HƯƠNG RỪNG CAO NGUYÊN (2)

Nguyễn Đức Diêu

______________

nmcnfghhg

(tiếp theo) HƯƠNG RỪNG CAO NGUYÊN (1)

…….

Trời ạ ! Đây là huyện lỵ à? Chỉ lèo tèo xóm nhà xơ xác, may quá, có ánh đèn.  Tôi bước lại phía ánh đèn, có vẻ như là một cái quán.  Có vài cái bàn, ghế trước sân.  Quán lợp tranh, ba phía, trước và hai bên trống lốc, ngọn đèn dầu trên bàn vẫn leo lét.  Có lẽ đây là quán Bà Năm, như trong giấy chỉ dẫn của Nathalie, giờ nầy chắc ngủ hết rồi.  Tôi ngồi bịch xuống cái ghế gỗ, thôi đành chờ sáng thôi.  Tôi đốt điếu thuốc, nhìn ra bóng đêm  nghĩ ngợi bâng khuâng.

Bỗng tôi có cảm giác nhột nhạt sau gáy, tôi quay phắt lại và chút nữa rú lên – một người đàn ông đang đứng nhìn tôi từ lúc nào không biết.  Ông ta khoát bàn tay lên, ra hiệu cho tôi đừng sợ,

–  Cậu Duy đi đường có mệt lắm không ?

Chút nữa thì tôi bật ngửa ra xỉu, chưa kịp phản ứng gì thì ông ta lại bồi thêm cho tôi một đòn:

–  Cậu muốn tôi chở vô ông Râysan?

Tôi lại giật thót người, nhìn ông ta như quái vật:

–  Sao… sao… ông biết?

–  À, tôi phải biết chứ.  Cậu uống cà-phê nhé, cà-phê Ban Mê đấy, rồi nghỉ chút sáng tôi sẽ đưa đi.

Ông ta đi vòng bên hông nhà, rồi một lát sau, xuất hiệ̣n bằng cửa trước với ly cà-phê trên tay.

–  Cậu   mệt thì nằm võng nghỉ lát, để tôi đưa cậu cái chăn, trời gió không có muỗi đâu.

Rồi ông ta lại biến mất vô trong nhà, cái ông nầy cũng khá là bí hiểm!

Tôi cũng khá mệt nên uống xong ly cafe là nằm ịch xuống võng, nằm lơ mơ nghĩ tới Nathalie.  Không biết nàng có hiểu được cho tôi, giờ này đang nằm chèo queo nơi đây.  Đêm cao nguyên se lạnh, tôi mệt mỏi chìm vào giấc mơ mộng mị với khuôn mặt Nathalie mờ mờ ảo ảo trong bóng đêm.

Tôi mở mắt ra thì trời đã mờ mờ sáng, tiếng gà gáy chan chát tứ phía.  Đã có vài người đàn ông ngồi uống cafe, nói chuyện rôm rả.  Tôi ngồi dậy, lại cái lu nước bên hông nhà múc nước rửa mặt.  Quay vô, thì đã thấy một tô mì nóng hổi trên bàn, người đàn ông lúc đêm, giờ tôi mới thấy rõ, trông ông cũng bình thường, không có gì ghê gớm mà, tôi nhủ thầm.

–  Cậu ăn đỡ mì, rồi tôi đưa đi.

Thấy tôi còn chần chừ, ông ta lại tiếp:

–  Tôi ăn rồi, cậu đừng ngại.

Tôi ngồi xuống ăn một mạch bay vèo tô mì, làm thêm ly nước trà, khá là no. Ok! Giờ thì tôi lại có thể chiến đấu tiếp rồi.

Ông ta đẩy ra chiếc xe đạp, loại xe đạp thồ, sườn được nẹp dọc thêm hai thanh tre cứng cho chắc.

Rồi ông bắt đầu chở tôi đi xa dần cái xóm nhà huyện lỵ buồn hiu nầy để đi vào …rừng.  Con đường đất nhỏ xẻ ngang giữa rừng sâu hun hút.  Buổi sáng, rừng thật yên bình, chỉ có tiếng chim ríu rít sau những tàng cây xanh mướt.

Có những chỗ phải xuống xe, dắt xe qua một cây cầu làm bằng một thân cây, bắt ngang con suối nước róc rách trong veo.   Dọc hai bên bờ suối, những chùm phong lan trắng muốt, tuyệt đẹp khoe sắc trên cao, lượn lờ sau tàng lá xanh.

Trên đường đi, tôi cố gắng hỏi ông ta về Nathalie nhưng hầu như tôi cũng chẳng biết được gì thêm, hoặc là ông ta không biết, hoặc là ông ta không muốn nói. Tôi chỉ ghi nhận được một điều là khi tôi hỏi về Nathalie thì ông ta gọi là cô Hai với một vẻ kính cẩn lạ lùng.  Sao ở đây, cái gì cũng có vẻ bí hiểm thế nhỉ ? Từ Nathalie cho đến cái ông nầy, ai cũng có vẻ bí ẩn gì đó.  Thôi kệ, cứ gặp được Nathalie rồi hẵng hay, việc gì phải lo cho mệt.

Phải nói là ông ta khỏe thật, dù là ông ta cũng phải ngoài 50 rồi.  Đường đất, nhiều đoạn hơi bị lầy nhưng ông ta vẫn đạp xe băng băng.  Có lúc, tôi nói để tôi chở ông thì ông nhất định không chịu, bảo tôi cứ ngồi cho ông đưa đi, và ông rất sung sướng được làm việc nầy.

Đã hơn 9 giờ sáng, con đường bỗng rộng và sáng hơn.  Rồi một xóm nhà xuất hiện xa xa.

Tới gần, tôi ồ lên một tiếng.  Những ngôi nhà sàn thấp và dài, thoạt trông như những chiếc thuyền giữa biển khơi là rừng xanh bao quanh.  Thật đẹp! Tôi tự nhủ thầm.

Ông ta dừng xe trước một ngôi nhà sàn khang trang ở trung tâm.

Ngôi nhà có kiến trúc thật lạ.  Đánh vào mắt tôi trước tiên là hai chiếc cầu thang dùng để leo lên nhà.  Hai chiếc cầu thang này khác nhau cả về kích thước lẫn hình dạng.  Chiếc bên phải, bề ngang khoảng tám tấc, những bậc thang được đẽo lõm từ trong một thân cây.  Chiếc bên trái lớn hơn một chút, bậc thang cũng giống vậy nhưng lạ kỳ là trên phần đầu lại có tạc hai phần tròn nhô lên như hai nhũ hoa của người phụ nữ.

Tôi nhìn một vòng qua những căn nhà sàn.  Đây là một loại nhà sàn thấp và dài.  Sàn nhà chỉ cách mặt đất chừng một thước, nhưng lại có chiều dài khá dài, như căn nhà nầy dài cũng khoảng 30m, có vài căn còn dài hơn nữa.

Trong nhà bước ra một người đàn ông với chiếc áo màu đen, dài phủ gối, trên ngực áo là một khung vải màu đỏ, hình chữ nhật, quần ông ta cũng màu đen.  Người đàn ông chở tôi và ông chủ nhà- tôi tạm gọi thế- trao đổi với nhau bằng tiếng của họ.  Rồi tôi thấy ông già nhìn tôi, cặp mắt ông ta thật sắc:

–  Mời Cậu lên nhà ạ.

