nứt, bị rêu phủ và xạm đen. Nếu ai túc trực ở đường cái, sẽ còn có thể nhìn thấy mặt trời mọc và lặn theo hướng nhìn của Phượng Hoàng. Chính Ngọ, lúc mặt trời đã ngự trên ghế vua và nắm mọi quyền bính. Lửa nắng phả xuống và dát lên tượng Phượng Hoàng. Đầu Phượng Hoàng chỉ lên mặt trời, cái mỏ được tạc nhọn như mũi tên Hậu Nghệ. Nếu là mùa hè, những ngày trưa bốn mươi độ sờ vào mặt tượng còn thấy bỏng tay. Mẹ tôi kể, vào một mùa hè, có người đã bốc cháy trước tượng. Người đấy không cứu được, vì vừa bị cháy, lại thiếu nước trong hàng tiếng đồng hồ nằm ngất ngoài đường cái. Những lúc Phượng Hoàng tắm gội trong nắng mặt trời thì chẳng ai đến gần được. Lúc nắng dịu và tan chảy vào lòng đỏ mặt trời thì Phượng Hoàng cũng trở nên hiền hòa. Dân làng có thể đến gần tượng, khấn vái, thắp hương, khách thập phương có thể chụp ảnh hay vẽ truyền thần.

Như mọi đứa trẻ con trong làng, em trai tôi mỗi lúc đi ngủ đều được nghe kể chuyện. Mẹ tôi kể. Mẹ đi vắng, thì tôi kể. Luôn là chuyện về Phượng Hoàng. Câu chuyện truyền thống mà mỗi người dân trong làng đều phải nằm lòng là về Phượng Hoàng đuổi mây đen. Tôi thắc mắc rằng liệu em tôi có nằm mơ thấy Phượng Hoàng không. Tôi không hỏi. Em tôi cũng chẳng kể. Tôi vẫn nằm mơ thấy được Phượng Hoàng chở trên lưng. Một Phượng Hoàng thứ thiệt, có thể vỗ cánh bay. Đấy là giấc mơ thời trẻ con. Giờ, tôi lớn hơn và chẳng bao giờ mơ thấy Phượng Hoàng. Vài người đã ước được một lần nhìn thấy Phượng Hoàng. Một số đã rời làng để tìm kiếm Phượng Hoàng. Số khác thì vẫn ở lại làng, ngày ngày qua lại chỗ bức tượng để cầu khấn mong một ngày được mãn nhãn. Mẹ tôi cũng mong được nhìn thấy Phượng Hoàng. Tôi không mong lắm, nhưng nếu ngày nào đấy Phượng Hoàng có bay qua làng, tôi sẽ là người đầu tiên nhìn lên trời.

Người làng vẽ hình Phượng Hoàng vào mỗi dịp tết, lễ hội để treo bán. Quanh làng không thiếu những chỗ bày bán tượng phượng Hoàng đẽo bằng gỗ, rèn bằng sắt, tạc trên bình gốm, mặt dây chuyền, vòng, nhẫn. Mọi hình ảnh đều trong một khuôn đúc. Phượng Hoàng khép cánh và ngẩng cao đầu. Mỗi người trong làng đều có một bức tranh Phượng Hoàng trong nhà. Ai sùng tín sẽ nhờ thợ đúc tượng để thờ. Nhà tôi cũng có tranh Phượng Hoàng. Bức vẽ đã gần trăm năm, tính từ đời ông đến đời cha và tôi. Bởi đã lâu, nên tranh nhiều chỗ rách, mờ màu. Nhà tôi không thay tranh mới. Phần vì đây là bức tranh có tuổi. Phần khác do bức tranh treo trong phòng thờ, ít nhiều có linh khí. Nghe mẹ kể thì sau khi mua tranh, ông tôi đã đến tượng Phượng Hoàng để khấn vái.

“Tại sao Phượng Hoàng không tung cánh.”

“Phượng Hoàng sẽ bay đi.”

“Phượng Hoàng vốn bay đi rồi.”

