CƠN GIÓ MANG HỒN TUỔI THƠ( TT)

ledachoanghuu

Mươi ngày sau thì lúa chín. Bà con tiếp tục đi gặt lúa chở lúa bó về nhà ông Sáu Hoàng để đạp. Ngày đầu tiên có vài đứa nhỏ mót lúa. Đi mót có một buổi mà được cả giạ lúa hột, ai nấy trợn tròn mắt, vậy là nhà nào có con nít đều xua ra mà mót. Nó cũng xách thúng mà đi. Mót lúa xót thì ít nhưng đi gần để người gặt len lén huơ một lưỡi liềm bỏ vào thúng là nhiều. Chú Tư râu phát hiện nhưng một mình đâu có quản xuể, chạy đầu này thì đầu kia không ai coi. Lúa chất lên xe bò chất ngất, trên đường về gặp đường gập ghềnh rớt xuống lộp độp cũng mặt kệ, mấy anh chẳng thèm lượm, giả lơ để ai lượm được thì lượm. Dì Tư Thệ nói:
“Để bà con cứu đói chớ để chở đi hết cũng vậy”.
Hôm sau xuất hiện ông Hoạt là trưởng và hai người cùng làm ban kiểm soát của hợp tác xã lên coi cùng với chú Tư râu. Ông Hoạt người miền ngoài nói đi làm là đi nàm, ông lại lùn tịt nên bà con kêu ông Hoạt nùn và hay chọc ghẹo, kể cả con nít, hay chạy theo nhảy lưng tưng đọ chiều cao với ông. Thằng Hào ngổ ngáo lếu láo, lót nhót trước mặt ông Hoạt ngêu ngao rồi chạy biến như sóc chỉ thấy dáng ông Hoạt lúp xúp đuổi theo:
“Ông Hoạt nà ông Hoạt họa, ông Chét nà Chét na mo* ( nhân vật lùn Chét-la-mo trong phim Rút Lan và Rút Mi La)”.
Hoạt họa là phim hoạt hình thường chiếu trước khi vô chiếu phim chính thức của đội chiếu bóng lưu động, một vài tháng về chiếu một lần cho bà con coi. Anh Hải tặc thấy ông Hoạt liền hỏi:
“Ông thầy khỏe hả ông thầy?”.
Ông Hoạt xốc xốc cái sợi dây đai có đeo cây súng ngắn bên hông ra oai trả lời:
“Tôi khỏe chán mới ra đây kiểm soát các anh chứ”.
Có một câu mà ông Hoạt hay nói nên dì Tư Thệ cà khịa:
“Cán bộ Hoạt oai phong ghê, nàm cán bộ phải như thế chứ nỵ, mà cán bộ ơi tui no nắm…”
Ông Hoạt cắt ngang lời dì Tư:
“No cái gì mà no, bà con đừng có no, cứ để nhà nước no”.
Vậy là bà con hô theo một giọng:
“Bà con đừng có no, cứ để nhà nước no”.
Đám con nít cười hô hố trong sự ngạc nhiên của ông Hoạt.
Có thêm ông Hoạt kiểm soát, bà con ém lúa kín đáo hơn. Chỗ có lúa tốt gốc rạ cao, cắt lúa rồi để xuống đạp gốc rạ che đậy, con nít đi sau thấy chỗ nào nổi u lên moi mà lấy. Lúa chất để đạp ra hột cũng vậy, mấy nhã về đêm mệt mỏi hết kiểm soát, còn hột đầy vẫn lấy mỏ gãy xốc bỏ rạ, có anh có chú còn xốc qua loa sơ sài lúa hột rớt còn dính đầy trong rạ. Đám con nít lại được phen vò tay mà lấy lúa. Xong vụ mót nó hỏi thằng Hào:
“Ê, mày mót lúa được khá hông mậy?”.
Thằng Hào cười cười:
“Tao kiếm gần chục giạ, thằng Cọt mới nhiều”.
Thằng Cọt lên tiếng:
“Tao cũng cỡ mày chớ bi nhiêu, mày lanh thấy mồ tổ”.
Nó không lanh bằng mấy thằng này nhưng nhờ bứt thêm lúa sót, đó mới đúng là mót lúa nên cũng xem xem như tụi nó. Một giạ lúa cân bảy ký lô, xay ra được bốn ký gạo. Nhà nó mười giạ ăn độn thêm khoai bắp cũng được gần cả tháng. Đem lúa mót về má nó vẫn biết là đâu chỉ có mót không thôi, mót không với chừng đó thời gian làm gì được vậy với lại bà con cũng râm ran mà. Nhưng cả làng cả xóm, cả đội ai nấy gần như nhau nên tản lờ coi như là lúa mót.
Lúa phơi khô xong bà con nghĩ chắc cũng như bắp, được chia chút ít nhưng không, có thông báo vụ này chở về hết hợp tác xã, vụ kế tiếp bà con mới hưởng trọn. Bà con ngớ ra, Chú Ba Mạnh buồn thiu:
“Cũng tại bà Bảy hết đó”.
Dì Bảy Thệ sửng cồ:
“Tại tui cái gì cha nội?”.
“Tại chị ăn mắm ăn muối, khi không hổm nói để chở đi hết cũng vậy”.
“Tui hông nói cũng chở hà cha nội, có để lại cho hông?”.
Dì Bảy Thệ tánh tình như đàn ông, rổn rảng mà nói, có sao dì nói vậy chẳng sợ làm mích lòng ai, ngó vậy chớ bên trong dì là con người đầy tình cảm. Nghe cái giọng buồn thiu của chú Ba mạnh là dì biết liền, nói thì cứ nói nhưng tối hôm đó dì sai thằng con bưng qua nhà chú Ba thúng giê gạo, dì biết tỏng nhà chú Ba đang đói ran.

