Anh ta bay là đà, nói với chính mình, “ta về với tuổi thơ thì ta gọi ta bằng nó và tự gật đầu, “vậy đi”.
Trước lúc cơn gió mang linh hồn chết bay ra khỏi căn phòng có nói sẽ ngao du Sài Gòn, nghe tên này rất quen, bay dạo một vòng thấy vùng đất cũng rất quen thuộc vậy là nó biết đang ở trên vùng đất Sài Gòn. Vừa bay lang thang vừa tìm kiếm có gì quen nữa không, rồi từ xa xa một cơn gió nhỏ bay tới và ngoắc ngoắc, nó bay lại với đôi mắt tròn xoe, cơn gió nhỏ cười hì hì:
“Chào bạn, bạn nhớ tui hông?”.
Nó lắc đầu:
“Mình không nhớ”.
Cơn gió nói tiếp:
“Không sao, để mình nhắc lại, mình là cơn gió mang hồn tuổi thơ của bạn, mình đi chung hết quãng đời tuổi thơ của bạn đó”.
Nó hỏi lại cho chắc:
“Vậy bạn biết và nhớ hết quãng đời này của mình?”.
Cơn gió mang hồn tuổi thơ gật đầu:
“Phải, bây giờ bạn không nhớ, nhưng bạn muốn nhớ lại hông?”.
Nó đáp ngay:
“Rất muốn, rất nóng lòng nữa là đằng khác”.
Cơn gió mang hồn tuổi thơ nắm tay nó:
“Được, vậy để mình nhắc để bạn nhớ lại nghen”.
Nó gật đầu:
“Cảm ơn bạn!”.
Cơn gió tiếp tục:
“Ở đây ngày trước gọi chung là thành phố Sài Gòn, còn được gọi là vùng đất lành chim đậu”.
Nó reo lên:
“Ấy dà, hèn gì mình nghe tiếng Sài Gòn rất quen, Sài Gòn đẹp lắm phải hông?”.
Cơn gió gục gật:
“Phải, rất đẹp, bạn sanh ra ở ngoại ô của thành phố, ở Hóc Môn thuộc vùng Gia Định, để mình đưa bạn về đó ngay bây giờ”.
Cơn gió kéo nó đi, bay về nơi chôn nhau cắt rún của nó. Và quả tình vùng quê yêu dấu rất đẹp và hiền hòa, nó bay tới đây bỗng dưng trong đầu nó hiện ra mồn một tuổi thơ của nó. Nó reo lên:
“Ý dà, mình nhớ ra rồi – Nó chỉ về hướng có mấy dãy nhà: đằng kia là nhà mình kìa”.
Cơn gió mang hồn tuổi thơ ngừng lại:
“Bạn nhớ rồi hả, chắc từ từ rồi sẽ nhớ hết, thôi bây giờ mình có công chuyện phải đi, chừng nào cần thì cứ gọi cho mình, chúc may mắn”.
Nó ôm chầm cơn gió mang hốn tuổi thơ:
“Cảm ơn bạn nhiều lắm!”.
***
Chạy về tới nhà, gặp má mình đang ngồi với chiếc máy may, nó khoanh tay:
“Thưa má! con mới về”.
Má nó nhìn lên:
“Tổ cha bây, xin đi chơi chút mà giờ mới về”.
Nó cười hề hề:
“Dạ, con xin lỗi con quên nói, mấy anh ở xóm trên kêu lên làm lồng đèn mai đi chơi Tết Trung Thu, tụi con ráng làm cho gần xong, buổi chiều mai má cho con đi làm tiếp rồi tối đi chơi luôn nghen má”.
Má nó gật đầu:
“Ờ, vậy thì được, thôi giờ xuống tắm rửa đi, chờ chút ba con về rồi dọn cơm cùng ăn”.
Nó dạ và chạy xuống sau nhà tắm rửa. Nhà chỉ là căn nhà trệt nhưng khá rộng rãi nằm trong một dãy mà bên ngoài nhà nào cũng giống nhau. Có lần nó hỏi:
“Sao người ta làm nhà giống nhau vậy ba?”.
Ba nó trả lời:
“À, làm một kiểu cho nhanh với lại làm như vậy để nhận biết đây là khu riêng, dành cho những gia đình như mình là làm trong trại gia binh”.
Nó hỏi tiếp:
“Ba làm gì trong đó vậy?”.
Ba nó cười:
“Ba làm bàn giấy”
Nó đoán thử:
“Giống như cô giáo của con?”.
Ba nó gật đầu:
“Ừ, giông giống vậy”.
Ba nó làm bàn giấy trong trại gia binh có tên là Quan Trung, người ta gọi tắt của Trung tâm huấn luyện Quốc Gia Quan Trung. Còn má ở nhà đi chợ, nấu cơm nước, lúc rảnh rang thì sửa đồ cho những người lính ở trong đó, nó biết thêm sơ sơ vậy.
Học bài xong lên giường nằm nhưng chưa ngủ được, nó nghĩ thêm cái gì để làm cho cái lồng đèn đẹp hơn, mấy anh chị lớn chỉ làm cái khung sườn dán giấy và kêu tự trang trí sao ai đẹp sẽ có thêm quà. Nó nằm cạnh bên cửa sổ miên man suy nghĩ một hồi thì những cơn gió thổi tới, gió nhè nhẹ ru nó chìm vào giấc ngủ.
Đêm Trung Thu, trăng rằm lên sáng rực, tròn quay. Đám tụi nhỏ nó đã làm xong hết các lồng đèn, ui cha đứa nào làm cũng đẹp hết. Mấy anh chị quẹt lửa thắp dùm những ngọn đèn cầy bên trong làm lồng đèn sáng lung linh, rồi mấy anh chị dẫn đầu thành đoàn, tụi nó tung tăng đi theo sau cùng hát bài Rước Đèn Tháng Tám:
“Tết Trung Thu rước đèn đi chơi,
em rước đèn đi khắp phố phường.
Lòng vui sướng với đèm cầm tay,
em múa ca trong ánh trăng rằm.
Tùng dinh dinh cắc tùng dinh dinh.
Tùng dinh dinh cắc tùng dinh đinh,
em rước đèn này đến cung trăng.
Tùng dinh dinh cắc tùng dinh đinh,
em rước đèn này đến chị Hằng...”
Đoàn kéo đi khắp mấy xóm. Sau đó tụ tập lại bãi đất trống, ngồi xúm xít dưới gốc cây xoài chớ hổng có cây đa, tiếp tục cùng hát bài Thằng Cuội:
“Bóng trăng trắng ngà,
có cây đa to, co thằng Cuội già, ôm một mối mơ.
Lặng yên ta nói Cuội nghe.
Ở Cung trăng mãi làm chi?
Bóng trăng trắng ngà,
có cây đa to…”
Hát xong mấy anh chị phát bánh Trung Thu ăn thiệt là ngon còn được nghe kể chuyện sự tích Chú Cuội rất hay nữa. Đêm Trung Thu quá là vui!…
Nó đã nhập học được hơn nửa tháng.
Năm nay nó đang học lớp ba. Bước vô lớp học, câu đầu tiên nó thấy phía trên tấm bảng là: “Tiên học lễ hậu học văn”, hai bên vách là hai câu: “Kính trên nhường dưới – Kính thầy, quý bạn” và “Học thầy không tầy học bạn”. Được cô giáo dạy: Đối với Cha Mẹ, anh chị phải “Đi thưa về trình”. Khi gặp người lớn, học sinh đều phải lễ phép chào kính. Mỗi lần đi ngang trước mặt người lớn phải cúi đầu, khi Cha Mẹ tiếp khách không được ngồi nghe, không được hỏi leo hay nói leo chuyện với khách của Cha Mẹ mình. Mỗi khi đi ra đường, thấy các cụ già yếu, người tàn tật phải dìu dắt băng qua đường, hay tránh những chỗ khó đi, gặp người bị nạn phải lập tức giúp đỡ, thấy có cuộc chào cờ phải lập tức dừng chân ngả nón, mũ đứng trong tư thế trang nghiêm, kính cẩn cho đến khi chào cờ xong, gặp đám tang cũng vậy, ngã nón cúi đầu chờ đám đi qua. Không bao giờ được phép đứng trước cửa nhà người khác nhìn vào, như vậy là bất lịch sự. Không được nói những lời lẽ thô tục, không được vô lễ với bất cứ ai. Khi lượm được của rơi, phải đem trình thầy cô, để thầy cô tìm cách trả lại cho người bị đánh rơi…
Hàng ngày cô luôn luôn nhắc nhở học sinh: “Có học phải có hành”. Những em nào thực hành đúng như những điều đã học, sẽ được cô cho điểm tốt, hoặc ngược lại, sẽ bị ghi điểm xấu và ba học sinh đứng đầu lớp, mỗi người sẽ nhận được một Bảng Danh Dự cuối tháng. Mỗi lần nhận được Bảng Danh Dự là má nó thưởng quà cho nhiều lắm.
