– Ông Tám! Thế ông có nghỉ là mình hoang tưởng quá không?
– Không.
– Dị mộng?
– Cũng không.
Đôi mắt trầm sâu. Ông vói nhìn đám mây đang trôi lãng qua đầu, rồi chìm mất vào hai lòng vực sâu thăm thẳm ấy. Tôi lắc đầu nhìn ông cười:
– Thế ông Tám cứ nhập vào cuộc trình ma quỷ thánh thần của ông Tám đi.
Chuyện cách đây gần bốn mươi năm rồi. Hai mái đầu, một xanh một sương rướm. Trời càng về khuya, chỉ tôi và ông. Mỗi người đều có một tỉnh táo riêng, một nội thức riêng, cảm ngộ qua từng hơi thở của nhau…. Để rồi suốt đời cứ phải nhớ nhớ thương thương. Ông thao thiết nói tôi nghe về chuyện của một dòng sông.
Dòng sông mang hai dòng nước chảy, nửa đục nửa trong, dòng này hân hởi thì dòng kia bi lụy và ngược lại. Cả hai dòng đều đẹp như nhau. Trong tâm ức chúng đều có sự hào phóng và tráng liệt như nhau. Đời người cũng vậy – Như ta và cháu đây – một tóc còn xanh, một đầu đã bạc. Tại sao cháu chỉ biết và nghỉ về cái đẹp của loài hoa khi nó ở độ mãn khai. Nó còn có cả cái đẹp khẳn khiu khôn cùng của nó… đang tàn và đang rữa.
Ông chí thú nói tôi nghe về những loại côn trùng vặt vạnh mà ông thường gặp trên cánh đồng quê mỗi sớm mỗi chiều. Ống nhắc về loài Mối nhiều nhất, như có mối tương hiệp nào đó trong tiềm ức ông?!. Sự phân định quyền lực của chúng, tập tính quần cư của chúng… Giọng ông trầm xuống đến thương:
– Cháu biết đấy. Tất cả mọi loài đều có một chân bản riêng, một cảm thụ riêng để mà đuổi kịp mọi chuyển biến của mùa, tiếp nhận nết đất nết trời mà xiễn dương cho cả hai chiều… THIỆN VÀ ÁC. Mà này, cháu là nhà báo đi nhiều, ngẳm nhiều. cháu giúp ta – Mỗi loài, nhất thiết đều có đều có một ĐẠO riêng cho mình phải không?! Như loài Mối chả hạn.
Quả thực. Hơn mười năm ở nghiệp báo. Những hiểu biết, những chiêm nghiệm, cả trong cảm thức của tôi, niềm xúc động của tôi khi đứng trước một bi huống nào đó, lòng tôi vẫn lạnh… Thế nên, bút của tôi mực của tôi có phần xa xỉ, vô tích sự. Làm sao tôi giúp được gì cho nội Tám đây. Tôi nhắm mắt nghỉ về dòng sông, nghỉ về bầu trời, một đám mây phiêu dạt, một vực thẳm không đáy. Và không hiểu sao. Tôi kể ông nghe về lủ Khỉ vớt trăng dưới vực giếng ở Gia Thị trong kinh Pháp Uyển – Rằng, trăm con khỉ vừa đực vừa cái ngoéo đuôi nhau. Con cuối cùng vọc tay khua khoắng mặt nước hòng cứu trăng. Ngụ ý đấy chỉ là chuyện hoang tưởng.
Nội Tám ngước nhìn tôi cười hân hả. Cái cười ròn tan không gãy:
– Này nhóc nhà báo. Ngươi hiểu nhầm ông Tử rồi. Thầy Tử thầy Mạnh đâu phải là kẻ xu thời nịnh thế, ai chết mặc ai đâu, đầu cắm đất đít chổng trời đâu. Ông có dạy ta ngồi không mà ăn bát vàng đâu. Ông chỉ mong khuyến hịch ta, khi nhìn về một đám mây, một hạn sương sớm, một vết đi lang thang của gió… ta phải suy và biết vịn theo nó, nhận rõ cái chân nguyên của nó mà biết mình biết ta. Qua những cuộc binh lửa của loài người chúng ta cũng thế… Một ông tướng tài, phải biết lúc nào tiến lúc nào lùi, lúc nào giã chết lúc nào chết thiệt. Đấy là chiến pháp. kẻ thắng không cần thiết phải nhể nhại, quá tự mãn bằng cách vinh danh theo kiểu đao to búa lớn… đi đâu ta cũng gặp “anh hùng” đến trong tận cùng hốc hẻm nào ta cũng phải trượt chân té chỉ vì hai từ “Vĩ đại”… “cực kỳ vĩ đại”. Như vậy ta đã vô tình bón tưới thêm cái gốc hận thù, kích thích họ thêm dũng khí để họ cứ âm ỉ hoặc thực sự lao vào cuộc rửa thù dai dẳng hơn. Máu lửa khó mà ngừng dứt được.
Còn với người thua cũng vậy. Cớ gì ta phải sầu phải hận cho mệt – Nếu là trái ngọt ta cùng ăn. Nước lành ta cùng tắm cùng uống… hà cớ gì phải ỉu rĩu cho rừng thu trút lá đến trăm năm. Phải không.
– Thế thì Ông cứ dựa vào lủ Mối mà tìm cho mình một thứ ĐẠO riêng đi.
