Ngồi cạnh Chấn là người đàn ông có dáng dấp của một thư ký hành chánh sắp về hưu. Qua nét mặt và cách phục sức của ông, anh dễ liên tưởng đến sự chăm chỉ mẫu mực của kẻ suốt đời an phận ngồi sau đống hồ sơ công văn. Cô gái ngồi kề ông ăn mặc hơi xuề xòa nhưng không vì thế mà vẻ đẹp dịu dàng trên khuôn mặt trái soan kia bị thương tổn. Hai người đàn bà tiếp theo chắc là dân đi buôn, chẳng có gì đáng nói. Chấn liếc mắt nhìn ra mấy hàng ghế sau và thất vọng không thấy một thanh niên nào trạc tuổi mình cả, hầu hết là ông bà già và phụ nữ nếu không kể một người lính xanh xao ốm yếu dường như mới nằm ở quân y viện ra. Nỗi lo âu vẫn lăn tăn trong bụng, một lần nữa Chấn chồm về phía trước hỏi nhỏ người tài xế :
– Đường Bình Đê, Sa Huỳnh an ninh chứ bác ?
– Không sao !
– Chắc ?
– Không sao mà. Rủi lắm mới bị.
Lối trả lời mập mờ lấp lửng của ông ta làm Chấn hoang mang. Dù sao anh cũng không thể thối lui được nữa. Tối nay anh phải đến Huế cho kịp giờ đám cưới của Phương. Chấn lại nhìn khẽ cô gái ngồi cách mình một ghế, bây giờ anh mới hiểu cái cảm giác quen quen khi mới gặp cô ở bến xe chính vì cô ta có nhiều nét hao hao giống Phương, thấp thoáng hình bóng Phương qua dáng người, màu tóc, nước da, nhất là hàng lông mi quá dài như lông mi giả kia.
Biết đâu chốc nữa đây tai họa bất ngờ sẽ xảy ra dọc đường mà anh là một nạn nhân oan uổng, liệu Phương có biết ? Phương sẽ âm thầm tội nghiệp giùm anh trong giây phút ? Phương sẽ trách anh đã rồ dại khi bôn ba vượt muôn dặm đường dài trở về sắm vai kẻ tình chung ?
Thử tưởng tượng tối nay, khi tiệc cưới của nàng bắt đầu, kẻ tình chung sẽ bất ngờ xuất hiện với dáng dấp của một tên lãng tử khinh bạc phóng túng. Y sẽ nổi bật trước đám tân khách áo quần diêm dúa sang trọng. Người ta sẽ lo ngại cái bàn tay y thủ trong túi áo khoác như đang hờm sẵn một chuôi dao, một trái lựu đạn, mưu toan bày trò thích khách. Nội cái phong thái tàng tàng bất cần đời của y cũng đáng bắt họ đề cao cảnh giác. Thử tưởng tượng nàng sẽ trố mắt nhìn y như nhìn một vật lạ từ cung Trăng rơi xuống và chú rễ thì bẻn lẻn tiến ra bắt tay y, lúc đó y sẽ gật đầu cười chua chát “Tôi là kẻ đến trước nhất mà bây giờ hóa ra muộn nhất…”
– Chiều ni có chắc mình về nhà kịp không ba ?
Người đàn ông đeo bộ mặt im lìm như tượng buông cái gật đầu tựa ngủ gật.
Đúng như Chấn đoán, hai người là cha con. Anh gợi chuyện :
– Bác ra Huế ?
– Phải.
– Nếu không trắc trở gì thì khoảng sáu giờ rưỡi chiều xe tới Huế.
– Anh cũng về ngoài mình ?
– Dạ. Cháu về thăm một người quen bên Gia Hội.
– Anh chưa đi lính ?
– Dạ rồi. Cháu được biệt phái.
– Tui có thằng con đầu đi Sư đoàn 22
– Chắc bác đi thăm về ?
Đôi mắt người đàn ông bỗng mờ đi, xa vắng :
– Hắn vô phúc chết hồi Tết Mậu Thân rồi. Tui vô viếng mộ.
– Bác chôn anh ấy ở trong nầy ?
