NGHĨ VỀ MẸ 

 

 

Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: “Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai” mày sáng đi mà chiều về, “tắc ngô ỷ môn nhi vọng” thì ta tựa cửa mà trông. “Mộ xuất nhi bất hoàn” chiều đi mà không về, “tắc ngô ỷ lư nhi vọng” thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.

Truyện dân gian mô tả lòng mẹ thương con thì rất nhiều. Thử lấy một. Người mẹ bị rắn độc cắn. Biết mình sắp chết bỏ con, vội vã chạy về nhà, đổ lúa vào cối mà xay, đổ thóc vào cối mà giã, gấp gáp sao cho có gạo để lại cho con ăn sau khi mình chết. Không ngờ điều huyền diệu đã xãy ra: dồn cả sức lực, bắp thịt đến rã rời, truyện kể rằng chất độc toát ra theo mồ hôi, thoát ra theo hơi thở… và người mẹ được cứu sống.

Còn nhớ truyện vua Salomon xử kiện? Hai người đàn bà tranh nhau một đứa nhỏ, ai cũng nói mình là mẹ của nó. Dùng đủ mọi lý lẽ mà không giải quyết yên, cuối cùng vua phán: “Ðem đứa nhỏ ra xẻ hai, mỗi người lãnh một nửa.” Một người đàn bà nói: “Dạ, thà như vậy cho công bằng.” Người đàn bà kia: “Thôi, tôi xin nhường.” Ðó, lời nói của mẹ bạn đó, hỡi người bạn nhỏ đang lắng nghe tôi. Mẹ bạn cũng sẽ xử sự như vậy nếu bị đặt vào hoàn cảnh nêu trên.

Trường hợp này thì còn đáng phục hơn: Chàng Côdắc hỏi tiên nữ Ôcxana rằng đến khi nào nàng mới yêu chàng? Nàng trả lời rằng nàng sẽ yêu người nào đem tặng mình trái tim người mẹ… Chàng Côdắc im lặng, lòng đượm buồn và chẳng thiết gì ăn uống nữa. Nhưng rồi cuối cùng chàng cũng mang đến cho Ôcxana trái tim mẹ mình.

Ðường dài chân mỏi, mắt hoa,
Vừa lên thềm cửa, chân xa ngã nhào.
Tim mẹ đập ứa máu đào,
Mà còn hỏi nhỏ “Nơi nào đau con?”

Hỡi ơi, chỉ có trái tim người mẹ mới vị tha tới mức vẫn cứ thương đứa con bội bạc dường kia!

Tưởng cũng nên nhìn qua vài gương mẹ hiền, dạy con nên người xả thân vì nghĩa. Mẹ Mạnh Tử chọn láng giềng tốt, cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung để làm bài học dạy con. Mẹ Vương Lăng với bài thơ tiễn sứ giả, mẹ Từ Thứ, mẹ… Vài gương thôi vì ai cũng muốn được xúc động bởi tình thương hồn nhiên, tự nhiên, ít muốn thán phục lý trí nhiều khi chỉ là trò tính toán, hư thực khó phân.

Lòng mẹ đối với con như vậy, còn lòng con dành cho mẹ thì sao? Trong bốn câu thơ Ðoạn Trường Tân Thanh nêu trên, một câu đầu nói nỗi lòng người mẹ thì hai câu sau là nỗi lòng của con. Câu trước dành cho đứa con nhỏ tuổi là Hoàng Hưng, câu sau chọn tả nhân vật hiếu tử già nhất lịch sử: Lão Lai. Suốt cuốn Nhị Thập Tứ Hiếu là 24 gương con hiếu. Nhiều gương ngang tầm với người thường, người thường làm được. Truyện Quách Cự chôn con, được chum vàng. Trời chu đáo chôn sẵn để thưởng Quách Cự, hơi khó tin đối với chúng ta hôm nay. Có vẻ như do một thi sĩ của cung đình sắp đặt dựng lên nhằm ca tụng vương khí của triều đại. Riêng truyện Vương Thôi có khí vị đặc biệt. Mẹ Vương Thôi sợ sấm. Ngày thường Thôi ra đồng làm việc, mà hễ trời nỗi cơn sấm sét là lật đật chạy về nhà cho mẹ bớt sợ. Khi mẹ chết rồi, mỗi lần sấm sét là Thôi lại vội vàng chạy ra ôm mộ mẹ mà nói: “Có con đây, mẹ đừng sợ.” Tâm hồn Vương Thôi có cái gì chất phác đơn giản của một người nông thôn quê mùa, khiến ta tin là hoàn toàn có thật. Và không cần cố gắng, khỏi phải lý giải, hễ đọc lên là lòng mỗi chúng ta đều xúc động rưng rưng.

Trong câu truyện cổ của ta có chuyện Bát Canh Hẹ. Một tù nhân một hôm nhìn vào mâm cơm thấy có bát canh hẹ liền khóc òa bảo người cai ngục: “Tôi biết mẹ tôi vừa tới thăm tôi, nhờ ông chuyền cho bát canh hẹ này. Vì hồi ở nhà mẹ tôi thường nấu canh hẹ cho tôi ăn.”

Truyện kể một vị hiền giả nọ (Hán Bá Chu), một hôm phạm lỗi bị mẹ đánh. Ông khóc tức tưởi nhiều hơn mọi lần. Mẹ hỏi: “Lần này mẹ đánh ít, sao con khóc nhiều?” Thưa: “Những lần trước mẹ đánh nhiều, ngọn roi mạnh, con khóc vì đau. Lần này mẹ đánh ít, ngọn roi nhẹ, con thấy ít đau, nhưng con biết sức mẹ đã yếu, mẹ đã già, nghĩ vậy mà con khóc.” Sách vở ghi biết bao nhiêu gương hiếu.

Mà nào phải lục tìm trong cổ văn mới thấy gương mẹ hiền biết cách thương con. Mẹ của người bạn cùng quê với tôi, anh Phạm Ngọc Ân, vốn không biết chữ quốc ngữ như mọi bà mẹ thời đó. Khi Ân học vỡ lòng, anh lẫn lộn M với N, P với Q… rồi sang vần ngược thì càng tha hồ lẫn lộn. Cha giận vừa nạt nộ, vừa vụt roi. Mẹ thương con, lén đứng dòm, lẩm nhẩm nhớ để rồi bày lại cho con. Kết quả là bà đọc được Quốc ngữ và sau đó Ân học hành giỏi, làm tới chức thanh tra giáo dục. Ân nay đã đông vầy con cháu và mẹ già đã nằm yên dưới ngôi mộ bên sườn núi Ngân Sơn.