***

Bà con uể oải với vụ hai. Làm còn tà lơn hơn vụ đầu, bất mãn hiện rõ ra mặt, cày đường có đường không cho mau xong càng tốt, bỏ lõi đầy khắp ruộng. Xạ lúa chưa thấy lên đã thấy cỏ xanh rì. Dì Bảy Thệ lại rổn rảng:
“Ê, ông Ba Mạnh, nghe cái miệng ăn mắm ăn muối của tui nữa nè, tui nói thiệt vụ tới chưa chắc gì đâu nghe”.
Anh Hải tặc tiếp luôn:
“Chị Bảy nói chí lý, dễ có sai à”.
Chú Ba Mạnh gãi đầu nói nhỏ:
“Thôi chị ơi, chị la lớn mấy ổng nghe thì chết”.
Dì Bảy chề môi:
“Trời! sợ gì nữa chú, còn gì nữa mà sợ, hủi rồi mà còn sợ lở sao”.
Bo bo trổ bông. Cây bo bo hình dạnh rất giống cây bắp nhưng thay vì trổ cờ nó trổ bông rồi kết hột thành chùm ngay chỗ bông. Bo bo chín hột màu đen đen cứng ngắt. Thu hoạch về bà con được chia mỗi hộ cỡ bao năm mươi ký. Số còn lại cũng chở về hợp tác xã. Bà con thấy hột lạ, chưa ăn bao giờ, háo hức nấu ăn thử. Nấu hầm thiệt lâu như kiểu phải ninh nhừ mới ăn được. Hôm ra đồng, anh Hải tặc hỏi dì Bày Thệ:
“Chị Bảy ăn bo bo ngon hông?”.
Dì Bảy thè lưỡi:
“Tao nhai nó cà nhệnh cà nhệnh muốn trẹo quai hàm mày còn hỏi”.
Anh Hòa chen vô:
“Tưởng sao nó lạt thếch cha nội, chẳng tí mùi vị gì, dai như dẻ rách”.
Anh Hải cười khách khách:
“Thì hổm trước có người nói người ta trồng cho gia súc ăn hổng đúng à, thôi ráng nhai bà con ơi”.
Dì Bảy tiếp:
“Thì cực chẳng đã phải nhai phải nuốt như heo chớ giờ sao mậy”.
Ba nó và chú Ba Mạnh lắc đầu. Vài người thở dài. Chú Ba mạnh nói:
“Ờ mà chị Bảy, theo anh Hai nói nè, nấu chín rồi giã thành bột, làm bánh hấp ăn dễ nuốt nghen chị”.
Dì Bảy cười khì:
“Ờ, có lý hén, anh làm rồi hả anh Hai?”.
Ba nó gật đầu:
“Tụi nhỏ ở nhà làm thử, tui thấy cũng tàm tạm”.
Dì Bảy tiếp:
“Nghe lời anh hai, chịu khó làm cho dễ nuốt bà con”.
Bà con nghe vậy gục gật đầu: “Ừ hen”.

***

Lúa và cỏ cùng thi nhau mọc trên ruộng, cho dù có làm cỏ đàng hoàng vẫn thấy cỏ nhiều hơn, lá lúa vàng hơn cỏ. Một bữa ba nó không đi làm, chú Ba Mạnh chạy ào lại nhà:
“Anh Hai ơi anh hai, anh Hai có nhà hông vậy?”.
Ba nó chạy ra:
“Có chuyện gì mà gấp gáp vậy chú?”.
Chú Ba Mạnh vừa thở vừa nói:
“Anh ra coi thử chớ tui thấy lá lúa có đốm đen xì nhiều lắm, mới hồi sáng thấy còn ít tới chiều đã lan ra cả mảng, không biết sâu bọ gì”.
Ba nó nói lại:
“Sao chú hông báo với chú Tư”.
“Anh Tư đi học hành gì mấy bữa rồi”.
Ba nó và chú Ba Mạnh chạy ra đồng, coi đi coi lại một hồi ba nó lắc đầu:
“Vụ này tui cũng bó tay, chưa thấy bao giờ, hổng biết là gì, phải chờ chú Tư về thôi”.
Ba bữa sau chú Tư râu về, chú Ba Mạnh báo ngay tình hình ngoài ruộng lúa. Chú ra ruộng coi tới coi lui một hồi cũng lắc đầu:
“Tui cũng chẳng biết bị gì, để báo hợp tác xã, mấy đội bên nghe nói cũng bị như vầy”.
Anh Hải tặc lắc đầu khi chú Tư đi khỏi:
“Cha nội này biết gì mà coi mà nói”.
Anh Hòa quay qua anh Hải:
“Mày làm gì ác cảm với ông Tư dữ vậy?”.
Anh Hải thản nhiên:
“Ác cảm gì, tui nói thiệt cha này có chút trình độ nào, mà nói tui ghét cũng phải bởi cái mặt làm được chút quan làm phách, kè kè cạp táp vểnh mặt làm tàng với bà con, nếu đội mà có được những người có trình độ, tui phục theo liền, bà con chắc cũng vậy chớ gì, bây giờ ra nông nổi này rồi đó, sáng kiến sáng tạo của bà con có còn gì hông, xếp vô xó hết rồi”.
Ba nó quay qua anh Hải:
“Thôi thôi Hải ơi, chắc rồi chú Tư tính được mà”.
Gần tuần sau mới có người ở phòng nông nghiệp huyện xuống. Đi đoàn cán bộ bốn người, tới xem một hồi không bao lâu rồi về hợp tác xã. Ở hợp tác xã mần gà đãi cơm trưa, chú Tư cũng đi dự, hơn xế chiều khệnh khạng đi về, gặp chú ba nó hỏi:
“Lúa bị gì vậy chú Tư?”.
Chú Tư đang ngà ngà:
“Cũng không có gì lớn, bị rày nâu rày đỏ gì đó”.
“Chú biết lý do tại sao hông, từ nào tới giờ ở đây mình đâu có thấy?”.
Chú Tư lắc đầu người muốn xiêu quẹo:
“Tui có hỏi mà mấy ổng trả lời qua loa, nói cũng hông chắc từ đâu, từ giống từ phân hay thời tiết, hay ở đâu lan tới”.
Ba nó lo lắng:
“Có cách gì trị hết hông chú?”.
Chú Tư cười xuề:
“Anh yên tâm, mấy ổng nói bịnh này có thuốc trị, dễ ẹt, bữa nào mấy ổng xuống đem thuốc và tập huấn cho bà con”.
Gần tuần nữa đoàn người trên huyện mới trở lại. Lúc này rày đã lan rộng khắp. Mỗi miếng ruộng bị ăn hơn phân nửa, những chỗ cỏ nhiều thì lúa tàn úa hết, còn lại những chỗ lúa tốt mới đơ đỡ. Đoàn cán bộ đem theo một cái bình xịt và mấy chai thuốc, chỉ cho bà con pha bao nhiêu thuốc với đầy nước trong bình, bơm hơi như bơm bánh xe đạp rồi máng lên vai bóp van xả mà xịt lên lúa, tập huấn chừng mười phút là xong, rồi mấy ông cán bộ lại về xã để chứng nhận đã xuống làm việc và xã tiếp tục được đãi cơm trưa.
Trên đồng ruộng mấy anh thanh niên trai tráng thay phiên nhau xịt rày lúa, hai ba bữa sau rày không lan rộng ra nữa nhưng cũng đi tong gần hai phần ba rồi.