Tôi cũng “Dạ” một tiếng rồi sửa leo lên bằng cầu thang bên trái, phía có hai cái nhũ hoa gỗ.  Nhưng người đàn ông đã nói với tôi :

–  Bên nầy cậu .

Thật là rắc rối, cái nào cũng là cầu thang mà.  Nhưng, nhập gia thì phải tùy tục mà thôi, tôi bước lên nhà bằng cầu thang bên phải.

Lên trên là một cái sân sàn hình vuông lát gỗ, mỗi chiều độ 5m, tôi chào ông già và hỏi:

̣-  Chào Bác, Bác chắc là bác Râysan?

–  Phải rồi, mời Cậu Hai vô nhà uống nước.

Người đàn ông chạy xe đạp quay qua chào tôi:

–  Thôi tôi về.

–  Khoan đã chú, để tôi gởi chi phí cho chú đã.

–  Không sao đâu, cậu cứ tự nhiên, cậu là thượng khách mà.

Tôi giật mình, “thượng khách” là sao nhỉ? Tại sao tôi lại là thượng khách, thật khó hiểu quá!

Còn lại ông già với tôi, ông và tôi dò xét lẫn nhau.  Ông mời tôi ngồi xuống một cái ghế bằng cây được đẽo khắc rất khéo.  Đây chắc là phòng khách của căn nhà.  Vách được làm bằng những cây tre đập dập ra, trên vách treo cung tên, những ngọn giáo và cả những cái liềm cắt lúa nữa.  Giữa phòng, đối diện với chỗ tôi ngồi, có một cái ghế, cái ngai thì đúng hơn, bằng gỗ đen bóng và cũng được chạm khắc rất đẹp.

Một người đàn bà bước ra trong trang phục đen với những đường viền màu vàng quanh cổ áo và tay áo.  Váy cũng màu đen có ba viền vàng ngang thân váy và dưới lai váy, chia thân váy làm ba phần.

Người đàn bà ngồi xuống cái ngai và nói :

–  Tôi là Hơbia Abbel  Niê, Trưởng buôn nầy, xin chào Cậu.

Tôi phân vân tự hỏi hay bà nầy là mẹ của Nathalie, thì người đàn bà Trưởng buôn đã cười :

–  Tôi không phải mẹ của bạn cậu đâu, cậu nghỉ, ăn cơm trưa với chúng tôi rồi sẽ có người dẫn cậu đi gặp Nathalie.

Thật là bà đi guốc trong bụng tôi mà!

Tôi ăn cơm trưa với gia đình bà Trưởng Buôn Kôh.  Đó là một đại gia đình, tổng cộng cũng phải gần hai chục người lớn nhỏ. Bữa cơm tuy chỉ có vài món, nhưng quả thật là rất ngon miệng.  Cơm được nấu trong những ống tre bằng thứ gạo dẻo và thơm lạ lùng mà tôi chưa bao giờ thấy.  Món ăn gồm món thịt rừng nướng chấm muối ớt và một món thịt chua có mùi là lạ, được ăn với rau rừng.  Tôi thấy mọi người rất tự nhiên, nên tôi cũng không ngần ngại gì đá một bụng thẳng cẳng, từ hôm qua giờ chưa có cơm mà.  Bữa cơm phải nói là quá ngon, thật là cám ơn ông bà chủ nhà.

Ba giờ chiều, một người con rể của ông bà Râysan, tên là Dam Mil đưa tôi đi gặp Nathalie. Chúng tôi đi bộ băng qua đường mòn trong rừng.   Anh Dam Mil nầy khoảng ba mươi tuổi, tướng tá nhanh nhẹn, khỏe mạnh.  Anh ta cũng vui miệng, hay nói và hỏi tôi nhiều thứ như Thành phố Sài Gòn ra sao…Tôi thấy anh ta vui nên cũng bắt chuyện vui vẻ, nhưng khi tôi hỏi đến Nathalie thì anh ta im bặt một cách khó hiểu.

Sau hai tiếng băng đường rừng, một buôn làng lại xuất hiện.  Nhìn sơ qua, tôi cũng biết là buôn nầy lớn hơn Buôn Kôh nhiều, có cả trăm dãy nhà sàn san sát nhau, phía trước là những hàng cây cảnh và bông hoa rất đẹp.

Dam Mil dẫn tôi đi dọc theo những căn nhà sàn dài vào tới giữa buôn và dừng lại trước một căn thật đẹp, nổi bật so với những căn khác.  Nhà nào cũng có hai cầu thang hai bên trái và phải cùng kiểu cách như nhau, nhưng cái nhà này hai cầu thang thật đặc biệt.  Không biết chúng bằng gỗ gì mà đen tuyền và láng bóng, bên cầu thang trái, hai chiếc nhũ hoa vun tròn ngửa lên đối diện trời xanh.

Từ cửa phía trái nhà, một người bước ra, một cô gái trong trang phục Êđê, cô nhoẻn miệng cười tươi rói:

–  Chào mừng anh đã đến Buôn Klây.

Tôi ngây người, Nathalie đó sao?  Nàng như một đóa lan rừng trong bộ trang phục truyền thống Êđê.

–  Chào em!

Tôi đã qua giây phút sững sờ và chào nàng, tôi rất muốn khen nàng đẹp lắm nhưng chưa dám vì có Dam Mil.  Tôi bước lên trên sân gỗ và khi chỉ còn tôi với nàng, tôi thì thầm “Em đẹp lắm!”

–  Cám ơn anh! Em đẹp hơn lúc ở Thành phố không anh?

Nathalie cười và nói lớn không e dè chút nào, hình như đây là đặc tính của dân tộc nàng.

Bây giờ tôi mới quan sát nàng.  Nathalie hôm nay búi tóc ra sau ót, tai đeo lủng lẳng đôi khoen bạc lấp lánh, trông nàng thật thanh lịch.  Chợt, nàng bỗng ngồi xuống ngay… chân tôi và tay thì cởi giày cho tôi.  Tôi vội nói:

–  Để anh cởi em à.

–  Anh là khách quý của em, nên em phải cởi giày cho anh, tục lệ đó anh.

Tôi hiểu ra và không phản đối nữa.  Lúc này, tôi mới để ý tới cái sân sàn bằng gỗ bóng lưỡng.  Sân này rộng và đẹp hơn sân nhà ông bà Râysan nhiều. Đứng trên sân nhà này nhìn ra chung quanh, tôi có cảm giác ở ngay vị trí trung tâm. Những căn nhà khác bao quanh rất cân đối, xen giữa những căn nhà là những cây cổ thụ phủ rợp bóng mát.  Khói lam chiều bốc lên từ phần cuối những căn nhà sàn, khung cảnh đẹp như một bức tranh.

–  Anh thấy cảnh ở đây thế nào, anh thích không?

Nathalie, đứng lên và hỏi tôi, làm như nàng đọc được ý nghĩ tôi vậy.

–  Đẹp lắm em ! Anh thích lắm!

Tôi tính ga-lăng nàng thêm một câu “nhất là vì có em” nhưng thấy nàng nhìn tôi cười hóm hỉnh, tôi lại thôi,

–  Anh thích là tốt rồi!

Tôi nhìn vào mắt nàng, đôi mắt hồ thu như soi thấu tâm can tôi, tự nhiên cái cảm giác đắm say hôm nào ở giữa phố trở lại trong tôi.  Nathalie yêu kiều quá, tôi thật là yêu nàng.

–  Anh à, lát nữa, anh sẽ gặp mẹ em nhé! Em cũng cho anh biết trước, mẹ em là Trưởng Buôn đó.