Chỉ không lưu ý đó thôi, chứ hình ảnh mẹ con diễn ra quanh ta đầy đẫy, vạn trạng thiên hình kể sao cho siết! Mẹ ẵm con đi chợ, mẹ bồng con đi nhà thương, mẹ dắt con tới trường… Trên sân: gà mẹ dẫn gà con bươi rác. Trên đồng cỏ: trâu mẹ đứng yên cho trâu con sục mõm vào bầu vú, mắt nhìn hiền từ, thỉnh thoảng âu yếm liếm vai liếm lưng. Con cò luộm thuộm, vụng về, cái cổ dài ngoẵng, cặp chân lêu khêu vậy mà từ lưng chừng trời khéo xếp đôi cánh đáp xuống nhẹ nhàng cạnh bầy con, dùng cái mõm nhọn hoắt để sú mồi, để rỉa lông âu yếm… Tình mẹ con quả là thứ tình cảm thiêng liêng khó giải khi ta nhìn cặp mắt vàng lợt đó như thiếu vắng sự thông minh, cái cổ quá mảnh quá dài làm khó khăn biết bao cho sự dẫn truyền tình cảm.

Cho chí cỏ mộc vô tình cũng gợi xúc cảm mẹ con. Cây chuối mẹ và bầy chuối con xúm xít. Cây ổi mẹ và lũ ổi con ngơ ngác vây quanh. Lũ cây con như rất cần mẫn nhìn mẹ mà bắt chước, mà nhại theo hình dáng mẹ.
Trên đời không ai yêu thương ta bằng mẹ. Người tình dẫu thủy chung cũng chỉ yêu ta với điều kiện: Hoặc là ta đẹp, hoặc ta có tài. Mẹ thì không, xấu xí cũng thương, xấu xí càng thương như nhằm bù lại những thiệt thòi cho con, như ngầm nhận sự xấu xí là do lỗi mẹ.

Không đến nỗi quá lời nếu nói rằng với mẹ, con là tất cả. Khi có con, mẹ bình tâm vạch vú cho con bú, áo xống xốc xếch, quần xăn quá đùi cũng không còn thấy ngượng. Có con là như đã đủ rồi. Không như những bạn lấy chồng năm mười năm mà chưa con, vẫn cứ thẹn thùng kín đáo.

Ðúng, đã có đủ rồi. Vì có con, mẹ mới yên tâm, mẹ vừa hãnh diện. Con là tác phẩm tuyệt hảo của mẹ, là vật báu thiêng liêng mà mẹ vẫn không hiểu làm sao mà mình có đủ khả năng tạo thành. Cái sinh vật nhỏ đó dần dần lớn lên, có trí thông minh, thân thể phát triển vẹn toàn để có thể trở thành danh nhân, trở thành vĩ nhân. Càng thêm hãnh diện, càng được đền bù bởi mẹ mang thân phận đàn bà, từ mới sinh ra đã chịu mọi thiệt thòi. Làm con gái đâu được cha mẹ nuông chiều bằng con trai. Lớn lên phải phụ tay trong bếp, dọn dẹp trong nhà. Sự thiệt thòi đeo đẳng suốt đời chỉ vì là thân phụ nữ. Luân lý thời xưa khắc nghiệt bắt người đàn bà không được bước đi bước nữa, phải ở vậy thờ chồng nuôi con. Trải bao cuộc chiến tranh, bao nhiêu góa phụ chôn vùi tuổi thanh xuân, đến khi nhắm mắt xuôi tay là coi như xóa sạch cuộc đời, vĩnh viễn không còn dấu vết. Cho dẫu có được sắc chỉ “Tiết hạnh khả phong” hoặc dãy vòng hoa và bài ai điếu.

Rốt cuộc dường như niềm vui lớn nhất trên đời là khi sinh được đứa con. Tình yêu chồng dần dần sớt qua con và nếu gặp trường hợp đớn đau phải hy sinh đời mình để cho con sống thì hầu như mọi người mẹ đều nuốt nước mắt nhận cái chết về mình, ít cần lưỡng lự.

Nước ta có hai bậc quần thoa xuất chúng Bà Trưng và Bà Triệu, được ca ngợi là cân quắc anh hùng, hào quang xuyên suốt lịch sử. Nhưng không thấy sử ghi là hai bà có được đứa con. Khiến có hôm xúc cảm nhìn cảnh mẹ con vui vầy của những bà mẹ, “mẹ của Quỳnh Chi, Thanh Hải, Nhật Thành…” Tôi chợt ngậm ngùi nghĩ đến hai bà:

Tôi chợt nhớ về Bà Trưng, Bà Triệu,
Chưa một lần được gọi tiếng “con ơi!”
Vì nghĩa lớn, xả thân mình lo liệu,
Phần ấm êm: xin nhường hết cho người.

Phần ấm êm là đứa con, là tình mẹ con, dẫu rằng thế tục tầm thường nhưng không phải dễ mà có được.

Tôi, thuở ấu thơ không được sống gần mẹ, đã vậy mới mười một tuổi mẹ đã từ trần. Theo cha đến chùa một lần là nhân lễ mãn tang mẹ. Lớn lên mới biết lễ Vu Lan báo hiếu nên cứ mỗi lần xé tờ lịch nhìn thấy ghi tháng bảy âm lịch là lòng u hoài nghĩ đến mẹ. Có một thôi thúc nhẹ nhàng, một háo hức tiềm ẩn muốn được làm một cử chỉ báo ân. Nhưng mẹ còn đâu? Ðành tìm trong chỗ bạn quen thân có ba người còn mẹ già, ngày Vu Lan tự tay đem một tặng vật nhỏ, gọi là góp lời cầu nguyện cùng bạn. Rồi âm thầm nghĩ đến tích Mục Liên Thanh Ðề, nhớ đến quê hương xa cách, ngôi chùa làng vắng vẻ tịch liêu. Ðến ngôi mộ của mẹ tôi, của bác tôi, của ông bà tôi nằm rải rác quạnh hiu nơi sườn núi cuối thôn. Ðến những vị xuất gia đã cát ái từ thân, giờ này đang trì chú hộ niệm. Nhưng cát ái từ thân đâu có nghĩa là không nghĩ đến mẹ? Ðại đức ơi, thầy nghĩ đến mẹ tha thiết như thế nào? Hòa thượng ơi, thầy nghĩ đến mẹ bồi hồi như thế nào?

Hiện rõ cái đầu bạc phơ của hòa thượng, chân mày sợi dài trắng sóa, dáng đứng như chỏm núi cao. Như đỉnh Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ. Ðỉnh núi tuyết uy nghi có biết báo ân mẹ không? Những bụi sim quây quần dưới chân núi rì rào nhớ mẹ. Mẹ là hột sim do con chim bay qua thả rơi xuống đất. Cây bồ đề cổ thụ thân lớn mấy người ôm, tàn lớn phủ sườn núi cũng xào xạc nhớ mẹ. Mẹ là hột bồ đề rất nhỏ ngẫu nhiên ngọn gió bay mang tới. Nhưng hùng vĩ như Hy Mã Lạp Sơn thì mẹ là ai? Tôi đành âm thầm lắc đầu vừa tưởng như nghe ầm ầm những chuyển động tạo sơn quăn quại dựng nên dãy núi. Thành ra núi cô đơn.