Người đàn ông rơm rớm nước mắt :
– Chôn với cất chi. Hồi nớ cả nhà tui chạy giặc bán sống bán chết có biết chi mô.Một tháng sau mới có tin con tử trận. Khi tui vô tới nơi, người ta chỉ cho nắm đất vừa xanh cỏ và miếng bia trơ trụi. Thảm lắm anh…
Cô con gái khẽ thúc vào hông cha như ra dấu hãy giữ im lặng. Chấn cúi đầu. Giọng người đàn ông còn mếu máo gì đó không rõ. Chấn ngẩng lên và bối rối trước những giọt nước mắt mau mắn lăn dài trên má ông. Anh áy náy tưởng như chính mình vừa gây ra nông nỗi. Cô gái có vẻ bực bội vì sự xúc động dễ dãi của cha mình, nói như phân trần với Chấn :
– Ba tui thương anh nớ lắm, mấy năm ni hể nhắc tới là khóc.
Chấn mấp máy môi nhưng không nói được tiếng gì. Hai mụ đàn bà ngồi gần cửa thì mở cặp mắt tò mò nhìn người đàn ông đau khổ một cách lỗ mãng.
Xe đang đi giữa một vùng đồi thấp, những trái đồi tròn trĩnh nom thật thà hiền hậu. Nắng mai rực sáng trên cánh đồng vừa tan sương. Bỗng Chấn níu cửa xe suýt kêu lên mừng rỡ khi nhìn thấy vài ba cánh cò đang lượn lờ quanh một đầm nước nhỏ, lòng anh hớn hở tưởng như vừa gặp lại một cố nhân. Đã mười mấy năm nay anh chưa hề thấy một bóng cò trên các cánh đồng thấm mùi lửa đạn. Mười mấy năm nay, hàng vạn chim bồ câu được người ta tung lên khung trời an lành ở các thành phố để cầu nguyện hòa bình thật là phí phạm, bởi chưa ai biết tung một cánh cò. Chấn khẽ ra dấu cho cô gái cùng nhìn về phía đầm nước. Cô ta chăm chú mở lớn mắt nhưng không chia xẻ với anh nỗi mừng rỡ ngây thơ.
– Chim chi rứa anh ?
– Chim “thái bình” !
– Tên ngộ quá.
Chấn cười. Cô gái chớp mắt e thẹn, một ngón tay bối rối đưa lên gải nhẹ khóe môi.
– À, nhớ rồi. Hồi học tiểu học, tui có con bạn cao ngòng và ốm teo, nhất là cái cổ, nên bị cả lớp gọi là Cò. Nhưng nó chết rồi, tội ghê !
– Ngày nào dứt chiến tranh, bóng cò sẽ bay rợp trên khắp các cánh đồng quê hương, cô thích không ?
– Biết ngày mô ?
Bất giác người đàn ông thở dài quá lớn tiếng. Chấn hiểu, ông vừa trả lời cho con gái mình. Có thể tính ra đằng đẵng thời gian trong cái thở dài ấy.
Xe qua khỏi Tam Quan, dập dềnh trên đoạn đường lở lói. Hành khách níu ghế chịu đựng những dằn xóc liên hồi. Nét mặt người đàn ông nhíu lại đau đớn, chốc chốc ông
đưa tay lên trần xe như muốn nâng đỡ che chở một vật gì đó. Cô gái cũng ngước mắt trông theo bàn tay cha, nhíu mày lo lắng.
– Sắp tới quãng đường nguy hiểm.
– Chỗ mô rứa anh ?
– Bắt đầu từ ngọn đèo thấp trước mặt.
– Anh biết rứa mà cũng dám đi xe đò.
– Chắc không sao. Hôm nay ngày tốt lắm, hồi nãy cô có thấy hai ba đám cưới ở Bồng Sơn ?
Người đàn ông quay qua con gái mình nói nhỏ :
– Lo chi. Có vong hồn anh mi đang phù hộ trên đầu trên cổ.