Thực tình. Nhiều đêm nằm một mình gát tay lên trán. Tôi thường tự hỏi – Quê hương là gì? Cố hương là đâu! Hai từ có đồng nghĩa không… Và cả ta nữa. Ta là ai, ta từ đâu đến. Những lúc như vậy ta nhớ đến vụn lòng. Nhớ sợi khói xanh từ mái rạ nghèo giữa trưa hè lặng gió.
Biền biệt những ba mươi năm bỏ xứ ra đi.
Không một sắp xếp với vợ con. Tôi lặng lẽ về.
Điều tôi muốn biết trước tiên là ông nội Tám.
Tôi hỏi chị Hà:
– Giờ nội Tám ra sao rồi chị.
– Ôi! Thì ông cũng biệt, giống như cậu, biệt cùng với lúc cậu đi… Người thì nói ông bay suốt một lèo tận xứ sông nước nào đó với người bạn cùng ĐẠO THƠ với ông. Chắc là ông muốn tìm lại hơi hướm chuyện tình mà thời trai trẻ ông đã vụn tay làm lạc mất.
Đến cuối đời, người đàn ông đã già đã mõi, ngồi một mình thường ngớ ra mà gật đầu – Ừ. Tình yêu là có thật là chốn đi về. Chốn về ấy rất đỗi thanh bình. Gần đây hơn cũng có người lại nói – Những đêm trăng sáng, ai như ông Tám đứng chấp chới trên một gò Mối cao nhất trong cụm gò Mối ở đồng Mưcôi . không hiểu đấy là bóng của ma hời ma Kust, hay là bóng của Nữ hoàng Mối chúa bỡn trăng?.. Giờ thì chưa ai dám quyết. Chợt nhớ ra điều gì như cần kíp lắm. Chị Hà bước vội vào kệ thở tổ tiên, vừa cung kính vừa cẩn trọng run tay mở chiếc họp gỗ cẩn xa cừ. Chị Hà trao tôi rẻo giấy nhỏ – Này câu! Cậu coi thử đây là giấy gì. Sao tự dưng chị thấy quý nó kể từ chị nhặt được, chị nhặt được giữa trời đêm lỉu thỉu mưa vì chị phải ra đồng để cân lại nước cho luống mạ vừa đúc chiều qua. Vừa ngang qua gò Mối, một vệt sáng cắt qua mặt chị, rồi dán chặc xuống vai chị rẻo giấy. Rẻo giấy này đây. Cầm rẻo giấy trên tay. Tim tôi thắt lại. Chị Hà không hiểu chuyện gì.
Vâng. Chuyện cách đây đã ba mươi năm rồi. Vào một đêm họp dân ở Đình làng. Cọc tiêu chính là cái Đình làng Ông chủ tịch thôn dõng dạt: – Đình ta… Qua đạn bom giờ coi cũng còn bề thế lắm. Thế thì với cơ ngơi này, bà con ta nghỉ thế nào? Ta phải biết biến nó thành lợi ích “cụ thể” chứ. Chả lẻ ta cứ để nó đó mà thắp nhan thắp đèn cúi lạy… những lục cục đất sét đất bùn, đồng thau đồng tạp, lôm côm kia. Ích gì. Một là ta cho nó thành nhà kho chứa lúa thuế, bảo giữ tài sản cho dân, tiện thể kết hợp cái chuồng cho trâu cho bò. Trâu được khoẻ ra bò được khoẻ ra mà cật lực cùng ta cày cáy. Đấy là điểm vững bền nhất để tiến đến “vĩ mô”. Ông chủ tịch vỗ tay trước. Bà con dân quê làng tôi vỗ tay bè theo nhịp sau. Điếu thuốc rê quấn dài ngoòng trên môi ông đã tắt, tắt là do bả nước miếng của ông ứa ra tự dập nó, ông nhổ phụt xuống thềm đình, tay gãi gãi vào man tai.
Cuộc họp vừa tan. Nội Tám tò mò cúi nhặt mấy lóng thuốc, cùng cả những chiếc que nho nhỏ mà ông Chủ tịch đã se lại từ mảnh giấy khổ lớn xé ra, để ông ráy tai. Miệng nội Tám lực ực kêu lên: – Trời ơi!… ‘Sắc Thần họ Lê ta đây mà. Nước mắt tôi nghẽn lịm vào trong. Chính bản giấy này đây. Nội Tám đã ngập ngùi cho tôi được chạm vào nó một lần lâu rồi – Liệu tôi có nên nói thực với chị Hà những gì muốn nói.
Chiều xuống sậm. Nhưng trên cao, trời vẫn xanh một màu xanh rừng rựn. Tôi xoè rộng hai bàn tay mình. Một làn khói mỏng bay bay lên cao mãi như có như không cùng với mảnh “Sắc phong” rã vụ ấy./.
Ma nương. Mùa cạn gió cùng Tư Rết
LÊ SA

”Sắc Thần” đỏ chuyển đen..Đen chuyển đỏ từ duyên..”Sắc phong” ban Cô Chiêu..Vận hạn đến hồn tiêu!Ngã nghiêng một Thiên Triều..Đảo điên nhà Lê -Nguyễn..Biết bao là sự kiện..Buồn nỗi buồn triền miên..!
ThíchThích