Ở nhiều nước văn minh trên thế giới, người ta thỏa thuận lấy một ngày trong năm đặt là ngày lễ mẹ (Mother’s Day.) Vào ngày đó, các con dẫu ở xa cũng cố gắng tụ hội về quanh mẹ, dâng hoa tặng quà, đọc lời chúc tụng và vui vầy tiệc tùng. Trên ngực áo mỗi người còn rực rỡ một đóa cẩm chướng màu đỏ. Những người con nào mà mẹ đã qua đời thì lạnh lẽo nơi ngực áo một đóa hoa cẩm chướng màu trắng.

Ở ta, từ thập niên 50 nhiều địa phương nhân ngày lễ Vu Lan đã tổ chức nghi thức bông hồng cài áo: ai còn mẹ thì được gắn một hoa hồng đỏ, ai mất mẹ thì một đóa hồng trắng. Một cách để nhớ mẹ, để tôn vinh mẹ, để mừng mẹ còn tại thế, để xót xa nghĩ đến mẹ đã qua đời.

Bản thân người mẹ Việtnam không đòi hỏi được tôn vinh. Vào thế hệ tôi, người mẹ gần như chỉ lúc thúc ở nhà dưới, nhà ngang, lăng xăng xuốt ngày và hạnh phúc với muối dưa, với con cháu. Cha già được thong dong ngồi hút thuốc, được thưởng thức tách trà sớm, được nhấm nháp ly rượu buổi hoàng hôn, chớ mẹ thì hầu như không biết hưởng thụ là gì. Cả ngay khi số tuổi chồng chất, đóng vai bà nội, bà ngoại. Có một thời gian, láng giềng tôi là một gia đình giàu. Khi người vợ sinh đứa con lên bốn tháng, người ta nhắn về quê nhờ bà kế mẫu già, nghèo, tới coi sóc giùm nhà. Một hôm qua khung cửa tôi thấy bà ngồi vá quần cho đứa nhỏ. Tôi ngạc nhiên bồi hồi đứng nhìn. Trẻ con dưới một tuổi lớn mau, quần áo vải mới, mặc không vừa nữa thì bỏ một chỗ, quần áo vải cũ, rách thì ném làm giẻ lau, ai hơi đâu nheo mắt ngồi vá? Thôi, hiểu rồi, tâm lý người mẹ, người mẹ quê, người mẹ nghèo, tần tảo, quên mình, người mẹ của thế hệ tôi đó. Thời nay có khá hơn, có biết vị kỷ hơn, nhưng có được bao nhiêu người con, dẫu đã thành đạt, nhớ đến Ngày lễ Mẹ? Nhiều bà mẹ tổ chức kỷ niệm sinh nhật cho con hằng năm, có tiệc, có cắm nến trên cái bánh to, có chụp hình… Nhưng này các con, sao sinh nhật mẹ, các con không gom một bó hoa — ngắt hoa dại trong vườn, ngoài rào cũng được — sáng sớm trao tay mẹ? Nếu mắc cỡ không nói được thì có thể viết trên mảnh giấy nhỏ: “Con mừng sinh nhật mẹ” chẳng hạn. Ðó, vì đa số các con vô tâm mà phải mượn lễ Vu Lan để cài một đóa hồng.

Nhưng rằm tháng Bảy không chỉ là ngày nhớ mẹ, báo ân không chỉ có báo ân mẹ. Còn có phần hiếu thảo dành cho cha. Rộng hơn, dân tộc ta còn nhận ngày này là ngày xá tội vong nhân, chú nguyện cho thập loại chúng sinh vừa mở rộng lòng bố thí cho người nghèo khó nơi dương thế. Lòng nhân ái tựa biển, tràn khắp bao la trong tiếng chuông ngân vang ngày lễ.

Hãy thương yêu mẹ hết lòng, săn sóc ân cần, hầu hạ trìu mến, nhất là khi mẹ già yếu, bệnh hoạn xấu xí bẩn thỉu. Hãy nhớ lại thuở mình còn nhỏ, mặt mũi chưa được trơn láng như hiện giờ, ỉa đái ngay trên mình mẹ, và khi lên năm lên mười mẹ phải nhịn phần mẹ để mua món ăn ngon, sắm cái áo đẹp cho mình. Hãy xúc động sụt sùi mà cầm tay mẹ, nhìn mặt mẹ, theo dõi bước đi dáng ngồi của mẹ. Không như tấm lịch đẹp treo tường, tấm năm sau sẽ thay tấm năm trước, không như cái bàn gỗ mộc sẽ đứng mãi đó nếu ta không tự ý phế bỏ. Mẹ thì không, dẫu ngó vững chắc nhưng sự sống vốn rất dễ rung rinh, chẳng chóng thì chầy, rồi cũng tới một ngày — thậm chí có thể chỉ trong khoảng chốc — ta sẽ chỉ còn thấy được mẹ trong trí nhớ.

Võ Hồng

ÁO EM CÀI HOA TRẮNG

download (1)

Tôi được đi học chậm hơn mọi đứa trẻ khác . Sáu tuổi mà vẫn chưa ôm sách tới trường . Nguyên do vì má tôi đau bệnh dai dẳng, má không muốn tôi sống xa cách, dù mỗi ngày chỉ bốn năm giờ đồng hồ . Khi má tôi phát bệnh thì bác sĩ đã cho ba tôi biết là má tôi sẽ không sống lâu thêm được quá hai năm . Má không được nghe điều đó nhưng tự xét sức khoẻ của mình, má biết là con đường đi của má không còn dài lắm . Mặc kệ những lời trấn an liên tiếp của ba tôi, má giữ một thái độ cam chịu và chờ đợi .

Thấy tôi cứ lêu bêu quấn quít cạnh mẹ, ba tôi có lần gắt:

— Em phải để cho con nó học chớ . Bằng tuổi nó người ta đã vào lớp tư rồi . Trẻ con lên bốn tuổi, người ta đã cho vào ấu trĩ viên để chúng vừa chơi vừa học .

–Học sớm hay muộn gì rồi cũng sẽ đến đích một lượt . Đứa bốn tuổi học một năm bằng đứa năm tuổi học sáu tháng . Đứa năm tuổi học sáu tháng bằng đứa sáu tuổi học ba tháng .

–Anh biết rõ điều đó . Nhưng nó đã sáu tuổi rồi mà chưa đi học được tháng nào .

–Thôi, để em dạy con .

Má tôi gom những miếng bìa cứng, cắt thành từng mảnh vuông to bằng bàn tay . Má vẽ lên đó những cái vòng tròn, những cái hình mà má gọi là lưỡi câu , cái gáo, con cá . Má chỉ cái vòng tròn và bắt tôi gọi bằng O, cái lưỡi câu bằng i, cái gáo bằng q, con cá bằng e . Lưỡi câu là cái tôi không hề biết nên tôi hỏi lại :

–Lưỡi câu là cái gì vậy má ?