Nó học thuộc lòng nhiều bài ca dao như:
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Gia Huấn Ca của Ức Trai Nguyễn Trãi:
“Thấy người hoạn nạn thì thương,
Thấy người tàn tật lại càng trông nom,
Thấy người già yếu ốm mò,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa.
Rồi thuộc luôn cả bài Quê Tôi anh nó học trước ở lớp bốn để lại nữa, anh nó học trên hai lớp:
Quê tôi có một con sông,
Có nương khoai thắm, có đồng lúa xanh.
Bốn mùa gió mát, trăng thanh,
Bốn mùa lúa tốt, dân lành vui tươi.
Đó đây vang tiếng nói cười,
Câu hò, giọng hát của người nông dân,
Ngày đêm chẳng quản tấm thân,
Nắng mưa dầu dãi bao lần nào than.
Mồ hôi đem tưới mùa màng,
Chân tay xới mảnh đất vàng thân yêu.
Quê tôi trong ánh nắng chiều,
Vi vu thoáng tiếng sáo diều nhặt khoan.
Đi học còn được học làm toán, khoa học thường thức, sửa địa, hội họa rồi có khi ra ngoài tập thể dục, nhưng nó thích nhứt là môn Quốc văn. Giờ tập làm luận văn cô cho đề bài tả cảnh tả người, con vật này nọ nó rất mê.
Đi học rất khoái, chỉ ớn ông thầy giám thị, ổng nghiêm nghị không bao giờ thấy nở nụ cười, ổng chắp tay sau đít đi lòng vòng, những lúc xếp hàng chào cờ hay vô lớp đứa nào lộn xộn ổng ton cho một ba ton dễ hổng xưng đít thì thôi á.
Đi học một buổi còn một buổi thả sức rong chơi chạy nhảy với đám bạn cùng xóm, có khi kéo cả bầy qua xóm khác cùng chơi nhiều trò, tạt lon, cướp cờ, bắn bi, đá banh… Phía sau dãy nhà không xa là những cánh đồng lúa và những vườn trồng rau, trồng ớt, trồng bông rất đẹp nữa. Tụi nó cũng hay ra đây men theo bờ ruộng bắt chuồn chuồn, bắt dế, bắt bướm về chơi.
Một bữa nhận được Bản Danh Dự, ra về nó mừng quýnh chạy một mạch tới nhà luôn. Về tới nhà, thấy má đang ở dưới bếp, nó chạy ào xuống lấy ra khoe:
“Má ơi! con được Bản Danh Dự nè!”.
Má nó đang làm lỡ tay cũng buông, hun nó cái chóc rồi khen:
“Con giỏi lắm! ráng giỏi hoài vậy nghen, má thương và thưởng”.
Nó dạ một tiếng to, vui hết cỡ.
Chiều gần tối ba đi làm về, má lại lấy Bảng Danh Dự ra khoe với ba nó:
“Nè, thằng con ông nó lãnh được nè!”.
Ba bồng thốc nó lên quay một vòng, sướng đã đời, hạ xuống, ba nó nói giông giống má:
“Ừ, con giỏi lắm, mai chủ nhựt ba cho đi chơi”.
Nghe được đi chơi nó mừng líu ríu:
“Dạ, đi chơi ở đâu vậy ba?”.
Ba nó trả lời:
“À, mai ba chở hai anh em xuống Sài Gòn coi đá banh”.
Chiều chủ nhựt được ba lấy chiếc xe Mobylette chở hai anh em đi coi đá banh. Dưới Sài Gòn nhà cao lắm, người đông đúc, nhiều xe hơi chạy qua lại tấp nập luôn. Ba nó dẫn hai anh em vô trong sân, Trời! cái sân rộng mênh mông vậy mà chật cứng người coi, người ta la rần trời đất khi hai đội ra sân, mấy chú đá banh hay quá chừng, hai anh em coi không chớp mắt. Nghĩ giữa hiệp được mua cho hai anh em hai cây cà rem mát lạnh, mút ngọt sớt. Ra về ba cha còn bàn tán về trận đá banh suốt dọc đường không dứt.
Về đến nhà là đèn đã lên ngọn sáng trưng. Được má thưởng nữa chớ, một bữa tối ngon lành. Má đi chợ Bà Điểm mua vịt cỏ về trộn gỏi, nấu cháo, vịt cỏ ở đây là số một. Anh chị em tụi nó được uống nước xá xị còn ba má thì cụng ly với lave con cọp* (*bia con cọp) vừa ăn vừa trò chuyện rôm rả.
Rồi một bữa ba má nó nói hôm nay nghỉ học. Má với mấy chị chộn rộn xếp quần áo và những bị cơm sấy, mì gói cùng một bịch cơm rang vào ba lô, trời vừa sáng cả nhà kéo nhau ra đường trừ ba, má nó nói đi tản cư tránh đạn còn ba phải vào trong trại. Ra đường cũng quá chừng người gồng gánh, vác ba lô cùng đi về một hướng cách nhà mấy cây số tụ tập ở một ngôi nhà lớn lắm, ai nấy vẻ mặt lo lắng, rầu rĩ mặc cho lũ con nít chạy nhảy vui đùa. Chơi mệt vào lục đồ ăn, lấy ra được một thanh sôcôla, nó nhớ lại một bữa mấy đứa đang đi học về thì có một chiếc xe ríp (jeep) chạy qua rồi ngừng lại, trên xe có một ông da trắng bóc, cao to nhảy xuống, ổng hỏi giọng lơ lớ:
“Các cháu đi học về hả?”.
Tụi nó đồng thanh thưa:
“Dạ thưa, tụi con đi học về”.
Ổng cười tươi và lấy một bịch sôcôla chia cho mỗi đứa mấy thỏi và dặn:
“Các cháu ngoan lắm, học cho giỏi nghen”.
Tụi nó dạ và cảm ơn xong, ổng xoa đầu và lên xe thì nghe chú lái xe nói:
“Dạ, đại úy coi bộ khoái trẻ con”.
Ổng cười đáp lại:
“Phải, mình rất mê trẻ con, trẻ con rất dễ thương, hồn nhiên và ngây thơ, mình ước gì không lớn lên mà mãi mãi là trẻ con”.
Xe chạy đi rồi tụi nó còn thắc mắc hoài, cái ông này lạ, sao lại không muốn lớn lên trong khi con nít muốn lớn nhanh ào ào lên bằng mấy ổng.
Tới chiều có thông báo không có chuyện gì xảy ra. Bà con lục tục trở về, ai về nhà nấy. Về nhà thì ba đã ở nhà, vẫn y xì như lúc đi hổng có gì khác. Ba má nó thầm thì, “hổng có oánh nhau như thông báo”. Nó cũng chẳng hiểu gì, ai oánh với ai chẳng biết.
Ngày tháng tuổi thơ êm đềm, có lẽ vậy mà tụi con nít thấy trôi qua rất chậm, tụi nó đâu muốn vậy, muốn mau tới Tết, mau tới nghỉ hè để được rong chơi cả ngày, được đi đây đi đó.