Tôi “Ồ” lên một tiếng, hèn chi mà nhà của nàng nổi bật hơn hẳn những nhà khác.  Tôi theo nàng vào bên trong nhà khách.  Gian nhà khách thật dài, tôi ước phỏng cũng phải cỡ 25 m.  Bên phía trái có đặt những hàng ghế cũng thật dài, cỡ 20m.  Giữa nhà đặt một chiếc ngai lớn bằng gỗ, lên nước màu vàng nâu óng ánh.  Vách cũng được làm bằng những tấm gỗ được ghép theo chiều dọc.  Căn nhà nầy mà ở thành phố thì giá trị biết mấy, tôi thầm nghĩ.(sau nầy, nghĩ lại tôi mới thấy cái suy nghĩ nầy thật là thiển cận, chỉ là thói quen tính toán theo tiền bạc, những căn nhà sàn ở tại đây, đúng vào chỗ của nó mới thật sự có giá trị một cách tự nhiên).

Nathalie dẫn tôi đi một vòng để xem những đồ vật trên vách.  Nguyên một bộ gồm cả chục chiếc chiên lớn nhỏ.  Những cái khèn được làm bằng những ống nứa nhìn thật lạ mắt, có cả những ống sáo đủ màu sắc từ vàng tới đen, những chiếc nỏ đủ cỡ thật đẹp…Toàn là những thứ mà tôi chưa từng thấy, tôi thật là thích thú, tiếc là tôi không có máy chụp hình để ghi lại hình ảnh.  Nathalie giải thích từng thứ một cho tôi hiểu qua cách sử dụng và ý nghĩa của những đồ vật, nàng tỏ ra hiểu biết rất nhiều.   Tôi đặc biệt thích những cái chiên lớn nhỏ đủ cỡ được treo trên một cây cột.  Nathalie đưa cho tôi một cây dùi to vừa tay cầm, bằng gỗ cứng và bảo tôi đánh thử vào chiếc cồng lớn nhất.  Một âm thanh trầm ngân dài phát ra rền cả căn phòng .

–  Đây là Cồng Mẹ.  Khi biểu diễn, khi nào cồng mẹ và cồng cha cũng được đánh trước làm nền rồi mới tới những cồng con, cồng cháu.  Nàng giải thích cho tôi.

Tôi lại đánh thử vào những chiếc cồng nhỏ, âm thanh nghe cao hơn.  À, tôi hiểu rồi, cồng càng nhỏ thì âm thanh lại càng cao.  Nathalie xách chiếc cồng bằng tay trái và tay mặt cầm dùi đánh lên một tiếng.  Âm thanh cao vút phát ra và uốn éo kỳ lạ, tôi nhìn thấy ngón tay trái  của nàng vuốt qua lại vào chiêng để thay đổi âm thanh giống như một nốt láy trong âm nhạc tây phương, cũng thú vị thật!

Rồi nàng đưa tôi lại ngồi ngay chiếc bàn giữa nhà.  Trên bàn có một cái giỏ mây xinh xắn đựng trái cây.  Tôi ngắm chiếc giỏ hai đầu cong lên như chiếc thuyền, nó được đan thật đẹp.

–  Em làm đó, đẹp không anh?

– Ồ, vậy à! Đẹp lắm, em hay thật!

Nathalie sung sướng, nàng ngước cặp mắt xanh biếc lên nhìn tôi:

–  Anh ăn trái cây nhé.  Rồi nàng đưa cho tôi một trái cây màu vàng, lớn cỡ trái chanh.  Tôi cầm lên, thấy nó mềm mềm.

Nàng cũng lấy một trái rồi lột vỏ, tôi cũng làm theo, bên trong là những múi thịt trắng muốt, trông giống như múi măng cụt, nhưng nhỏ hơn.  Tôi ăn thử, khá chua, nhưng có vị thơm.  Nathalie nhìn tôi nhăn mặt, nàng lại cười:

–  Chua phải không anh, nhưng mà rất tốt cho sức khỏe.  Anh thấy người Êđê khỏe mạnh không, là vì họ ăn trái cây có vị chua nhiều.

Là dân học y tế thì dĩ nhiên tôi cũng biết điều nàng nói là đúng, nhưng không lẽ chỉ ăn toàn đồ chua?

–  Trái nầy gọi là trái Gùi, nó là một loại trái thiên nhiên từ một loại dây rừng.
Anh à, tối nay, anh sẽ ăn cơm với gia đình em và những Trưởng lão ở đây nhé, rồi anh sẽ ngủ ở ngay góc kia, kế phòng của em đó.  Nàng nói và chỉ tay vào góc trái của nhà khách.  Như vậy là Nathalie và tôi sẽ chỉ nằm cách nhau một bức vách mỏng mà thôi.

Buổi tối đó, tôi đã gặp mẹ của Nathalie , ăn cơm tối cùng bà và những trưởng lão trong làng, là những phụ nữ lớn tuổi.  Mẹ của Nathalie khoảng 50 tuổi, bà có vẻ đang bị bệnh, đi đứng đều được Nathalie dìu đỡ.  Những người phụ nữ nầy hỏi thăm về gia đình tôi và lạ một điều là họ dường như có vẻ rất kính cẩn đối với tôi, không biết tôi có chủ quan không?

Nathalie cùng tôi nói chuyện khá khuya trước khi đi ngủ…

……

Nathalie cùng tôi nói chuyện khá khuya trước khi đi ngủ.  Nàng giải thích cho tôi nhiều điều.  Như nhà luôn theo hướng Bắc – Nam, phòng khách gọi là Gah, thường khá dài, bên phải là hành lang và bên trái là những căn phòng.  Nếu nhà thêm người thì sẽ được nối dài thêm nên căn nhà dài là vậy.   Hai cái cầu thang, bên phải là cầu thang “đực”, dành cho nam giới và bên trái là cầu thang “cái” dành cho nữ giới.  Cầu thang “cái”, phía trên có hai nhũ hoa phụ nữ tượng trưng cho chế độ mẫu hệ của người Êđê, cũng là tượng trưng cho người Mẹ.  Đi đâu rồi khi bước chân vô nhà cũng nhớ đến Mẹ trước tiên, Mẹ là nguồn gốc của sự sống, sinh tôn của gia đình và dân tộc…

Đêm đó, tôi nằm buâng khuâng, rồi chợt nghĩ đến câu hát “Ước gì nhà nàng chung vách.  Hai đứa mình thức trắng đêm nay”.  Không biết Nathalie có thức hay không, phần tôi thì trằn trọc khá lâu trước khi chìm vào giấc ngủ say.

Những hôm sau, Nathalie dẫn tôi đi thăm Buôn, gồm khu nhà ở cũng như nương rẫy và ruộng lúa.  Người Êđê vừa làm ruộng nước vừa làm rẫy trên đất khô.  Cánh đồng ruộng khá lớn nằm phía cuối buôn.  Lúa thật tốt, cả cánh đồng xanh mướt.  Tuy là ở trên cao nguyên nhưng cảnh đồng lúa cũng không khác gì dưới đồng bằng, chỉ có khác chút là ở đây người ta dẫn nước vào ruộng bằng một hệ thống ống máng tre, nước chảy róc rách liên tục nghe rất vui tai.