Má tôi ngạc nhiên bởi câu hỏi . Má nhìn tôi giây lâu rồi đưa bàn tay mềm mại vỗ lên đầu tôi . Má nói :

–Ờ ! Con chưa biết cái lưỡi câu . Đó là mô.t cái kim nhọn bẻ cong lại, nơi đầu người ta móc một con mồi vào .

–Con mồi là con gì, má ?

–Là con trùn, con dế hoặc nhiều khi là miếng bánh, miếng cơm, những món mà con cá nó thích ăn .

–Móc con mồi vô cái kim chi vậy ?

–Để đem thả xuống nước . Con cá thấy mồi, mừng quá, lật đật bơi lại táp . Miệng cá dính vào cái kim, người ta giật lên, cá không chạy trốn được, người ta bắt nó .

Tôi chỉ nhìn xuống hình vẽ con cá trên một mảnh bìa cứng (chữ e của má tôi đó) hỏi lại má tôi :

–Người ta bắt con cá này phải không má ?

Má tôi mỉm cười, gật đầu . Tôi lại hỏi:

–Má có đi bắt những con cá bằng cái kim uốn cong như vậy không ?

–Có . Hồi nhỏ má có đi bắt như vậy . Người ta gọi là đi câu .

–Sao má không cho con đi bắt ?

–Khi nào rảnh, vào ngày chủ nhật hay ngày lễ, ba con sẽ dẫn con đi câu một lần .

Tôi lắc đầu:

–Không, con muốn má dẫn con đi . Con không muốn ba dẫn .

–Má bệnh, má đâu có đi được ?

–Thì hôm nào má mạnh má dẫn con đi .

Má tôi “ừ” và lặng lẽ nhìn tôi . Một lát, thấy từ nơi khoé mắt của má có hai giọt nước mắt chầm chậm ứa ra, lăn dài chạy xuống cằm . Tôi không hiểu tại sao điều tôi yêu cầu có thể làm má tôi buồn như vậy . Sau này lớn lên, ngồi nhớ lại tôi mới hiểu . Một người đã đoán biết được ngày chết gần kề của mình mà phải hứa với con một điều mình biết chắc không thể nào thực hiện được ! Không những không thực hiện được việc dẫn con đi câu cá, cả đến việc được ngồi cạnh con trước những tấm bìa cứng này cũng không còn kéo dài được bao lâu nữa .

Tôi học không được bao nhiêu chữ . Bởi ngồi với tôi chừng một lát thì má phải nằm nghỉ . Tôi sung sướng nằm theo, cạnh má, tay cầm xấp “bài học” xếp xếp như người ta đánh bài . Tôi nói với má:

–Nằm học khoẻ hơn, má há ?

–Ừ .

–Sao ở trường học họ không cho học trò nằm ngửa mà học ?

–Nằm ngửa ra, tụi nó ngủ quên hết .

Tôi gật đầu, ờ ờ .

Dù khi tôi ngồi cạnh hay nằm cạnh, má cũng hay lấy bàn tay rờ đầu tôi, vuốt ve lên má, lên cằm, lên tai tôi . Dường như để xác định rằng tôi có hiện diện đó thực, tôi, vật quí báu nhất do má tạo ra và má sắp bỏ lại trên cõi trần này .

Ba tôi bắt gặp mấy lần lối học “nằm ngửa” này của tôi . Ông kiểm soát lại xem có chữ nào còn sót lại trong khối óc ưa nằm ngửa đó không và rõ ràng là một tư thế như vậy làm cho mọi chữ nghĩa đều trôi tuột đâu hết . Ông nghiêm sắc mặt bảo tôi:

–Ngồi dậy mà học .

Tôi líu ríu ngồi dậy .

–Lại nơi bàn mà học .

Tôi líu ríu đi lại bàn .

–Sắp lên bảy tuổi rồi mà học chưa hết hăm bốn chữ cái . Bằng tuổi mày, người ta đều học lớp tư .

Má không phân biệt cho tôi chữ nào đực, chữ nào cái .

Tôi đoán chữ i, chữ t gầy gò là đực , chữ o, chữ a mập mạp là chữ cái .

Thường thì tôi nghe lời ba tôi lại bàn ngồi ngay ngắn, nhìn xuống mặt chữ và lẩm nhẩm gọi tên nó . Má tôi im lặng để nhường tiếng nói cho ba tôi .

Một hôm tôi ngoan ngoãn nghe lời ba líu ríu lại bàn thì má tôi cất tiếng :

–Thôi, cho con đi chơi .

Tôi không biết nên nghe lời ai . Nghe lời má thì tôi sướng quá rồi, nhưng ba tôi còn đứng đó . Mà ba tôi thì không nghiêm khắc nhưng ông biết bắt người ta vâng lời . Tôi biểu lộ sự lưỡng lự bằng cách vẫn đi bước tới nhưng bước chậm lại .

Má tôi giục :

–Con chạy ra ngoài chơi đi con .

Tiếng ba tôi:

–Thôi, cho con đi chơi .

Tôi nghe lời ba, đi rẽ ra phía hành lang . Vừa bước ra khỏi phòng thì nghe tiếng nói của má tôi:

–Anh đừng làm cho con sợ .

–Anh không muốn vậy, nhưng phàm uốn tre thì phải uốn khi nó còn là măng . Anh tập cho con biết nghe lời phải .

–Phải uốn dịu dàng!… Em biết là em quấy khi giam giữ con ở cạnh mình mà không chịu rời nó ra cho nó đi học . Nhưng anh ơi, em đâu có còn sống được nhiều ngày tháng ? Bác sĩ nói với anh là bệnh em sẽ chữa khỏi . Anh đừng tin . Em biết sức khoẻ của em mà . Vì vậy mà em muốn sống quây quần bên cạnh con những ngày chót của đời em .

Tiếng má tôi khóc nấc lên làm tôi bàng hoàng . Tôi đi trở ngược lại và qua khung cửa mở, tôi thấy ba tôi cầm tay má tôi . Má tôi lấy khăn lau nước mắt:

–Con nó nhút nhát vì từ nhỏ đến giờ nó chỉ sống cạnh em . Gần như không tiếp xúc với những trẻ con khác . Vậy anh đừng làm cho con sợ . Anh phải thương con bằng tình thương của anh và thay em mà thương con bằng tình thương của người mẹ . Bổn phận thứ hai nặng hơn bổn phận thứ nhất .

Má tôi ngậm một chéo khăn mù-soa như để ngăn chận tiếng nấc .