Rồi một ngày gần tới nghỉ hè, đang trong lớp học, thì nghe một tiếng nổ uỳnh thiệt lớn, cô trò chạy ào ra coi, cách xa có cột khói đen nghịt bốc lên cao. Sau đó có thông báo cho nghỉ về nhà. Trên đường về tụi nó thấy nhiều người hớn hở ra mặt, có người còn hét lớn, “hòa bình rồi”, “thống nhứt rồi bà con ơi”, “hết chiến tranh khói lửa rồi”. Về tới nhà, ba nó cũng có mặt, thường ngày ba nó ở trong trại giờ này, nó hỏi:
“Ba hổng có đi làm hả?”.
Ba nó gật đầu:
“Ừ, từ giờ ba không đi làm lính nữa, ba không vô trong đó nữa, đất nước mình hòa bình rồi con à”.
Đã nghe loáng thoáng, nó hiểu thêm, à chiến tranh là đi lính xung trận bắn giết nhau, chết chóc và đau thương.
Buổi chiều ngày hôm đó và mấy ngày sau nữa, ngoài đường người nườm nượp rầm rập kéo ngang qua nhà đi thẳng tới trại gia binh. Người đi bộ, người đi xe Honda, người kéo xe kéo, xe kút kít* và cả xe lam**, (*Xe đẩy hai bánh thường dùng trong chợ, **Lambro 550 dùng chở khách, chở hàng gần lúc bấy giờ) khi trở ra người đi bộ thì vác, ôm, các loại xe thì chất lỉnh kỉnh đủ thứ, bao bì, bàn ghế, máy móc, tôn lợp nhà rồi những cuộn dây thép gai… Ở nhà thì lạ, ba má nó lấy đồ của mấy chú lính đổ hết xuống cái giếng ở sau nhà, cái giếng sâu chừng ba bốn thước vậy mà gần đầy luôn, rồi mà sao nhà nó không ai vào lấy đồ như người ta, nó hỏi:
“Người ta lấy cái gì vậy ba?”.
Ba nó trả lời:
“À, trong trại có cái kho, người ta phá kho lấy đồ đó, mấy cái bao là gạo, đường, còn mấy đồ kia con nhìn là biết rồi chớ gì?”.
Nó nói dạ biết rồi hỏi tiếp:
“Sao nhà mình hổng ai vô lấy?”.
Ba nó giải thích:
“Những người đó người ta kêu là hôi của, gần giống đi ăn trộm, như vậy là không tốt, nên mình không được làm, đói cho sạch con à”.
Nó hiểu rồi, cô nó cũng dạy như vậy mà.
Nhà trường đóng cửa, phải nghỉ học, nó nhớ lớp nhớ cô giáo và nhớ cả ông thầy giám thị.
Độ chừng hơn tháng sau, sáng sớm một chiếc xe cam nhông* (*xe tải chở hàng hóa) đậu xịch trước cửa, bác tài xế và chú lơ xe* (*phụ xe) nhảy xuống chạy vào nhà hỏi:
“Đâu anh, đồ đạc nào đâu anh?”.
Ba nó chỉ đồ đạc đã đóng gói, vô rương, chất đầy trong nhà:
“Đó, chừng đó đó, có mấy cái rương đựng chén dĩa kiểu, anh để cẩn thận dùm”.
Bác tài xế dạ:
“Chà đồ nhiều quá chớ, chất phải mất hết cả buổi, vậy sáng mai mình lên đường hen”.
Ba nó gật đầu:
“Theo anh tính vậy”.
Ba má với mấy chị phụ chuyển đồ lên xe. Nó chẳng biết ất giáp gì, mon men hỏi chị:
“Nhà mình làm gì vậy chị?”.
Chị trả lời:
“Chuẩn bị về quê”.
Nó hỏi tiếp:
“Quê ở đâu lận?”.
“Ở Quảng Nam”.
“Ủa, sao phải về đó làm chi?”
Chị nó ký đầu nó cái cốc:
“Con nít biết gì hỏi nhiều, đi chơi đi”.
Nó tấm tức chạy một mạch ra đồng. Hỏi mấy chị thì ai cũng nói con nít biết gì mà hỏi, mai mốt lớn sẽ biết. Nhưng nó vẫn thắc mắc sao phải đổ đồ xuống giếng, uổng quá chừng, rồi bây giờ phải bỏ nơi này mà đi, nơi nó sanh ra đẹp đẽ là vậy mà. Nó kêu cơn gió tuổi thơ lại, nó hỏi:
“Cơn gió tuổi thơ ơi, sao lại có chuyện kỳ cục vậy?”.
Cơn gió tuổi thơ lắc đầu:
“Mình cũng như bạn thôi, hổng hiểu chuyện người lớn, chỉ biết chuyện của tụi mình”
Nó buồn hiu, cơn gió cũng buồn theo thổi hiu hiu, ngồi đờ dẫn nhìn vườn ớt trái ra chín đỏ, rụng đầy mà chẳng ai buồn hái, lát sau đành chia tay cơn gió tuổi thơ, một mình lủi thủi trở về.
Sáng sớm hôm sau, ba má kêu dậy sớm, súc miệng rửa mặt xong xuôi thì bác tài xế tới, bác tài liềng thoắn:
“Rồi lên đường thôi”.
Ba đỡ nó và anh nó lên cái cầu thang bên hông đầu xe, phía bên trên có cái cửa nhỏ chui vô trong thùng phía sau, như cái sàn gát trong thùng mà ngồi, má và mấy chị leo theo sau, ba ngồi phía trước với bác tài. Xe lăn bánh, không còn thấy gì nữa nơi này.
***
Chiếc xe chầm chậm và đều đều chạy. Xe khá êm, chỉ lâu lâu mới thấy người nghiêng qua nghiêng lại hay tuột lên tuột xuống, có lẽ là qua những khúc cua hay lên xuống dốc, ngồi bên trong đoán chừng vậy chớ đâu thấy gì. Nó có cảm giác như đang ở bên trong căn gác xếp tối tăm, chỉ có vài tia sáng chiếu qua những khe hở thùng xe. Khi ánh sáng không còn nữa, xung quanh tối thui mịt mờ mới nghĩ là đêm đã buông xuống. Phân biệt được ngày hay đêm khi xe dừng để ăn cơm nước mà thôi. Lúc nó thức lúc nó ngủ trong bức tranh tối tranh mờ mờ như vậy. Thời gian trôi qua thiệt chậm chạp, không biết mấy ngày mấy đêm đã qua, như cả tháng trời.
Rồi cũng tới lúc xe ngừng hẳn. Má nó thò đầu ra cái cửa sổ nói với vô:
“Tới rồi đó các con, mình về tới quê rồi, xuống các con ơi!”.
Ba và chú lơ xe đã xuống trước, dang tay đón đỡ từng đứa một xuống khỏi căn gác bịt bùng. Một làng quê yên bình hiện ra trước mắt, cũng giông giống nơi nó sanh ra, chỉ có nhà cửa là ít hơn, cách xa xa mới có một mái nhà. Đồ đạc được chuyển xuống bên vệ đường. Trong lúc chuyển đồ có vài người từ trong nhà gần bên chạy ra, mấy người vui mừng tranh nhau hỏi tới tấp:
“A, cô dượng Tư mới về hả?”.
Ba má nó vừa cười vừa gật đầu:
“Ừ, vừa về tới”.
“Ủa, cô dượng về răng* (sao) không nói, không tin* (nhắn tin) chi cho ai biết hết rứa* (vậy)?”.
Má nó chưng hửng:
“Cô có đánh điện tín về rồi mà, không ai nhận được hết sao?”.
Mấy người trải lời:
“Dạ, có nhận chi mô* (đâu), có ai biết chi mô”.
Một bà lớn tuổi, mái tóc đã bạc màu chạy tới:
“Con Tư đó hả, hai vợ chồng bây mới về đó hả?”.
Ba má nó lại dạ:
“Dạ thưa cô tụi con vừa về tới, cô khỏe luôn chớ cô?”.
“Cô khỏe”.
Ba má nó nói tiếp:
“Dạ, chính quyền mới trong đó nói chừ giải phóng, hết chiến tranh rồi, ai có quê thì về quê mà mần ăn”.
