CƠN GIÓ MANG HỒN TUỔI THƠ (TT)

ledachoanghuu

Dì đã đi bịnh viện.
Nó một mình ở nhà, má nó vô bịnh viện liền luôn. Gần một tuần lễ má đi đi về về, rồi dì cũng về nhà. Chiếc xe xích lô chở dì và má vô tận bên trong, dì vẫn còn đau, đi đứng khó khăn. Nó chạy ra phụ dìu dì vào:
“Dạ, dì mới về”.
Dì nói nho nhỏ:
“Ừa, đì mới về, chà cái thằng hồi nhỏ ú na ú nần, trắng bóc giờ đen như than và ốm nhách, tội nghiệp bây quá”.
Nó cười:
“Tại con dang nắng với lại vọc than đó dì”.
Dì nó quay qua má nó:
“Khổ quá, hay tụi bây dắt díu nhau trở lại trong này, coi vậy chớ trong này còn dễ thở, buôn bán nhỏ nhỏ cũng đủ sống”.
Má nó lắc đầu:
“Dạ, em cũng nghĩ nhiều rồi, muốn đi mấy bận cuối cùng tính tới tính lui hông được đâu chị…”.
Dì nó cắt ngang:
“Sao mà hổng được, người ta sống được thì mình được”.
Má nó tiếp:
“Dạ, hông phải vậy, chị hiểu sai ý em rồi, là vầy, giờ mà đi là chỉ có đi chui ở chui thôi, đâu ai chứng giấy tờ, tụi em lớn thì hổng sao chứ sắp nhỏ lấy gì học hành”.
Dì nó gật đầu:
“Ừa hén, bây nói tao mới nhớ, phải cho đi học kiếm mấy chữ, sau này đỡ cực thân”.
Nó thì thấy học hành bắt đầu chán chán, nửa muốn tiếp tục nửa muốn không, nhưng theo lời ba má thì phải đi. Thằng Cọt đã nghỉ học ở nhà chuyên chăn bò và phụ đi rừng. Nó nhớ lại bữa ngang nhà nghe ba má thằng Cọt cũng cãi rần vụ này.
Ba thằng Cọt:
“Cho nó nghỉ đi phụ tui kiếm ăn chớ học hành làm gì”.
Má thằng Cọt:
“Học hành có lợi sau này”.
“Bà chỉ cái lợi tui coi?”.
“Thì như ông Sáu Hoàng đó, ổng có cái chữ khỏi phải ra đồng”.
“Bà hay quá hén, có mình ông Sáu chớ mấy, mà nói thiệt tại ổng già làm hông nổi nên người ta để ổng cầm viết, còn ông Hai Sài Gòn kìa, thằng Hải tặc kìa, bao nhiêu người nữa đó, chữ nghĩa đầy mình có mần được cài gì hông hay phải cầm cuốc với lại mấy người có mấy chữ cũng làm cán bộ rần rần”.
“Biết đâu có may được như ông Sáu Hoàng, chú Tư”.
“Ở đó mà chờ may rủi, với lại bà có tiền đóng nổi hông, trăm thứ tiền chớ có như xưa đi học miễn phí đâu, tiền cơ sở vất chất, tiền sách tiền vở, tiền bút tiền mực, tiền ủng hộ quỹ này quỹ nọ, phong trào này kia, nói là ủng hộ nhưng thiệt ra bắt đóng hết chớ bộ, biết bao nhiêu là quỹ một năm”.
Má thằng Cọt tới đây hết cãi lại. Thằng Cọt còn bị ghép thêm một tội nặng khó phai dấu tích, vậy là nó phải nghỉ. Mùa nắng, đói khát, bao nhiêu sự thèm thuồng, thèm một lát thịt, thèm một con cá… tràn lên cuống họng đám con nít, đám chăn bò tuổi ăn tuổi lớn, và kế sách bao ngày suy tính bàn bạc được đưa ra, cùng thả bầy bò dưới chưn núi Đất, lùa cho con bò tơ vừa đủ tuổi kéo cày thằng Cọt chăn của hợp tác xã vào gần đám cỏ còn xanh bên trong hàng kẽm gai rồi giả tảng lờ bỏ đi xa, con bò cũng đói với đồng hanh nắng cháy có thua gì xăm xăm tiến lại, một tiếng nổ phát uỳnh tung bụi tung luôn cái cẳng con bò, mảnh đất còn cấm vì chưa gỡ hết bom mìn thuộc cái đồn trấn giữ trên lưng chừng núi, bò ba cẳng chẳng thể trở thành “dân chơi cầu ba cẳng” nằm vật bị xẻ thịt chia thôi, thằng Cọt đã gồng mình chấp nhận mọi hình phạt từ ban đầu rồi…
Dì đỡ bịnh, má con nó trở về. Mang hai chục bánh mì ổ to, bánh mì Sài Gòn thơm ngon, để lâu chỉ xìu xuống, đem nướng sẽ giòn trở lại chớ không cứng như đá và một thùng mì gói về chia cho bà con lối xóm thân thuộc, có được ổ bánh mì, vài gói mì tôm mà như bắt được vàng. Má nó mua thêm chôm chôm nữa, đem trái cây nhiều người thất cười quở: “Trời đất! chuyện nghịch đời, chở củi về rừng”.