Nathalie giải thích cho tôi biết nguồn gốc của ngôi nhà sàn dài, nghe cũng thú vị lắm.  Dân tộc Êđê  có nguồn gốc từ những đảo Mã lai, Polynesie… và đã đổ bộ nhập cư lên đất liền từ cả ngàn năm trước.  Lúc đầu người Êđê còn ở dưới đồng bằng, sau vì bị sức ép của người Chiêm thành nên phải di cư lên cao nguyên.  Tuy vậy, trong sâu thẳm tâm hồn người Êđê, vẫn tồn tại nét văn hóa của người dân biển đảo, nên những căn nhà sàn thấp và dài, có hình dáng giống như những chiếc thuyền.  Tiếng nói, ngôn ngữ Êđê bây giờ vẫn còn nhiều tiếng giống y hệt hoặc chỉ biến đổi đôi chút tiếng Mã lai hay Indo.

Người Êđê cũng có nét văn minh trong vấn đề vệ sinh.  Trong khi nhiều dân tộc khác sống trên nhà sàn và nuôi trâu bò bên dưới, thì người Êđê lại làm chuồng trâu, bò, gà, lợn riêng biệt.  Người Êđê còn trồng cây bông vải và tự dệt vải mặc, loại vải mà ta hay gọi là thổ cẩm, đẹp và chắc.

Tôi thật là vui và thích thú trong những ngày ở đây, vì biết thêm được nhiều điều mới lạ mà nhất là được kề cận Nathalie mỗi ngày.  Nathalie cũng vui lắm, hầu như nàng luôn quanh quẩn bên tôi, chắc là nàng sợ tôi buồn và có lẽ nàng cũng thích vậy.

Nathalie bảo tôi muốn dạo chơi chỗ nào cũng được, chỉ trừ một nơi, nàng nói tôi đừng bao giờ vượt qua giới hạn đó và nàng còn bắt tôi phải hứa nữa.  Nơi đó nằm về phía trái của buôn, có một cánh cổng và được rào kín bằng những khóm tre già dày đặc.  Tôi hỏi nơi đó là gì thì nàng  nói nơi đó chỉ giành cho một số người của buôn mà thôi.

Tôi và Nathalie thích dạo ra cánh đồng phía cuối buôn vào buổi chiều tà, ngồi tựa vai nhau để nghe hương lúa thơm ngào ngạt.  Tiếng nước chảy róc rách từ những máng tre dẫn nước từ nguồn suối, từng đàn cò trắng nhởn nhơ khắp cánh đồng…

Một hôm, tôi được Nathalie dẫn đi ăn cưới một gia đình trong buôn.  Người phụ nữ Êđê cưới chồng, lễ cưới được tổ chức bên nhà vợ và người chồng phải ở rể, con sinh ra sẽ mang họ mẹ.

Tôi thấy rất thích thú được xem nghi lễ cưới của đôi vợ chồng trẻ.  Hai người ngồi trên chiếu trải giữa nhà khách.  Những đôi khoen bạc và đồng được hai người mang cho nhau trước sự chứng kiến của dòng họ. Rồi một người phụ nữ lớn tuổi, Nathalie cho tôi biết đó là thầy cúng, hòa rượu với tiết heo và đọc thần chú, vảy vào các xó xỉnh trong nhà để trừ tà và xin ông bà chấp nhận cho con rể mới.

Người Êđê quan niệm tự do trong hôn nhân “Trâu bò không ai ép thừng, trai gái không ai ép duyên”.  Những người thanh niên nam nữ tự do tìm hiểu và đến với nhau, cha mẹ không can dự vào.  Đây thật sự là một nét tiến bộ trong văn hóa dân tộc Êđê.

Sáu người phụ nữ đánh chiêng và cũng sáu cô gái khác múa nhịp nhàng theo tiếng chiêng.  Tiếng chiêng nhanh, mạnh và vui tươi tạo nên cho người tham dự thêm phấn khởi.

–  Đây là bài chiêng đám cưới, có nhiều bài chiêng khác nữa.

Nathalie giải thích cho tôi biết như vậy.

Sau đó là nhập tiệc.  Thịt heo, gà ê hề, ché rượu cần cả dãy, và đặc biệt là món cà đắng truyền thống không thể thiếu của người Êđê.  Cà đắng là một đặc sản của Tây nguyên.  Trái cà lớn hơn trái cà pháo một chút nhưng dài ra chứ không tròn.  Cà đắng được nấu với cá tươi hoặc khô, hoặc thịt.  Vị ngọt của cá thịt sẽ thấm vào vị đắng của cà tạo nên một hương vị thật đoc đáo mà không một món ăn nào khác có thể so sánh được.

Người Trưởng buôn được mời uống rượu đầu tiên, mẹ Nathalie bệnh nên nàng là người đại diện, sau đó đến các già làng rồi mới đến nữ chủ nhân của gia đình, lại đến người trong dòng họ.  Rồi tất cả mọi người nhập tiệc, chủ khách cùng uống rượu vui vẻ.  Những ché rượu cần được cắm những ống hút bằng nứa cong cong thật đẹp mắt.  Khi rượu đã vơi thì nước suối lại được châm vô, phải nói cái hay của rượu cần là ở chỗ rượu không bao giờ hết, uống hoài có hoài. Tôi cũng được mời tham gia, tôi thấy rượu cần nước đầu rất ngon, thơm và không mạnh nên ngưới ta có thể uống cả đêm là vậy. Qua những lần châm nước sau thì rượu nhạt dần đi và những ché rượu mới lại được mang ra.
Về đêm, khi âm thanh đã lắng dịu, các cô gái, các chàng trai bắt đầu ca Aday, là loại dân ca trữ tình được đệm bằng khèn và sáo.  Tôi thật ngạc nhiên khi thấy Nathalie thổi sáo rất hay.  Tiếng ca của thanh niên nam nữ hoà quyện cùng âm thanh trầm bổng khèn sáo  giữa núi rừng thanh vắng thật mê hồn người.

Rồi khi trời về khuya, là giờ kể Khan, tức là Trường Ca Sử Thi của người Êđê, như Khan Dam San, Khan Dam Thi… Thường chỉ có những già làng mới thuộc những Khan nầy, nhưng hôm đó, Nathalie đã được yêu cầu kể Khan cho mọi người và nàng đã kể rất hay, dựa vào sự say mê, cuốn hút mọi người mà tôi biết dù là tôi không hiểu.  Đặc biệt là tiếng chiêng được đệm vào trong lúc nàng kể chuyện.  Tiếng chiêng lúc trầm, lúc bổng lúc nhanh lúc chậm tùy theo từng đoạn Khan: “đánh cho khỉ trên cây cũng phải rơi xuống đất,  cho quân thù phải sợ hãi chạy mất, cho voi kia cũng phủ phục quanh mình…”, tiếng chiêng quả đã ăn nhập thâm sâu vào văn hóa, tâm trí, tư tưởng người Êđê.

Mà quả thật, giữa chốn núi rừng cô quạnh, chỉ có âm thanh của cồng chiêng mới vang vọng, ngân rền mãi xa để thông linh, giao hòa cùng trời đất, giúp con người không cảm thấy đơn độc, nhỏ nhoi giữa thiên nhiên kỳ vĩ.

Mỗi tiếng cồng vang lên, tôi lại thấy tâm hồn mình như bay bổng hòa nhập cùng trời đất…

Ở nơi đây, tôi hầu như quên hết thời gian, cái đồng hồ cũng trở nên vô tích sự và tôi đã bỏ vào túi xách.  Mới đó mà đã  gần hai tuần lễ, ngày vui thật qua nhanh!