“Ngài sẽ quay lại làng.”

Vài người trong làng nói rằng mình đã thấy Phượng Hoàng. Đều là nói phét và chẳng ai tin. Cũng chẳng biết ai trong số những người đã bỏ làng đi đã thấy Phượng Hoàng. Chắc là không. Các câu chuyện cổ ghi rằng Phượng Hoàng bay về phương Bắc, bay thẳng lên trời, biến mất trên trời hoặc bay vòng vèo rồi biến mất, cũng trên trời. Khó để biết phương trời Phượng Hoàng đã bay đến. Ngày, tháng, năm cứ thế trôi và đóng dày thành nhiều mộ bia. Lúc các chứng tích bị thời gian phủ bụi, cạy xóa thì cũng là lúc các dị bản ra đời. Càng về sau, tôi càng được nghe nhiều chuyện về Phượng Hoàng. Trong câu chuyện Phượng Hoàng đuổi mây đen, ngoài việc đám mấy phát tích ra con rắn lớn tôi còn được nghe về một trận đại dịch màu đen, bầy quỷ từ địa ngục…Còn có người nói Phượng Hoàng đã chết trong trận đánh với đám mây đen. Nơi dựng tượng là nơi Phượng Hoàng ngã xuống. Cái dị bản này đã được kéo dài thêm bằng một dị bản khác rằng “Phượng Hoàng bị thương, máu ngài đổ xuống bãi đá găm, tạo thành đường cái. Sau đấy Phượng Hoàng bay về trời. Nơi ngài bay lên, người dân tạc tượng để nhớ ơn…”
Nếu nhìn thấy Phượng Hoàng, chết không đọa Địa Ngục. Máu Phượng Hoàng mang đến bất tử- Tôi nghe kể lại thế. Từng có vua chúa muốn săn lấy Phượng Hoàng. Những đế vương muốn hóa rồng bằng máu Phượng. Rồi, từng người một già nua và chết trong bệnh tật. Làng tôi từng có người mong được nếm thử máu Phượng Hoàng. Gã nói “Chỉ cần nửa giọt dính vào lưỡi, thế thôi.” Chẳng ai tán đồng và đã đấm vào mặt, đá đít gã khỏi làng. Tôi chẳng chắc còn có thêm ai nghĩ như gã hồ đồ đấy không. Nhưng Phượng Hoàng. Đấy vẫn là nguồn sống của làng tôi. Một ông cụ làng tôi, lúc chết đã không nhắm được mắt vì vẫn chưa được thấy Phượng Hoàng. Nhiều người, vẫn trằn trọc ngày đêm mong được thấy Phượng Hoàng. Cuối làng, có một thầy giáo dạy vẽ. Ông ấy cũng là người mê mẩn Phượng Hoàng. Vẽ rất nhiều tranh Phượng Hoàng. Vẽ trên giấy, trên vải, lên tường, mặt bàn, tủ gụ, cánh cửa, tự xăm vẽ lên thân mình…Người ta kháo rằng ông ấy có hơn một nghìn bức tranh vẽ Phượng. Bức vẽ Phượng Hoàng khép cánh như bức tượng ở đường cái, hay một hình xòe cánh, cưỡi mây, bay trong cơn gió. Người thầy giáo đấy đã hóa điên. Bởi ông ta đã canh ở đường cái một tháng trời. Không ăn không ngủ, và chỉ có cây bút và xấp giấy mang theo. Hồ như, ông ấy muốn bắt bằng được thời khắc tượng chuyển mình. Chẳng nghe ai khuyên bảo, người thầy cứ ngồi trước tượng. Không ăn, không uống. Sáng sớm, người làng thấy ông liếm sương trên mỗi chiếc lá. Có người bảo ông còn hớp nắng sớm, nuốt gió để lấy sức. Sau một đêm dông, chẳng ai nhận ra ông ấy. Tóc ông xổ dài chạm đất, những sợi mỏng, xám bệch. Mặt người thầy teo tóp và khô khốc như vỏ cây. Hai hàm răng người thầy đánh vào nhau và ăn nghiến như cánh cổng chốt nhiều lớp. Chỉ hai bờ môi bập ra bập vào. Trong đêm tối, người làng thấy ông thầy ôm đầu, chạy tứ tung. “…À…” – Chỉ một tiếng đấy. Tiếng khá to, như hơi nén trong chai đột ngột mở nút. Người làng vốn đang tản mác liền được đánh động. Tất cả đi về nơi vang ra tiếng người. Người thầy biến mất. Tôi hỏi mấy người già và gom về một mớ các câu trả lời. Bị mây đen bắt, thấy tiếng không thấy người, rơi xuống vực, ngã xuống giếng, ngã xuống sông, chạy sang làng bên, Phượng Hoàng đã chở đi…Nhiều người bảo tôi rằng họ không biết. Mẹ tôi không có mặt trong đội tìm kiếm. Có người bảo đã thấy bà. Mẹ nói, chỉ đi ngó qua vì hiếu kì, và tôi tin.

