Thuyên cố leo lên các bậc cấp ở tháp canh thứ năm của Vạn Lý Trường Thành, trời se lạnh nhưng mồ hôi cô túa ra như tắm. Những người đi cùng tour với Thuyên đã dừng lại ở tháp canh thứ ba và đi xuống, chỉ còn lại anh hướng dẫn viên, Thuyên và một ông lão. Ông lão vừa đi vừa tâm sự với Thuyên :
“Bất đáo trường thành phi hảo hán, con à! Ông phải đi để biết sức mình tới đâu. Con là con gái mà cũng giỏi nhỉ?”
“Dạ, con cũng nghĩ như ông, phải ráng đi cho biết.”
Ông lão cười khà khà:
“Ông già vậy chứ chưa bao giờ đau ốm con à. Mỗi bữa ông ăn ba bát cơm đầy, ngủ một giấc đến sáng rồi ra đồng. Cả đời ông chưa đi đâu xa, đây là lần đầu, cũng nhờ thằng con làm ăn khấm khá cho ông được đi.”
Lên tới tháp, hai ông cháu không còn sức để nói nữa, chỉ nhìn nhau thở dốc và cười ngầm ý như muốn đầu hàng. Xuống tới mặt đất, mọi người đang đứng chờ, những người bạn của Thuyên cười toe toét:
“Thuyên cố trèo lên cho cao mà thua bọn này, bọn này đã có huy chương công nhận là anh hùng chinh phục Vạn Lý Trường Thành nè.”
Cô bạn của Thuyên đưa ra chiếc mề đay nhỏ xíu kèm theo giấy chứng nhận bằng chữ Trung Quốc, rồi cả bọn rũ ra cười trước con mắt ngơ ngác của Thuyên và ông lão nông dân:
“Muốn có huy chương chứng nhận là anh hùng chinh phục Vạn Lí Trường Thành phải tốn hai trăm tệ đó bạn ạ, thích thì lại đằng kia mà mua về loè thiên hạ.”
Ông lão lắc đầu ngầy ngậy:
“Ông cháu ta không cần con ạ, đừng để nó lừa lấy tiền của mình…”
“Dạ, con cũng nghĩ như ông. Dù sao đi nữa ông cháu ta vẫn là người chinh phục được Vạn Lí Trường Thành cao nhất trong đoàn này ông ha?”
Ông lão cười khà khà, thật sảng khoái. Mọi người chuẩn bị lên xe để đi đến địa điểm mới. Bỗng chuông điện thoại của Thuyên rung lên, tiếng anh Hàn như nghẹn lại:
“Thuyên ơi! Đăng mất rồi!… Em đang ở đâu?”
Tự dưng Thuyên không thấy buồn mà thấy thật chán nản. Cảm xúc đau buồn của mình đã chai cứng rồi sao? Mình nhẫn tâm vậy sao?! Anh Đăng có phải là người thân của mình không?!…Con người ấy đã gắn bó với mình cả một thời thơ ấu nghèo khổ, vậy mà giờ đây đã trở thành xa lạ với mình đến vậy. Kí ức chông chênh, hụt hẫng lại trở về với Thuyên.
Ngày đó, bom đạn chiến tranh đã tàn phá khốc liệt quê hương Thuyên. Chẳng có đêm nào anh em Thuyên được trọn vẹn một giấc ngủ. Mỗi đêm khi chìm trong giấc mơ ngọt ngào cũng lúc ba me Thuyên đánh thức mấy anh em và đưa xuống hầm ẩn nấp. Sáng thức dậy mắt vẫn cay xè vì giấc ngủ không tròn. Sân trường im vắng, thầy cô không đến, vài đứa học trò chân đất ngồi trong hiên trường dõi mắt ngóng trông, tiếng chiêm chiếp của bầy chim sẻ rời rạc, u buồn.
Cuối cùng, ba me đành mua một ngôi nhà nhỏ ở thị xã cho anh em Thuyên ra đó ăn ở học hành, còn ba me vẫn ở lại quê. Anh Hàn là con trai lớn trở thành quyền huynh thế phụ. Tất cả em út răm rắp nghe lệnh anh như lệnh lính. Công việc bếp núc có người dì bà con xa với me lo.
