NHỮNG VÒNG TRÒN XIẾC (TT)

khuatdau

Người đầu tiên mà tôi cần đi tìm ngay là người mẹ của anh bạn đồng đội. Có làng, có xã rõ ràng nên tôi tìm không khó. Chỉ mất một vài giờ đi xe lửa là tới. Có lẽ không có nơi nào nghèo và buồn như ở đây. Đất không mưa bạc phếch, chỉ có cỏ dại và cây bàn chải, những con bò ốm lòi xương và những con cừu, thật là một giống cừu kỳ lạ, chúng ăn bàn chải thay cỏ.
Người đàn bà tôi gặp, nói trộm sau lưng bà, cũng ốm như những con bò và cũng buồn như những con cừu. Anh ta là con trai độc nhứt của bà, sinh ra và lớn lên ở đây, nên bộ hài cốt mà tôi mang theo cũng nhẹ tênh.
Khi thấy tôi mặc đồ bộ đội bà mừng hụt, tưởng con bà đã về. Bà hỏi:
“chú biết thằng con tôi chớ?”
“Dạ biết”
“Thế sao em nó chưa về?”.
Thật khổ tâm cho tôi khi sắp phải trao cho bà bộ hài cốt. Tôi ngần ngừ một lúc rồi đánh trống lảng.
“Nhà mình nuôi cả bò và cừu hả bác?”
“Không phải đâu, chăn cho người ta đấy”
“Bác trai đâu hả bác?”
“Ổng đạp phải mìn, cụt cả hai chân nằm trong kia!”
Đến nước này, tôi chỉ muốn chào bà, đem nắm xương của anh chôn ở đâu đó, chứ không thể trao cho bà thêm một nỗi đau nào nữa. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, bà sẽ còn đau khổ hơn nếu cứ phải sống trong chờ đợi mỏi mòn.
Tôi nói:
“Thưa bác, biết là bác rất đau lòng, nhưng đây là một phần xương cốt của anh ấy cháu cố mang về từ Campuchia. Cháu xin trao lại cho bác!”
“Chú nói gì? Áo quần của nó hả? Mang về làm gì?”
“Dạ, không chỉ có áo quần, còn có…”
“À, biết rồi, còn có chén bát và bình toong nữa chứ gì?”
“Dạ, khó nói quá, là… của anh ấy nữa!”
“Cảm ơn chú đã đem về. Đồ đạc nó đây, còn nó đang ở đâu? chắc là nó bỏ xác bên đó rồi phải không?”
“Dạ, ảnh đây”, tôi đành phải mở ra.
Khi thấy cái hộp sọ và những chiếc xương đã vàng xỉn, bà ngơ ngác:
“Là con tui đây à? Sao mà tội nghiệp vậy hở con!”.
Bà ôm tất cả vào lòng, khóc không thành tiếng.
Ngày hôm sau chúng tôi làm lễ an táng cho anh, chính quyền có đem đến một lá cờ. Nhưng bà không chịu, cởi ngay chiếc áo đang mặc phủ lên chiếc quách. Không có kèn vĩnh biệt, chỉ có tiếng còi của một con tàu đang chạy ngang qua, vang lên thê thiết. Khi mọi người về hết, bà ôm lấy tôi, khóc.
“Giờ ta coi cháu như con. Lâu lâu nhớ ghé về thăm mẹ nghe!”
Tôi “dạ!”
Nhưng rồi tôi không giữ được lời hứa.