***

Họp đội thông báo, mỗi lao động chính phải đóng góp mười ngày công xã hội chủ nghĩa. Nhà nhiều lao động được giảm bớt, nhà nó phải đóng góp ba chục công. Đang mùa nắng, đội làm theo chủ trương xây dựng thủy lợi. Chị nó thay gia đình đi làm cả tháng trời.
Ngày ra quân làm thủy lợi cả hợp tác xã rầm rầm rộ rộ, loa kèn vang vang khúc nhạc, ông chủ nhiệm phát biểu hăng say: “Chúng ta phải thay đổi thiên thời, có sức người sỏi đá cũng thành cơm”… và ở dưới thì chủ yếu là thanh niên vung tay hô quyết tâm quyết tâm khí thế.
Đại hội hợp tác xã đã bầu chú Tư râu vô ban kiểm soát, đội nó giờ đội trưởng là chú Năm Ngàn. Chú Năm Ngàn xìu xìu ểnh ểnh, nữa muốn làm nửa muốn không, nghe đâu chú Năm có bà con gì với chú Tư râu hay ai đó nên được vận động làm, chú nhận một cách miễn cưỡng.
Chú Năm Ngàn dẫn đoàn người vác cuốc, xẻng, xà beng, gióng gánh đi.
Chú Tám Phèn hỏi:
“Đi làm ở đâu vậy?”.
Chú Năm trả lời:
“Ở núi Đất”.
Anh Hải đất hỏi theo sau:
“Làm thủy lợi là làm cái giống gì?”.
Chú Năm Ngàn như người mơ ngủ ậm ờ:
“Nghe nói đắp đập, đào kinh, đào mương gì đó”.
Anh Hải tặc lắc đầu:
“Ông cũng chẳng biết gì luôn hả?”.
Chú Năm Ngàn làm thinh một hồi lên tiếng:
“Có phổ biến cho tui rồi mà tui thấy nó sao sao á, lên núi đất đào đá khiêng về đắp đập”.
Anh Hải hỏi tiếp:
“Đắp ở đâu?”.
“Ở con suối gần dưới chân núi luôn đó, sẽ có người hướng dẫn chỉ chỗ, đào mương cũng vậy, có mấy ông kia kìa – Chú Năm chỉ mấy người đang vác cái máy đo đạc có ba chưn – Mấy ổng đâu trên huyện về, đo đo ngắm ngắm bữa giờ rồi”.
Đến sườn đồi có bãi đá của núi Đất, đoàn người chia nhau người nậy đá lên người khiên xuống dưới suối cách đó chừng gần cây số rồi toán người dưới suối lựa đá mà xếp chồng lên nhau.
Hai tuần sau con đập hình thành, đập nhìn hoành tráng đắp chắn ngang dòng suối cao vượt bờ, chiều dày thì tới bảy tám thước. Nghe nói có con đập vừa đắp xong, cán bộ vui lắm. Có cụ già lững thững tới coi, chắp tay sau đít, ông cụ cả tóc râu đều dài và bạc phơ đi tới lui một hồi, cười cười phán:
“Tui ở đây gần cả đời chưa thấy ai làm kiểu này, con suối ở đây là con nước hỗn bởi gần nguồn, dốc núi tụ tập đổ xuống, có mưa là ào ào cuồn cuộn, mấy cục đá này có cái gì kết dính đâu, được ba bữa hông bị cuốn mất cái gì tui cũng chịu, nói thiệt nước mà, cho tảng đá cả tấn xuống thử có trôi hông chớ mấy cục lòn hòn”.
Nhiều người nhìn ông cụ mà nghi ngại, anh Ngạo hỏi:
“Chắc hông ông?”.
Cụ già quay qua anh Ngạo:
“Sao hông chắc, tui giỡn chơi à, cá gì tui cũng cá, dám bán nhà tui cũng cá”.
Anh Ngạo gục gật:
“Con hông dám cá với ông đâu, nghe ông nói có lý, với lại bữa giờ cũng nghe mấy người nói rồi”.
Dì Tư Thể hỏi:
“Mày nghe ai nói mậy, nói ba xàm coi chừng bị gông cổ nghe con”.
Anh Ngạo lè lưỡi:
“Có nghe thì nói có nghe, dám nói bậy, tui đâu muốn xộ khám”.
Anh Hải đất thấp thởm:
“Nghe ai nói nói lẹ coi”.
Anh Ngạo tiếp:
“À, hổm tình cờ tui nghe mấy ông kỹ sư đo đạc nói đó…”.
Dì Tư cắt ngang:
“Nói sao, mày cứ cà dần cà dà như ông già”.
Anh Ngạo cười khì:
“Thì một ông nói giống ông già là nghi quá, rồi một ông cản lại kêu thôi mày ơi, bàn cãi gì nữa, ở trển quyết vậy rồi cứ làm thôi, mày hông thấy ông tổ trưởng mình hả, ổng cãi bây giờ ngồi chơi xơi nước đó, hông chừng cho giảm biên chế thấy cha luôn”.
Chú Tư râu đứng sau đâu nãy giờ mặt đanh lại:
“Thôi nghe mậy Ngạo, mày làm hông lo làm đi hóng chuyện, nói hoang đàng chi địa, còn ông già cổ hủ ơi, thời buổi giờ khác xưa rồi, người ta làm có sách có vở, có tính có toán chớ khơi khơi đâu, ông về dùm đi, ăn nói lung tung quá”.
Ông cụ lắc đầu nói ngắn gọn và bỏ đi:
“Để rồi coi”.
Anh Ngạo không chịu thua:
“Đúng đó cứ để rồi coi” – Quay qua chú Tư râu, anh Ngạo tiếp: “Tui có sao nói vậy nghe ông, nói chình ình ngay lỗ tai tui tui phải nghe thôi chớ thèm hóng à, ông đừng gắp lửa bỏ tay người”.
Anh Ngạo mới đi làm chung với bà con đợt này, anh không chỉ ngang tàng hơn anh Hải tặc mấy lần mà còn ba lém nữa, nghe đâu anh là dân chợ búa đâu đó mới chuyển về. Anh Ngạo suốt ngày cà khịa nhứt là với chú Tư. Có mặt chú Tư bà con mỗi người lôi tên anh Ngạo và vài từ tưng tửng: “Ngạo đâu? Có Ngạo. Ngạo nè. Ngạo à, Ngạo hả? Ngạo luôn. Làm một ngạo đi. Cho một Ngạo. Chơi một Ngạo…”. Chú Tư đã khổ với anh Hải nay lại thêm anh Ngạo.
Đắp đập xong tới đào mương. Đào băng từ đập đá về cánh đồng lớn, cánh đồng này thuộc hai đội ba và đội bốn. Giữa trời nắng nóng, nắng đôi khi muốn cháy da người, nhiều người sạm đen như người ở vùng xích đạo, đoàn người lầm lũi đào tung bụi mù, gặp chỗ đất mềm không nói gì gặp chỗ đất cằn sỏi, đất gò chỉ có nước than trời, than đất, tiếng cúp cuốc xuống nghe chát chúa mà chẳng xuống được bao nhiêu, băm băm như đục đá, còn gặp phải đá thì tóe lửa xoẹt xoẹt…
Một buổi chiều vừa xong giờ làm, chú Năm Ngàn gặp anh Hải tặc và anh Ngạo:
“Tối mày về làm dùm tao cái bảng kiểm điểm”.
Anh Hải và anh Ngạo ngạc nhiên:
“Kiểm điểm vụ gì cha nội?”.
Chú Năm giải thích:
“Hai thằng bây xuyên tạc bậy bạ quá”.
Anh Hải cãi lại:
“Tui xuyên tạc cái gì?”.
Chú Năm nói:
“Hổm thằng Ngạo hát hò tầm bậy tầm bạ mày cũng rần rần hát theo mà hông chịu dòm rước ngó sau để ông Tư ổng đi ngang ổng nghe”.
Anh Ngạo cười hà hà:
“Ạ, tui hát bài nhạc chế, cây cuốc cong mình chờ mong cho nó gãy cây cuốc gãy thì mình khỏi ra đồng, khỏi ra đồng thì đừng mong có lúa… chớ gì, tui hát chọc cười bà con chơi cho qua cơn mệt chớ gì mà la làng”.
Anh Hải nhếch mép:
“Cha Tư này thù vặt, chả ghim tui lâu lắm rồi, nay thêm cha Ngạo gặp chuyện chả làm tới”.
Chú Năm năn nỉ:
“Thôi lỡ rồi, làm ơn viết đại vài dòng cho nó qua chuyện, đừng làm khó tao nữa”.
Anh Ngạo gật gù:
“Ờ, viết thì viết ba mươi giây xong ngay, có khỉ gì, ông Hải sẵn chữ viết dùm tui luôn cái coi, tui hậu tạ ông sau, mà ông viết mùi mùi nghe ông”.
Anh Hải gật đầu:
“Để tao viết, mày làm như ca cải lương viết mùi mùi, một xị đế nghen mậy”.
Anh Ngạo cười ha ha:
“Cho ông một lít lên bờ xuống… mương luôn”.
Hai tuần sau mấy cây số mương về tới cánh đồng cũng là xong công xã hội chủ nghĩa.