Mỗi tuần, cứ chiều thứ bảy ba lại chở me trên chiếc xe Honda dame 50 ra thành phố thăm con với lương thực và tiền bạc.
Anh em Thuyên đã có đôi mắt biết đợi chờ, mong ngóng từ ngày đó. Ánh mắt ấm áp của cha, bàn tay dịu dàng của mẹ và những món quà đơn sơ như bát đường đen, đậu đỏ, con gà , con vịt, trái bí , bó rau… được ba me thu hoạch được từ ngôi vườn cũ quê nhà là nỗi khao khát của anh em Thuyên.
Vậy mà anh Hàn lại dắt về hai anh em người bạn, cùng ăn, cùng ở với anh em Thuyên trong những ngày thiếu thốn đó. Anh Hàn chỉ giải thích với ba me: “Đăng học cùng lớp với con, nhà Đăng ở xóm nhà chồ ngoài biển, đã bị bão lũ cuốn sạch. Ba me Đăng đã về lại quê. Hai anh em Đăng không thể bỏ học dở chừng…”. Me chép miệng lắc đầu: “Anh em con đã đông rồi, ba me lại không thể ở gần các con…Thôi thì khéo ăn no, khéo co ấm, biết làm sao bây giờ…”
Tuổi thơ của anh em Thuyên là những chiều buồn thức dậy sau giấc ngủ trưa, them thuồng những món quà vặt mà trẻ con hàng xóm chán chê. Sự thiếu thốn làm những đứa em trai của Thuyên ủ rũ trong góc nhà, ít cười ít nói.
Mấy anh em chỉ còn tìm kiếm niềm vui trong những cuốn sách. Thói quen đọc sách đến đam mê này được thừa hưởng từ ba. Tủ sách khổng lồ của ba được chuyển từ vùng quê bom đạn về ngôi nhà nhỏ ở thành phố. Ba đọc sách và giữ sách rất kĩ. Ông luôn uốn nắn con cái từ tư thế ngồi đọc, cách đọc đến cách chọn sách để đọc… Riêng những cuốn sách tiếng Pháp ố vàng được ông giữ gìn cẩn thận là anh em Thuyên không được đụng đến (đụng đến cũng thua vì đứa nào cũng dốt đặc tiếng Pháp, trong khi ba nói tiếng Pháp như…Tây). Trong khi mấy anh trai ngày đêm nghiền ngẫm Tam Quốc Chí, Thuỷ Hử thì Thuyên thì đắm mình trong sách Tự Lực Văn Đoàn với những Khái Hưng, Nhất Linh… Quà sáng ít ỏi được anh em Thuyên chắt chiu dành dụm để mua sách. Hạnh phúc nhất là lúc chờ đợi ở nhà sách vào những ngày cuối tuần, giữa tháng, cuối tháng để cầm trên tay tờ tuần báo hoặc bán nguyệt san còn thơm nồng mùi giấy mực in. Hình vẽ của ViVi, Đinh Tiến Luyện… rạng ngời ở trang bìa làm Thuyên nhìn như bị thôi miên. Thuyên sống trong thế giới lung linh của thơ văn và bắt đầu mơ mộng, tập sáng tác… Thế giới của sách đã giúp anh em Thuyên quên đi những thiếu thốn cuộc sống tình cảm và vật chất, giúp Thuyên vơi đi nỗi buồn nhớ quê nhà, làm nên tiếng cười rúc rich của bầy em khi chúi mũi vào các tập truyện tranh Thạch Bích Sơn, Tintin, Chú Thoòng.
Trước ngày kết thúc chiến tranh, anh Đăng biệt tích.
Cái xóm nhỏ của Thuyên đã hoàn toàn thay đổi, những người giàu có chức quyền bỏ nhà cửa, tài sản chạy và trở về với mất mát buồn phiền, những người nghèo khó ở lại thì bỗng dưng giàu có, hớn hở… Cuộc đời đã thay đổi… nhưng trong ngôi nhà của Thuyên vẫn thế… vẫn u buồn, cô độc và thiếu vắng…
Và chuyện buồn hơn là người chồng của dì từ Bắc trở về sau hai mươi năm xa cách. Ngày đầu tiên khi ông xuất hiện với bộ đồ bộ đội bạc màu, chiếc ba lô xộc xệch thảm hại, nước da xanh tái, không một chút oai hùng của người chiến thắng, dì khóc nức nở… Đêm đó, đứa em trai áp út (vốn được dì cưng chiều nhất và thường ngủ với dì như mẹ) khóc vì không có dì bên cạnh. Nó nhìn gườm gườm ông ấy như nhìn kẻ thù.