Những tấm bìa cứng tỏ ra bất tiện mỗi khi tôi muốn nhìn lại gương mặt của một chữ . Cứ lật lên, bỏ xuống, loay hoay kiếm hoài . Đôi khi miếng bìa mang chữ cái tôi muốn kiếm lại không nằm trong “bộ bài” đó mà nằm lạc ở một nơi nào khác . Ngày nào cũng có dịp để lục tứ tung mền gối với mục đích tìm chữ . Rất tốn thì giờ . Bởi vì kiếm chữ thì không ra mà lại gặp toàn những thứ mình không định kiếm . Chẳng hạn hòn bi . Rõ ràng là hôm kia tôi ngồi bắn bi một mình ở ngoài mái hiên, thế mà buổi chiều ra mái hiên để tìm bắn tiếp thì một hòn biến đâu mất . Chạy kiếm sáng con mắt, chẳng chỗ nào có . Má tôi đưa hai đồng sai chị bếp ra hiệu sách mua cho tôi hòn bi khác . Bây giờ khi tìm chữ mà học thì lại thấy hòn bi đó nằm dưới tấm “ra” . Chẳng hạn tìm thấy cái móc tai . Hôm qua ba tôi ngứa tai, tìm cái móc tai nhưng không thấy, ông la vang cả nhà . Bây giờ không tìm thì nó lại nằm tô hô ra đó . Nhưng tôi không chịu nhặt đem đi cất ngay để trưa về đưa cho ba đâu . Tôi phải dùng nó để móc tai tôi cái đã . Công việc đó làm tôi say mê và khi tôi chịu rời nó ra thì bên phòng ăn đã nghe tiếng muổng nĩa rổn rảng .

Má tôi nhận thấy sự bất tiện của phương pháp học bài trên bìa cứng nên một hôm đưa tiền cho chị bếp sai ra hiệu sách mua cho tôi một cuốn vần .

A! Có cuốn sách mới chính hiệu là học trò đây! Tôi giành lấy quyển sách . Nhìn xem cái bìa thấy có vẽ hình hai đứa con nít đang lật mở cuốn sách . Tôi nói:

–Học cuốn sách phải cần có hai đứa không má ? Con học có một mình thì học sao được ?

–Má sẽ cùng học với con .

–Nhưng má đâu phải là con nít ? Đứa con gái này lớn hơn thằng kia một chút . Chắc là chị của thằng kia . Đáng lẽ má đẻ cho con một đứa chị gái như vậy .

Má gật gật đầu:

–Ừ . Đáng lẽ má đẻ cho con một đứa chị như vậy . Nhưng mà thôi, đưa sách đây má lật dạy cho con . Đây, cái lưỡi câu đây . Lưỡi câu là chữ gì ?

Tôi lật đật nói liền như sợ có ai tranh nói trước :

–Chữ i .

–Giỏi lắm . Chữ i dùng để viết đi học, đánh bi . Con coi hình vẽ thằng nhỏ đi học . Vài hôm nữa con cũng ôm cặp và xách ve mực đi học như nó vậy . Còn thằng này thì ngồi đánh bi . Hai đứa nhỏ này đang chạy thi .

Tôi vội lật qua trang sau để xem có món gì lạ trong đó . Tôi la to lên:

–A! Con cá! Con cá đang bơi .

–Tên con cá là gì con biết không ?

Tôi lắc đầu:

–Không .

–Cá thu . Con cá thu có chữ u .

Chữ o thì thật dễ nhận ra . Má tôi chỉ hình vẽ một chùm trái cây rồi hỏi:

–O chùm … chùm gì ?

Tôi nói liền:

–Chùm ruột .

Má bật cười:

–Chùm nho chớ sao lại chùm ruột ?

Tôi cười ồ theo . Tôi quen kêu chùm ruột chớ ít nói chùm nho . Trên lối đi ngoài vườn có đến ba, bốn cây chùm ruột . Mùa hè, trái lòng thòng từng chùm .

Má chỉ hình con ve sầu (dạy chữ e) rồi hỏi tôi con gì .

Tôi nhìn xuống hình, nhíu mày suy nghĩ một lát rồi nói :

–Con dán .

Má lại cười . Rõ ràng là sự học vẫn làm cho mẹ con tôi vui vẻ .

Có một trang vẽ làm cho má ủ dột nét mặt . Đó là trang dạy chữ ê vẽ hình một con dê mẹ cho dê con bú và con bò mẹ cho bò con bú . Con dê mẹ có bầu sữa thật lớn và đứng lom khom . Nó có một chùm râu nơi cằm nên không ra dáng một bà mẹ . Con bò cái trông dễ thương hơn . Nó quay lại nhìn con bú . Đôi con mắt trìu mến hiền từ, như mắt má tôi vẫn nhìn tôi khi tôi ngồi trong lòng má .

Học đến chữ q “con nhỏ quét nhà ” thì bịnh của má tôi phát nặng trở lại . Bác sĩ cấm không cho tôi được vào phòng má . Ba tôi âu lo, mỗi ngày gương mặt mỗi héo dần đi . Trong phòng má bước ra, ba đi thẫn thờ hoặc bước vội vã, và dường như ba không còn thấy sự hiện diện của tôi nữa, của chị bếp, của chị Năm giúp việc, của căn nhà, của mọi vật xung quanh . Có lẽ chỉ còn thấy sự hiện diện của cái cửa để bước ra, của cái bàn để đi tránh . Tôi buồn bã cô đơn, đem cuốn sách vần ra nhìn mặt chữ, nhìn hình vẽ . Lật xuôi lật ngược, đọc ngược đọc xuôi, nhưng cứ đến trang “con bé quét nhà” là dừng lại . Trang bên cạnh có vẽ con khỉ trèo cây . Chẳng biết chữ gì đó, đọc như thế nào và sự tích làm sao . Chắc phải hay lắm, thú vị lắm bởi một con khỉ thì không thể chán như hai trái đu đủ hay như cái lư đồng . Nhưng ai đọc cho tôi ? Ai giải thích cho tôi ? Thật ra thì ba tôi có thể chỉ cách đọc, chị bếp có thể chỉ cách đọc, nhưng tôi không muốn ai chen vào sự học của tôi để thay thế má tôi hết . Tôi chỉ tin ở má tôi thôi . Tôi chỉ an tâm thoải mái bên cạnh má tôi thôi . Đôi lúc ba tôi đi ngang cạnh tôi, đứng dừng lại, nhìn tôi ngồi trước trang sách . Tôi phải đọc vội những chữ u chữ e và đưa tay lật liền về những trang đầu sách . Khi vội quá không kịp lật ra trang trước thì tôi đưa bàn tay lại che cái hình con khỉ . Đáng lẽ ba tôi để ý tìm hiểu vì sao nhưng dáng ba mệt nhọc bơ phờ nên ba đứng dừng lại một chút rồi bỏ đi luôn . Tôi không muốn ba tôi nhìn đúng vào trang con khỉ trèo cây . Tôi sợ ba hỏi chữ gì rồi bày cho đọc luôn . Không! Tôi Để dành chữ đó cho má tôi . Tôi muốn nhìn đôi môi xinh xắn của má tôi đọc, ngón tay trắng thon của má tôi chỉ và tai tôi nghe giọng nói dịu dàng của má tôi phát âm tiếng đó . Tôi muốn má tôi kể cho tôi nghe về chuyện con khỉ đó như má kể chuyện con ve đi vay gạo của con kiến trong bài học chữ e, con tò vò nuôi con nhện trong bài học chữ t, đời sống của chúa sơn lâm, con sư tử giữa rừng Châu Phi trong bài học chữ s . Nhưng than ôi! Điều ao ước đòi hỏi của tôi không thể thực hiện đươc. Má tôi từ trần trong kỳ bệnh tái phát đó, má vĩnh viễn lìa bỏ tôi . Cuốn vần quốc ngữ chứng kiến sự ra đi đành đoạn của má . Nhìn trang bên này thì má tôi còn, nhìn trang bên kia thì má tôi mất . Con đường chỉ đóng ngăn cách hai trang như là con đường phân ranh giữa sự còn và sự mất, sự Sống và sự Chết của má tôi .