Cô gái lại thúc hông cha ra dấu giữ im lặng. Chấn cẩn thận rút ví lấy những giấy tờ có liên quan đến lính tráng nhét vào đáy xách tay. Tay anh đụng phải tấm thiệp cưới màu hồng phấn của Phương. Phương giờ nầy hẳn bóng loáng màu hạnh phúc, rực rỡ như nét chữ kim nhũ tô điểm tên nàng bên cạnh tên một kẻ lạ. Chấn đã thiếu thốn nhiều điều kiện để tiến lên đứng song song bên nàng ngay từ buổi dầu, vậy cớ sao anh còn quay về ? Không lẽ chứng mất ngủ tai hại suốt mấy đêm rồi đã góp phần quyết định chuyến đi không trù tính nầy ? Anh tưởng lòng mình nguôi ngoai êm ả sau khi đã gởi cho nàng cái điện tín chúc mừng hạnh phúc, không, anh vẫn còn nhiều điều chưa nói hết với Phương. Gạt đi những bọt bèo tự ái để nhìn thẳng vào đáy lòng mình : than ôi, anh vẫn còn yêu nàng quá đỗi !
Chấn ngẩng đầu lên và bắt gặp đôi mắt dịu dàng của cô gái :
– Anh đội cái nón ni lên đầu. Xe sắp lên đèo rồi.
– Không sao đâu.
– Đừng giỡn mặt.
Giọng cô gái gần như mệnh lệnh. Chấn bẻn lẻn quàng quai nón ngang cằm, cười :
– Trông tôi giống phụ nữ chút nào không ?
– Thôi mà. Cúi đầu xuống.
Sau lưng Chấn, người lính đã thay bộ quần áo lính bằng bộ pyjama từ hồi nào và đầu cũng che nón lá như anh. Xe vòng lên tới chóp đèo, tăng tốc lực, rú lên hớn hở như con thú dữ vừa đánh hơi mùi tử khí phảng phất đâu đây. Một người nào đó nói khẽ :
– Sắp tới Sa Huỳnh
Sa Huỳnh, Đức Phổ, Mộ Đức… Núi xanh rờn tai ương lớp lớp. Đồng gầy guộc xương xóc hoang tàn. Chốc chốc ven đường xuất hiện những dãy lều tạm bợ bằng tôn gỉ và giấy bìa của dân tỵ nạn trông như cảnh đóng trại của đám người đi khai hoang. Rải rác những tường xiêu cột cháy nhà hoang của trùng trùng những tháng năm khói lửa. Tìm đâu bóng cò bay lả bay la ?
Chấn khép mắt ngủ chợp được một giấc ngắn trong cái nóng hun đốt hâm hấp trên đầu. Gió Lào từ những ngách núi tràn xuống ào ào, muốn xô bạt cả xe. Trong xe, nhiều tiếng ngáp lộ liễu nối nhau hô hố, những cặp mắt lờ đờ nhá nhem, những chân cẳng tê cứng nhức mỏi. Đường vẫn còn xa hun hút.
Mười một giờ xe tới bến Quảng Ngãi, đây là trạm nghỉ trưa của những chuyến xe xuôi ngược vào ra nên nhộn nhịp ồn ào tiếng rao hàng mời níu lao xao, cả tiếng la tiếng chửi trộn với tiếng máy xe rầm rì, tiếng còi xe thúc giục toe toe. Chấn xuống xe, hai bàn chân nhẹ hẩng như mất hẳn trọng lực. Người đàn ông nhô đầu ra ngoài, ngước lên mui xe kiểm soát lại hành lý, mắt ông nheo lại, có vẻ bất bình.
– Mời bác và cô xuống kiếm gì ăn trưa.
Cô gái chải lại mái tóc rối tung :
– Cảm ơn anh, tui không dám ăn chi cả, cứ sợ mữa.
– Thì uống gì đó qua loa.
Cô gái lắc đầu cười. Chấn ngần ngừ rồi bỏ đi.
Lúc anh trở lại, người đàn ông đang loay hoay xếp đặt gì đó trên mui xe. Anh trao lon Coca cho cô gái :
– Cô uống chút nước đỡ khát.
Người đàn ông tụt xuống đất, đôi mắt đỏ hoe như vừa mới khóc.
– Phải tìm tấm vải chi che lại chứ nắng gớm quá…
Cô gái nháy mắt bảo cha im. Ông dụi mắt ngó quanh rồi bương bả đi qua chỗ bán tạp hóa. Chấn nói :
– Cô xuống một tí cho đỡ cuồng chân.