***

Nó bị hai trận đòn nhớ đời!
Một trận lỗi nó.
Đội có thêm quy định về tiếng kẻng, thứ sáu hoặc thứ bảy hàng tuần lúc hai giờ có bốn tiếng kẻng báo hiệu bà con tới nhà ông Sáu Hoàng mua cá, cá từ dưới thị xã lên bán theo tiêu chuẩn. Lúc này bán hàng cho dân nhà nước có thêm cái cửa hàng thương nghiệp cấp ba và bán theo tem phiếu, theo sổ hộ gia đình. So với giá bên ngoài, ở chợ thì kiểu bán này rẻ hơn rất nhiều. Mất cái sổ hay tem phiếu là khổ, coi như đói, gặp gượng mặt nhăn nhó khó chịu người ta ví như mặt mất sổ gạo là vậy. Tem phiếu tính theo nhân khẩu, nhà nó mua được bốn ký cá. Và nó được giao canh giờ nghe tiếng kẻng để đi mua. Mua cũng vậy, bán mua bao cấp, nhà nước lập mấy trạm thu mua lương thực, nông sản của dân giá theo quy định cũng như bán rẻ như bèo.
Thứ sáu nó nằm dài cổ chờ, lâu lâu nghe văng vẳng tiếng két két keng leng là nhổm dậy liền nhưng nghe kỹ thì không phải, bốn tiếng kẻng rất rõ ràng. Chiều thứ bảy nó tiếp tục ngã người trên tấm phản dưới gốc mít trong cái gió liu riu. Gió liu riu buổi chiều làm mắt nó ríu xuống vậy là chìm vào giấc mộng. Oánh một giấc đã đời giựt mình thức giấc, trời ơi đã bốn giờ. “Vắt giò lên vai” mà băng đường tắt bất kể gai gốc phi tới nơi xếp hàng và dĩ nhiên là… xếp chót, cuối cùng tới lượt thì còn được… một ký mà bác bán hàng ngắt bớt vài con của người này người kia dành cho.
Tối về nó ăn nó một trận đòn. Má nó nghi cho cái tội ham chơi. Mà cho ăn đòn cũng phải, nó không trách móc gì. Lấy đâu tiếp tế vô trong rẫy cho ba nó, làm lụng cực khổ với cái nắng gay gắt lại nhai toàn với mắm muối, vài con khô đét làm sao chịu thấu. Ngoài chợ thì cá hiếm, cá mắc mỏ có mua nổi đâu. Bị oánh đau thiệt nhưng còn khó trào nước mắt hơn hổm trước, nó tận mắt thấy, má đi chợ mua được mớ cá mua luôn mớ đầu cá nói về cho heo, má nó chẳng dám ăn cá chừa để đưa vô rẫy cho ba và vài con cho anh em nó, còn mình lặng lẽ lựa trong mớ đầu cá, đầu nào còn tươi còn ngon đem kho cho mình, cá dành cho heo thử hỏi cái nào còn ngon (?!).
Một trận thì oan ức.