Nathalie cho tôi biết là sắp tới ngày hội Krôn Phia, là ngày hội cầu được mùa, được tổ chức vào đầu tháng sáu âm lịch.  Người Êđê không ăn Tết năm mới như người Việt mà lại tổ chức những lễ hội theo thời vụ mùa màng,  Lễ hội cúng nước, Lễ hội cầu mùa, Lễ ăn cơm mới…

Những người trong buôn dần cũng đã biết tôi, hầu hết mọi người đều rất vui vẻ và thân thiện với tôi.  Cũng có khi Nathalie bận việc gì đó, tôi đi lang thang một mình, ai gặp tôi cũng đều niềm nở mời tôi vào nhà uống cà-phê.  Tôi thường thích nhất là đi xem họ dệt thổ cẩm và làm đồ gốm.  Tôi thấy người Êđê rất khéo tay và có nghệ thuật thẩm mỹ khá cao.  Chỉ vài nét khắc vẽ đơn giản là những bình, hũ… của họ đã nổi bật lên đẹp mắt.

Hôm đó, Nathalie đi công việc đâu đó, tôi ra đồng tham gia bắt cá và cũng tóm được ít con hí hửng xách về.  Bước vào nhà, chút nữa tôi té ngửa – Một cô đầm tóc nâu vàng đang ngồi uống cà-phê nơi phòng khách!  Cô nhoẻn miệng cười và xổ ra một câu …tiếng Việt:

–  Chào anh!

–  Chào…, tôi lúng túng không biết phải gọi là gì.

–  Em là  Estelle, em của chị Nathalie.

Thì ra là nàng, Nathalie có cho tôi biết nàng còn một người em gái học ở tỉnh.  Nhưng tôi không ngờ Estelle lại giống như một cô đầm thứ thiệt như vậy, điều nầy làm tôi thật là thắc mắc.

Estelle mời tôi uống cà-phê và cho tôi biết vừa mãn khóa học nên về nhà.  Vừa uống ly cà-phê tôi vừa thầm quan sát Estelle.  Estelle quả thật là đẹp, da nàng trắng, khuôn mặt thanh tú, mắt cũng xanh biếc như mắt của Nathalie.  Nhìn nàng có vẻ đẹp sắc xảo hơn cả Nathalie, nhưng sao tôi có cảm giác  không được thoải mái lắm khi nói chuyện với nàng, có một điều gì đó làm cho tôi hơi e ngại.

Estelle nói chuyện với tôi cũng rất tự nhiên và tôi thấy sự hiểu biết của nàng cũng không thua Nathalie, nàng còn có vẻ khôn ngoan, lém lỉnh hơn cả Nathalie nữa.  Tuy là nàng có vẻ giống Tây như vậy, nhưng nàng lại thích nói chuyện về người Êđê, về văn hóa Êđê và những quá khứ vinh quang của dân tộc Êđê.  Những điều nầy, Nathalie lại ít nói với tôi, mặc dù tôi nghĩ là nàng cũng hiểu biết không kém cô em.  Dù sao thì nói chuyện với Estelle cũng rất thú vị vì nhờ nàng tôi biết thêm được nhiều điều hay của người Êđê nữa.  Tôi nghĩ hai chị em như hai đóa hồng lọt vào giữa một rừng mắc cỡ, hoa lớn hơn, đẹp hơn và chắc là gai cũng nhọn hơn.

Chiều hôm đó, tôi nêu thắc mắc với Nathalie.  Nàng dẫn tôi vào phòng của nàng, đây là lần đầu tiên tôi vào phòng nàng.  Có một cửa sổ nhìn ra bên trái nhà, không có giường, một cái kệ với khá nhiều sách vở và một cái bàn thấp, cũng không có ghế.

Trên bàn, hình một người đàn ông Tây đang nhìn tôi chằm chằm.

–  Đây là Cha của em.

Dù là tôi cũng đã nghĩ tới nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên:

–  Vậy à?

–  Cha em là người Pháp, là một nhà nhân chủng học.  Ông đi nhiều nơi để nghiên cứu về các dân tộc, nơi cuối cùng là ở đây.

–  Rồi ông gặp Mẹ em?

–  Không anh à!

Rồi trước sự ngạc nhiên của tôi, nàng kể tiếp:

–  Cha em đến đây và gặp Dì của em, tức là chị của Mẹ em và yêu Dì.  Dì em là Trưởng Buôn lúc đó, Dì em rất đẹp.

Rồi nàng lại mở một cuốn tập và chỉ cho tôi hình một cô gái trẻ.  Cô gái trắng trẻo, gương mặt thật thanh tú.  Anh biết bức tượng phụ nữ thờ ngay gian nhà khách là ai không?

–  Dì em à?

–  Không, đó là tượng của H’Drah Jan Kpă , tức là Công Chúa Hạt Mưa, người đã về làm Hoàng Hậu của vua Chế Mân, là Hoàng Hậu cuối cùng của nước Chiêm Thành.  Khi vua Chế Mân chết và được hỏa táng thì Hoàng hậu đã nhảy vào lửa chết theo chồng.  Gia đình em là dòng dõi của Bà, cũng xem như là Hoàng Tộc của người Êđê, dù là không có nước Êđê.  Như bây giờ, Mẹ em là trưởng buôn nầy nhưng cũng là Trưởng của tất cả các buôn khác trong tỉnh Darlac, tuy là chỉ mang ý nghĩa tinh thần.

–  Ồ, vậy à. Rồi Dì em đâu?

–  Dì em đã mất và theo tục nối dây của người Êđê, cha em lấy em gái của vợ, tức là mẹ em bây giờ.

–  Dì em không có con à?  Tôi thắc mắc.

–  Dì em cũng có một người con gái.

–  Vậy à, rồi giờ người đó ở đâu?

–  Lúc trước chị vẫn ở đây, nhưng từ khi Cha em mất, chị cũng bỏ đi luôn.  Rồi đột ngột cách đây vài tuần, chị trở về và chỉ ở lại một ngày.  Ngày hôm sau chị đi cũng là lúc Mẹ em bắt đầu bị bệnh.

–  Nghĩa là sao? Chị có liên quan đến việc Mẹ em bị bệnh à?

–  Rất có thể, vì chị đã nghĩ rằng Mẹ em đã hại Mẹ chị ấy.  Nhưng Mẹ em đã nói với em rằng Mẹ không có làm chuyện đó, chỉ là tin đồn của kẻ xấu thôi.

Tôi đã hiểu ra mọi chuyện, câu chuyện của gia đình nàng cũng khá đặc biệt.

–  Vậy là em sẽ kế tục mẹ em để làm Trưởng Buôn?

–  Đúng vậy anh à.  Thật ra em cũng không thích làm lắm đâu, nhưng đây là tục lệ.

–  Còn cha em, mất khi nào vậy, ông bị bệnh à?

–  Cha em…phải, bị bệnh mất…

Nàng trả lời không được suông sẻ lắm trong câu nầy, không biết có phải vì xúc động khi nhớ đến cha hay không.

–  Cha em đã dạy em và Estelle tiếng Pháp cũng như những hiểu biết về văn hóa tây phương.  Em thì muốn học về y tế để giúp dân trong buôn, nhưng Estelle thì lại thích và giỏi về chính trị, tổ chức hơn em, có lẽ nó giống cha em hơn.

Thảo nào mà nàng giỏi tiếng Pháp, giờ tôi mới hiểu ra.