Nàng vén vạt áo tần ngần bước xuống, nhăn mặt :
– Xe chạy chậm quá anh hí, mệt đừ người.
– Chốc nữa xe chạy cô gắng ngủ một giấc để giết thời gian.
– Ở Huế anh ở chỗ mô ?
– Má tôi là người Huế, quê ngoại tôi ở Kim Long. Gặp cô, nghe giọng cô nói tự dưng tôi “nhớ nhà” ghê. Huế bao dung tôi một thời thơ ấu tuyệt vời, nhưng…
Người đàn ông vừa mua về một tấm vải nhựa và nhờ người lơ xe phủ lên cái rương gỗ trên mui. Lát sau ông còn leo lên kiểm soát và giằng buộc lại thật cẩn thận. Bây giờ Chấn mới hiểu, chính cái rương gỗ đang bị phơi nắng ấy chính là đầu mối lo lắng nãy giờ của ông.
Khi lên xe hai cha con vô tình ngồi lộn chỗ của nhau nên bây giờ Chấn ngồi cạnh cô gái. Xe rời bến Quảng Ngãi, tiếp tục chuyến đi. Bữa ăn trưa dù vội vã qua loa nhưng cũng tạo lại sinh khí tươi tĩnh trên nét mặt hai mươi mấy hành khách. Chuyện vãn ròn rã, tở mở.
Hồi lâu Chấn tưởng cô gái đã khép mắt ngủ được. Nhưng mỗi lần xe cán phải ổ gà nhảy rùng lên, nàng hốt hoảng níu tay cha. Người cha thì ngẩng đầu lên trần xe như một phản ứng. Ông sợ cái rương gỗ rớt mất chăng ? Thỉnh thoảng ông lại chồm ra cửa ngó lên dõi chừng.
– Sao bây giờ cô im lặng quá ?
Nàng vuốt nhẹ má, cười gượng :
– Nói nhiều sợ anh nhớ nhà.
– Nhưng mai mốt, mỗi lần nhớ nhà chắc tôi phải nhớ đến cô.
Nàng nguýt anh, không nói.
– Ra Huế, hy vọng còn gặp lại cô.
– Chắc không có mô !
– Biết đâu chẳng dịp tình cờ.
– Con gái tụi tui không thích hai tiếng “tình cờ”. Răng nghe nó mong manh quá !
Xe qua khỏi Chu Lai, bon bon giữa những trảng cát trắng không bóng cây không mái nhà, chỉ dằng dặc một màu hoang dã mông quạnh lạnh người.
– Cô có thấy những nhà ga xe lửa trầm ngâm như những tháp Chàm hoang phế ?
– Dạ.
– Cô đi tàu lửa lần nào chưa ?
Chấn quay đầu vào. Cô gái đang thiêm thiếp ngủ. Anh nhận rõ sức nặng của một phần thân thể nàng đang truyền qua vai anh, mềm mại, âm ấm, tưởng như đếm được từng dây tơ cảm xúc run rẩy e ấp. Vài ba sợi tóc của nàng bay nhởn nhơ ngang mặt, tinh nghịch, chọc ghẹo, bất giác anh ngậm lấy, cắn chặt. Có mùi hương thoang thoảng vỡ ra đâu đó. Hương xưa ? Mái tóc Phương ? Giờ nầy, hẳn mái tóc kia đã được bới cao lên, cài hoa giắt lược rỡ ràng ?
Xe qua khỏi thị trấn Tam Kỳ. Vẫn những trảng cát buồn thiu. Gió lộng. Chấn thiu thiu ngủ. Vai anh bỗng nhẹ hẩng đi. Hai cha con cô gái đang nói nhỏ với nhau gì đó. Một lát, người đàn ông lại chồm người qua phía anh, thò đầu ra ngoài. Chắc cái rương gỗ kia đựng những đồ quý giá lắm ? Xe dừng lại ở một trạm kiểm soát. Từ Quảng Ngãi ra đây quá nhiều trạm kiểm soát, khổ cho Chấn phải trình giấy lia lịa. Như mấy chỗ kia, người lính nầy nhắm ngay vào gã thanh niên duy nhất trên xe là anh :
– Cho coi giấy tờ.