***

Một bữa hợp đội thường lệ để chú Tư râu thông báo tình hình chung, trên chú Tư nói rồi người hợp tác xã nói dưới bà con người dựa tường, người ngáp vặt, người chuyện trò. Chỉ cuối cùng dì Bày Thệ đứng dậy xin hỏi bà con mới chú ý:
“Cho tui xin hỏi câu này được hông mấy ông cán bộ?”.
Chú Tư trả lời:
“Chị Bảy hỏi gì cứ hỏi?”.
Dì Bảy hỏi:
“Cho tui hỏi là mùa lúa này tính sao?”.
Chú Tư hỏi lại:
“Chị hỏi tính sao là tính sao?”.
Dì Bảy tiếp:
“Thì hổm trước nói mùa này bà con hưởng trọn chia nhau có đúng vậy hông, hợp tác xã có giữ lời hứa này hông?”.
Chú Tư cười khà:
“À, tưởng chị nói tính sao là cách tính sao chớ, còn lời hứa này như đinh đóng cột, có giấy có tờ, mùa này của bà con hết, bà con chia nhau theo công điểm”.
Dì bảy ngồi xuống:
“Ờ, vậy tui biết rồi”.
Bà con lại râm ran: “Sâu rày ăn hết mẹ nó rồi còn bao nhiêu”. “Cắt cỏ chia nhau bà con ơi”. “Chia lúa lép về nấu trấu mà ăn”.
Ngày gặt lúa, đội quân mót lúa bị thất nghiệp, qua oánh bò vòng vòng đạp lúa phụ rồi chia phe bày trò chơi đêm sáng trăng, chơi bắn súng cõng chán tới chơi u mọi, u mọi chán tới chơi năm mười, trốn tìm trong những ụ rơm, bụi chuối.
Ngày chia lúa cũng đầy lời ra tiếng vào nào là: “Cái nhà đó làm biếng làm nhát cũng tính công điểm bằng như nhau, người công đầu làm thấy ông thấy cha cũng vậy”, rồi: “Cái thằng đó tới điểm danh xong huơ huơ chút là trốn biệt cũng tính đủ công đủ cán, à thằng này bà con cô bác mấy cha cán bộ”…