Ông ấy với dì một tháng rồi ra Bắc. Đứa em trai của Thuyên thở ra nhẹ nhõm…Tội nghiệp nó, ba tháng sau ông ấy trở lại, không phải một mình mà với một bầu đoàn thê tử. Một cô vợ trẻ măng như con gái ông ấy và bốn đứa con lóc nhóc, ba trai một gái… Nhà Thuyên chật ních người, ba đứa con trai chen nhau ngủ với anh em Thuyên, còn cô vợ trẻ và cô con gái ở chung trong căn phòng nhỏ của Thuyên. Cô ta không ngủ, cứ ngồi bên bàn học của Thuyên và khóc suốt đêm. Lần đầu tiên Thuyên cảm nhận về nỗi đau của người đàn bà lâm vào cảnh lấy chồng chung. Không khí trong nhà như ngạt thở. Có hai người mắt lúc nào cũng đỏ hoe là em trai của Thuyên và cô vợ trẻ. Rồi bầu đoàn thê tử kéo nhau đi, kéo luôn cả dì…
Dì rất khó tính thường hay bắt ne bắt nẹt Thuyên vì tội không chịu phụ với dì trong việc bếp núc, vậy mà ngày cuối cùng dì cầm tay Thuyên khóc: “Dì đi rồi, Thuyên đi học về chịu khó cơm nước cho mấy anh em, Thuyên sẽ vất vả đó! Nhưng con gái lớn rồi phải quán xuyến việc nhà nghe con!”
Đứa em trai của Thuyên khóc ri rỉ bỏ ăn bỏ uống gầy rộc người.
Vậy là hết những buổi chiều mơ màng với sách, bài vở chồng chất, cơm phải nấu, nhà phải quét, chén bát phải rửa, áo quần phải giặt… Lúc đó Thuyên mới thấy nhớ và thương dì. Anh em trai Thuyên chẳng ai giúp được gì cho Thuyên, chỉ có người em trai của anh Đăng phụ giúp với Thuyên công việc nhà, chẳng những thế hắn còn giúp Thuyên làm bài, vẽ bản đồ địa lí, giải những bài toán khó… Hắn học hơn Thuyên hai lớp, học không giỏi nhưng chịu khó. Những quyển sách cũ của Thuyên hắn tỉ mỉ ngồi đóng gáy lại rất đẹp. những bộ tập san Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc, Thằng Bờm… hắn ngồi xếp lại theo số thứ tự và đóng thành bộ.
Thuyên bắt đầu vào tuổi dậy thì con gái, những buổi trưa ngủ dậy, má tự nhiên ửng hồng, môi mọng đỏ và mắt trong veo… bọn con trai liệng thư vào sân nhà như lá rơi, sợ anh trai la mắng Thuyên nên sáng nào hắn cũng dậy sớm nhặt vội vàng đem vào cho Thuyên. Hắn trung thành và tận tuỵ, Thuyên nhờ gì cũng làm tới nơi tới chốn. Thấy Thuyên cười là mặt hắn rạng ngời.
Một ngày chủ nhật, Thuyên về quê thăm ba me và xin tiền, lương thực cho tuần tới. Ba me bận nên đã hai tuần không ra thăm con cái, nhà hết veo gạo và tiền chợ. Thời đó, từ thị xã về quê có hai chục cây số mà đi rất vất vả, Thuyên phải đi bộ gần năm cây số ra bến xe, chen lấn để trèo lên được chiếc xe lam hoặc xe buýt. Tuy vậy, niềm vui được trở lại quê nhà làm tan biến bao nhiêu nhọc nhằn. Rồi chuyến trở về thị xã thì càng nhọc nhằn hơn với gạo khoai sắn rau bí lỉnh kỉnh cộng thêm tâm trạng buồn bã tiếc nuối khi rời xa ba me.