Bạn biết rồi đấy, tìm một người không rõ mặt mũi, không nhớ họ tên, không biết quê quán thì biết tìm đâu cho ra. Trầm còn dễ tìm vì nhờ có ngải, Mục Kiền Liên nhờ có Đức Phật, còn tôi chỉ có mỗi cái chữ hiếu cùng với nỗi ân hận đã dại dột đi theo cái gánh xiếc bậy bạ thuở nào. Nhưng tôi tin rồi sẽ có ngày gặp mẹ, tôi tin không chỉ có mỗi tôi đi tìm mà còn có bà, cũng đang trôi dạt đâu đó để tìm con. Khi hai người đau đáu đi tìm nhau thì thế nào cũng sẽ gặp được nhau, không sớm thì muộn.
Có thể một buổi sáng, một buổi trưa hay một buổi chiều, ở một nơi nào đó, có một người đàn bà cứ đi theo riết tôi, rồi đến gần xin cởi áo cho xem cái này chút, những cái nốt ruồi nhiều như đậu đen ở trên ngực của tôi ấy mà, rồi ôm choàng lấy tôi mà khóc sau khi đã đếm đủ 19 cái.
Còn nhiều thứ khác nữa mà một người mẹ có thể nhận ra đứa con của mình. Từ một cái xoáy trâu ở trước trán, từ con mắt hơi bị lé, từ cái chân vòng kiềng… và cũng từ một tiếng gọi thầm nào đó chỉ có người mẹ mới nghe ra được. Như thế, nhiều khi còn hiệu nghiệm hơn cả ngải, linh ứng hơn cả Phật, nên mẹ tìm con dễ dàng hơn con tìm mẹ.
Tìm mẹ, nhưng không thể nhịn đói mà đi tìm, tôi phải kiếm việc làm để sống. Là một cựu chiến binh, may mắn không bị thương tật, nên tôi tìm việc không khó. Cạo mủ thì thôi không cạo nữa, cái chết tàn khốc của Mộc Hương khiến tôi không thể nào làm cái việc mà mỗi nhát dao như cứa vào lòng tôi. Việc mà người ta cần và thích hợp với một anh lính vừa giải ngũ là bảo vệ. Tôi đóng bộ coi cũng ra dáng lắm và được cho đứng gác trước một ngân hàng.
Có đứng đây tôi mới biết trên đời không chỉ có những người nghèo như mẹ của bạn tôi, mà còn có rất nhiều kẻ giàu, quá nhiều kẻ chở cả bao tiền đến gửi hay rút ra từng bó bạc lớn cần phải có nhiều người hộ tống. Họ là những chủ cửa hàng, những công ty này, những nhà xuất khẩu nọ, những kẻ mới phất lên sau thời kỳ đổi mới, có nghĩa những tư sản cũ bị đánh gục thì lại có những lớp tư sản mới mọc lên. Thời nào cũng có người giàu của thời đó. Trước kia giàu vì chiến tranh, vì buôn đồ Mỹ, giờ giàu vì nhờ chức nhờ quyền, nhờ chạy mánh, nhờ trúng đất, trúng thầu.
Tôi thực ra không bảo vệ được ai, chẳng qua đứng đó để tăng thêm cái vẻ bề thế, uy lực của tòa nhà có treo biển ngân hàng vậy thôi. Dĩ nhiên không cách gì tìm được mẹ trong số những con người ấy. Mà cũng chẳng có ai trong số họ để mắt tới tôi, ngờ rằng có thể là con của họ đang đứng kia. Dòng đời cứ trôi đi, đây là khúc quanh mà của cải cứ tới lui lượn lờ như những bọt nước.
Rồi tôi cũng phải làm lại cuộc đời. Tôi yêu hay tưởng rằng yêu một người con gái khác. Nàng kém tôi hai tuổi, không đẹp nhưng khá xinh, lại là nhân viên của ngân hàng. Xét về thứ bậc trong xã hội, nàng hơn tôi nhiều bậc, nên có nhiều tiếng xì xào chê không xứng đôi. Nhưng nàng nửa đùa nửa thật, bảo: “sau chiến tranh mà kiếm được một người chồng nguyên lành là khó lắm!”.
Thế ra cái giá của tôi là còn có đủ tay chân trong khi đầy ra đấy những kẻ què cụt, hậu quả của hai cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước. Bề ngoài thì tôi không thương tật gì, nhưng bên trong tức là cái tâm hồn tôi đấy, lại có một vết thương không bao giờ lành. Nàng không biết đã đành mà chính tôi cũng không ngờ.
Đêm động phòng tôi chỉ ngồi hút thuốc và uống rượu khan. Vợ tôi trong bộ đồ ngủ thơm tho ngọt ngào là thế, nhưng khi gần nhau, tôi lạnh mình thấy nàng chỉ là một cái xác không đầu!
Xác của Sơn Mộc Hương!
Đêm sau, rồi đêm sau nữa, cố gắng lắm tôi cũng chỉ dám ve vuốt, hôn hít nàng chút đỉnh rồi thôi. Nàng thở dài: “có phải anh bị thương ở…?”. Tôi đành ậm ừ: “có lẽ!”.
Chúng tôi chia tay nhau sau nửa năm. Ngần ấy cũng đủ cho vị đắng thấm sâu vào cuộc đời của cả hai. Nàng mang tiếng là đã qua một đời chồng mà hãy còn trinh, còn tôi nặng trĩu một nỗi đau thầm kín. Tôi không còn dám gần ai, yêu ai được nữa. Tôi sống phất phơ cho qua ngày, làm đủ nghề mà chẳng ra nghề gì. Đã có lúc quá buồn, tôi muốn đi tu.