Đúng như tôi nghĩ, Estelle sắc xảo, khôn ngoan hơn cả Nathalie nhưng tôi vẫn cảm thấy điều gì đó không ổn ở cô em này.

–  Sắp tới, sẽ có Lễ hội cầu mùa và tháng sau nữa, sẽ là Lễ Chây Prun.

–  Chây Prun, là lễ gì vậy em.

Nathalie nhìn tôi rồi nàng từ từ nói:

–  Đó là một Lễ rất quan trọng, giống như lễ phong Thái Tử của các vua Việt nam xưa vậy.

–  Ồ, vậy là em sẽ được phong vào tháng tới?

–  Phải anh à, và chức nầy chỉ phong cho người con gái khi chưa có chồng mà thôi.  Sau lễ nầy thì người đó có thể có chồng.  Lúc nầy mẹ em bị bệnh nên Hội đồng già làng quyết định phong chức sớm cho em là vậy.

–  Em à, nhưng mẹ em bệnh gì vậy, sao em không đưa mẹ đi chữa bệnh.

Khuôn mặt Nathalie bỗng trầm xuống:

–  Bệnh nầy không chữa được anh à.

–  Sao vậy?

–  Anh có nghe về bùa ngải, thư ếm không?

–  Anh cũng có nghe, mà sao hả em?

–  Mẹ em đã bị ếm và không giải được, người ếm đã quá cao tay.  Lúc đầu em cũng đưa mẹ đi khám tìm bệnh nhưng không tìm thấy gì khác lạ.

–  Ồ, có thật vậy sao?

Tôi nghe mà nửa tin nửa ngờ.  Trước giờ tôi cũng nghe chuyện thư ếm nhưng mà không tin lắm.  Bây giờ mới chính thức nghe một người là y sĩ như Nathalie nói và xác nhận.  Hay là do nàng cũng đã bị nhiễm vào tư tưởng từ lúc còn nhỏ? Tôi vẫn thấy nghi nghi làm sao ấy!

Sau bữa đó, tôi mới hiểu rõ hơn về gia đình của Nathalie, thảo nào tôi thấy cứ vài hôm là có người của các buôn khác đến viếng với nhiều lễ vật.

Vậy là chỉ còn vài tuần lễ nữa là Nathalie sẽ được phong là người kế nhiệm Trưởng Buôn Klây, đồng nghĩa như Nữ hoàng của dân tộc Êđê.  Tôi cảm thấy phân vân, khi lên đây thì tôi chỉ muốn gặp Nathalie theo tiếng gọi con tim, tôi đâu ngờ nàng lại có một vị trí như vậy, tôi cũng không biết mình phải làm gì! Về hay ở lại dự Lễ tấn phong của nàng, rồi sau đó thì sao? Thật tôi không tìm được câu trả lời, nếu đi thì sợ nàng buồn, mà ở lại và biết nàng sẽ là Trưởng buôn thì tôi cũng đâu còn hy vọng gì nữa, một người Trưởng Buôn Klây, Nữ hoàng của dân tộc đâu thể bỏ buôn để đi theo chồng!  Nghĩ tới đó tôi thấy thật thất vọng.

Đêm hôm sau là đêm trăng rằm.  Sau buổi tối cùng đi dạo với Nathalie dưới ánh trăng, tôi trở về trằn trọc với bao ý nghĩ.  Ngày tôi thấy lòng mình càng yêu Nathlie vì nét trong sáng, vui vẻ nhưng dịu hiền của nàng, nhưng rồi cuộc tình của tôi sẽ đi đến đâu.  Có lẽ Nathalie cũng thấu hiểu điều đó nên nàng hay nhắc đến cha nàng, đã vì tình yêu mà chấp nhận ở lại sinh sống nơi đây.  Phải chăng nàng muốn tôi cũng như vậy ?  Điều nầy thật sự tôi chưa bao giờ nghĩ tới!

Tôi trằn trọc không ngủ được, trời cũng đã khá khuya.  Bỗng tôi thấy có bóng người đi ra cửa.  Tôi giả vờ nằm im như ngủ rồi, tôi thấy người đó đầu quấn khăn, khẽ nhìn tôi rồi chậm rãi đi ra cửa, dáng vóc rất giống Nathalie, thật ra tôi cũng không phân biệt được đó là Nathalie hay là Estelle, vì cả hai rất giống nhau, nhưng Nathalie mới đội khăn, tôi chưa thấy Estelle đội khăn bao giờ.  Nếu là Nathalie, nàng đi đâu giờ nầy?

Tôi thực sự tò mò, chờ cho tiếng bước chân đã xuống cầu thang, tôi chồm dậy đi theo.  Nhờ ánh trăng, tôi thấy người đó đi về phía trái buôn, tôi cũng âm thầm theo xa xa phía sau.  Rồi cuối cùng, người đó dừng lại ở ngay cái “chỗ cấm”, nơi mà Nathalie đã bắt tôi hứa là không được vào.  Tôi há hốc miệng, suýt kêu lên một tiếng khi thấy người đó bước vào cổng đã mở trống và bắt đầu …cởi trang phục và vắt lên một cây sào ngang, rồi biến mất vào bên trong.

Trời ơi, thật là tôi không hiểu nổi, Nathalie, nàng làm gì trong đó?  Tôi quá sức là tò mò và cũng có xen lẫn chút tức tối, nghi ngờ…  Tại sao nàng cởi bỏ y phục trần truồng như nhộng để làm gì trong đó, thật là muốn điên lên được!  Đầu tôi như có dòng điện nóng chạy rần rần, tôi nghĩ ra đủ chuyện… hèn gì mà nàng bắt tôi hứa không được vào nơi này.  Tôi tiến sát ngay bờ rào, cố nhìn vào bên trong nhưng hàng rào quá dày, tôi không thấy gì hết.  Tôi lại ngay chỗ cổng nhìn vào trong, nhưng cũng chẳng thấy được vì đã bị một hàng giậu thẳng làm lối đi, che khuất mất tầm mắt.  Rồi bỗng có tiếng xầm xì của một người con gái vọng ra…  Không thể kiềm nổi óc tò mò nữa, tôi vượt qua cổng để vào bên trong.

Núp ở cuối lối đi vào, một cảnh tượng lạ lùng hiện ra trước mắt tôi.  Giữa khu đất là một cái sàn vuông vức mỗi bề khoảng 10 m, cao khoảng 1,5 m.  Trên sàn, có cả chục cô gái trần truồng đang quỳ thành hai hàng, ở giữa cũng là một người con gái đã thoát y, đó chính là …Nathalie.  Qua ánh trăng lờ mờ, tôi thấy Nathalie ngước mặt lên trời, thần Vệ nữ đang phô bày những đường con tuyệt mỹ dưới ánh trăng lung linh huyền ảo.  Tôi như ngây ngấy trước khung cảnh huyễn hoặc, Nathalie hai tay xòe ra như cầu nguyện rồi nàng đi tới mỗi cô gái và vỗ vào trán từng người.  Bỗng nhiên nàng ngừng lại, rồi tôi thấy nàng đi đến một góc cột đài và cầm một cái chiêng đã được treo sẵn ở đó.  Tiếng chiêng bỗng vang rền…  Những cô gái giật mình quay nhìn tứ phía…

Tôi hết hồn, không biết chuyện gì, tôi có bị phát giác không?  Bỗng tôi nghe tiếng chiêng từ buôn vọng ra  vang rền và tiếng chân người chạy rầm rập.  Tôi lật đật thối lui, nhưng… không còn kịp nữa rồi, bên ngoài cổng, hàng chục thanh niên với giáo nhọn lăm lăm đang chỉa vào tôi.