Mẹ luôn kể cho tôi về Phượng Hoàng. Ngày bé, Phượng Hoàng dỗ tôi ngủ đêm. Lúc lớn hơn, tôi vẫn được nghe chuyện. Tôi thuộc làu rồi. Nhiều năm sau mỗi buổi tối tôi kể chuyện Phượng Hoàng cho mẹ nhưng không hẳn chỉ cho mẹ. Ngày ấy, mẹ mang bầu. Cha tôi đã bỏ nhà đi khi tôi mười tháng tuổi. Ông đi tìm Phượng Hoàng. Vậy là ông đã về. Rồi lại đi ngay. Những dèm pha chẳng nghĩa lý gì khi ngày ngày mẹ vẫn đến đường cái. Cúng vái Phượng Hoàng thật lâu, và từng ngày một. Ngày mẹ trở dạ, bà đã trốn khỏi viện xá và hạ sinh em tôi ở đường cái. Tượng Phượng Hoàng thành bà đỡ. Em tôi chào đời dưới chân tượng và được tắm nắng mặt trời. Mẹ tôi bồng em. Người làng tôi đã đưa mẹ và em về nhà, và chăm sóc, cho sữa, cho đường. Không còn ai độc miệng với đứa em đã chào đời của tôi. Họ bảo mẹ đẻ được Phượng con.

Em tôi chẳng phải truyền nhân của Phượng Hoàng.

“Phượng Hoàng không có mắt.”

“Có chứ!”

“Không thấy tròng mắt.”

“Một mắt mặt trời, một mắt mặt trăng.”

“Mắt nào là trời? Mắt nào là trăng?”

“Một mắt mặt trời, một mắt mặt trăng.”

“Mặt trăng bên nào? Mặt trời bên nào?”

“Một mắt mặt trời, một mắt mặt trăng.”

“Mặt trăng màu gì? Mặt trời màu chi?”

Đường cái. Tượng Phượng Hoàng khép cánh.

Những tháng hè nắng đổ lửa, tượng luôn nóng hôi hổi. Đông đến, đường cái hun hút gió, Phượng Hoàng vẫn ngạo nghễ đứng. Bốn bề tượng lúc đấy lạnh băng. Người làng bảo rằng “Ban ngày Phượng Hoàng sưởi nắng mặt trời, đêm hong mình dưới trăng.” Mỏ Phượng luôn nghếch lên, chỉ trời và chỉ trăng. Người dân xếp hàng khấn vái. Lúc đông, lúc vắng, khi chen chúc, lúc xô đẩy, ngã lăn lộn, rồi về cả. Chỉ mình tôi đứng lại. Ngửa cổ nhìn lên. Đã bao năm trôi qua rồi. Tượng Phượng Hoàng đứng khép cánh nghểnh cổ. Nhiều lớp tượng đã phủ rêu xanh. Đôi chỗ đen nhọ vì bụi bặm và khói hương. Những cơn mưa dềnh mặt ruộng, ngập đến cổ chân không rửa trôi hết được những uế tạp trên mình Phượng Hoàng. Bởi thời gian, dù là đá hoa cương cũng sẽ bị bào hóa. Đi vòng quanh tượng, thấy nhiều mẩu lông đã ram ráp, mòn đi hoặc rụng, vỡ. Mắt Phượng Hoàng chẳng có tròng. Chỉ một màu tượng đá, do người tạc. Màu mắt nào thì hợp với Phượng Hoàng đây. Tranh về Phượng Hoàng, đều bỏ trống màu mắt. Chẳng màu, cũng chẳng tròng. Người thầy giáo điên, trước đó vẽ nhiều về Phượng Hoàng, hẳn từng điểm mắt.