***
Mùa mưa đi qua.
Hớp tác xã cho người đốn tre đầy hai xe bò về dựng cái rạp lớn làm đại hội tổng kết một mùa qua. Tre xếp như sạp làm ghế ngồi cho bà con. Hơn ba trăm người đại diện cho hộ gia đình tề tựu về dự. Có đủ các cán bộ huyện, xã và hợp tác xã. Sau khi giới thiệu kính thưa, kính thưa hết tất cả các cán bộ rồi phát biểu khai mạc của ông chủ nhiệm hợp tác xã là tới phần báo cáo của từng đội trưởng. Sáu đội trưởng lần lượt báo cáo, trước khi báo cáo cũng kính thưa và kính thưa đủ. Sáu bản báo cáo na ná nhau, chung quy là thành tích tốt, vướt khó mà nên. Chú Tư râu hãnh diện báo cáo đã hoàn thành chỉ tiêu đóng góp lương thực cho nhà nước theo yêu cầu đề ra, đã góp được bao nhiêu tấn lúa và bà con chia nhau cũng khá, cũng tấn tấn, nêu nhiều sáng kiến đóng góp cho đội và hứa mùa tới sẽ cố gắng làm tốt hơn nữa. Sau đó ban kiểm soát là ông Hoạt phát biểu, ông chủ nhiệm hợp tác xã phát biểu rồi ông chủ tịch xã và cuối cùng ông cán bộ huyện khen ngợi thành tích của bà con, và khuyến khích bà con tiếp tục phát huy tinh thần tập thể này.
Dì Tư Thể lắc đầu:
“Mấy cha này sao mà xạo thấy gớm, bà con sắp sửa đói nhăn răng tới nơi”.
Anh Hải tặc ngao ngán:
“Sáng kiến dẹp mẹ nó hết chớ có xài gì đâu, mấy cái cuốc ba lỗ, cày rãnh hai lưỡi của bác Hai làm bỏ xó mà kêu có thêm sáng kiến”.
Hiền khô như anh Hải đất cũng lắc đầu:
“Sao mấy ổng nói được vậy hay ghê”.
Đại hội tổng kết mất đứt hai ngày.
Hợp tác xã phát cho mỗi đội một cặp heo mỗi con cỡ sáu bảy chục ký để làm liên hoan buổi tối đại hội xong. Đội nó tụ tập ở nhà ông Sáu Hoàng nấu nướng cùng ăn chung. Lòng heo nấu cháo, mỗi nhà góp vài lon gạo, người người lớn nhỏ tự đem tô chén tới tranh nhau xì xụp húp. Đổi bớt gạo lấy bánh tráng cuốn thịt heo luột, xương hầm chấm nước mắm mà gặm.
Lúc đi đại hội tổng kết về ngang nhà ông Sáu Hoàng chú Ba Mạnh hỏi ba nó:
“Anh có ghé liên hoan hông anh Hai?”.
Ba nó lắc đầu:
“Tui hổng ghé đâu chú Ba, lu bu ngại lắm”.
Anh Hải tặc chặc lưỡi:
“Mấy cái vụ ăn tập thể này thấy ớn, thiếu điều nói là dành giựt, bát nháo kinh khủng”.
Ba nó cười buồn:
“Thông cảm cho bà con, tại đói quá, mấy khi có cục thịt lại như của trời cho”.
Chú Ba Mạnh nói tiếp:
“Tui cũng về luôn”.
Ba nó chặn lại:
“Hay chú với thằng Hải lại nhà tui lai rai chút, coi như mình cũng liên hoan”.
Chú Ba Mạnh và anh Hải gật đầu theo chưn ba nó về nhà.
Mồi mỡ nhà nó cũng chẳng còn gì. Còn được mớ khô cá trích đem nướng, và may quá còn mớ sò vặn* (sò đá biển) phơi khô đem xào với lá quế. Trong lúc người lớn nhâm nhi nó hái trái bầu luộc để ăn với cơm.
Cụng ly rượu với ba nó, chú Ba hỏi:
“Hổm anh được chia bao nhiêu lúa”.
Ba nó thở hắc ra:
“Được ba chục giạ chú ơi”.
Anh Hải uống cái ực:
“Bác Hai hơn nhà con rồi, con được hai mươi lăm giạ”.
Chú Ba Mạnh rầu rầu:
“Tui cũng chừng đó chớ nhiêu, làm cả mùa được chừng đó ai ăn ai nhịn đây hông biết”.
Anh hải nhẩm nhẩm:
“Chừng đó nhà con ăn chưa được hai tháng chớ mấy, dự trữ bây giờ sắp cạn, sang năm chắc đói vài tháng rồi”.
Ba nó lắc đầu:
“Tui cũng chắc gì đủ tới giáp hột”.
Chú Ba thở mạnh:
“Nhà anh và thằng Hải còn đỡ, tui mới khổ, mượn nợ quá trời, giờ hông biết lấy đâu trả, còn ăn thì chắc được hết tháng giêng”.
Trời có gió mát mẻ, trăng lên tròn quay sáng vàng chóe, không khí bàn nhậu lại trầm lắng đến rợn người, chìm sâu trong tiếng thở dài thở ra. Có tiếng the thé từ cái ô bặc lưa hướng hợp tác xã vọng tới, chú Ba Mạnh càng không vui:
“Văn nghệ với văn gừng, đói tới nơi lo chưa nổi…”.
Chị nó đi coi văn nghệ ở hợp tác xã về, ba nó hỏi:
“Ủa, sao về sớm vậy con?”.
Chị trả lời:
“Dạ có coi được gì, người ta chen lấn rần rần, xô đẩy làm ghế tre đổ ào ào, có người còn tranh thủ cắt dây vác tre về nhà, loạn xạ lắm coi gì được ba ơi”.
Anh Hải ngạc nhiên:
“Mấy ông cán bộ, mấy ông du kích đâu?”.
“Dạ, có thấy mặt mũi ông nào đâu anh, nghe nói mấy ông nhậu xỉn xà càng, mấy ổng có mấy người cũng được hai con heo, mần chia cả chục ký về nhà, còn lại ở đó nhậu té ngửa hết có biết trời trăng mây gió gì”.
Ba nó, chú Ba Mạnh và anh Hải chỉ còn biết lắc đầu, cụng ly uống cho bỏ nghẹn. Ba nó trầm ngâm:
“Thiếu thốn đủ điều, đôi khi cũng chẳng trách được bà con, đoàn chiếu bóng* (Chiếu phim) đoàn ca kịch, cải lương mấy tháng mới về diễn một lần, bà con cũng đói mấy chuyện này luôn, mỗi lần có đoàn là như có hội, xô đẩy chen lấn kiếm chỗ coi cho rõ, con nít khoét rào chui cửa …”.

***

Thêm một cái Tết nữa lại đến.
Một cái Tết đến trong không khí trầm lắng đến buồn hiu hắc. Không có tiếng pháo đì đùng mà chỉ lẹt tẹt chẳng đủ để giựt mình. Bà con cô bác cố chặt mai rừng về chưng trong nhà ngoài ngõ, những cánh hoa vàng chóe, những nụ, những lá non mơn mởn khoe sắc vẫn không đủ che lấp những gương mặt đầy lo lắng, những đôi mắt nghi ngại, ngày mai ra sao?. Ngoài đường mọi năm rộn rã, năm nay vắng lặng dăm ba đứa nhỏ tụ tập chơi trò chơi, bầu cua cá cọp hay bài bạc ba ngày Tết bị cấm cửa.
Chú Ba Mạnh ghé nhà chúc Tết không nở nổi nụ cười, chú Ba thì thào:
“Điệu này khó quá anh Hai, tui có ý này hông biết có nên nói hông?”.
Ba nó đáp:
“Chú Ba kỳ nghe, tui với chú còn giữ kẻ hả, có gì chú nói tui nghe”.
Chú Ba chậm rãi, nhấm ngụm rượu:
“Tui định nói hay tui với anh ra giêng này lén vào rừng phát hoang làm rẫy làm ruộng riêng, chớ bám vô hợp tác xã hết chỉ có nước lấy cám mà ăn”.
Ba nó trầm ngâm suy tính:
“Ý chú cũng được, nhưng mà dễ bị bắt chớ chơi?”.
Chú Ba thấy ba nó có vẻ đồng tình, chú vui lên đôi chút:
“Mình đi xa xa chút anh Hai, ở trỏng họ hông có tới đâu”.
“Phải qua rẫy bắp nhiều mới được”.
Chú Ba gật đầu:
“Đúng rồi, phải xa nữa, hổm đi chặt mai tui lang lang coi thử rồi”.
“Vậy chú có tìm được chỗ nào chưa?”.
“Có, tui tìm được chỗ rồi, chỗ ngon lắm, có mấy lao tre nhìn là biết đất tốt, chỗ này phát làm rẫy, cạnh sát bên có dãy đất trũng giờ còn nước lấp sấp làm ruộng khỏi chê. Chỗ này gần Bàu Đôi, nước quanh năm, đây là chỗ nghỉ chân uống nước cho bò kéo xe đi rừng sâu đó anh”.
Ba nó gục gật:
“Vậy hả chú, nhưng đủ xa hông?”.
Chú Ba cười:
“Xa lắm, đây vô đó chừng sáu bảy cây số lận, gần cả chỗ đường ray xe lửa chạy qua, chưa ai đặt chân tới làm rẫy làm ruộng gì hết”.
Ba nó chặc lưỡi:
“Vậy cũng được, nhưng nói làm sao đây, người ta hỏi thì nói đi đâu?”.
Chú Ba nho nhỏ tiếp:
“Mình đi làm nói là đi củi, tui định để bà xã ở nhà tham gia làm suốt ở hợp tác xã, còn tui lâu lâu cũng về làm vài ba bữa thôi, anh có mấy đứa nhỏ”.
“Ý chú hay đó, mà cùng lắm mình nói mấy bả thông báo hổng biết hai cha này trốn biệt đi đâu chớ gì”.
Chú Ba cười kha kha:
“Dạ đúng đó, cùng lắm kêu mấy bả lên báo rồi chửi um sùm là chồng con gì tệ bạc, làm biếng làm nhác, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ con cái nheo nhóc biệt tăm chốn nào, chỉ lo cho cái thân cái xác của mình”.
Ba nó cũng cười ha ha theo:
“Hay, hay, bữa giờ tui cũng tìm cách gì mà chưa có, chú tính vậy tui chịu, sau mùng năm mình đi luôn hén”.
Chú Ba gật đầu liên hồi:
“Tui sợ anh hông chịu chớ vậy là hay quá, thôi sẵn đây, Tết nhứt anh em mình đốt nén nhang cầu Trời Phật, tổ tiên”.
Ba nó và chú Ba cùng đốt nhang lầm rầm khấn vái.