Má mất được hai tháng thì ba tôi dẫn tôi xuống trường Tiểu học Lai Đức xin cho tôi học lớp Năm . Cô giáo bắt dùng một cuốn sách vần khác không có vẽ hình con khỉ . Càng hay . Hình con khỉ nên chỉ để dành riêng cho má tôi và tôi thôi . Tôi không muốn ai dính dự vào đó hết . Hãy để cho nó giữ vẹn sự bí mật đối với tôi cũng như sự bí mật bao quanh má tôi từ khi má mất . Tôi không biết bây giờ má tôi ở đâu . Hài cốt thì chắc chắn là nằm ở nghĩa trang thành phố, dưới ngôi mộ đắp vun lên, xây đá, quét vôi trắng và phía trước có tấm bia ghi rõ tên má . Hàng chót của tấm bia ghi tên tôi, đứa con trai độc nhất của má mà người khắc bia ghi là: Trưởng nam phụng tự . Cái thân xác của má còn đó nhưng linh hồn thì phiêu lãng ở cõi nào ? Tôi không tin là cái linh hồn đó bị tiêu diệt đi được .

Từ ngày má mất, ba tôi dịu dàng với tôi nhiều hơn trước, mặc dù sự học của tôi không theo kịp nổi những đứa cùng tuổi . Ba tháng học của một thằng sáu tuổi kết quả bằng một năm học của một đứa lên bốn tuổi, điều má tôi nói có thể đúng, nhưng những đứa sáu tuổi lại không chịu ngừng học để đợi tôi, để cho tôi theo kịp . Chúng nó cứ học như điên và tôi phải vừa học theo vừa trả nợ liên miên . Trả nợ hồi lên bốn, trả nợ hồi lên năm, trả nợ hơn nửa năm lên sáu . Ba tôi khuyên:

–Con cứ yên tâm mà học . Chẳng cần phải vội chi . Lớp Năm, lớp Tư con thua chúng bạn nhưng lên lớp Ba, lớp Nhì con sẽ bằng, lên lớp Nhất con sẽ hơn . Con đường học vấn còn dài lắm .

Tôi nói thầm:

–Con cám ơn Ba, nhưng con sẽ cố gắng học để mau cho bằng chúng bạn . Con chỉ thua chúng bạn ở lớp Năm, bằng chúng bạn ở lớp Tư và lên lớp Ba con sẽ hơn . Con phải làm vui lòng má con, làm sao cho má khỏi phải hối hận là bởi má mà con đi học chậm trễ thua sút con người ta .

Tôi đã giữ lời hứa, dù đó là lời hứa âm thầm . Tôi đã can đảm ngồi lại bàn học lâu hơn những đứa bạn tôi, bị thúc đẩy bởi lòng yêu thương má tôi tha thiết không nguôi . Lâu lâu, tôi lén mở cuốn sách vần cũ, cuốn vần đầu tiên của chúng tôi . Hai đứa nhỏ vẫn cứ chạy thi hoài, chạy suốt đêm suốt ngày không biết mệt . Thằng nhỏ vẫn ngồi bắn bi, bắn bi mà y như cầm hòn bi dứ vào miệng con cá phi đang lừ mắt nhìn . Trang sau có thằng nằm ngủ miệng há ra để vớt những chữ o trên tay, và dưới tấm hình người ta biên là ngáy o o .

A! Cái chùm nho mà ngày xưa tôi kêu là chùm ruột! Từ ngày má mất, chị Năm và chị bếp tị nạnh nhau lười biếng tưới cây . Cây chùm ruột cạnh giếng thì còn tươi tốt trái bâu đầy cành, còn mấy cây chùm ruột đứng ở góc rào thì thiếu nước nên bị đói trông thấy . Lá mỏng đi và hay xếp quặp lại . Rầy bám đen thân cây như có ai rảy bột than lên đó .

Tôi lật thêm vài trang . Con dê mẹ còn đứng khom lưng, con bò mẹ vẫn quay mặt âu yếm nhìn con dê đang say sưa bú . Tôi nhớ đến nét mặt buồn của má tôi lần đầu tiên khi má lật trang này . Má ơi, hôm nay thì con biết tại sao má buồn như vậy . Má muốn đem má so với con bò mẹ đó . Con bò mẹ còn nhiều ngày tháng để âu yếm nhìn con nó, còn má thì sắp sửa phải vĩnh viễn xa con . Con nhớ buổi sáng đó má nhìn lâu bức hình rồi má thở dài . Má quay mặt đi nơi khác . Con hỏi má:

–Con bò con nó bú hết sữa thì lấy đâu để người ta làm sữa bò, hở má ?

Con đợi lâu không thấy má trả lời . Khi má quay lại thì con thấy mắt má đỏ và ươn ướt . Con còn dại không hiểu là má đang khóc . Con hỏi:

–Sao mắt má đỏ vậy má ?

Má nói:

–Có hột bụi nó rớt vô mắt má .

Má ơi, hôm nay coi lại hình con bò mà con nhớ má quá chừng . Con muốn được ngồi cạnh má và được má nhìn bằng đôi mắt âu yếm như đôi mắt của con bò cái nhìn con nó vậy .

Nghĩ tới đây, nước mắt tôi lặng lẽ trào ra . Tôi không muốn khóc mà! Tôi chỉ muốn nhớ tới má tôi thôi, nhớ đôi môi xinh xắn, ngón tay trắng thon và giọng nói dịu dàng . Tôi lật thêm vài trang . Đến trang con bé quét nhà và con khỉ trèo cây thì cơ hồ mắt tôi không còn nhìn rõ hình vẽ nữa . Màng nước mắt đã dày và những hình vẽ chập chờn rung rinh .

Mỗi lần mở cuốn vần ra coi, tôi sợ ba tôi bắt gặp . Tôi thường đợi lúc nào ba đi vắng . Tôi không muốn bị ba phê bình là đa cảm uỷ mị . Hồi má còn và thấy tôi lớn đầu mà còn quấn quít bên mẹ, ba tôi tỏ ý lo rằng sau này lớn lên tôi thiếu mạnh dạn can đảm . Chính vì lẽ đó mà mặc dù rất chìu chuộng má tôi, có nhiều lần ba tôi phải la lối gay gắt .