Ngoài số tranh vẽ biếu, bán hay treo trong trường thì chẳng còn bức nào. Một trận hỏa hoạn cuối năm nọ đã thiêu trụi cái nhà cấp bốn của ông thầy. Tranh trong nhà thành tro. Số tranh khác thì Phượng Hoàng chưa được chấm màu mắt. Mắt để trống, như bức tranh truyền thống về Phượng Hoàng được vẽ lại từ bức tượng tạc lại trong huyền thoại xửa xưa.

Tôi mở sách. Kể cho em tôi về chuyện Phượng Hoàng.

Hết chuyện. Em tôi ngủ, nhưng vẫn chưa ngủ.

“Ngày mai lớp em có tiết kiểm tra họa. Vẽ tại lớp. Vẽ gì hả anh? Đề tự do.” – Em tôi nói.

“Thích gì vẽ nấy.” – Tôi bảo.

“Nhưng vẽ gì bây giờ.”

“Vẽ Phượng Hoàng.” – Tôi bảo. Buột miệng.

Tôi vờ ngáy. Em tôi hỏi thêm một hai câu. Rồi cũng ngủ. Chẳng biết nó có thật sự ngủ chưa vì chốc lát lại trở mình. Chăn của tôi bị nó kéo hết.

Đường cái. Tượng Phượng Hoàng khép cánh. Mặt trời từ từ ngoi lên. Mỏ Phượng Hoàng khép nhọn như kim chỉ Nam nhích lên mặt trời.

Người làng ra đồng. Họ đi qua tượng. Ai cũng khấn, mong đến một mùa bội thu.

Cũng ở đường cái. Một người lạ mặt đi lòng vòng nửa ngày trời. Ông ta trạc ngũ tuần. Râu ria xồm xoàm. Ăn mặc theo kiểu thầy cúng. Vai khoác theo một cái túi vải thổ cẩm. Một khách thập phương. Làng tôi nào có cấm khách thăm thú.

“Sẽ được thấy Phượng Hoàng.” – Đó là lời kháo nhau. Tin lan khắp làng chưa đến nửa ngày. Dân làng tôi. Từ trưởng làng, các trưởng họ, người làm ruộng, kẻ mở cửa hàng, ông chủ cho thuê đất, thợ làm thuê, người làm cán bộ trên xã, thầy giáo, bọn học sinh, các cụ ông cụ bà tuổi thượng tuế…Đều nhao nhác. Nghe đâu đến bọn trẻ con mới sinh hoặc còn trong bụng mẹ, thành hình hoặc chưa thành hình đều biết chuyện. Họ nói với nhau. Dò hỏi. Rồi tìm đến vị pháp sư.

Nghe kể xong về giai thoại Phượng Hoàng. Ông thầy xem tượng, nói “Tượng bao nhiêu năm tuổi.”

“Lâu rồi.”

“Cụ thể?”

“Chẳng biết. Lúc đẻ ra là thấy rồi.”

“Được trăm năm không?”

“Hay vài trăm năm?”

“Chả rõ, từ ngày xửa ngày xưa.”

“Chắc chẳng đến một nghìn năm. Trăm tuổi là có linh khí rồi.”