***

Mùng sáu ba nó và chú Ba Mạnh chuẩn bị đồ đạt, cuốc rựa, quần áo, gạo muối… quẩy đồ đi từ sáng sớm, trước cả tinh mơ.
Tới nơi, ngay chỗ chú Ba Mạnh tìm được, ba nó gật gù:
“Chà, chú tìm ra chỗ này ngon đó chú, đất đẹp, có nước nôi, xung quanh cây cối còn xanh um, mát mẻ lắm”.
Nghe ba nó khen chú ba vui ra mặt:
“Được hen anh Hai”.
Việc đầu tiên của ba nó và chú Ba Mạnh là đốn cây, cắt tranh làm cái chòi, thêm cái sạp bằng vạt tre để ngả lưng trưa tối rồi đào cái giếng nhỏ lấy nước cạnh chòi, giếng phía dưới đất trũng định khai hoang làm ruộng nên đào chỉ hơn một thước là có mạch nước ra trong vắt, mát lạnh. Xong mấy việc đầu tiên này là bắt đầu phát lao tre làm rẫy, phát bên trong lao chừa những bụi bên ngoài vừa làm hàng rào vừa để che mắt, có ai đi ngang cũng không thấy gì bên trong. Một tháng rưỡi ròng rã phát miệt mài được chừng sáu sào đất thì dừng lại, tre phát ngã nằm rạp xuống chờ khô mà đốt sạch còn đất và lấy tro làm phân cho ruộng.
Bên trong lao tre còn nhiều cây to, cưa từng khúc cỡ một thước rưỡi vác ra ngoài, để đốt than. Đốt than phải đào hầm. Hầm đào cỡ một thước chất cây củi xuống rồi đất đất lại, đấp đất kín mít thiệt kỹ chớ không cây cháy trụi ra tro, chừa vài cái lỗ thông hơi cho khói bay ra, đầu miệng hầm khi mồi lửa xong là lấp lại luôn, hầm than cháy hết tới đâu là đất sụp xuống dập tắt lửa còn than tới đó, vài ngày sau hầm nguội thì dở lò lấy than. Mỗi hầm than mất gần tuần lễ, ba nó và chú Ba Mạnh làm được ba hầm từ cây trong lao tre, con số như vậy là khá. Chú Ba Mạnh mừng lắm nhưng vẫn còn lo:
“Than mình hầm được nhiều bán mà suôn sẻ khỏi lo đói anh Hai”.
Ba nó vừa cho than vô bao vừa gật đầu:
“Cầu mong ông bà độ cho, bán được suông sẻ, không bị bắt bớ”.
Chú Ba lúc lắc đầu:
“Mong là vậy chớ cực khổ quá, không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt”.
Ba nó cười:
“Có cả máu nữa chớ, có lẽ làm rẫy đốt than là cực nhứt nên bà con có câu là than thở, thở than”.
Chú Ba vấn điếu thuốc:
“Lầm than nữa đó anh”.
Than đưa về canh chừng gánh về ban đêm, không đám đi ban ngày. Má nó và vợ chú Ba Mạnh mỗi lần chở hai bao sau chiếc xe đạp về thị xã bán cũng đi từ tờ mờ sáng, tránh trạm kiểm soát, đâu dám kêu xe lam lại chở, mất nguyên xe có nước đi ăn mày, má nó nói như vậy.
Làm củi, đốt than để đem bán bây giờ là trái phép, bị cấm ngặt nghèo. Đốt rẫy vậy luôn. Mà đâu chỉ rẫy và than củi bấy giờ đi buôn cũng cấm, chỉ được bán bằng cái thúng cái mẹt ở chợ, xách theo bên người trên bốn ký gần như bất kỳ thứ gì chỉ trừ như rau củ là bị gọi buôn lậu, bị tịch thu. Ngày trước chỉ có cái trạm kiểm soát Căn Cứ Bốn nổi tiếng gắt gao, dân buôn khều nhau đi chuyến nào lọt qua trạm này coi như chuyến đó thắng. Bây giờ mọc thêm rất nhiều trạm, cách vài chục cây số là có trạm. Trạm kiểm soát dân buôn lậu và kiểm soát luôn người đi đường, có đầy đủ giấy tờ, giấy thông hành hay không.
Dân buôn lậu lúc này chuyên buôn mực khô với cồi sò, cồi của con sò điệp phơi khô. Chuyển vô Sài Gòn bán một vốn bốn lời, có khi còn hơn. Mực thì chỉ dành ăn chơi, cồi sò có tính ngọt nghe nói để làm bột ngọt nên mắc mỏ, bột ngọt bấy giờ quý cũng như gạo. Đủ mánh khóe cho dân buôn che mắt trạm kiểm soát, từ nhét đủ chỗ trên xe, trong bánh xe, làm ngăn làm hộc, rồi bó đầy người, đi đứng khệ nệ như bức tượng gỗ cho tới xử dụng xe hồng thập tự, xe cấp cứu, và cả xe mai táng… để buôn.
Có những đêm đang ngon giấc chợt giựt mình nghe tiếng súng nổ liên hồi. Mở mắt ra coi thử chuyện gì mới biết xe ở trạm kiểm soát rượt theo xe buôn lậu, đạn bay chéo chéo cứ bay xe cứ nhấn hết ga mà chạy, mà vượt. Có khi thoát được có khi bị bắt. Rồi có lúc không phải là xe buôn lậu mà là của những gia đình dỡ nhà trốn xứ mà đi.
Trạm kiểm soát ở xã nó ban đầu còn để cái barie chắn ngang đường, sau xe cố vượt trạm tông gãy ngày một nên đổi thành những cái thùng phuy đổ đầy cát chắn ngang đường. Xe dừng lại kiểm soát xong, tắt xuống con đường đất nhỏ mà qua, con đường vừa nhỏ vừa xuống dốc sâu đố xe nào vượt được.
Có lần gặp đoàn xe tải lớn mang bảng số Campuchia, họ xuống xuất trình giấy tờ xong kêu dọn đường để xe đi chớ nhứt quyết không xuống đường đất nhỏ. Ông ngồi trong trạm hất hàm:
“Không đi thì nằm đó mà chơi”.
Vậy là đoàn người trên xe quay lại hùng hổ rút súng bắn xối xả, lấy lựu đạn hăm he rút chốt quăng vào trạm, mấy người ở trạm mặt cắt không còn giọt máu, dù có súng cũng không dám chống trả, giơ tay cầu hòa, ra hì hục lăn thùng phuy dọn đường. Về sau gặp đoàn xe ngang tàng như vậy không dám đả động lấy một câu.