Tôi mon men đến chùa, muốn được gần các nhà sư để học cách thoát khỏi khổ đau. Nhưng dường như các vị tìm đến chuông mõ không phải để giải thoát mà để ràng buộc thêm. Chùa, chỉ mong chùa to và đẹp. Bổn đạo chỉ cần đông và giàu. Các vị cũng ngấm ngầm tranh nhau chức nọ chức kia không khác gì các quan ở ngoài đời. Đêm cứ ngủ kỹ, có băng cát xét thay các vị tụng kinh gõ mõ. Trong mơ các vị không thấy Niết Bàn mà chỉ thấy hòm công đức mở ra đầy ắp tiền.
Nhưng mẹ tôi, một người tuyệt vọng vì không tìm thấy con, có thể tìm đến Đức Phật để được an ủi. Nghĩ thế nên tôi tìm đến các tịnh xá của ni sư. Biết đâu trong số các bà vãi mặc áo già lam kia có mẹ của tôi. Chùa của sư nữ thanh tịnh và nghèo hơn chùa của các sư ông. Có vẻ họ đã tìm được, hay gần như tìm được sự giải thoát cho riêng mình, nên họ vui vẻ bận rộn với những bữa ăn từ thiện cho những người nghèo đói không nơi nương tựa.
Có một người đàn bà tôi tưởng không bao giờ gặp nữa mà lại gặp. Đó là người mà trong gần 10 năm tôi phải gọi bằng “má”, người tưởng tượng cái bụng bầu của mình là một cái bình đựng đứa bé đã biết đi biết chạy. Thực tình mà nói thì bà không hề ác với tôi. Bà có la mắng đấy, đôi lúc đánh đập nữa đấy, nhưng bà không như ông chồng tàn bạo của bà. Tuy nhiên, cái cảnh bà nhào vô xé hết áo quần của chị Mị Lan, vẫn khiến cho tôi kinh hãi mỗi khi nhớ tới.
“Ê, Nhi! ai cho mày vào đây?”
“Dạ thưa, con vào thăm má!
“Bậy! má con gì nữa! Tìm mẹ phải không?”
“Dạ!”
“Không có đâu. Chỉ có những người tội lỗi như tao chứ mẹ mày tội gì mà vào đây!”
“Dạ, thử tìm đại, may ra!”
“Lớn dữ a! vợ con gì chưa?”
“Dạ chưa”
“Có gặp bả, cho tao xin lỗi, ngay cả mày nữa. Thôi đi đi!”
“Dạ, bà ở lại mạnh giỏi”
Thế đấy, cuộc đời mà tôi biết lại có những chuyện ngược đời như vậy. Tôi tin là đã bay đi những cơn ghen cuồng nộ trong lòng bà.
Tôi cũng có xuống Cà Mâu, ra tận chỗ giống như cái lưỡi cày trên bản đồ của tổ quốc. Chỉ thấy ba mặt là biển lao xao sóng vỗ.
Đây là nơi cuối cùng của đất, còn ngoài kia, là nơi cuối trời! Như thế, dẫu có đi ra biển và đi hết biển cũng không tìm được mẹ, thì thôi quay về tìm lại nơi bà đã sinh ra tôi.
Nhớ có lần chị Mị Lan bảo “tao nhớ cái chỗ mày ở có nhiều tháp lắm, lại có cốm nữa, mày đã cho tao một miếng cốm rất ngon”. Thế là tôi đi ra miền trung, nơi có những ngọn tháp không biết chờ ai mà cứ đứng mãi trong nắng mưa đến cả ngàn năm.(còn tiếp)

Khuất Đẩu

One thought on “NHỮNG VÒNG TRÒN XIẾC (TT)

  1. Di vật giữ trao cũng khó!Cuối cùng vẫn đưa về chỗ của nó-”Bộ hài cốt-hủ xương tro! Người Nhận vẫn Mẹ từng cho Sự Sống…Tình đồng độị nhiệm vụ xong!Đông Nhi giờ tìm cội nguồn của mình…Vẫn mù mịt trong mông lung…Nơi mình Tháp nhiều rất thơm hương Cốm…Chỉ vậy thôi Mẹ có còn?!Bao câu hỏi như sóng dồn dập tới….Tìm trong vô vọng giữa đời…Lạc loài bơ vơ biết hỏi ai đây?

    Thích

Comment