Dân làng tôi nhao nhao. Ai cũng rạng rỡ. Người đến ngày một đông. Đường cái chật cứng người.

Trưởng làng phải cho người dàn xếp hàng lối. Bảo rằng bà con không được làm loạn. Mấy cụ già ốm yếu chẳng ngại trời trở gió vì rằng chỉ cần nhìn thấy Phượng Hoàng thì chết ngay cũng được. Ông thầy cần lộ phí. Dân làng chấp thuận. Ông thầy lại nói, tay bấm bấm “Bắc phương vị…”

Đánh chén xong, ông thầy làm lễ. Ngay ở đường cái. Chính nơi đặt tượng.

Dân làng đứng đông, tạo thành nhiều hàng dài. Ai cũng háo hức. Chẳng ai chịu im lặng. Người nào người nấy nói lớn tướng. Có người cười. Tôi đứng cùng em mình. Mẹ tôi ở hàng sau. Có người mang giấy bút để phác lại cảnh có một không hai. Lúc đấy đã chiều muộn. Mặt trời nhạt màu, chầm chậm trượt xuống. Một giấc băng hà ngắn sẽ bắt đầu và trăng lên thiết triều.

Tượng Phượng Hoàng vẫn khép cánh. Đầu nhướn cao. Chốc nữa, Phượng Hoàng thật sự sẽ bay đến và đứng trên tượng? Hay bay quanh làng? Không khéo đến ngày hôm sau dân làng tôi có thể nhìn xa ngàn dặm.

Ông thầy đóng năm cọc tre quanh tượng Phượng Hoàng. Những cánh sao thành hình và đổ ngược hằn trên mặt đất. Ông thầy vẽ bằng ngón út để móng dài. Một số cốc, bình, mấy nén hương được lấy từ cái túi thổ cẩm. Cốc, bình úp hết xuống đất. Đáy các cốc, bình được đục các lỗ nhỏ. Ông thầy cắm ngược các que hương và đốt từ chân. Lửa nhai chân hương, lớn phổng một chốc rồi lịm tắt và hóa khói. Luồng khói nghi ngút, uống cả cơn gió và bay quanh nghi lễ như bầy rắn trắng. Ông thầy niệm tiếng chú. Vừa niệm, vừa đi quanh. Một cán gậy được buộc hàng mớ quả chuông vang inh ỏi. Cán gậy chúc lên trời. Niệm, đi quanh, rồi lại niệm. Vẩy nước lên tượng. Chẳng biết bao lâu. Lúc đầu còn có người coi. Sau, số thì buồn ngủ, số thì lẩm bẩm.

Ông thầy vã cả mồ hôi. Ông ta vẫn niệm. Vẩy nước. Lắc gậy chuông. Đốt thêm cả hương. Chẳng có gì.

“Đồ bố láo.”

“Có chó gì, thằng lừa đảo.”

“Về thôi. Mệt cả người.”

“Xéo khỏi làng tao.”

Người này người kia hùng hổ. Ông thầy vẫn tiếp tục nghi lễ dù không gian đã xáo trộn. Mấy hàng người vỡ thành nhiều hàng. Sóng người chen chúc. Chân nọ đạp vào chân kia. Đầu va vào nhau. Tiếng trẻ con khóc. Một cái cùi chỏ va vào mắt làm tôi nổ đom đóm. Một vài người nhặt đá ném ông thầy. Có người ném cả dép, cành cây, cả lõi ngô, củ khoai ăn dở. Trưởng làng hô hoán gì đấy. Không ai ngăn nổi dân làng đang giận đùng đùng. Trận phép của pháp sư bị đạp đổ. Tay tôi vẫn nắm vào tay em mình. Đám đông tràn như vỡ trận nên tôi chẳng thấy ông thầy đâu nữa. Không rõ ông ta còn kẹt trong đám người hay lẩn mất rồi. Vì đường đã chật bởi nhiều người chen chúc nhau để lách vào chỗ rộng, mong về nhà nên tôi và em tôi đứng lại. Ngồi nghỉ dưới một tảng đá. Em tôi rúc vào người, có lẽ vì chưa bao giờ thấy dân làng chen lấn như hôm nay. Trời còn chưa đen hoàn toàn. Mặt trời còn lưng chừng núi. Hẳn phải bảy giờ chiều. Mặt trời vẫn bập bềnh thế, cứ như bị neo lại.