Bán than bà con còn cắm cái cây ven đường lộ cột cục than làm ám hiệu. Xe thấy muốn mua dừng lại, người ngoài đường canh gác, trong nhà vác chạy ào ra. Xăng khan hiếm xe chở khách bắt đầu chuyển qua chạy bằng than nên hiển nhiên phải chở theo than, chỉ bị bắt khi chở nhiều quá, xe chạy bằng than gọi tắt là xe than, có cái thùng sắt hình trụ tròn dài thòn phía sau đốt lửa chạy bằng hơi nước. Xe chở theo than cho mình còn thêm vài bao chuyển vào Sài gòn bán kiếm lời.
Xăng khan hiếm đến nỗi có tiền cũng mua không đủ cho chiếc xe Mobylette, chiếc xe này lại chạy kèm nhớt mới khổ. Ba nó tháo hết máy cho nhẹ thành ra chiếc xe đạp, đạp tàn tàn thồ củi tới hồi bánh xe bị lủng bởi đường rừng, chẳng thể mua đâu ra ruột để thay vậy là đành treo dàn khói.
Một bữa nhà nó nhận được thơ từ Sài Gòn gởi ra tin dì bị bịnh phải mổ. Má nó phải tức tốc đi. Nó cũng được xin nghỉ học vài bữa vô coi nhà. Ba giờ sáng má con đón chuyến xe lam đầu tiên chuyên chở rau củ về thị xã, bốn giờ thì tới bến xe xếp hàng mua vé, hai chuyến xe sáu và bảy giờ sáng khởi hành mà người xếp hàng mua vé dài như rồng rắn và khi gần tới lượt thì được thông báo… hết vé, phải chờ chuyến ngày mai. Má con phải lang thang hết chỗ này tới chỗ khác khắp thị xã, lúc tới vườn bông mà chẳng thấy bao nhiêu bông hoa, những cành lá xơ xác trơ trọi trên những bãi cát khô ran, những cái xíc đu, cầu tuột gỉ sét chỏng gọng… lúc đi ngang rạp hát chưa kịp dừng lại coi xuất chiếu bộ phim gì phải bỏ chạy như ma đuổi hòng thoát khỏi những người chặn lại cầm tay nhét ngay tấm vé chợ đen không cầm hỏi nói gì, trước phòng vé dòng người chen lấn có những người mặt mày bặm trợn leo lên hàng rào đạp thẳng trên vai trên đầu người khác bất chấp những cái kéo những cái quất của người giữ trật tự để lọt vào bên trong… lúc ra bờ sông hóng gió cho qua ngày, bờ sông vắng vẻ yên tỉnh nhứt, vài chiếc thuyền neo đậu vài chiếc xình xịch vô ra… Đêm về lại bến xe mướn chiếc chiếu ngã lưng, nhờ chiếc chiếu người cho mướn xí cho một chỗ để mua được vé. Năm tiếng đồng hồ xếp hàng cuối cùng cũng được lên xe, hàng chất trên mui đầy nhóc, xếp trong thùng xe và dưới chỗ ngồi cũng kín mít. Có hai xe cút kít chở lại bốn giỏ cá thiệt to, chú đẩy xe cút kít kêu lớn:
“Cho hàng lên dùm đàn anh ơi”.
Chú lơ xe cằn nhằn:
“Hàng gì giờ mới đem lại, trên mui hết chỗ rồi”
“Thì cho dùm vô thùng”.
“Thùng cũng đấy nhóc, chờ tui sắp xếp lại đã”.
Vừa sắp xếp hàng chú lơ vừa hỏi:
“Ủa, mà hàng gì đó, đừng nói hàng lậu nhe, nhốt xe tui là chết à”.
Bà mập đi theo lên tiếng:
“Lậu gì mà lậu, hổng thấy giấy tờ người ta dán chình ình đó hả?”.
Chú lơ xe nhìn bà mập cười hè hè:
“Trời tưởng ai, bà quen quá trời, tui nghe nói bà là trùm đi hàng lậu, nhưng bà làm sao có được giấy đàng hoàng hay thiệt, tui phải nể”.
Bà mập giãy nãy:
“Thôi nhe mậy, đừng có ăn mắm muối nói bậy, tao buôn bán dùm cho hợp tác xã”.
Chú lơ nhe răng:
“Tui nói bậy bạ trúng tùm lum tùm la, bà mà đi cho hợp tác xã chắc trời sập, à, bà cho thêm tiền bốc vác đó, nặng thấy mồ tổ, một giỏ một tạ hả?’.
Bà mập gật đầu:
“Một tạ, vô tới trỏng tui bồi dưỡng tiền cà phê cà pháo”.
Mấy giỏ cá ướp muối có dán giấy đóng mộc của hợp tác xã đánh bắt thủy sản, bảo bối để lọt qua trạm của nhiều người đi buôn, không biết làm cách nào có được, có người nói vậy.
Từ lúc lên xe, má con nó ngồi chờ thêm một tiếng nữa xe chầm chậm lăn bánh. Xe lăn bánh cà rịch càng tang như vừa đi vừa tham quan. Bà mập mạp ngồi nhấp nha nhấp nhổm:
“Chạy nhanh chút bác tài ơi, chạy vầy vô tới trỏng chắc cá sình lên hết quá chớ đừng nói là ương”.
Một người nữa lắc đầu:
“Chạy gì như rùa bò hông biết”.
Vài người nhăn nhó:
“Chắc tới mai mới tới”.
Một bà bác lớn tuổi lên tiếng:
“Thôi đừng có nói xui xẻo, chạy tàn tàn chiều tối tới là được, tui đi hoài tui biết, chẳng xe nào chạy nhanh hơn đâu, xe nằm đường đầy nhóc, mai tới là chuyện thường tình, cứ từ từ mà tới là được chớ đừng có bị ngủ bờ ngủ bụi”.
Nghe vậy mọi người trên xe không ai nói nữa. Lâu lâu dọc đường có chiếc xe ngừng để sửa, đón những chiếc khác lại hỏi xin phụ tùng thay thế, hay quá giang đi mua, lăn bánh xe đi vá ruột đắp vỏ. Những chiếc xe bị hư mà bà bác nói là nằm đường. Xe đón một chú lơ nhảy lên, chú lơ xe nó hỏi:
“Ủa, thấy nằm đây hôm kia lận, chưa sửa được sao?”.
Chú lơ xe kia lắc đầu:
“Xui thiệt mới ra tới đây mà bị, bị nặng quá, sửa cái này lòi ra cái khác”.
“Xe chạy Quảng Nam Đà Nẵng hả”.
“Dạ, chạy Đà Nẵng, chuyến này lỗ sặc gạch, sang xe gần hết rồi, còn vài người bữa giờ chưa bắt được xe nào chở hết, lo luôn cái ăn cho khách khổ thiệt, bà con nghèo rớt mồng tơi”.
Có chú trên xe thở dài:
“Thời buổi khó khăn quá!”.