Tóc quá dài, cô giáo nhắc mấy lần nó giả tảng lờ, không biết cách nào kiếm tiền mà xin má thì ngại quá. Cô giáo hăm lần cuối: “Em không hớt cô gởi giấy về mời phụ huynh lên đó”. Nó vắt óc suy nghĩ rồi nảy ra một ý, đi học về ghé vô tiệm hớt tóc ông Tư bạc, tiệm không có khách, ông Tư ngả người trên ghế ngáy khò khò, nó ngồi đợi, quá giấc trưa có lẽ tới giờ đói ông Tư thức giấc, thấy nó ông hỏi:
“Hớt tóc hả nhóc con, sao hông kêu ông dậy?”.
“Dạ, con thấy ông ngủ ngon quá”.
Ông Tư tiếp:
“Nhưng chờ ông về ăn cơm cái đã”.
“Dạ, ông ăn cơm lẹ lẹ nghe ông, con chờ ông oánh cờ…”
Nghe tới oánh cờ, “món” khoái khẩu của ông, ông mê lắm nên phủi tay luôn:
“Oánh cờ hả, oánh luôn, cơm nước từ từ”.
Nó cũng muốn oánh cho nhanh để còn hớt tóc rồi về:
“Nhưng con có giao kèo”
Ông Tư lấy bàn cờ ra:
“Nói nghe coi”.
“Dạ, oánh ba ván, nếu con thắng, ông hớt tóc cho con hông lấy tiền, con thua con mới trả”.
Ông Tư gật gù:
“Được”.
Bàn cờ được sắp ra, ông Tư nhường nó đi trước, cùng dàn trận nhanh cấp kỳ rồi từ từ ông Tư chậm dần, suy đi tính lại từng nước đi. Cuối cùng ông thắng, ván đầu tiên coi như nó đi tong. Nó tự dặn mình phải chậm rãi, không được lơ là bởi phân tâm lúc chờ ông Tư. Ván thứ hai lấy lại quân bình, một đều. Ván thứ ba tiếp tục xảy ra căng thẳng, nó tập trung hết mức, nếu thua ván này thì toi mạng à. Ông Tư bóc con xe vượt sông thẳng tiến, thấy ông bị hở sườn nó với tay định bóc con xe phản công, ông Tư ngăn lại:
“Khoan khoan, hông đi con đó”.
Ông Tư đi con khác, lát sau tới nó đi trật nước cờ ông Tư cười khà khà:
“Chiếu bí nghe con”.
Nó giựt con cờ lại:
“Khoan, con đi lại nước này”.
Ông Tư trợn mắt:
“Thua rồi, đi lại cái gì”.
Nó sấn cổ cãi:
“Thì hồi nãy ông cũng đi lại đó, nếu hông con đi nước nữa là chiếu ông rồi”.
Ông Tư gãi đầu:
“Ờ… ờ… thì… thì đi lại đi”.
Chơi một chập nữa nó chiếu bí, ông Tư bực tức hết xưng con:
“Ván này hông được mày, huề đi, chơi lại ván mới”.
Nó nhìn mặt trời, trời đã quá xế nhưng nó cũng chẳng biết làm sao đành gật đầu:
“Nhưng lần này hông có đi lại đì gì hết nghe ông”.