Tôi bị bắt trói lại và dẫn đi giữa một đám đông dân làng.  Những người mới sáng nay đã vui vẻ mời tôi cà-phê thì giờ ai cũng như muốn ăn tươi nuốt sống tôi.  Tôi bị dẫn tới cái sân đất trống giữa buôn, nơi để tổ chức lễ hội, và bị trói vào một cây cột.  Rồi Nathalie rẽ đám đông đi tới bên tôi, nàng nhìn tôi thầm như trách móc, khuôn mặt nàng có vẻ lo âu cực độ.  Nàng nói bằng tiếng Êđê và sau đó tôi thấy mọi người bỏ đi hết, chỉ còn tôi với nàng.  Tôi thực sự xấu hổ vì đã không giữ lời hứa với nàng.  Lúc nầy, nàng mới hỏi tôi:

–  Sao anh lại vào đó?

–  Anh thấy em vào đó, lại cởi bỏ y phục nên anh không thể kiềm chế tò mò…

Nàng tỏ vẻ ngạc nhiên:

–  Không, em đâu có vào đó!

–  Anh thấy em từ nhà đi ra, nên anh đi theo.

–  À, sao anh nghĩ là em?

–   Anh thấy em có đội khăn mà.

Nathalie tỏ vẻ suy nghĩ rồi lắc đầu.

–  Đó là Estelle, không phải em đâu.  Estelle đêm nay đã dạy các cô gái khác về “thần giao cách cảm”, đây là một bí mật được truyền từ nhiều đời của dân tộc em, và chỉ có gia đình tộc trưởng là nắm bí quyết.  Nhờ vào đó, những người thân của nhau có thể liên lạc, truyền thông cho nhau khi có chuyện quan trọng, như hôm em biết được mẹ bị bệnh.  Nơi đó, nam giới cấm không được vào.

Tôi thực sự hối hận vì đã nghi ngờ nàng và dẫn tới tình trạng dở khóc dở cười ngày hôm nay.  Tôi hỏi nàng:

–  Vậy bây giờ sao, anh sẽ bị phạt gì?

Nathalie chỉ lắc đầu, nàng có vẻ buồn, chưa bao giờ tôi thấy nét mặt nàng buồn như vậy.

–  Bây giờ phải chờ quyết định của Hội đồng già làng.  Theo luật tục thì nếu là người dân buôn vi phạm điều cấm nầy thì sẽ bị phạt một con trâu để khao cỗ cho cả làng.  Còn như anh là người ngoài buôn thì…

–  Thì sao em?

–  Thì phải …tử hình.

–  Trời ơi!

Tôi thật không tin vào tai mình nữa.  Không lẽ tôi phải chết ở đây, một cách lãng nhách như vậy sao trời!

–  Em à, vậy rồi sao, em không có cách nào cứu anh nữa sao?

–  Phải chờ quyết định của Hội đồng, sau đó …nếu Hội đồng không thể bỏ qua được thì chỉ còn một hy vọng cuối cùng.

–  Là sao em?  Tôi thật nóng lòng muốn biết xem hy vọng đó là gì.

–  Đó là, trong vòng ba ngày phải có một người con gái trong buôn nhận kết hôn với anh, lúc đó anh kể như là người dân buôn và sẽ chỉ bị phạt  vạ một con trâu.

Sao oái ăm vậy nè trời, sao tôi lại rơi vào cái cảnh của anh chàng thi sĩ Gringoire… gì đó trong “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà” vậy , không biết có ai chịu làm Esméralda để cứu tôi không nữa đây?

Nghĩ tới đó, tôi nhìn sang Nathalie, tôi chỉ còn hy vọng nơi nàng.  Nhưng tôi thấy Nathalie vẫn có vẻ rất lo âu, tôi chợt hiểu ra lý do.  Vì nàng là người sắp được phong kế thừa ngôi vị Trưởng Buôn và Nữ hoàng của dân tộc Êđê, và nàng chỉ có thể được phong khi nàng chưa có chồng.  Tôi thật là thất vọng, tôi tự trách mình sao lại gây ra chuyện nầy, khổ cho mình mà cũng khó cả cho nàng.

Ngay đêm đó, Hội đồng già làng nhóm họp và họ đã quyết định không thể làm sai luật tục của làng, nghĩa là tôi sẽ bị tử hình, trừ phi trong vòng ba ngày có một người con gái trong buôn nhận tôi làm chồng.

Với sự bảo lãnh của Nathalie, tôi được mở trói và được vào ngủ trong gian nhà khách của nàng, bên ngoài có hai thanh niên canh gác.  Tôi như một tử tội chờ ra pháp trường, làm sao ngủ nghê gì được.  Tôi nằm đó mà suy nghĩ miên mang, nhớ cha, nhớ mẹ, anh em, nhớ cả cái cô bán hột vịt lộn đầu hẻm mà mỗi khi tôi mua đều được tặng thêm một trứng.  Trời ui, giờ ước gì tôi được trở về nhà, dù có yêu Nathalie biết mấy, cho vàng tôi cũng không dám lên đây nữa.

Đã hai ngày trôi qua, vẫn không có cô gái nào lên tiếng.  Cũng có thể là có người thích tôi, nhưng ai cũng đã biết tôi là bạn của Nathalie, có ai mà dám nhảy vào nữa.  Trong hai ngày nầy, không chỉ Nathalie, mà Estelle cũng rất là chăm sóc cho tôi, nàng không hề tỏ vẻ giận tôi mà trái lại, chăm sóc tôi rất tận tình.  Đêm khuya, khi Nathalie đã ngủ, và tôi không ngủ được, Estelle đã ra pha cà-phê và chúng tôi ngồi nói chuyện tới sáng, lạ một điều là nàng có vẻ như rất  thích tôi vậy, tôi có chủ quan không?

Đêm nay là đêm cuối cùng, ngày mai tôi sẽ bị mang ra giàn hỏa.  Tôi rùng mình, nghĩ tới lúc tôi sẽ bị ném vào lửa như con heo quay.  Tôi đã thoáng nghĩ tới chuyện trốn, nhưng Estelle đã cảnh cáo tôi liền:

–  Anh không trốn được đâu, người ta đang canh gác kỹ và nếu có trốn được thì anh cũng không biết đâu mà đi, anh sẽ lạc vào rừng và chết trong đó.  Từ giờ đến khi mặt trời mọc, nếu không có tiếng cồng của cô gái muốn nhận anh làm chồng thì…

Estelle ngưng ngang ở đó.  Thì, tôi cũng hiểu là gì rồi.  Nếu có một cô gái cứu vớt tôi, thì cô sẽ vào nhà và đánh chiếc cồng Mẹ lên cho mọi ngưới biết.  Tôi thật hết hy vọng, tôi cũng không dám trông mong ở Nathalie vì tôi biết nàng ở vào một tình thế rất là khó xử.  Chỉ còn Estelle, may ra, nhưng tôi là bạn của chị nàng, Estelle cũng không hề hé một hy vọng gì cho tôi cả.  Đã mấy đêm thức trắng, gần sáng tôi mệt mỏi thiếp vào giấc ngủ nhọc nhằn.