Nó nghe nói tới Quảng Nam – Đà Nẵng chợt nhớ tới khoảng thời gian nhà nó về ở, muốn ở ngay quê mình mà không xong, phải ra đi. Đang miên man nhớ lại dòng sông Thu Bồn tắm mát ngày nào chợt đột nhiên xe xình xịch ngừng lại, đâu có ai kêu xuống xe, cũng chẳng ai đón lên đi hay trạm kiểm soát gì đâu, bà con nhốn nháo. Bà mập mặt méo xẹo:
“Hổng lẽ pan* (hư) hả, điệu này chết”.
Chú lơ xe trấn an:
“Xe hổng có pan bà con ơi, bà con yên tâm”
Chú nhảy xuống lấy cây sắt thọt dưới đáy khươi than cho sỉ than rơi xuống, rồi nhảy phóc lên mui cho thêm than vào thùng, chú lơ xe kia cùng phụ một tay, lấy cái máy quạt than bấm chạy xè xè thổi lửa. Xe tiếp tục hành trình, bà con thở phào nhẹ nhõm. Xe lên cái dốc cao chạy cà khực cà khực muốn dừng, muốn tuột ngược trở lại. Chú lơ xe lại nhảy xuống cầm cục canh bằng gỗ lăm le canh vào bánh xe cản xe lại nếu lỡ nó tắt máy, chú kêu lớn:
“Dạ, mấy chú mấy anh thanh niên làm ơn nhảy xuống phụ một tay đẩy xe lên”.
Đàn ông trai tráng lục tục nhảy xuống, nó cũng nhanh chưn nhảy xuống phụ đẩy. Xe lên hết dốc cao bắt đầu tuôn tuôn chạy xuống, cái thắng cà két cà két nghe dễ sợ, người kịp nhảy lên xe, vài người chạy theo không kịp, lững thững vừa chạy theo vừa thở. Chú lơ xe thì băng băng chạy như chạy thi, cầm cục canh lao về phía trước phòng hờ lỡ xe phóng quá nhanh thì thảy cục canh vào cho nó cản bớt, thiệt là nguy hiểm. Xe xuống hết dốc cuối cùng cũng ngừng được chờ bà con lên hết. Bà con lắc đầu nhưng im lặng, không ai nói gì.
Xe hai lần dừng nữa để tiếp than, xả sỉ và châm nước. Lần cuối cùng máy quạt đang xè xè thì đứng bặt, chú lơ xe vỗ vỗ mấy cái máy cũng “làm thinh”, chú mở ra coi trong sự hồi hộp của bà con, chú lắc đầu:
“Đâu có bị gì đâu, sao kỳ vậy ta?”.
Chú lơ kia nói:
“Hết pin rồi chớ gì”.
“Chắc vậy, mà quên đem cha nó đồ xạc”.
Bà mập lo lắng:
“Giờ sao, hổng lẽ ngừng đây luôn hả, chết tui quá?”.
Chú lơ cười:
“Chưa chết đâu, cho tui mượn cái nón lá”.
Bà mập thấy lạ:
“Ủa, lấy nón lá làm gì, đội đi mua pin hà, sợ nắng dữ ông tướng?”.
Chú lơ cười khì khì:
“Nắng với nôi, bà thấy tui chưa đủ cháy hà” – Chú với lấy cái nón lá và tới chỗ thùng than quạt lấy quạt để, quạt vù vù một hồi sau than cũng đỏ rực, xe xình xịch nổ máy.
Vài người bán hàng rong nhảy lên xe chen lấn rao bán, nhiều nhứt là bán chôm chôm. Bà bán chôm chôm rao miệng dẻo quẹo, ngọt sớt:
“Chôm chôm tróc đây bà con, ngon khỏi chê rẻ khỏi nói luôn bà con, chôm chôm Long Khánh chính hiệu con nai vàng đây bà con”.
Bà bán chôm chôm thảy một chùm vô người một chị, chị này hỏi:
“Bao nhiêu một ký”.
“Mười đồng thôi cưng, bán rẻ cho cưng xinh gái”.
Chị gái nghe khen bẽn lẽn hỏi lại:
“Gì mắc dữ vậy?”.
“Mắc gì cưng, đúng giá nhà vườn đó, thôi cưng trả bao nhiêu thì trả, bán hết để còn về lo nhà cửa”.
“Năm đồng nghen”.
Bà bán trợn mắt:
“Trả gì rẻ quá vậy”
Bà mập khều khều chị gái và nháy nháy mắt, chị gái biết bị hớ nên nói:
“Thôi hông mua đâu”.
Vừa nghe xong bà bán chôm chôm quay ngoắt trừng trừng nhìn chị gái như muốn ăn tươi nuốt sống, rồi xổ ra một tràng:
“Mẹ, con đĩ chó, người đẹp mà cái miệng ăn cứt hả, hông mua sao trả giá, muốn hại mở hàng người ta hả cái đồ quỷ cái”.
Chị gái run run ngồi nín re. Bà bán hùng hổ tiếp:
“Mẹ, tao hỏi lần nữa nghe mậy, có mua hông, tao bớt cho còn bảy đồng, mở hàng nghe mậy, hông mua đừng trách sao tao ác”.
Chị gái buột lòng phải mua ký chôm chôm. Trên xe ai nấy lắc đầu nhưng đành nín lặng. Xe ngừng, mấy người bán hàng rong bước xuống. Bà mập mới lên tiếng:
“Mấy con này là con quỷ chớ hông phải người, kiểu gì nó bán cũng được, chôm chôm đúng giá bốn đồng, trả một đồng hai đồng nó cũng bán luôn, nó cân theo một hai đồng, chưa tới nửa ký, vài trăm gram, trả giá hông mua là khổ với nó, có cầm theo lưỡi lam rạch mặt người ta”.
Một người buột miệng:
“Ác dữ vậy hả”.
Bà mập gật đầu:
“Chuyện này tui hổng có nói dóc đâu, tui thề độc à”.
Một người hỏi:
“Biết vậy sao cho nó lên xe?”.
Chú lơ lắc đầu:
“Ai muốn cho mấy con quỷ đó lên, hổng cho nó lên nó tìm cách phá chỉ có chết”.
Bà bác lớn tuồi thở hắc:
“Sao bây giờ sanh ra nhiều chuyện gì đâu hông hà, lừa lọc xảo trá đầy đường, hổng biết đâu mà lần”.
Gần tới Sài Gòn, chú lơ xe thông báo:
“Gần tới rồi nghe bà con, tới đây coi như tới, xe coi như ngon lành”.
Bà mập xé một giỏ cá ra coi, bà cười tươi rói:
“Hên quá, cá còn tươi” – Bà xếp hai chục cá gói trong cái lá loan nói tiếp: “Ê, chú lơ, chú cầm cái này chú với ông tài xế chia đôi hen, tui cho, nói với bà con luôn nè, ai mua một chục tui bán nửa giá vốn lấy một đồng thôi coi như tui biếu một nửa, kỷ niệm chuyến đi buôn cùng tui, nói thiệt chuyến này tui lời chán”. – Bà cười hề hề. Bà con lục tục đưa tiền và lấy cá, giá cả ở Sài Gòn phải năm đồng một chục lận. Người cả xe vui vẻ ra mặt đâu ai nghĩ cái bà mập nhìn khó ưa lại tình cảm dữ vậy.