Quyển sách vần, tôi cất kỹ trong tủ sách của tôi . Hễ lật coi xong là len lén đem cất dưới đáy tủ . Thế nhưng có hôm vì bạn tới chơi bất ngờ hay có việc gì đó hốt nhiên xảy đến, tôi lật đật quên dẹp nó . Và rồi tôi cũng quên bẵng nó nữa . Tuổi nhỏ có trí nhớ rất dai nhưng dễ lơ đễnh lộn xộn . Khi mở cặp học bài, bỗng thấy cuốn vần nằm trong đó . Lần đầu tiên, tôi kêu chị bếp:

–Chị có bỏ quyển vần cũ trong cặp của em phải không ?

Chị lắc đầu:

–Không .

Tôi nói:

–Vậy thì chắc chị Năm .

Tôi kêu chị Năm và lặp lại câu hỏi . Chị Năm dài dòng hơn:

–Từ sáng đến giờ chị đâu có vô phòng em mà bỏ ? Ai bỏ đó chớ, chị bỏ thì chị nhận liền .

Chắc chị Năm nghi chị bếp bỏ . Và chắc chị chưa nghe rõ câu hỏi, chưa biết bỏ cái gì, bỏ vô đâu và bỏ như vậy thì có hại gì . Chắc chị đang nghĩ “kẻ đó” đã làm một điều lỗi, và chị muốn đổ riệt cho chị bếp . Tôi không muốn hỏi dài dòng thêm . Một cái chạng cây ổi nơi đó tôi ngồi núp dưới bóng lá để nghe con chim kêu chích chích đối với tôi thích thú hơn những chuyện đôi co .

Một lần sau lại cũng bỏ quên quyển vần và cũng lại tìm thấy trong cặp . Lần này tôi bận làm toán đố, không kịp điều tra .

Một buổi sáng nọ tôi đang mê ngủ thì chợt giật mình thức dậy . Nhìn ra cửa sổ thấy ánh sáng ban mai còn mờ mờ . Bên phòng ba tôi có tiếng lục đục . Ba có thói quen dậy sớm . Một lát sau có tiếng cửa mở nhẹ, rồi tiếng dép của ba đi về nhà sau . Chợt tôi nghe tiếng ba tôi hỏi:

–Đứa nào đem bỏ quyển vần Quốc Ngữ của em vô đây ?

Tôi lo quá khi nghe ba tôi nhắc đến quyển vần Quốc Ngữ . Đúng rồi, chiều qua tôi lật ra coi rồi bỏ quên không dẹp . Chắc chị bếp tánh hay làm ẩu, lấy đặt vào một nơi nào mà ba tôi không bằng lòng . Đặt lên đầu tủ lạnh, trên mặt tủ búp – phê chẳng hạn . Tính ba tôi sạch sẽ mà quyển vần thì lem luốc rách rưới .

Tiếng chị bếp:

–Dạ thưa ông, cháu đó .

–Quyển sách của em mà, sao đem quăng vô đây ?

–Dạ cháu thấy cuốn sách rách bìa, bỏ rớt dưới sàn gạch phòng ăn . Cháu tưởng em nó bỏ . Cháu lượm quăng vô giỏ để hồi nào nhen lửa . Cuốn sách vần cũ mà, thưa ông .

–Ừ, cuốn vần cũ chớ sao ?

–Em học lên tới lớp Nhất rồi, còn dùng cuốn vần đó chi nữa .

Một khoảng im lặng hơi dài . Tôi nghĩ rằng ba tôi bỏ đi chỗ khác không trả lời chị bếp . Nhưng không . Vẫn nghe tiếng ông nói ở chỗ cũ:

–Em nó giữ để lâu lâu nó mở ra coi . Kỷ niệm của má nó đó mà . Lần sau hễ thấy em nó bỏ lạc chỗ nào thì nhớ lượm lên đem bỏ vô cặp cho em .

–Dạ .

Tiếng dép ba tôi đi lên nhà trên . Tay nắm cửa phòng tôi quay nhè nhẹ và cửa phòng mở nhè nhẹ . Tôi vội vàng nhắm mắt giả vờ ngủ . Ba tôi lại gần giường đúng nhìn tôi giây lâu rồi nhẹ mở cái cặp của tôi đặt quyển vần vào trong . Ông đóng cặp lại rồi rón rén bước ra khỏi phòng . Cánh cửa nhẹ nhàng đóng lại sau lưng .

Tôi cảm động muốn kêu lên: “Má ơi! Ba không nghiêm khắc với con như má hằng lo sợ hồi má còn sống . Ba uốn nắn con nhẹ lắm, nhẹ hơn uốn cây măng non . Ba quý trọng những giờ phút quấn quít cạnh nhau của mẹ con ta, hồi xưa và cả bây giờ và mãi mãi sau này nữa, má có biết không ?” Tôi rất yên tâm bởi không bị cản trở trong việc thỉnh thoảng ngồi nhớ má tôi, nhớ những ngày cũ êm đềm cạnh má, sự hồi tưởng bâng khuâng mà khi lớn lên tôi coi như những cuộc hành hương lặng lẽ về Quá Khứ có má hiện diện, về Đất Thánh của tâm hồn tôi .

Võ Hồng
(Nhân mùa Bông Hồng Cài Áo – Vu Lan 1969)