Một tiếng gì đấy bổ xuống làng tôi. Dân làng đang nhốn nháo bỗng im phăng phắc. Có người kêu lên, chỉ tượng. Lại một người nữa. Dân làng đứng lại. Ai đang đi về cũng quay trở lại. Những nhóm lẻ nối thành hàng, dồn thành biển người rồi nhìn tượng.

Tượng Phượng Hoàng đang nhúc nhích. Đôi cánh vốn khép lay lay như cánh hoa gặp gió. Dân làng nín lặng. Đôi cánh chưa xòe lên. Tượng lay mình. Em tôi đòi nhìn. Tôi cõng em lên cổ. Một số người lẩm bẩm cầu khấn. Ai quỳ thì níu người bên cạnh quỳ theo. Các cụ già mắt sáng quắc. Có người vái lên vái xuống, vì vung tay cao nên đập vào người phía sau.

Tượng lay mình vài cái. Đôi cánh khép xòe chầm chậm.

Chẳng phải tượng đá. Là Phượng Hoàng. Phượng Hoàng hiển linh. Phượng Hoàng thức giấc. Và Phượng Hoàng, đang ngày một to lớn.

Cái đầu vốn nghếch lên trời hàng trăm năm, giờ nhìn xuống. Tôi nhìn lên. Không hề thấy màu mắt Phượng Hoàng. Hẳn ngài có mắt. Đôi mắt rất to, thậm chí to hơn cái đầu tôi. Nhưng chẳng thấy màu gì. Cặp mắt đấy, như hai cái hốc đen. Chỉ một màu đen, dày và hoăm hoắm như miệng giếng. Bộ lông Phượng Hoàng mọc dày thêm. Những sợi lông mới mọc chổng ra, đâm tứ phía. Bộ vuốt chân Phượng Hoàng ngày một dài, nhọn và khum cong. Cái mỏ vốn khép cứng giờ tách đôi ra, nhìn sắc như cây kéo. Lúc đôi cánh Phượng Hoàng giương lên, chẳng ai còn thấy gì nữa. Sau tiếng vỗ cánh, một cơn gió mạnh xốc đến, buốt lạnh đến tận chân răng. Không ai thấy gì nữa. Phượng Hoàng cất cánh và đổ bóng đen xuống đường cái. Một tiếng rú rồi chìm mất. Lại một tiếng rú khác. Tiếng vỗ cánh vẫn phần phật. Có tiếng kêu cứu. Tiếng từ dưới vọng cao lên. Một số người loay hoay. Rồi bị trượt ngã vì giẫm vào vật lạ. Bị ai đấy va vào, tôi ngã văng. Không thấy đau, cũng không chạm đất vì tôi nằm ngã lên một vật mềm mềm. Sờ soạng trên vật đấy tôi nắn thấy những đốt ngón tay lạnh. Mùi tanh sôi sục khắp nơi. Rồi tôi nắm thấy một vật dài như sợi dây nhưng trơn trượt. Nắn tay quanh vật dài, thấy nó lòng thòng, mềm nhũn và ươn ướt. Tôi kéo mạnh, vật đấy đứt tung ra cùng một tiếng rên khẽ. Tiếng hô hoán không thoát khỏi màn đêm quá bao la như sa mạc. Tiếng kêu đổ lên nhau. Người người chạy đi nhưng chỉ va vào nhau. Rồi từng người một bị một vật sắc, với đầy sức mạnh nâng lên cao để lúc sau bị quẳng xuống khi đã nát bét.

Tôi không tìm được em mình. Tôi ôm đầu chạy. Dân làng tôi cũng ôm đầu chạy. Chẳng ai thấy nhau. Thân người cứ va nhau bôm bốp rồi văng lăn lóc.