Người lớn tuổi mà ba má nó xưng là cô hỏi tiếp:
“Chớ bây về tính ở mô, răng chẳng tin cho bà con chi hết vậy?”.
Ba má nó càng chưng hửng, hỏi lại:
“Ủa, vậy là răng, thì đất cát nhà mình xưa thì mình ở chớ có chi lạ rứa cô?”.
Bà cô nói giọng buồn buồn:
“Bây đi lâu quá, bây chẳng biết chi hết, đất cát còn chi nữa”.
Má nó trợn tròn mắt:
“Cô nói vậy là răng?”.
Bà cô ngồi phịch xuống đất, đôi mắt rưng rưng:
“Bây ơi, khổ quá chẳng biết chi, cha mẹ bây mất, rồi anh em bây mỗi đứa mỗi nơi đi lánh nạn, đi làm ăn nơi khác, người ta nói cha mẹ bây là địa chủ ngày trước, từ đó đất cát ruộng vườn một số người chiếm một số chính quyền tịch thu xung công hết rồi”.
Nghe nói xong má nó cũng ngồi phịch xuống ôm mặt rưng rưng, ba, mấy chị thì đứng như trời trồng. Lát sau ba nó lên tiếng giọng nghèn nghẹn:
“Thiệt vậy hả cô, chắc để con chạy lên chính quyền hỏi cho kỹ, chừng đâu họ chỉ giữ dùm rồi giờ trả lại cho mình”.
Bà cô ngồi ôm má nó:
“Ừ, bây lên hỏi thử răng chớ cô thấy không dễ đâu”.
Mặt trời lên chừng nửa buổi sáng mà nó thấy như nắng gay gắt, nắng chiếu thẳng mặt, nắng muốn thiêu đốt mấy má con nó ra thành tro tàn, thiêu đứa con của quê hương lưu lạc trở về, như đứa con mang đầy tội lỗi, mặc cho má nó tấm tức, than trời than đất và hỏi vì sao, không một câu trả lời từ bất cứ ai, ông Trời chắc ở xa thăm thẳm…
Ba nó trở lại, trên nét mặt hằn nét vừa buồn vừa hậm hực. Má nó nhào tới hỏi:
“Sao rồi ông?”.
Ông lắc đầu:
“Không xong rồi, họ nói đã làm sổ sách chia hết từ xưa nên đâu thể có cách nào”.
Má nó hỏi dồn:
“Vậy giờ tính sao, làm cách nào đây, làm cách chi đây?”.
Ba nó nói tiếp:
“Thôi, cứ bình tĩnh đã. Bây chừ xin cô Bảy tạm thời cho mẹ con nó tá túc nghỉ chân đỡ, con chạy về bên nội coi ra răng”.
Bà cô Bảy gật đầu:
“Ờ, bây vô nhà nghỉ để thằng Tư về bên đó coi ra răng rồi tính”.
Ba nó lấy mấy tấm bạt phủ che đồ đạt lại xong rồi nổ máy chiếc Mobylette vọt đi. Má con lững thững đi theo bà cô Bảy.
Xế chiều ba nó quay trở lại cùng với bốn người kéo hai chiếc xe kéo. Má nó bươn bươn chạy ra, nghe ba chậm rãi nói:
“Đất cát của ông nội mấy đứa bên đó cũng bị lấy hết rồi…”.
Má nó đang lo lắng càng thêm xịu xuống chưa kịp nói gì thì ba nó nói tiếp:
“Nhưng còn may, cô Ba kêu cho miếng đất cất cái nhà, còn vài sào ruộng cô giữ lại của ông nội lấy lại làm đỡ rồi tính tiếp, bây chừ cô Bảy cho mẹ con nó ở tạm vài bữa, con về cất xong nhà rồi qua đón về cô Bảy nghe”.
Bà cô Bảy ừ:
“Thằng Tư tính vậy cũng được”.
Má nó suy nghĩ một hồi rồi đáp:
“Thôi, vậy mẹ con tui về bển luôn đi, tui coi có phụ được gì thì phụ, về lấy mấy tấm bạt che trại ở tạm cũng không sao”.
Ba nó gật đầu:
“Vậy cũng được, thôi ra chất đồ lên cộ* (xe kéo) để họ kéo về”.
Chất đồ xong ba nó thưa cô Bảy về, lấy xe chở hai anh em đi trước, rồi quay lại đón dần dần mấy chị và má nó. Bốn người kéo cộ chở đồ cọc cạch đến khi trăng lên cao mới tới nơi. Bên này cách nhỗ bà cô Bảy gần hai chục cây số.
***
Miếng đất bà cô Ba là em ông nội cho nằm gần bờ sông, cách chừng một trăm thước. Cạnh dòng sông có bãi cát dài, dòng sông rộng và rất thơ mộng, nhìn qua bờ bên kia có những lũy tre xanh ngắt xen lẫn những đám lau sậy, nước trôi êm đềm như dải lụa. Được ví von như lụa bởi có những đoạn trên bãi bồi trồng rất nhiều cây dâu cho lá tằm ăn và nhả tơ, những sợi tơ óng ả dệt thành dải lụa không khác gì dòng chảy dòng sông gợn sóng lăn tăn trong những buổi chiều dưới ánh nắng vàng. Đó là dòng sông Thu Bồn nổi tiếng khắp nơi.
Buổi sáng sau giấc ngủ dài bù cho mấy ngày mệt mỏi, nó thức dậy thì đã thấy đông đúc gần cả chục người lớn đục đục đẽo đẽo những cây gỗ, lâu lâu có vài người kéo cộ trên chất đầy cây gỗ đem lại. Vừa làm mấy bác mấy chú chuyện trò rôm rả lắm mà nó không hiểu được bởi không nghe được tiếng nói, tiếng rất lạ, như tới nửa buổi sáng hay chiều, má nó đem đồ ăn dặm thì hay nghe nói en en đi, rồi cùng ngồi vào ăn, có chú chỉ chú khác, thèng ni cà chớn cà chố, nó cũng chẳng hiểu gì luôn, dần dà sau này nó mới quen dần, à thì ra là phát âm có khác, âm a thành âm e, oa thành ô…
Phía trước miếng đất khoảng hai trăm tước là con đường đi ngang, đường vắng lặng, ít người qua lại, lâu thiệt là lâu mới có tiếng xe chạy tới. Băng qua con đường là cánh đồng trồng lúa, nhưng ruộng lúa từng miếng nhỏ nằm cao thấp khác nhau chớ không lớn và bằng phẳng trải rộng như ở Hóc Môn. Nhà cửa cũng xa xa cách chừng năm chục tới một trăm thước mới có một ngôi nhà, vườn xung quanh nhà cũng có vườn cây mít xoài… nhưng không nhiều lắm, đất còn để trồng bắp trồng khoai… Nhìn xa xa qua cánh đồng lúa là những gò cao, rất nhiều ngôi mộ màu xám xám đen đen ở trên đất gò này.
Anh em nó ngày ngày chạy nhảy tung tăng trên cánh đồng hòa cùng với màu xanh của đồng lúa có khi còn bắt được con ốc con cua. Buổi chiều chờ trời mát là chạy ra lăn đùng đùng trên bãi cát rồi ùm ùm xuống sông mà tắm táp, chiều chiều xuống là nhiều người ra sông tắm giặt và chơi đùa.
Khoảng chừng mười ngày sau là ngôi nhà gỗ lợp tôn được cất xong. Ngôi nhà xoay hướng ra bờ sông hứng gió. Má nó cùng mấy chị sắp xếp đồ đạc giường chõng gọn gàng trong nhà. Cái đi văng lớn ngồi được cả chục người thì để phía trước nhà dưới gốc cây nho nhỏ, chiều tối ba nó và mấy chú bà con, chòm xóm hay ngồi uống trà nói chuyện, có khi nhâm nhi ly rượu gạo.
Mấy miếng ruộng bà cô Ba đưa lại, ngày ngày ba má và mấy chị ra cuốc lật rồi cho nước xâm xấp vào để đó, nó thấy vậy hỏi ba nó:
“Sao cuốc lên rồi để vậy làm gì vậy ba?”.