Ông Tư rổn rảng:
“Hạ thủ bất hoàn, oánh lại ba ván, hông như ba ván hồi nãy”.
Thấy ông Tư không về ăn cơm, con ông đơm một cà mèn xách ra, gặp ông oánh cờ, chị này nói:
“Trời, ba oánh cờ quên cơm luôn, thôi ba nghỉ chút để đói à”.
Ông Tư ậm ờ:
“Ờ để đó, tao ăn giờ”.
Ba ván tiếp theo tỷ số là 2-1 nghiêng về… nó. Nó mừng rơn dợm đứng dậy bước vô ghế hớt tóc, ông Tư đập tay vô bụng:
“Khoan mày, tại tao đói quá… run tay chớ dễ thua hả, ba ván nữa mày”.
Nó tui nghỉu:
“Con cũng đói vậy, ông chơi… ăn gian”.
“Ăn gian hồi nào, mày ăn gian thì có, tao đói nói tao đói”.
Hai mái đầu, một bạc trắng, một còn xanh… non còn cãi qua lại một chập nữa, biết khó thay đồi ý ông Tư, lỡ ông hông chịu hớt tóc cho thì khổ, nó dịu dọng:
“Thôi, oánh ba ván nữa, nhưng ông ăn cơm đi để hồi ông đổ thừa”.
Ông Tư gạt ngang:
“Oánh tiếp, tao hết đói rồi, hạ thủ bất hoàn nghe mậy”.
Chú Tám Phèn ghé vô tiệm hớt tóc ông Tư:
“Chú Tư hớt cho con cái tóc”.
Ông Tư ừ, à:
“A… a, mai đi Tám”
Chú Tám hỏi lại:
“Sao giờ hông hớt, mê cờ quá hả”.
Ông Tư không ngẩn mặt lên:
“Làm gì có, tại… tại… gởi cái dao cạo… đi mài rồi, mai mới lấy, hớt hông cạo coi sao được”.
Chú Tám nửa tin nửa ngờ nhưng thấy ông Tư chăm chú vào ván cờ quá nên thôi:
“Dạ, thôi mai con ra, chà thằng nhỏ con anh Hai oánh cờ cũng dữ hen, dám oánh với ông Tư”
Nó cười cười:
“Dạ, oánh cho vui chớ con oánh dỡ ẹt”.
Hai ván tiếp theo bất phân thắng bại, lại là 1-1. Ván thứ hai oánh trong trời nhá nhem cho tới hết thấy đường, chuẩn bị ván thứ ba, nó đứng dậy:
“Dạ, thôi coi như huề, con về” – và nó chờ trận đòn.
Ông Tư lần chần, rồi đứng dậy đốt cây đèn dầu:
“Khoan, vô đây ông hớt nhanh cho rồi về”.
Ngồi lên ghế mà lòng thấp thởm, hớt xong nó lóng ngóng:
“Dạ… dạ… con hông có tiền”.
Ông Tư cười xuề:
“Ông hông lấy tiền, biết bây làm gì có tiền…- ông Tư được nước nói luôn – Ông thả cho bây đó chớ”.
Nó mừng quýnh chạy biến trong bóng tối nói với lại:
“Bữa nào rảnh con ghé oánh cờ với ông Tư”.
Nhưng nó vẫn không thoát trận đòn vì cái tội đi biền biệt.