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

One thought on “CƠN GIÓ MANG HỒN TUỔI THƠ( TT)

  1. Thời bao cấp thời Hợp tác xã Thời hô hào lao đông nhà nhà…Thời ”thắt lưng buộc bụng” Mới là:”Yêu đất nước chúng ta Tiết Kiệm”-Chúng ta đây tất cả bình quyền Chằng tư sản chẳng có giàu nghèo Ai làm nấy ăn -thi đua tính điểm Sẽ No Ấm đời KHÔNG SINH CHUYỆN…
    Và Hoạt cảnh một đời bon chen…Trẻ mót lúa -biết luồn lách chuyện !Lớn Cày-biết làm khỏe mình! ”Thành quả chung chia-Tích cực Miễn!”Lao động vinh quang -Kêu Oai Tiếng!Người chân chính lo lắng mệt phiền…Bo bo độn cơm -chịu trận nếm!Họp hành Đại Hội-”Sướng Quan Quyền”!
    Phố chợ bát nháo chuyện Chợ Đen!Phe phẩy-Móc ngoặc nghề phát sinh…Lợi ích bao đời vẫn ”CỬA QUYỀN”!Muốn mau được Việc-Phải biết chuyện!”Bôi trơn-Lót tay-Hậu hỉ biếu?”..Cho nên ví von vui chuyện ”Chim quyên xuống đất ăn trùn! Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than-Cũng chưa yên-RỪNG NÀO CỦA RIÊNG-Còn nhiều chuyện huyên thuyên?”

    Thích

Comment