Ba nó cười:
“À, để chừng hơn tháng cho nó mềm mình bang ra cấy lúa, lúa là những cây ba gieo trên luống nhỏ đó”.
“Còn kêu là gieo mạ phải hông ba”.
Ba nó ừ
“Đúng rồi”.
Ông nội nó về. Cả nhà vui lắm. Ông nội rảnh rỗi hay đi chặc tre về chẻ nan đang những cái rổ để xài. Một bữa ba hỏi ông nội:
“Cha à, con thấy gần mé sông phía dưới còn đám đất cỏ lau sậy um tùm cũng khá rộng mà bỏ hoang, chưa ai làm gì, mình xuống đó phát hoang để trồng bắp trồng khoai được hông cha?”.
Ông nội nghĩ một lát sau nói lại:
“Cha nghĩ chắc được chớ, đất hoang mình khai phá thôi”.
Ba nó gục gật:
“Dưới đó sát mé sông dễ tưới, trồng mùa nào cũng được, vậy vài bữa con xuống đó phát cỏ”.
Ông nội ở nữa tháng sau ông kêu lên nhà cô Út đâu trên núi ở nhà chơi với đứa con nhỏ của cô vừa coi nhà dùm để cô đi làm.
Mấy bữa sau ba nó cầm rựa dài mà đi phát lau sậy, có ngày tụi nó lon ton chạy theo chơi, cũng không có xa mấy, chừng nữa cây số. Được mấy ngày thì một buổi tối ăn cơm xong má nó chìa tờ giấy:
“Ông à, sáng mai ở nhà họ kêu lên xã, có giấy mời gởi nè”.
Ba nó hỏi:
“Có biết kêu lên làm gì hông?”.
Má lắc đầu:
“Hổng biết nữa, họ chẳn nói gì, đưa giấy rồi đi”.
Ba thắc mắc:
“Kêu lên làm gì ta, hổng lẽ cái vụ phát hoang dưới mé sông?”.
Sáng mai ba nó lên xã. Tới trưa về mặt mày hầm hầm bực bội. Má thấy lạ:
“Có chuyện gì vậy ông, hổng lẽ họ phạt…”.
Ba giọng gắt gỏng:
“Chẳng phải chuyện đó, chuyện phát hoang họ nói cứ làm, nhưng ngày từ mai phải lên xã ít nhứt là hai tuần để học tập cải tạo, cải tiết gì đó chẳng biết nữa”.
Má nhíu mày khó hiểu:
“Học tập cái gì vậy trời, đã về mần ruộng mà còn học tập cái gì hổng biết nữa”.
Ba nó tiếp:
“Thì tui cũng nói vậy nhưng họ có nghe gì, thằng lính quèn lính quyết gì, ngồi bàn giấy bàn má gì cũng phải học tập hết ráo, họ nói chính sách là vậy, đành chịu chớ sao, chỉ hai tuần thôi, cãi họ gông cổ luôn thì khổ”.
Sáng chiều hai buổi lên xã học tập cải tạo, có bữa tối trên cái đi văng trước nhà, ba nó với vài chú uống rượu nói chuyện nho nhỏ:
Một chú hỏi:
“Anh lên trên xã học cái chi vậy?”.
Ba nó uống ực ly rượu, nhìn đăm chiêu xa xa một hồi rồi trả lời:
“Học tập tương tử để thành con người mới của xã hội mới, bởi tui là người ngụy quân ngụy quyền, biết vậy thôi chớ học cái gì tui có nghe lọt lỗ tai, nhớ được gì”.
Một chú hỏi tiếp:
“Chi lạ rứa?”.
Một chú xen vô:
“Nghe nói mấy đứa dạy còn choi choi phải hông?”.
Ba gật gù:
“Mấy đứa ở làng mình đây chớ đâu, ngày xưa lúc tụi mình lớn tụi nó còn con nít, chẳng học hành chi đó, bây giờ cầm giấy tờ đọc chữ được chữ mất ai hiểu cho thấu, với lại ngồi học mà lo đất cát ruộng vườn chưa làm được gì thì sao mà tập trung cho được”.
Mấy chú gật đầu, ừ à, một chú cười nho nhỏ:
“Mấy thằng này đọc còn đánh vần mà, nó theo vô rừng đánh nhau thời gian đâu đi học”.
Ba nó rót rượu mời mấy chú cụng ly:
“Thôi kệ, ngồi cho qua ngày lấy cái chứng nhận xong về làm ăn, mà bỏ mấy chuyện này đi nói chuyện khác cho vui”.
Ba nó về cầm theo tờ giấy chứng nhận hoàn tất lớp học cải tạo. Má vui mừng lắm:
“Vậy là xong hả ông?”.
Tiếng thở dài phát ra:
“Chưa đâu, mỗi tuần phải lên trình diện ít nhứt một ngày nữa”.
Má nó cũng thở hắc, không nói gì nữa.
Hết học tập, tiếp tục phát lau sậy mé bờ sông, cả tuần được khoảng đất rộng, ba nó nhẩm nhẩm chắc cỡ bốn sào* (*một sào ở xứ Quảng tính bằng 500m vuông). Lau sậy khô châm lửa đốt cho cháy hết. Bữa đốt vào ban đêm lửa thì khỏi nói, sáng cả một vùng trời, khói đen bay mịt mù. Sáng ra đất biến thành màu đen cùng một lớp tro trên mặt đất. Sau đó ba nó cuốc lỗ cách nhau chừng ba bốn tất, má và các chị bỏ phân và bỏ ba bốn hột giống bắp xuống lỗ rồi lắp lại, gánh nước từ dưới sông lên tưới vào. Mấy ngày sau hột giống nảy mầm lên cây bắp non màu xanh lợt. Lúc này luống mạ cũng lên cao, bắt đầu bang đất cuốc lật hổm trước, anh em tụi nó lội xuống chơi thấy đất sình sình mền nhão, má nó cùng các chị tiếp tục nhổ mạ đập đập vào cẳng chân cho bung hết đất bám vào rễ, bó thành từng bó bằng cỡ ống tre to, cắt đầu lúa đem thảy xuống ruộng lội xuống mà cấy. Tuần sau thì lúa nảy ngọn trở lại, lên xanh mơn mởm, những ngọn gió thổi lúa bay nhấp nhô như những ngọn sóng con sông Thu Bồn phía sau nhà nhìn mát mắt.
Vậy là hơn hai tháng trôi qua kể từ ngày cất xong ngôi nhà.
Ba nó đi thăm vườn bắp về cười cười nói với má nó:
“Bắp lúa đều lên xanh tốt, lạy trời cứ như vậy”.
Má nó gật đầu xong lại thở ra, nói nho nhỏ:
“Nhưng mà cũng gay đó ông ơi! Tiền dự trữ sắp hết rồi, chắc phải bán bớt đồ đạc”.
Ba nó cũng thở ra:
“Chắc phải vậy, bà tính sao thì tính, ráng tới mùa thu hoạch là khỏe”.
Má và chị Hai khiêng cái rương nói đi Đà Nẵng. Khi về thì không còn cái rương mà thay bằng hai bao gạo lớn, một giỏ đầy đồ ăn, bánh kẹo cho anh em nó rất khoái, nhưng thấy má buồn buồn chớ không vui, nó hỏi:
“Sao thấy má buồn buồn, má giận gì tụi mình…?”.
Anh nó gạt ngang:
“Hổng có đâu, má đâu có giận gì ai, má buồn là tại phải bán đồ quý giá cất bao lâu nay đó mậy”.
Nó hiểu ra là vậy, chút chút buồn buồn theo.
Mấy tháng lặng lẽ trôi qua. Có lúc nó hỏi:
“Ủa, sao mình hổng được đi học vậy?”.
Anh nó ký đầu cái cốc:
“Mày ngu quá, đang nghỉ hè mà, hết hè thì đi học lại”.
Tới gần cuối tháng chín vẫn không thấy được đi học, nó lại hỏi, được anh trả lời:
“Năm nay người ta nói sẽ nhập học trễ, chừng nào có trường lớp, thầy cô thì thông báo nhập học”.