***

Mỗi lần bị oánh đòn đau thì có đau nhưng thường hay được bù cho những thứ khác sau đó như dành cho sẵn nguyên con cá tươi ngon trong bữa cơm, nấu chén chè chén cháo… Gắp con cá cho mà má nó rưng rưng, nó cũng vậy, biết má nó đâu muốn oánh chỉ vì quá nóng giận và trong hoàn cảnh này khó có thể không bực tức. Cá chè… nó khoái lắm nhưng khoái nhứt là tối đến được má cho gát đầu trong lòng nằm trên bộ phản để má mân mê tuốt trứng bắt chí trên đầu, đã ngứa và êm ái vô cùng và lại còn được nghe tiếng ngâm nga những câu ca dao, những bài hát dân ca, có những bài mà mãi về sau này nó không thể quên:

“Ngó lên hàng kẽm Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi
Thương cha nhớ mẹ thì về
Nhược bằng thương cảnh nhờ quê thì đừng”.

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.

“Ngó lên hàng núi cao măng
Thấy ba ông đội cởi trần nấu cơm
Một ông xách chén đòi đơm
Hai ông ứ hự nồi cơm đương vần”

“Đói lòng ăn nửa trái sim
Uốn lưng bát nước đi tìm người thương
Người thương ơi hỡi người thương
Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng”…

Má nó như cái kho tàng chứa ca dao dân ca, tục ngữ, bài vè, câu hò câu hát, hát đối hát bội… phải nói nhiều như trứng như chí trên đầu nó. Nó chẳng mắc cỡ vì điều này, ai ai từ lớn tới nhỏ lại không vậy, nó còn ít hơn đó chớ. Nhiều đứa trứng trắng đầu, trứng no tròn bóng lưỡng đi trong nắng mà thấy ánh lên những tia phản chiếu, có đứa đang học ngứa quá, lấy tập để trước mặt, tay quào quào cào cào mái tóc là chí rớt lộp độp xuống, ấn ngón cái giết kêu lốp bốp. Lại có đứa chí mén nhỏ xíu len lỏi trong từng chân tơ kẻ tóc rất khó bắt, khó chải rơi rụng hết bị cắn ngứa quá gãi tróc da đầu thành ghẻ chóc lục cục đầy. Có đứa phải cắt tóc sát nhưng thành lỏm chỏm để trị ghẻ, cạo đâu có được. Còn có chuyện rùng rợn, có đứa em của thằng nào đó mà nó không dám nhớ tên đau nhứt cái ghẻ chóc trên đầu quá, đứa anh gở mày ghẻ thì thấy cái chấm trắng ngỡ là mủ nhưng nặn hoài không ra, cưng cứng và lâu lâu nhúch nhít, kiếm được cái nhíp khựi và gắp ra thì muốn té ngửa, là con dòi, trời ơi nó đóng xung quanh sắp lớp một dề, gắp ra gần cả chục con, nghe muốn ớn lạnh hơn cảm cúm. Chí nó sanh và lây lan lẹ làng kinh khủng trong khi xà bông nào có, có được xà bông cục 72% cứng như đá hay hộp xà bông kem màu xam xám sền sệt để giặt giũ, ai lấy gội đầu tóc cháy vàng hoe như râu bắp. Nhiều người lấy sáng kiến từ cách giã than nhuyễn hay cát để rửa chén với sơ mướp khô cho bớt dầu bớt mỡ, bỏ lên đầu mà gội nhưng có mấy công hiệu gì, tội tình thêm, rồi tìm kiếm lá này lá nọ nấu nước tắm gội mà trị. Lâu lâu dì nó gởi ra ít đồ trong đó có cục xà bông gội Camay hay Lux là mấy chị nó nhảy chân sáo cất kỹ đâu tới lượt mấy nhóc con. Ôi thôi! đâu chỉ vụ chí đã khổ không đâu, lại sanh đâu ra rận rệp, rận rệp trong ngóc ngánh nào trên giường, trên mùng mền, chiếu gối nó cũng chui rúc ẩn mình được, chờ chực đêm về có hơi người là mò ra mà chích, mà hút máu, rận rệp sanh cũng không thua kém gì con chí. Dăm ba bữa phải đem vạt giường, chiếu gối… ra sân nắng đập giũ và phơi, sanh nhanh quá cách bình thường giết bằng tay trị không nổi phải dùng tới thuốc rày mà phun mà phết, nhà cửa vương vấn cái mùi nồng nặc của thuốc, thuốc rày độc hại khỏi phải nói, vậy mới giết