Tôi bỗng giật mình thức giấc vì tiếng cãi nhau lớn tiếng của ai đó, mở mắt ra tôi thấy Nathalie và Estelle đang giành nhau chiếc cồng.  Estelle xách chiếc cồng, nhưng Nathalie lại cầm dùi và hai người đang cãi nhau kịch liệt bằng tiếng Êđê.  Rồi một tiếng cồng vang lên, âm thanh trầm rền rền ngân xa…, hai chị em cũng đã im bặt, chỉ còn từng tiếng chiêng ngân dài…  Trời đã ửng hồng một góc xa.

Tôi tuôn dậy.  Nathalie đang đánh từng tiếng cồng ngọt ngào, những tiếng cồng đáng yêu làm sao.  Tôi muốn hét to lên, tôi đã sống rồi và người cứu tôi không ai khác hơn là người tôi yêu dấu.  Tôi bồi hồi xúc động, những giọt nước mắt yêu thương lăn dài trên má…

* * *

Mười năm sau.

–  Estelle, con đứng yên đi, ba chụp hình con với mẹ.

Hai mẹ con cười duyên dáng thật đẹp trước tháp Eiffel, Paris.

–  Anh à, mấy tấm nầy gởi cho Estelle nhé, dì nó sẽ thích lắm đấy.

Tôi nhìn Nathalie âu yếm :

–  Để anh về thăm Estelle rồi mang hình luôn nhé.

– Anh thật là …ngày đó mà em không giành đánh chiêng thì giờ nầy Estelle đang đứng chỗ nầy nè, anh thích lắm phải không ? Nàng hờn mát.

Nhớ đến Estelle, tôi bỗng nảy ra một thắc mắc:

–  Em à,  không biết sao đêm đó Estelle lại đội khăn em nhỉ?

–  Anh thật không hiểu sao Ngốc của em, vì Estelle muốn anh tưởng lầm là em và đi theo.  Nó muốn dụ cho anh sập bẫy.

–  Estelle muốn anh chết à?  Tôi trợn mắt.

–  Anh ơi là anh, nó muốn anh chết làm gì.  Nó chỉ muốn, nếu em không động tịnh gì thì đến giờ phút chót nó sẽ cứu anh, và anh sẽ là chồng của nó.  Còn nếu em chịu cứu anh thì, em sẽ mất chức vị Trưởng buôn và nó sẽ là người thừa kế.  “Một mũi tên trúng hai con chim”, đằng nào nó cũng được lợi cả.

Thì ra là vậy.  Cái cảm giác ban đầu gặp Estelle đã không đánh lừa tôi.  Estelle quả là người tính toán khôn ngoan.

–  Nhưng sao anh cứ nhất định đặt tên con là Estelle vậy?  Chắc anh cũng thích nó lắm chứ gì?

Chời ui, giờ nầy còn nổi máu Hoạn nữa sao Nathalie, tôi bèn giở tuyệt kỷ:

–  Nếu không nhờ Estelle thì giờ nầy anh và em có ở đây không, có con mèo con Estelle nầy không em?

–  À há, lúc nào anh cũng lách được nhỉ, em biết anh giỏi mà.

Tôi khẽ gỡ chiếc lá vàng từ tay bé Estelle thả bay vương lên tóc mẹ, ánh mắt Nathalie ngước lên như muốn nói muôn ngàn lời…

Nắng dần nhạt.

Gió chiều lồng lộng, giòng sông Seine xanh biếc lững lờ trôi.

Sept. 05 2012
Nguyễn Đức Diêu

(Nếu bạn đọc muốn đọc lại phần một của HƯƠNG RỪNG CAO NGUYÊN xin vào mục TÁC GIẢ chọn tên tác giả NGUYỄN ĐỨC DIÊU sẽ hiển thị mạch lạc bài 1 và 2)

16 thoughts on “HƯƠNG RỪNG CAO NGUYÊN (2)

  1. Hình đại diện của đinh tấn khương đinh tấn khương nói:

    Đọc xong câu chuyện cùa Nguyễn Đức Diêu, ước mơ mình có được một lần mạo hiểm..như vậy (giấc mơ tuổi trẻ chớ hổng phải bây giờ đâu!)

    Thích

    • Hình đại diện của NĐD NĐD nói:

      Anh Đinh Tấn Khương ơi, giờ mơ cũng có sao đâu anh, đã là mơ thì lúc nào cũng có thể mơ được mà

      Thích

  2. Truyện này thật hấp dẫn đó bạn Diêu, mình đọc một hơi, thích cái không khí huyền hoặc ma quái đó . Mình nhớ hồi ở Pleiku, trong khu tỉnh đường lúc đó những năm 60-63 ,có những người bạn dạy mình đi cà kheo…(Mình biết đi cà kheo từ hồi nhỏ,là nhờ K’rấp con ông phó Beo-Ông phó tỉnh trưởng tỉnh Pleiku thời đó. Bây giờ K’rấp đang ở Pháp , làm gì ở bộ ngoại giao , vì ảnh đi du học từ 1970. K’rấp cũng là người bày mình ăn trứng kiến đó.)Đọc truyện Diêu viết mình nhớ lạ lùng những ngày man dại cũ…

    Thích

    • Hình đại diện của NĐD NĐD nói:

      Còn chuyện thư ếm nữa TD ơi. Mình viết vậy thôi chứ vẫn không tin gì mấy cái chuyện bùa phép thư ếm nầy. Nhưng mà cũng lạ lắm, không giải thích được. Lúc nhỏ khoảng tám tuổi gì đó, có một nhà kế bên tự nhiên bị bệnh gì không biết mà tất cả mọi người trong nhà tay chân cong lại như con nhện, không đi được nữa. Chỉ có người con trai đi xa thì không bị. Rồi có người dẫn người con đó đi lên tới Darlac rước một ông thầy về. Ông đó ra ngay cái cửa sau, đào dưới nền đất lên một cái gói có tên tuổi những người trong nhà. Mọi người lại hết bệnh. Cho tới giờ, cha mẹ của D. vẫn còn nhắc chuyện nầy mỗi khi mình nói là không tin chuyện bùa phép

      Thích

  3. Chào Nguyễn Đức Diêu,
    Rừng thiêng vun đắp duyên kỳ ngộ
    Hạnh phúc chan đầy cõi Êđê
    Chúc mừng nên nghĩa phu thê
    Xứng danh lãnh tụ Êđê kế truyền.

    Theo TB thì cô Estelle là người tính toán khôn ngoan nên đảm nhiệm cương vị Trưởng Buôn la chính xác.

    Đồng bào tây nguyên của mình ngày càng bị đẩy xa nương rẫy của họ vì quyền lợi của một số nhóm lợi ích:
    Miệng hô hai chữ Đồng bào
    Cớ sao quý vị lận dao trong người
    Thủ đoạn của lũ đười ươi
    Làm cho cuộc sống bao người lầm than.
    Mến.

    Thích

  4. Nguyễn đức Diêu ơi! Có mối nào như trên chỉ cho tui dzí nghen>

    Thích

  5. Hình đại diện của chu thụy nguyên chu thụy nguyên nói:

    Được đọc trọn vẹn rồi, quá đã, cám ơn anh. Tôi cũng được vào buôn, ngủ lại 2 đêm mê tơi nhưng không bị tử hình như anh, buôn của dân K’hor, đêm nằm giữa 2 cô gái K’hor để ngực trần, liếc thôi rồi ngủ chả dám làm gì cả nên yên thân ra về…

    Thích

Gửi phản hồi cho Ton-Nu Thu-Dung Hủy trả lời