“Đám mây ma.”

“Phượng Hoàng, cứu chúng con.”

“Con ơi…”

“Mẹ ơi…”

“Phượng Hoàng…”

Chúng tôi kêu mãi Phượng Hoàng. Định quỳ gối cầu khấn nhưng chẳng ai còn nhớ tượng Phượng Hoàng đặt ở đâu, phương nào, Nam hay Bắc…Bị trượt ngã, tôi cảm thấy như có một vật khổng lồ đang lơ lửng trên đầu. Tiếng quạt gió. Thân người tôi bị bóp chặt, xương bị vò nát bét. Tôi hộc máu. Cả người tôi phóng vọt lên cao. Không phải tôi bay. Người tôi nát nhừ rồi. Tôi bị cắp.

“…À” – Tiếng bên cạnh tôi. Lúc quờ tay, tôi nắm được một bàn tay bé xíu, hệt như tay em tôi. “…À” – Tiếng của tôi. Và tiếng bên dưới cũng vang như thế. Những chữ “…À” vọt từ từng cái miệng dân làng tôi. Từng chữ nối nhau vang. Từng người nối nhau, để cái tiếng đấy chạy ra ngoài. Tiếng đổ ào ạt như con sóng bộc vỡ sâu lòng đất.

Bất chợt, tôi giật bắn người và tỉnh giấc. Thân mình ướt nhẹp, lạnh buốt như băng đá. Ngoài trời thui đen. Dường như đêm vẫn còn. Nhoài khỏi giường. Tôi bật hết đèn, thắp đủ loại nến. Cái gì đốt được cứ đốt, miễn là đánh thành ánh sáng.

Mẹ tôi dậy rồi. Em tôi cũng thế. Nhìn họ trắng bệch, run rẩy như vừa chui ra từ băng tuyết.

“Mẹ ơi…”

“Con ơi…”

“Anh ơi..”

Không ai nói thêm gì. Tiếng ai cũng khàn đi. Một lần lặp lại như thế, rồi dừng lại và tiếp tục lặp lại.
Sau đấy, từng nhà trong làng sáng đèn. Bật điện, đốt đuốc, soi đèn pin. Làng tôi như chẩy hội. Người làng đổ ra đường. Mẹ tôi cũng cầm đèn pin rồi ra ngoài.

Ngày hôm sau. Làng tôi tìm thấy một xác chết dưới ruộng. Không nhận diện được vì cái xác đã biến dạng. Thối hoắc và nhão nhoét. Cứ như bị ném vào cối giã. Cạnh xác chết, có một cái túi thổ cẩm. Trong túi rỗng tuyếch. Dân làng điểm mặt chẳng thiếu ai. Hẳn đây là một khách vãng lai. Đêm hôm qua làng tôi có sét đánh. Dân làng kháo nhau. Có khi nào người này bị sét đánh.

Thiên Lôi không chỉ phóng một lần sét. Tượng Phượng Hoàng bị sét cắt trúng. Dân làng kháo nhau thế. Ra đường cái. Tượng Phượng Hoàng vẫn còn, nhưng đen nhẻm. Không phải kẻ ngỗ ngược nào đã hất bùn, trát nhọ nồi hay đổ sơn đen lên tượng. Dân làng đã lau rửa bằng nước giếng, cả nước pha vỏ bưởi nhưng màu đen vẫn dày như bóng tối. Sấm sét không làm vỡ hay làm tượng sứt mẻ mà chỉ khiến bức tượng đen sì như nhuộm mực tầu. Nắng mặt trời Chính Ngọ cũng không làm mờ màu đen trên tượng. Tượng đen đổ bóng đen.

Chuyện tối qua không ai nhắc. Không ai gợi chuyện. Hoặc gợi rồi lờ đi.