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

One thought on “CƠN GIÓ MANG HỒN TUỔI THƠ (TT)

  1. ”Nghèo không có ăn lấy chi học?”Nói theo kiểu nghèo ”Kệ cho dốt!”Tư tưởng của nhà bần cố nông!?Chăn bò được việc có lợi hơn ..Kha khá kinh tế no cái bụng .Cho học ba mớ biết tính toán Vậy là cha mẹ xong bổn phận!Thời buổi bây giờ cần gia tăng-Sản xuất cần lao động là Chính?Hợp Thời quá đi thời thanh bình -Bao cấp chỉ đạo từ CẤP TRÊN Tất cả mọi việc có toan tính ?Qui mô hoàn chỉnh đúng lập trình…Dân tuân thủ răm rắp không biếng ?Rất siêng tham gia những công trình…Nào thủy lợi đắp đập ngăn sông Nào hô hào khẩu hiệu nghe Sướng!”Cố lên ”sỏi đá cũng thành cơm”!Làm và làm cắm cúi lạm lụng…Chẳng biết thấy gì tình hình chung!”.Nhìn xa hiểu rộng”khỏi mắc công! CÓ TRÊN lo hết dân chỉ sống ”Tay làm hàm nhai”no cái bụng!Mặc ông giã lão nói lung tung..”Nước chảy như thác ở đầu nguồn..Mấy tảng đá chặn ráng cố công !Vô ích cái việc của dã tràng!?Dưới tầm nhìn không thể TIẾP CẬN?”Thằng Tôi nhân vật trong chuyện! Bị ĐÁNH ĐÒN hoài riết hết ngán!Nghèo dốt đi chơi rong lang thang…Chơi cờ người lớn biết bị gian !”Hớt tóc miễn phí”nên kiên nhẫn …Đánh cứ vẫn đánh chẳng đầu hàng Vì biết Ông Tư ghiền Cờ nặng ?Chơi thả ăn thua nào có màng?Cuối cùng CÁI ĐẦU cũng sạch boong?Mặc kệ biết về sẽ bị đòn! Ba rầy Má la cũng chịu luôn! Xin miễn mất việc”được má thương..”BẮTCHÍ RU NGỦ nghe thấy sướng!”Nhưng câu ca dao vào tâm hồn..Lâng lâng khoái câu hát ngàn thương….”Con CHÍ RẬN nó cắn nhột buồn…Con bò ”dân chơi cầu ba cẳng ”thấy sướng! Con MÈO con CHÓ có lông Bụi TRE có MẮC Nồi ĐỒNG có QUAI…khiến Tôi ngủ say….”

    Thích

Comment