Khi Thuyên về đến nhà, trời đã nhá nhem. Trong bóng tối của hoàng hôn, Thuyên nhìn thấy hắn đang ngồi gục mặt bên hiên nhà với những bao tải đầy giấy vụn. Hắn nhìn Thuyên với đôi mắt sợ hãi:
“Thuyên ơi, anh Đăng…”
Thuyên xáo tung những bao tải đựng cả một tủ sách được gia đình tích góp từ lâu đời giờ đã tan nát thành giấy vụn, rồi oà khóc tức tưởi. Hắn ngồi im như thóc nhìn Thuyên, khổ sở như chính hắn là người gây ra.
“Thuyên à, anh Đăng nói đây là văn hoá đồi truỵ, phải đốt đi! Ngày mai ảnh sẽ đem đến cho Thuyên những quyển sách có nội dung lành mạnh, trong sáng.”
Thuyên không kìm lòng được nữa, hét lên:
“Anh em nhà ông biến hết đi, tôi không cần nữa gì hết! ”
Những ngày sau đó thật buồn, Thuyên lặng lẽ làm công việc nhà sau giờ những giờ đi học về. Em trai Đăng len lén nhìn Thuyên với đôi mắt buồn rầu e ngại.
Rồi một ngày hắn bỏ hết sách vở , áo quần vào ba lô dọn đến ở nhờ nhà một người bạn chờ kết quả thi đại học.
Nhưng ngôi nhà của anh em Thuyên vẫn là nơi hò hẹn của Đăng và cô bạn gái, con của một ông tướng, từ Hà Nội vào. Cô gái đó có đôi mắt to trô trố và giọng nói lảnh lót như sáo, chưa bước tới ngõ đã nghe tiếng cười. Họ hẹn hò, trò chuyện, tự tình trong ngôi nhà chỉ toàn trẻ con rất thoả mái tự nhiên như nhà của họ. Không những thế thỉnh thoảng cô gái ấy còn dắt về một nhóm bạn gái có giọng nói ríu rít y chang cô ta, rồi gán ghép một cô trong nhóm ấy cho anh trai của Thuyên. Ông anh Thuyên từ nhỏ học trong ngôi trường chỉ toàn con trai, con gái chỉ thấy từ xa, lỡ thích một bóng dáng áo dài trắng nào ở trường nữ, chỉ biết lặng lẽ lẽo đẽo theo saunhững buổi tan trường mà chẳng dám nói một lời. Bây giờ lại có một cô gái dạn dĩ bên cạnh, anh trai Thuyên như trúng mũi tên của nàng bắn ra rất nhanh, nàng gia nhập vào cuộc sống của gia đình như một thành viên chính thức…
Nhưng rồi một ngày nàng cuốn tất cả những bộ áo quần còn mới của Thuyên và tiền chợ một tháng của mấy anh em cất trong tủ nhỏ và biến mất…Thuyên lại thêm một lần khóc tức tưởi. Đứa con gái nào lớn lên trong thời buổi khó khăn, áo quần, vải vóc thật khan hiếm thì mới hiểu được tâm trạng Thuyên lúc đó. Rồi tiền chợ cho cả một tháng của mấy anh em biết giải quyết làm sao?! Anh trai của Thuyên buồn bã an ủi: “Thôi em, đừng tiếc làm gì, quên cô ấy đi!”
Cuộc sống trôi qua thật nhanh trong khốn khó!
Anh em Thuyên cũng lần lượt lập gia đình và rời xa ngôi nhà của thời thơ ấu.
Nhưng đã thành thói quen cứ chiều 30 tết là tự tìm về ngôi nhà để quây quần bên nhau. Không biết có điều gì níu kéo mà lúc nào có mặt Đăng, dù bây giờ anh ấy đã thành nhân vật quan trọng có chức quyền.
Bao giờ Thuyên cũng cố ý ngồi ở góc khuất và tránh mặt Đăng.
Có lần Đăng cầm ly rượu đến bên Thuyên cười nói :
“Anh mời Thuyên để anh em mình xoá bỏ giận hờn cũ.”