Như một cái máy, Chấn trao cho anh ta xấp giấy đang cầm sẵn trên tay.
– Giấy hoãn dịch của ông đâu ?
– Tôi là quân nhân biệt phái.
– Ông không có thẻ tại ngũ. Mời xuống xe.
– Có giấy chứng nhận của Trưởng cơ quan kia. Tôi là công chức.
– Ông đào ngũ. Xuống xe !
Cô gái mở lớn mắt lo lắng nhìn Chấn và phân bua giùm anh :
– Những trạm kiểm soát trong tê đều….
Người lính trừng mắt, nạt :
– Cô biết gì. Nhớ là tôi chưa xét giấy cô. Ông có xuống xe không ?
Chấn quay qua cười với cô gái :
– Thôi bác và cô ra Huế trước. Cãi cọ dùng dằng chỉ làm phiền cả xe.
Chấn lững thững bước xuống bờ đường. Xe chạy. Cô gái ngoái đầu nói gì đó anh không nghe rõ. Tấm vải nhựa đậy cái rương gỗ lay bay trên nóc xe như vẫy tay chào anh. Anh quay lưng lại, đây là chỗ nào ? Người lính giữ mớ giấy tờ của anh thì đi thẳng vào cái quán cóc chuyện gẩu với một người đàn bà còn trẻ. Y cười hể hả , đắc thắng, chị đàn bà cũng hí hửng cười, khứng chịu. Chấn coi đồng hồ, sốt ruột. Anh bước vào quán, tiến lại phía người lính, xuống giọng năn nỉ :
– Giấy tờ tôi hợp lệ, anh thông cảm, tôi đang nôn nóng về nhà. Chiều nay đám cưới… em tôi.
Chấn rút tấm thiệp cưới của Phương đưa ra trước mặt y để làm chứng cho lời mình nói. Người lính tạo lại bộ mặt lầm lì khinh khỉnh, xẳng giọng :
– Tôi không biết. Ông vào Bộ chỉ huy Trung đoàn hẳn hay.
– Tôi gấp về, em tôi đang trông ghê lắm. Anh hiểu cho…
– Ông ra ngoài kia đứng. Chốc nữa có xe đến giải giao về Ban 1 Trung đoàn.
Chấn mím môi. Sự tức giận khiến anh chóng mặt, thốt ra một tiếng chửi thề cộc lốc. Người lính đứng dậy hung hãn :
– Mày vừa nói chi ?
– Ông hãy đưa tôi về cấp chỉ huy của ông gấp bây giờ. Để tôi còn đi.
– Tao giam lỏng mày ở đây. Mày tiếc con nhỏ trên xe hả ? Đào ngũ mà tình tứ quá.
Chấn cười gằn bước ra ngoài nhổ một bãi nươc bọt. Anh bối rối nhìn cây kim đồng hồ đang quay nhanh, thật nhanh. Anh tiu nghỉu nhìn theo từng chiếc xe đò đang chạy ra hướng Đà Nẵng sau khi chỉ dừng lại chốc lát. Người lính vẫn hú hí chuyện vãn với người đàn bà, chẳng thèm ra kiểm soát để bắt thêm bọn “đào ngũ”. Chấn nhìn bóng mình đổ dài trên bờ đường, lẩm bẩm chửi thề.
Một giờ đồng hồ sau, một người lính dùng xe Honda áp giải Chấn về Bộ chỉ huy tận trong chân núi. Anh gục đầu trên lưng kẻ lạ và nghĩ đến Phương xa vời. Thôi muộn cả rồi. Kẻ tình chung đành dở dang vai kịch. Chấn chồm lên vai người lính :
– Anh có biết hôm nay người yêu của tôi đi lấy chồng ?
Người lính ngoảnh mặt lui ngơ ngác. Chấn hét lớn :
– Khi người yêu bỏ đi lấy chồng thì mình có nên đến dự đám cưới không ?
– Đ.M. dự làm chó gì !
Chấn cười hô hố theo anh ta :
– Phải lắm. Cảm ơn các ông đã bắt giữ tôi lại. Không thì chiều nay tôi ngu ngốc dẫn xác tới chiêm ngưỡng hạnh phúc của một kẻ bội tình !