Rồi cả tuần mưa ập đến, mưa có lúc lớn lúc nhỏ nhưng dầm dề mưa suốt không dứt, bầu trời lúc nào cũng xám xịt mây, ba nó thở than:
“Mưa gì mưa dữ thúi đất luôn, chẳng làm ăn được gì”.
Bà cô Tư mặc áo tơi* (*áo mưa chằm bằng lá buông) chạy qua nói giọng hớt hải:
“Ủa, thằng Hai mi* (mày) bỏ bắp bỏ lúa răng, muốn chết đói cả lũ hỉ*?.(*hả)
Ba nó ngạc nhiên:
“Cô Tư nói vậy là răng con chẳng hiểu?”.
Bà Cô Tư giải thích:
“Trời! bây quên hết trơn rồi, thời tiết này là sắp có bão và lụt lớn tới, sao không ra bẻ bắp gặt lúa về, để đó cho nó trôi hết làm răng”.
Ba nó hỏi lại:
“Nhưng mọi năm con thấy tháng mười mới có lụt mà cô”.
Bà cô Tư dậm chưn* (*chân):
“Theo trời thôi mi ơi, mưa ri* (này) là năm ni* (nay) lụt tới sớm, lo mà thu hoạch đi”.
Ba nó hỏi nữa:
“Dạ, bắp thì được rồi nhưng lúa chưa chín hết rồi răng cô?”.
Bà cô Tư phẩy tay:
“Được bao nhiêu hay bấy nhiêu, lúa bây gần chín vậy là được rồi tuy chưa chắc hột lắm còn hơn để nước cuốn trôi hết, bao nhiêu công sức bỏ ra đó, gặt về nhớ trải ra cho ráo đừng để cho lên mộng”.
Ba nó dạ, rồi cùng má và mấy chị mặc áo tơi đi trong mưa bẻ bắp về trước. Bẻ cả ngày cũng xong, bắp đem về treo đầy trên mấy mấy cây tre nhỏ gát ngang mái nhà thành cái giàn. Ngày hôm sao bắt đầu có gió, nhưng cứ mặc, tiếp tục gặt và đập lúa trong mưa lâm thâm. Hôm sau nữa mưa và gió lớn hơn, vừa gặt lúa vừa thu người, co ro hết cỡ để tránh gió, gặt được mớ lúa phải ngưng, để xuống vuốt nước mưa tràn trên mặt, anh em nó cũng chạy ra phụ ôm lúa về, cái bồ đập lúa được chuyển vào nhà để đập, đỡ ướt lúa nhiều lần. Buổi tối lúa chưa đập xong thì lấy chưn cùng xúm lại đạp, nghiến cho rơi hột lúa ra khỏi cành.
Ba ngày gặt lúa đã xong, ngoài trời gió và mưa ngày càng lớn, mưa quất trên mái tôn lộp độp như có ai quăng đá cục lên, gió thì thổi rùng rùng, có những chỗ tôn bung lên kêu bần bật không ngớt. Trong lúc má và mấy chị cho lúa đã ráo vào bao chất lên gát bằng mấy tấm ván và ngồi cào tới cào lui cho lúa ướt khô thì ba nó chạy ra ngoài bãi xúc cát cho vào bao chất đầy lên mái tôn và lấy cây chống xung quanh nhà.
Một ngày vất vả nữa trôi qua. Vừa cơm nước xong nằm ngả lưng cho bớt mệt mỏi thì nghe tiếng kêu lớn của bà cô Tư:
“Thằng Hai có nhà hông hay đi mô rồi?”.
Ba nó bật dậy:
“Dạ, con có ở nhà cô Tư”.
“Có ở nhà răng chừ chưa đưa vợ con vô Gò, muốn chết trôi cả lũ hỉ?”.
“Dạ, con thấy nước chưa lớn con định sáng mai đi”.
Bà cô Tư thở hổn hển, la lớn:
“Đi ngay bây chừ, ở ngoài đường nước lên rồi, nửa đêm ni là nước lên nước tràn xuống đầy, chờ tới sáng có chìm lỉm trong nước, đi mau chớ có nói năng chi nữa”.
Ba nó dạ, chạy ra đường, nước đã tới ống quyển, quay trở vô trong nhà, nói trong lo lắng:
“Chà ngoài bãi chưa thấy nước dâng nhiều sao phía ngoài này lại đầy nước, hổng hiểu được, thôi lấy gạo, đồ ăn và củi cùng mùng mền lên xuồng đi vô Gò nhanh thôi”.
Giữa đêm tối mưa gió ba nó đẩy chiếc xuồng chở đồ và hai anh em nhắm hướng Gò mà đi trong ánh đèn bão má nó cầm lội nước bì bõm cùng mấy chị. Không ai nói tiếng nào, chỉ nghe tiếng mưa và tiếng gió rít hãi hùng trong mịt mùng thăm thẳm.
Đến được Gò, Gò là đồi đất cao trên đó có dãy nhà xây kiên cố. Trong dãy nhà người lớn nhỏ nằm ngồi la liệt, dáng ai nấy bơ phờ mệt mỏi. Cũng không ai nói gì nhiều, chỉ hỏi thăm những người mới tới. Vài người lớn đi lại ngoài hành lang nói vài câu bâng quơ như sao mà mưa bão hoài, chừng nào dứt đây không biết… Bên trong nhà lâu lâu có tiếng con nít khóc thét lên rồi tiếng dỗ dành, hát ru của người mẹ dưới ánh sáng những ngọn đèn dầu leo lét, lúc trồi lúc sụt muốn phụt tắt ngúm liền bởi gió thổi phần phật liên hồi. Mí mắt nó cứ kéo cụp xuống, muốn mở ra cho bớt sợ nhưng không được, nhưng muốn ngủ cũng không xong, bên tai tiếng mưa rào rào, tiếng gió lúc hú ù ù, lúc rít kèn lẹt cứ dội vào, nó thấy như đang đứng trong vòng vây của bầy quỹ dữ, màn đêm lại chắn ngang mắt không biết đường đâu chạy trốn hay tìm cách chống đỡ. Nỗi sợ lại chồng chất nỗi sợ khi nó nghe một người lớn nói:
“Bão lớn sắp đến rồi”.
Có người hỏi:
“Bão lớn lắm hả chú”.
“Tui đoán khá lớn”.
“Lâu hông vậy chú?”.
“Chắc cỡ hơn hai tiếng”.
“Chà, cũng lâu quá, chẳng biết nhà cửa ra răng”.
Nhiều tiếng thở dài.
Nó kêu gọi cơn gió tuổi thơ, dù biết khó hỏi được gì lúc này nhưng chí ít cũng có chút chia sẽ bớt đi sợ hãi. Gọi mấy lần chẳng thấy bóng dáng cơn gió đâu hết, nó thầm nghĩ chắc cơn gió tuổi thơ đã bị chặn mất lối đi rồi.
Chợt căn nhà trở nên im ắng, nó càng thấy lạ, vừa mới nghe bão sắp tới mà, nhưng vừa mở mắt chưa kịp định thần thì tiếng gió ầm ầm dữ dội ập vô rồi tiếp nối tiếp nối không ngớt. Mọi người bắt đầu lục tục ngồi dậy, co ro xúm xít sát vô trong góc, trong bờ tường và sát bên nhau. Tiếng khóc trẻ con ré lên chỉ nghe e é, không còn lớn giữa cơn gió hung hãn quất đùng đùng trên mái nhà, cánh cửa sổ bung đập cái rầm làm ai nấy điếng hồn trước khi có người chạy lại đóng chặt vào. Bây giờ thì nó có cảm giác như đang đứng giữa những bầy quỹ đang quần đang lồng lộn uýnh nhau tơi tả, cuộc chiến bất phân thắng bại cứ kéo dài, kéo dài không thấy hồi kết…
Cuối cùng đúng như đoán của người có giọng lớn tuổi, khoảng hơn hai tiếng đồng hồ sau thì mưa và gió nhỏ dần rồi ngưng hẳn. Bầu trời bớt tối mịt mùng, có ửng sáng nhưng yên ắng đến lạ thường, không nghe dù là tiếng động nhỏ, có lẽ tiếng ầm ầm dữ dội đã lấn át làm lỗ tai đã đặc khàn. Tiếng người lớn tuổi phát ra:
“Bão đã đi qua rồi”.