MỘT BÔNG HỒNG CHO CHA

DSC00443

Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gủi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần.
Con người sau này thì không. Cha săn sóc mẹ khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay mẹ pha bình sữa, giặt giũ tã lót khi cha mẹ cùng nghèo. Khi cúng đầy tháng, cha châm hương đốt đèn thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khắp thần linh phù hộ cho con mau ăn, chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng đại nhất trong đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà tin, mà khấn, mà cầu… cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận.
Con lên hai tháng, ba tháng, nằm ngửa huơ tay huơ chân, mở to đôi mắt ngơ ngác, xoay đầu nhìn vu vơ sang trái sang phải. Rồi con biết hé miệng cười, cái cười vô nghĩa nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là nụ cười của con làm nở những nụ cười xung quanh, làm rạng rở những khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi trán. Lần lượt biết lật, biết bò… rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn ràng đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha.
Cha được phân công ngồi bón cho con những muỗng cơm đầu tiên, cha phải la: “Ùi ùi! Coi chừng con chuột kìa. Ăn mau chớ nó ăn hết,” rồi thừa lúc con đưa mắt tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng. Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành nhảm nhí đáng thương. Con mới mở miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã vội vàng ru, ru cái kiểu nửa ngâm, nửa hát vụng về và chọn những câu nhảm nhí phù hợp với trạng thái tâm hồn của cha lúc đó.
À ơi, con gà cục tác lá chanh…
Có thể cha giỏi nhạc, cha hát hay nhưng cha ngượng không dám nghiêm trang cất giọng sợ người khác nghe biết cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả chăng mặt con ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để làm chi? Cha phải ngây ngô theo, con duỗi chân thì cha nói: “Chà! Bộ định về thăm ngoại hả?” Rờ cái đít nung núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng: “À, con heo ú đây? Ai ra mua!” Quả là những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng phải chợt dừng lại. Sợ người khác nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ rằng mình không tầm thường. Khi có học, cha thường phải tạo vẻ mặt nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là nghiêm đường. Hai mươi tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh lùng của một ông quan. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn, năm tuổi đi chơi nghêu ngao khắp xóm, bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên cha con cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoai. Xã hội hôm nay trí thức hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai lo phần nấy, rốt cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn quýt cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ: quá bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn là bắt đầu xa cha. Từ đó cha chỉ đóng vai nguồn cung cấp tiền cho con ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại đưa lời chỉ bảo khuyên răn. Tất cả đều là lý trí lạnh lùng.
Chớ mẹ thì không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra: mẹ mang nặng đẻ đau, vạch vú cho bú, mẹ bồng ru ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng tập đi. Khỏi cần lý luận, khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi nhỏ mình nằm như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và me lo giặt, lo thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thúi. Với cha thì phải suy nghĩ mới thấy, bởi mọi sự thương yêu chỉ hiện rõ khi mình còn nhỏ. Bây giờ nếu may mà biết được là nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha nào đó đang thương yêu săn sóc đứa con nhỏ của họ.
Tìm trong văn chương thì thường chỉ gặp loại:
Công cha như núi Thái Sơn
Núi này nhất định là phải lớn lắm, và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi một nét cảm động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách, gợi sự tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản nhiên như đọc khẩu hiệu.
Người cha quen thuộc, cha của Mẫn Tử Khiên, thì được vẽ là một người biết làm bổn phận: bổn phận cưới vợ kế khi vợ cả chết và bổn phận đuổi kế thiếp vì Mẫn Tử Khiên bị ngược đãi. Mà cũng ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo rách run rẩy đẩy xe cho mình.
Người cha trong cuốn Luân Lý giáo khoa thư dễ thương hơn. Truyện kể: Mẹ đi chợ mua về cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng nắng nôi, liền cầm trái cam chay ra đồng tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi một vòng, dài và rộng hơn sợi dây tình cả con thương cha, rộng gấp ba lần vì thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương vợ.
Cổ văn thường nặng nghĩa lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yểm, tể tướng đời Tống, sai con là Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Ðến Ðan Dương, Nhân gặp Thạch Man Khanh là bạn cũ của cha đang khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập. Nhân đem tặng hết năm trăm thùng thóc. Lại nghe hai cô gái đến tuổi mà đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cho cha nghe. Nghe tới chỗ hai cô gái của bạn ế chồng. Phạm liền ngắt lời hỏi: “Sao con không cho luôn cái thuyền?”
Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của mẹ. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó làm mệt mỏi gân cốt và trí óc cha. Về đến nhà tìm sự yên nghỉ, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài xã hội về theo. Con phải len lén bỏ ra sau nhà, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của mỉnh. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy êm đềm. Ai làm ra tiền không cần biết, chỉ muốn nhai viên kẹo, muốn cắn trái ổi là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới… thảy thảy mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên Lôi; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát.
Không, cha không muốn vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công mỗi người mỗi việc. Mẹ như cọng mảnh, nhánh thấp cành gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như thân vững chắc, bám rễ thật chặt, hút nhựa nuôi lá, nuôi hoa, nuôi trái. Thân chĩa từng cành lớn đâm ngang, thân vươn những nhánh cao phủ trên đầu che mưa che nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lờn mẹ thì cha cần phải nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạt lòng, cha phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Ði vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại cha, tránh cha rồi xa cha là vậy.
Nhưng đừng đơn giản bất công, quên cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo thành bội bạc. Hãy nhìn những đứa ba tuổi làm nũng với cha. Bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt phải dắt ra cổng đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới ngủ. Lên tám, lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về. Trên đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn mặt tầm thường hay xấu xí.
Tuổi già chiếc bóng, mẹ dễ sống theo con, dâu, rể. Lúc thúc sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn mình theo nếp sống, mềm mỏng ung dung như nước. Thường cha thì không, cha ít cam khuất phục rể dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cố tránh trước cái giả bộ nặng tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể. Mẹ biết ý nên khi nhắm mắt vĩnh biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò: “Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu.”
Phải, tuổi càng cao, khổ càng chồng chất, dâu rể không ăn hiếp thì có con muỗi, con kiến ăn hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đập đấy, chớ mắt mờ đâu còn thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm Bắc Ðẩu mà mới ngày nào lững thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con nhìn.
Con nay đang tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con, bè bạn, việc báo hiếu cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hững hờ chểnh mảng thì thiếu chi lý lẽ dẫn ra: “Ðược vậy còn đòi gì nữa?… Trời ơi, thì giờ đâu!”
Phải thì giờ đâu? Người xưa hay nhắc phận con kíp lo báo hiếu bởi “tử dục dưỡng nhi thân bất đãi” con muốn nuôi mà cha mẹ không chờ.
Khi con ở tuổi trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng thường rệu rã. Dễ hiểu thôi mà: một đồ vật dùng đã sáu chục năm rồi thì dẫu lạc quan đến đâu cũng chỉ có thể tạm nói: “Cũng còn khá.” Cha thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Ðôi hồi bỗng mệt vô cớ. Nhưng cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn cần thiết, êm ái cho con nữa như khi con còn nhỏ. Bây giờ, những câu nói đều quấy rầy con. Ðành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường.
Sách xưa dạy: “Hôn định thần tỉnh,” ta dịch: “Tối viếng sớm thăm,” lạt lẽo nghèo nàn nếu không có người giảng cụ thể rằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn tay con, trước và sau giấc ngủ. Ðã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để khép bớt cánh cửa, để lấy cái mền, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy, trong mình có gì thay đổi, đó là lúc con cần hỏi han mẹ cha mới dám giãi bày.
Gần như mọi người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gửi con, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt.
Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thể đôi tháng gởi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dòng lược kể một chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần: “Ði đâu đó? Mạnh giỏi?” Sinh nhật cha, tặng một cành hoa. Nếu ở thành phố xa, hai ba đứa con gởi về hai, ba bức điện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vui tinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương?
Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ hội Bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Ðể tỏ lòng thương nghĩ đến cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn: nơ xanh. Cha mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha me song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn, cha mất: hoa hồng, nơ trắng. Mẹ mất, cha còn: hoa trắng, nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng, nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình.
Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường cùng khóc òa theo.
Cha cũng như mẹ, rồi một ngày: “Ðỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc” (Cha mẹ mãn phần) nên mỗi người con đều phải vội vàng. Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha thương con là “cho” chớ không phải “cho vay” để có thể gọi là trả đủ.

VÕ HỒNG