Thuyên lạnh lùng:
“Tôi không có gì để giận hờn với anh.”
“Thôi bỏ qua chuyện cũ đi em, Nga Mỹ còn bắt tay nhau, vậy mà anh em mình cứ chiến tranh hoài.”
“Tôi đã cố quên nhưng không quên được. Điều duy nhất mà tôi nhớ là trên thế giới này có hai kẻ đốt sách, đó là Tần Thuỷ Hoàng và anh!”
Đăng tái mặt , lặng lẽ đi ra hiên nhà ngồi hút thuốc.
Kể từ đó không bao giờ anh quay về ngôi nhà của anh em Thuyên.
Thuyên được biết qua bạn bè, anh được đề bạt một chức vụ cao trong nghành thông tin văn hoá ở Sài Gòn và đưa vợ con vào đó sinh sống.
Buổi trưa im vắng bên đồi cỏ khô cháy, trời xanh đến nhói buốt, một đàn bò gầy gò gặm ngon lành từng vạt nắng, Thuyên và hắn lặng ngồi bên nấm mộ của Đăng mới đắp còn nồng mùi hương khói. Giọng hắn buồn buồn kể lể:
“Anh Đăng đã nhờ anh đưa đi chợ sách cũ để tìm lại những quyển sách ngày xưa anh ấy đốt của Thuyên, chưa thực hiện được điều đó thì anh mất, mỗi lần nhắc đến Thuyên anh ấy buồn và ân hận lắm, Thuyên à!”
Mắt Thuyên cay xè
“Sao anh ấy mất đột ngột vậy?”
“Anh ấy chẳng sung sướng gì đâu, tự vẽ bùa cho mình đeo và chiếc bùa ấy đã thành nỗi bi kịch cho chính anh.”
“Vì sao? Anh ấy cưới được cô gái anh ấy yêu và có địa vị, giàu sang kia mà?”
“Cô ấy và lý tưởng mà anh ấy theo đuổi là nỗi đau khổ dằn vặt anh ấy cho đến phút cuối cùng. Cô ấy và những người bạn hành hạ anh ấy đến điêu đứng vì thói học làm sang, đua đòi rượu ngoại, nhà hàng, vũ trường… Anh ấy không phải chìu một cô vợ mà chìu luôn năm cô như vậy, nếu không về nhà khó mà sống yên. Ngày cuối cùng anh Đăng đi công tác xa, cô ấy cũng giận dỗi làm mình làm mẩy. Trên đường đi anh ấy ngạt thở vì suy tim, tài xế đưa vào một bệnh xá địa phương gần nhất và gọi điện cho cô ấy bằng máy của anh Đăng, cô ấy giận dỗi không thèm bắt máy. Anh ấy tái tím và tắt thở ngay ở đó không kịp cứu chữa, tài xế phải gọi cho con trai anh ấy. Khi con trai khóc: “Mẹ ơi , ba mất rồi!” . Cô ấy vẫn tưởng anh doạ nên hét lên: “Ba mày làm sao mà chết được, ổng phải sống mà trả nợ cho tao!”
Thuyên bật khóc.
Nước mắt thật nhiệm mầu, nó cuốn trôi tất cả giận hờn, oán trách.
Thế hệ chúng ta đã sinh ra trong một thời điểm đáng thương nên trái tim chúng ta có quá nhiều mảnh vá, phải chăng vì vậy mà chúng ta biết bao dung trong đau đớn?!…
Trần thị Trúc Hạ

Xin lỗi đã bắt ông Hoàng sang trọng và quí phái đã chờ đợi lâu…
ThíchThích
Có ai đó trong cuộc đời đã bước vào trang văn của Trúc Hạ thật tự nhiên…cũng tự nhiên như hơi thở của cô vậy.Câu chuyện xoay quanh những mảng cuộc sống đậm nhạt của một thời mà tất cả những người bằng tuổi chúng ta đều đã trải qua…
Thời gian trôi đi, mọi kí ức rồi cũng lãng quên nhưng chắc sẽ có những kí ức mỗi lần nhắc đến lại đau như sát muối? Có lúc tưởng như người anh, người bạn…kẻ đốt sách ấy đã bị cơn giận bắn xa đi ngàn dặm…không thể nào với tay tới. Thế mà cuối cùng hắn lại được trở về bên cô…vì lẽ gì? Nghĩa tử là nghĩa tận chăng? hay vì câu chuyện của người em kể cho cô nghe trước nấm mồ của hắn…hay vì cuối cùng cô đã nhận ra hắn cũng đáng thương hơn đáng giận? Có thể vì tất cả…
Kết thúc dòng comt nầy, tôi lại muốn nhắc đến những câu đối thoại của cô gái và ông lão ở đầu câu chuyện, có vẻ như tản mạn để mở đầu cho một tình huống …vậy mà tôi cảm thấy thật thú vị khi nó khiến tôi nghĩ rằng: ” Mỗi con người chúng ta bước lên những nấc thang của cuộc đời phải bằng chính đôi chân và sức lưc của mình”
Không biết là tác giả có nghĩ như tôi?