Có người tiếp theo:
“Ơn trời đất”.
Nó nghe giọng ba nó hỏi:
“Nhưng còn lụt, theo anh thì chừng nào rút hết?”.
“Tối mai mới rút hết”.
Mệt mỏi lắm rồi, không thể chống lại nữa, nó vùi vào giấc ngủ.
Giựt mình tỉnh dậy thì đã gần trưa, trời có nắng hanh, không còn mưa gió, nó uể oải bước ra ngoài. Đập vô mắt là cảnh vật xung quanh xác xơ, vài cây lớn bị trốc gốc nằm chỏng chơ, nghiêng ngã, cỏ nằm rạp xuống đất với xác lá phủ đầy, xa xa phía dưới Gò nước ngập màu đục ngầu, chỉ thấy nước toàn nước, nước đang chảy kéo từng đám cỏ bụi cây trôi theo lừ đừ, trên bầu trời đã có vài con chim bay qua lại, có một đàn sáu con giống như trong câu đố – đi trước là trước hai con, đi sau là sau hai con, đi giữa là giữa hai con, hỏi bầy chim có mấy con, nó nghĩ tới câu đố mẹo nên người thấy vui vui hơn chút đỉnh và chạy ra trước sân hòa vô đám con nít đang chạy nhảy chơi đùa có anh nó nữa. Ở hành lang những người đàn ông ngồi từng cụm bàn tán chuyện trò, mấy bà mấy cô thì nấu cơm, luột khoai lang khoai mì, rang bắp, giã muối đậu muối mè…
Đến chiều thì nước rút mạnh, những bụi cỏ, xác cây lá dính chùm thành từng đống theo nước cuốn chảy ào ào. Có vài người chèo xuồng tới lui, xuồng dập dền lên xuống rất nguy hiểm, nó hỏi ba nó:
“Người ta làm gì ngoài đó vậy ba?”.
Ba nó đáp:
“À, có người chắc về nhà lấy đồ đạc, còn có người thì giăng bắt cá, nước lũ tràn về mang theo nhiều cá lắm”.
Nó hỏi tiếp:
“Dạ, chừng nào mình về nhà vậy ba?”.
“Sáng mai con à”.
“Vậy là ngủ ở đây một đêm nữa?”.
“Ừ, ngủ thêm một đêm nữa”.
Đêm đó nó ngủ một mạch cho tới lúc sáng bạch không biết trời trăng mây gió gì, vừa thức giấc đã thấy đồ đạc được gói ghém xong xuôi và kêu đi về luôn. Ở nhà quanh cảnh còn tệ hơn ở trên Gò, xác củi khô, xác đủ thứ loại, giấy báo, bao bịch, lá cây và cả những con cá, con chuột chết nằm la liệt cho tới tận ngoài bãi sông. Căn nhà nó thì còn nguyên vẹn mà trên đường về thấy rất nhiều nhà tốc mái bay tứ tung. Ba nó biểu:
“Bà với mấy đứa coi lúa má ra sao, đem ra phơi nắng đi, tui đi gom củi trôi về đây, để người ta gom hết, với lại dọn mớ rác, xác chết”.
Má nó ừ. Hai anh em chạy theo ba nó ra gom củi khô ngoài bãi. Ra ngoài thì đã có vài người đang gom, củi khô củi mục rất nhiều, chất thành mấy đống rồi đem từ từ vô nhà, ba nó hỏi tiếp:
“Lúa má ra sao?”.
Má nó đang lấy cào cào cho lớp lúa ở dưới lên trên, quay qua trả lời:
“Cũng chưa đến nỗi nào, chỉ vài bao ướt nhứt nức mộng sơ sơ, nhưng còn ăn được, lúa hườm hườm* (gần chín) thì chín rồi”.
“Hột lép nhiều hông bà?”.
“Cũng hông bao nhiêu”.
“Vậy là đỡ rồi”.
Hết buổi sáng với vụ củi, buổi chiều vác chài lưới ra sông, ba nó vừa đi vừa nói trong khi hai anh em lẽo đẽo theo sau cầm cái thùng gánh nước:
“Sau lũ lụt cá tôm nhiều lắm, ba kiếm mớ tôm kêu má bây nấu mì Quảng bù những ngày cực quá”.
Nó mừng rơn, chưa được ăn mì Quảng nấu tôm lần nào chỉ nghe là ngon. Ngoài sông cũng rất nhiều người chài lưới, người chài gần bờ, người chèo ghe xuồng ra giữ dòng. Và đúng lắm, cá tôm nhiều quá chừng, không lâu sau ba nó kéo được hai thùng gánh nước gần đầy và gần rổ rá tôm. Nó thấy cá rô thì nó biết nhưng nhiều con khác thì không, chỉ con cá hỏi anh nó:
“Con này là con cá gì?”.
Bị anh ký đầu cái cốc:
“Dễ ẹt mà hổng biết, cá gáy còn kêu cá chép đó”.
“Con này?”.
” Cá hanh”.
“Còn mấy con kia?”.
“À, đây là cá diếc, con này cá mòi, còn đây con cá bống…”.
Nó đọc một lèo:
“Bống bống bang bang lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”.
Nó vừa đọc xong thì có người reo lên:
“Ý chà, cá bự quá!”.
Anh em nó quay qua nhìn thì giữa dòng, một chú đang ngoắc mấy chú khác lại kéo lưới phụ, con cá lớn vùng vẫy dãy đành đạch liên hồi, cả buổi sau ba người mới kéo lên được chiếc nghe, chèo vô trong bờ, mọi người xúm xít lại coi, con cá bự thiệt, dài cả thước, bề ngang bự còn hơn cái mình của nó, có người nói mấy chục ký luôn. Ai nấy hớn hở vui mừng. Ba nó nói:
“Vậy là mùa cá lũ lụt năm nay trúng rồi”.
Nhiều người đồng tình:
“Ờ, bù bớt mất mát cũng đỡ khổ”.
***
Chiều hôm sau, cả nhà cùng xúm xít phụ với má nấu mì Quảng. Nấu mì Quảng thì từ xay bột bằng cối đá cho tới tráng bánh đều tự tay ở nhà làm, má nó tráng bánh như tráng bánh tráng, nhưng tráng hai lớp nên nó dầy rồi lấy cây tim làm bằng cật tre* (phần vỏ ngoài của cây tre, cứng và dẻo) vót mỏng như cái nan sọt vô lấy bánh ra. Bột xay bằng gạo Nàng Hương nên có màu đo đỏ, chị nó thoa một lớp dầu phụng* (phộng, dầu làm từ hạt đậu phộng) cho khỏi dính rồi xếp cỡ bánh gần gang tay, lấy con dao dài chắn lụp cụp thành những sợi nhỏ. Nước nhưn má nó nấu bay thơm lừng, đặc ngào thịt tôm cá, ba nó thì xắt lõi cây chuối hột trộn với bắp chuối bàu sợi và rau húng lá tròn tròn nho nhỏ, lá tía tô, giá… làm rau sống mà anh em cùng lặt phụ.
Xong xuôi cả nhà cùng ngồi trên cái đi văng cùng ăn và chuyện trò, mì rất ngon, nó càng thấy ngon hơn được ngồi ăn trong cái không khí dịu mát, trước nhà dòng sông êm đềm trôi không dấu hiệu gì cơn lũ lụt vừa đi qua và không ai muốn nhắc lại. Ăn gần xong thì có một người ôm cái cặp táp đi vô nhà, hỏi:
“Chà, cả nhà đang ăn cơm hỉ?”.
Ba má nó dạ, rồi chào lại:
“Chú mới tới, chú ngồi ăn cơm luôn với tụi cháu?”.
Đây là ông chú bà con xa, là chú của ba nó nhưng ổng còn rất trẻ, độ chừng hai mươi mấy thôi. Ba nó thứ hai má nó thứ tư, ở bên nội thì kêu theo ba, bên ngoại kêu theo má. Ba nó là trưởng Tộc nên dù vai vế nhỏ nhưng với nhiều người vai vế lớn hơn lại lớn tuổi hơn rất nhiều. Ông chú phẩy tay:
“Tui mới ăn rồi”.