Chạng vạng tối Chấn mới về tới Đà Nẵng, mệt phờ người. Anh tạt vào cái phòng ngủ ở bến xe thuê một chỗ nằm để nằm dài ra thở dốc. Thở no nê, anh cảm thấy mình ngứa ngáy và nhớp nhúa như một miếng giẻ rách. Tắm rửa xong, Chấn thay áo quần ra phố. Phố chưa bớt tấp nập ồn ào nhưng nhờ thế anh bớt lẻ loi thui thủi. Giờ nầy chắc tiệc cưới của Phương đã bắt đầu. Kẻ tình chung đã không về kịp, Phương an tâm ? Chấn bước vào một tiệm ăn có vẻ mặt bề ngoài khá sang trọng nhưng thức ăn thì quá tồi, anh bỏ mứa, kêu rượu. Không có. Cho một chanh tươi không đường. Cho vừa lòng anh đang chua ngoét.
Chấn trở về phòng ngủ với chai Napoleon mới mua. Bỗng, anh đứng khựng lại ở cầu thang, đôi mắt dướn cong lên như một cặp dấu hỏi. Cô gái bỡ ngỡ nhìn anh trân trối :
– Anh….
– Tên lính đó bướng bỉnh phá tôi chơi. Tôi lên cấp chỉ huy của hắn trình giấy lại rồi đi liền. Mà sao cô ở đây ?
– Đường đèo Hải Vân bị kẹt, xe quay lui hết. Không biết sáng mai đi được chưa.
– Bác đâu ?
Cô gái chỉ tay lên lầu. Chấn thở dài, hoan hỉ :
– Không ngờ còn gặp lại cô, thật hi hữu. Cô thấy chưa, cuộc đời còn lắm tình cờ.
Nàng che miệng cười, ngượng ngập :
– Anh thuê phòng số mấy ?
– 12, đằng kia. Để tôi lên thăm bác một chút.
Lên khỏi cầu thang cô gái dừng lại, ngập ngừng :
– Chắc ba tôi đang nằm nghỉ, thôi mình chớ khuấy rầy ông.
Chấn gật đầu và bước lại khoảng bao lơn hẹp phía trước, đặt chai rượu xuống chân. Cô gái nhìn theo :
– Anh uống rượu ?
– Đêm nay tôi không muốn phải thao thức trằn trọc.
Nàng bước tới gần, dựa lưng vào tường. Chấn khoác tay vu vơ :
– Tôi phải quên đi một chuyện buồn. Cô biết, giờ nầy ở Huế, người yêu tôi đang rực rỡ hạnh phúc bước xuống thuyền…
– Chỉ có rứa mà anh phải uống rượu ?
Chấn nóng nảy, bực dọc :
– Tôi đau khổ ghê lắm. Cô bắt tôi phải làm gì nữa khi đành chôn chân ở đây ?
– Anh tưởng say là quên được ?
Chấn cúi đầu, trầm ngâm :
– Ừ nhỉ, còn gì mà nhớ mà quên.
Chấn chụp chai rượu đưa lên ngang mặt rồi bất thần ném thẳng xuống đường. Cô gái hốt hoảng đưa tay bịt tai lại. Một tiếng vỡ khô, đục và nghẹn. Chấn cười lớn :
– Cô nhìn kia, người yêu tôi đang la ơi ới, tên đàn ông nọ thì mảnh chai găm trúng mặt. Cả đám tân khách xô bàn tiệc giẫm lên nhau mà chạy. Ha ha !
– Anh say rồi.
– Và tôi cũng vừa quên hết rồi. Thôi ghé lại thăm bác, sớm mai tôi quay về Quy Nhơn.
Cô gái bước lại mở hé cửa và bối rối xô Chấn lui. Nhưng anh cũng vừa thấy kịp cảnh tượng trước mặt : người đàn ông đang gục đầu lên cái rương gỗ khóc tức tưởi, bên cạnh bó nhang tỏa khói và mấy ngọn đèn cầy leo lét, buồn thảm. Cô gái chảy dài nước mắt, nói mếu máo :
– Tội nghiệp anh tui phải nằm lại dọc đường đêm nay… Cái rương gỗ ấy đựng hài cốt anh tui !
PHẠM NGỌC LƯ
Tuy Hòa, 1973