ThíchThích
Xúc động thật nhiều khi đọc những dòng cmt của Trần thị Thanh Hải
Những cảm nhận thật sâu lắng và tinh tế !
Dường như đã nói hết được những điều tác giả muốn nói.
ThíchThích
…Thuyên bật khóc.
Nước mắt thật nhiệm mầu, nó cuốn trôi tất cả giận hờn, oán trách.
Thế hệ chúng ta đã sinh ra trong một thời điểm đáng thương nên trái tim chúng ta có quá nhiều mảnh vá, phải chăng vì vậy mà chúng ta biết bao dung trong đau đớn?!…
Đoan kết hay quá. Thật nhẹ nhàng. Thật nhân văn.
ThíchThích
Tác giả cũng bật khóc khi viết xong đoạn kết
Cám ơn Binh Le rất nhiều…
ThíchThích
Sách -tư tưởng vô hình đốt nào sạch?!”Vạn lý trường thành” hiện hữu còn nào mất!?Người chinh phục đỉnh cao bằng đôi chân Miếng huy chương thành quả của sự thật Chuyện dẫn dắt đầy tình tiết hấp dẫn…Dù cái Kết buồn của sự thăng trầm…Vẫn cho người đọc có cảm giác gần…”Tần Thủy Hoàng đốt cho mất dấu tích!Và Đăng đốt cho hợp thời đừng nghịch!Vẫn sách tư tưởng với người ý thích!-Đốt-hình thức không thích biểu hiện?Nào ai đốt được hết những chuyện…”Nội dung sách vào đầu nằm yên”Lý do giản đơn có ở Thuyên”Sách trong tay từng nâng niu yêu mến…Đăng đốt bỏ khác nào đốt Tình!?Thuyên giận để bụng-một người dưng!-Đăng chết-lạnh lùng nghe tin buồn…Với Thuyên -Đốt Sách- ấm ách lòng!Mất rồi mơ mộng những tình trong…Để lại ưu tư bao tồn đọng!”Mộng -Thực cuộc đời vẫn phải Sống!”
ThíchThích
Cám ơn Aitrinhngoctran thật nhiều
ThíchThích
Rất vui khi đọc được một truyện ngắn mà tôi chờ đợi dễ chừng hai năm hơn. Cám ơn tác giả và tuongtri rất nhiều. Truyện viết nhẹ nhàng với những chi tiết chừng như có thật: hình ảnh người chồng bà dì bà con xa với mẹ trở về từ miền Bắc ngay sau 1975, đứa em trai “người đốt sách”, cô bạn gái con “ông tướng” của anh Hàn và bạn bè cô ta… tất cả cùng với miền quê và cha mẹ tác giả đã hòa vào nhau để làm thành một bức tranh nhiều gam màu gam màu mâu thuẫn với màu đen và xám của xã hội và màu tim yêu thương của các nhân vật chính diện . Tôi tâm đắc với câu trả lời đầy căm thù, hờn giỗi trẻ con nhưng vô cùng sâu sắc của Thuyên: “Tôi đã cố quên nhưng không quên được. Điều duy nhất mà tôi nhớ là trên thế giới này có hai kẻ đốt sách, đó là Tần Thuỷ Hoàng và anh!”. Sau cùng, tôi nghĩ kết truyện cũng đầy tính nhân ái. QNH.
ThíchThích