Ba nó bỏ lở nữa chừng bữa ăn, đi vô nhà rót trà mời chú:
“Chú qua chơi”.
Ông chú gật đầu ra vẻ trịnh trọng:
“À, ghé thăm, sẵn tiện hỏi việc ni”.
“Dạ, việc chi rứa chú?”.
Ông chú mở cái cặp táp lôi ra mớ giấy báo nhào nát, có tờ rách te tua, gương mặt sắt lại, ổng hỏi:
“Cái ni chắc của anh Hai, anh mới ở Sài Gòn về mới có thứ ni chớ ở đây làm chi ai có hỉ?”.
Ba nó cầm mớ giấy báo lật qua lật lại:
“Dạ đúng rồi, đợt lũ lụt vừa rồi chắc nó trôi bay tứ tán”.
Ông chú vẫn với gương mặt đó, lấy lại xấp báo:
“Nhiều người lượm lặt giao cho tui họ nói anh Hai còn tư tưởng chế độ Ngụy nên mới xài mấy thứ này”.
Ba nó ngạc nhiên:
“Nhưng cháu dùng làm mồi lửa đốt củi nấu cơm nước mà chú”.
Ông chú vẻ mặt không thay đổi, còn đanh lại lạnh hơn:
“Người ta đâu có biết anh Hai làm cái gì, họ thấy thì họ nói tàng trữ văn hóa phẩm phản động, đồi trụy thôi, với lại cũng không được xử dụng bất cứ đồ gì của chế độ Ngụy hết, như vậy là phạm pháp”.
Ba nó lo lắng:
“Chà, cháu hông biết, nay chú nói cháu nghe, thôi để cháu đốt hết” – Ba nó với tay qua ông chú: “Cho cháu xin cháu đốt luôn”.
Ông chú cất xấp báo vô trong cặp:
“Răng mà được, người ta nói đây là bằng chứng phải giữ, mai là chủ nhật nghỉ, sáng thứ hai mời anh Hai lên xã làm việc”.
Ba nó càng lo lắng:
“Vậy là răng chú, chú nói đỡ cho…”
Ông chú cắt ngang:
“Đâu có được, nguyên tắc là nguyên tắc, tui làm sai ai chịu cho tui, cứ vậy sáng thứ hai lên, thôi tui về”.
Ông chú đứng dậy cái rẹt bước ra. Ba nó bước theo thẩn thờ như người mất hồn rồi ngồi phịch xuống đi văng. Má nó thấy lạ, hỏi:
“Có chuyện gì vậy ông?”.
Ba nó thở hắt ra. Má nó nói tiếp:
“Thôi ăn tiếp đi, để tui làm tô khác, tô nãy nguội ngắt rồi”.
Ba nó bóp trán, lắc đầu:
“Trời đánh còn tránh bữa ăn, ăn chi nổi nữa mà ăn. Muốn về quê với Tổ Tiên, với bà với con, muốn có cuộc sống yên ổn mà chẳng dễ, sao khó quá ngay trên mảnh đất quê mình”.
Ba nó kể lại chuyện ông chú đem đến vừa rồi. Má nó trấn an:
“Chắc hông sao đâu, ông lên họ nói ba điều bốn chuyện rồi cho về thôi mà”.
Ba nó lắc đầu:
“Biết đâu được, hổng chừng học bắt bỏ tù luôn thì làm sao? mấy bữa đi học tập họ ăn nói hùng hồn lắm”.
Má nó tiếp:
“Trên xã cũng bà con hông mà”.
“Còn gì bà với con, hồi nãy tui nói chưa ráo nước miếng là bị xắn ngang, còn tệ hơn người ngoài, thô dẹp mâm đi, tui suy nghĩ cái đã” – Ba nói với vô trong: “lấy cho ba bình trà ra đây”.
Ba nó nhấm từng ngụm trà ngồi đăm chiêu suy nghĩ lung lắm. Ánh trăng vàng vọt chiếu lên mái tóc ông trong đêm tối mà ngỡ như bạc cả mái đầu. Má và mấy chị ngồi im thin thít kề bên. Hồi lâu sau ba nó quay qua:
“Bà còn nhiều ít tiền”.
“Chẳng bao nhiêu hết, tiền chợ búa chừng một hai tháng, mà ông hỏi lằm chi?”.
Ba nó nhắm thêm ngụm trà:
“Chắc phả bán thêm đồ đạc, mai tui đi Đà Nẵng mà tui đâu biết bán đồ, hay bà đưa tui mấy chỉ vàng”.
“Để làm gì?”.
“Đi thôi, trở lại Sài Gòn thôi, bán mấy chỉ vàng làm lộ phí, chịu hết nổi rồi, nhứt định…”.
Má nó ngắt lời:
“Ông nói thiệt chớ?”.
“Thiệt, nhứt định phải đi”.
Má nó chần chừ:
“Ông nói chắc hả, mới về chưa bao lâu…”
Mấy chị chen vô:
“Thôi má ơi, tụi con thấy ba nói đúng đó, người ta đâu có muốn mình ở”.
“Nhưng…” – Má nó định nói nữa, ba nó cản lại:
“Không nhưng nhị gì nữa, phải đi thôi, sáng mai tui đi Đà Nẵng kiếm xe, ở nhà bà và mấy đứa đóng gói đồ đạc, tối tui đưa xe về âm thầm mà đi trong đêm, cả nhà không được nói gì hết nghe hông, mấy đứa hông được để bất cứ ai biết, họ biết quy tội cho ba bắt là cái chắc”.
Sáng ba nó dậy đi rất sớm, khi trời còn tờ mờ chưa sáng hẳn. Nó cũng không ngủ được, chạy một mạch ra bãi cát ngồi trước bờ sông, nó kêu cơn gió mang hốn tuổi thơ tới, nó nói:
“Tao lại phải sắp đi nữa rồi”.
Cơn gió nói buồn buồn:
“Đi thiệt hả? đi đâu?”.
“À, trở lại nơi tao sanh ra”.
“Ở đó có giống đây hông?”.
“Cũng quê quê như vầy, nhưng gần nhà không có sông”.
Nó hỏi lại cơn gió:
“Sao người ta lại làm khó nhau, tao nghe ba tao nói vậy?”.
Cơn gió rít rít như thể đang nhíu mày:
“Chẳng biết nữa, chắc tại người ta lớn rồi, lớn rồi tánh tình khác chớ hông như trẻ thơ tụi mình”.
Nó à:
“Chắc vậy” – Nó chợt nhớ tới ông trắng bóc ngồi trên xe ríp nói không muốn lớn lên, nó hiểu hiểu ra phần nào, làm nó lừng khừng nửa muốn lớn nửa muốn không, nó hỏi cơn tiếp:
“Mày có muốn lớn lên hông?”.
Cơn gió đáp ngay:
“Hông, mình chẳng muốn lớn lên, mình thích vui chơi như thế này”.
Nó gục gật với cơn gió mang hồn tuổi thơ:
“Chắc vậy là hay nhứt”.
Lăn dài ra bãi cát chơi đùa với cơn gió tuổi thơ, nó sẽ xa nơi này mà không biết bao giờ gặp lại chỉ sau đêm nay thôi…
Lê Đắc Hoàng Hựu

Cơn gió mang hồn tuổi thơ…Ngao du Sài gòn đưa trở về quê…Tưởng là yên phận mọi bề!Không ngờ bão lụt xứ quê hoành hành…”Tay làm hàm nhai”kiếm ăn!Đối phó Thiên Tai căng thẳng Ách người!Nguyên do ”Lý lịch ”hành Tội!Tiếp tục vất vả xa rời Tổ Tiên!”Ôi sự đời bao la chuyện!Toàn chuyện phiền nhiễu đảo điên cuộc đời!?Cơn gió tuổi thơ tôi ơi! Đưa đi đâu nữa hết đời hết hơi!?”
ThíchThích