Cái xác lạ được dân làng mai táng. Vì không rõ danh tính nên không lập bia. Chỉ đào một cái hố thật sâu, quấn chiếu xác rồi chôn. Trên mộ phần có gieo ít hạt giống. Mấy năm nữa là cây sẽ xanh tươi.

Người làng tôi, bị khàn giọng. Kể sau một đêm. Tiếng nói ra đặc sệt, ngắt quãng như hụt hơi. Một tiếng “À.” thốt ra rồi đứt phựt. Chữ À không ai nói nữa và dần lãng quên từ một buổi sáng. Có gì đâu mà phải à lên…

Tượng Phượng Hoàng vẫn ngạo nghễ ở đường cái. Dù tượng giờ đây đã đen tới mức chỉ như một cái bóng chim Phượng Hoàng. Dân làng đi qua đường cái rụt rè hơn. Không ai trò chuyện to cả. Đi xe qua phải dắt. Trâu, bò đều phải rọ mõm. Lúc đi qua tượng ai nấy đều lúi húi, chân tay bủn rủn như sốt rét. Có người đánh rơi cả cuốc. Nhắc đến Phượng Hoàng, người già đến trẻ em đều ngắt ngứ. Trẻ con im lặng, còn người lớn kể về giai thoại Phượng Hoàng đuổi mây đen. Kể nhát gừng từng câu từng câu. Người ta thờ Phượng Hoàng tại nhà, và nhà nào cũng thế. Nhang khói thường xuyên. Nhà tôi cũng thờ. Ảnh thờ là bức tranh cổ từ thời ông tôi. Mẹ thờ Phượng Hoàng trên ban thờ tổ, xếp gian giữa. Lúc qua đường cái, nếu đứng quá gần tượng Phượng Hoàng ai cũng mường tượng đầu Phượng Hoàng không ngẩng cao, mỏ chỉ trời chỉ trăng nữa mà cúi xuống. Đôi cánh tượng xòe rộng, Phượng Hoàng vỗ cánh…Nghĩ đến đấy, và ai nấy đều té ngửa.

Tiết kiểm tra vẽ tại lớp, em tôi ăn trứng ngỗng. Lớp em tôi đều vẽ Phượng Hoàng. Em tôi cũng vẽ Phượng Hoàng. Cô giáo lớp em đã gọi điện và mời họp phụ huynh. Mẹ bảo đáng lẽ tranh em đẹp nhất nhưng cuối tiết em đã tô đen hình Phượng Hoàng. Em tô mạnh tay, màu in thấu cả trang giấy và dính nhớp mặt bàn. Phượng Hoàng mà em vẽ xòe cánh. Em tôi không vẽ lại, cô giáo nhắc nhở gia đình bảo ban về ý thức học của em.

Dân làng gần đây mắc chứng khó ngủ vào buổi đêm. Ai cũng lăm lăm quyển sách để đọc cho dễ ngủ. Sách viết về giai thoại làng này : Phượng Hoàng. Người làng tôi đã tập hợp mọi chuyện về Phượng Hoàng và đóng quyển. Nhà nào cũng có. Đọc rồi ngủ. Hàng sáng, mắt ai cũng thâm quầng.
Mẹ tôi ngủ sớm. Trước lúc ngủ, mẹ căn dặn tôi kể chuyện dỗ em tôi ngủ. Tôi cầm sách, trang về Phượng Hoàng được đánh dấu bằng nếp gấp. Em tôi lắc. Tôi chưa kể. Em tôi chui vào chăn, chùm kín người và nằm vo tròn trong lớp chăn.

“Ngày xửa ngày xưa…”

Đọc đến đấy. Tôi chợt nghĩ đến người thầy giáo vẽ Phượng Hoàng. Nơi ông ta biến mất, là ở đường cái, tượng Phượng Hoàng khép cánh.

Vì tay tôi lơi ra, nên quyển sách trượt rơi xuống. Trang sách về Phượng Hoàng mở toang dưới nền nhà. Mồ hôi tay tôi in dấu trên mặt giấy.

Ngày xửa ngày xưa. Chuyện bắt đầu…

Á Minh