NGƯỜI LẤY MA

 

thaiquocmuu

Khách ngồi trong tửu điếm, nhìn những hạt mưa cuối mùa đầu ngày lất phất. Gió biển từng đợt ùa vào, se lạnh. Chén rượu Mao Đài không đủ ấm lòng kẻ tha hương. Khách chạnh lòng nhớ quê. Nhìn hàng thông bên đường ngả nghiêng trước gió, đầm mình trong mưa, như đời phiêu lãng của mình trước bao giông tố cuộc đời.

Bên kia đường, cổ miếu Quan Vân Trường, một ngôi miếu do người Trung Hoa đến đây từ thuở xa xưa thiết lập, buồn bã, im lìm như đầy sức thi gan cùng tuế nguyệt. Đang đắm chìm trong bao nỗi suy tư. Bỗng khách chau mày thảng thốt:

– Ha! Hảo công phu!

Một người mình trần, quần cụt, gầy như que, dưới bụi mưa trong cái lạnh giá buốt của nền trời xám xịt mà khách vẫn nhìn rõ được hai dãy xương sườn lộm cộm được đỡ bằng đôi chân khẳng khiu như hai chiếc gậy! Thế mà hắn ta nhún người một cái, nhảy phóc lên tận mái miếu thờ, lại thu người phóng xuống sân. Rồi phóng lên nhảy xuống. Thao tác nhẹ nhàng như nhảy qua con mương nhỏ.

Trời mưa, ế khách, chủ quán bèn lân la bên khách tìm chuyện cầu vui. Thấy khách kinh ngạc, chủ quán nói:

– Lão ta bị quỷ nhập đó.

– Quỷ nhập?

– Năm xưa tại Kình Ngư Thôn nầy, công tử đã đến nhà của Lục lão uống rượu rồi mà!

– Đúng vậy, thế nào?

Quán chỉ tay về miếu, “tên quỷ nhập” không còn thi thố thuật phi thân nữa, mà ngồi ủ rũ, dựa cột thềm thở dốc, rồi lại gục đầu như gà bị mưa. Quán nói:

– Lục lão đấy!

– Lục lão? Nguyên lai thế nào mà lại tồi tệ như thế nầy?

Khách không tưởng nổi, một người tuổi mới ngũ tuần, da dẻ hồng hào, trông bề quắc thước. Thế mà chỉ một năm sau…

Quán kể:

– Như công tử biết đó, Lục lão là một trong những người cư trú lâu đời của Kình Ngư Thôn nầy. Có con trai lớn ở kinh thành, năm tháng Lục lão sống cùng vợ và đứa con gái út với mảnh vườn, thửa ruộng. Gia nghiệp “ngó lên thì chẳng bằng ai…”. Nhưng có cây có trái, ra công lam lũ nên ngày ngày cũng được no cơm ấm cật.

Một buổi, lão ra đồng đắp bao ngạn, nắng chưa nóng lưng, bỗng phát hiện dưới lớp bùn hai vật tròn tròn như hai trái bưởi. Lão ta bèn rửa sạch, thì ra hai cái đầu lâu! Chẳng chút kinh hoàng, lão khấn:

– “Hai vị nằm đây tự bao giờ mà khiến hôm nay tôi mới được gặp. Nếu không duyên là gì? Thôi để tôi tìm cho đầy đủ xương cốt rồi an táng quý vị sau”.

Thế rồi lão ta cứ đào thêm xuống, cứ nới thêm ra để tìm cho đủ mấy trăm lóng xương còn lại. Huyệt đã rộng thành ao. Dù những len đất xắn lên lão đều bóp vụn, cốt mong tìm được vài đốt xương tàn. Nhưng lão tuyệt vọng!

Lũ chim chiều theo nắng xuống, gọi đàn. Tứ chi rũ rượi mỏi nhừ, lão khô cả cổ, quờ quạng tìm bình nước, vô tình cầm nhầm chiếc đầu lâu! Nó nhìn lão cười, hàm răng trắng toát nằm trong cái miệng rộng hoác, trống phọc, đôi mắt sâu thăm thẳm. Lão khấn:

– “Xương cốt nhị vị tôi đã cố tìm, nhưng tiếc rằng không thể đào hết cả mảnh ruộng nầy! Thôi thì lòng thành hơn đi chùa bái Phật! Cung thỉnh hai vị theo tôi về tệ xá để tiện việc khói hương”.

Thế là lão để hai cái đầu lâu vào giỏ cơm, mang về lập trang thờ.

Hơn tuần sau, đang mơ màng thì bên tai lão vang tiếng:

– “Hừ lòng tốt của ngươi ta chấp nhận, nhưng ngươi mang ta về lại cho Quan Tướng Quân trông thấy. Mười ngày nay ta không dám vào nhà, chịu lạnh chịu đói ngươi biết không? Hôm nay Quan Tướng Quân đi họp với chư thần, qua Xuân mới về. Nhân dịp nầy, ngươi hãy dựng cho ta cái lều, xa hẳn ánh sáng của Thanh Long Đao. Yên nơi yên chỗ, ta sẽ phù hộ cho ngươi thành đại phú, ngược lại, xương một nơi, hồn một nẻo không thể nương nhau. Thà ngươi vứt ta vào chốn bùn lầy còn được tự do hơn”.

Lục lão muốn nói ra nhưng cổ họng như bị ai chận lại, ú ớ chẳng ra lời. Giọng nói kia trở nên sắc bén như từng lát dao khứa thịt:

– “Hay ngươi đem ta vào để Quan Tướng Quân xẻ thịt?”

Phút kinh hoàng đã qua. Lục lão nén bực tức:

– “Ô hay! chẳng ân thì chớ, lại còn giở trò quỷ, định hù ta sao?”

– “Rõ ràng ngôn cách của kẻ trượng phu! Được lắm! Bây giờ nghe ta hỏi, “Ngươi định thế nào?”

– “Vì lòng nhân ái, ngày mai ta sẽ cưa cây, chầm lá, cho ngươi yên chỗ một bề, nhưng ngươi nhớ rằng…”

Hồn ma cười, cướp lời lão:

– “Nhớ rằng vì lòng nhân ái chớ không phải vì khiếp sợ đúng không? Tốt lắm! Nhưng hồn phách tinh anh không thể nương vào nơi tạm bợ tồi tàn. Ngươi hãy xây cho ta một am viên chu vi rộng 36 trượng. Trong có bệ thờ Nhất, Nhị Nương, tức chị em ta, ngoài có nơi nương cho các đẳng linh hồn. Ngày đêm đèn hương không dứt, để ta được hưởng dương quang. Đúng hơn nghìn ngày, ngươi tất thấy chuyện lạ. Khoan vội nghĩ xa! Ta chẳng hề quá đáng! Đáp lại, ngươi cũng được vàng rồng trăm dật, ngựa đẹp trăm xe, tôi tớ đầy nhà, cổng cao cửa rộng. Hãy nghe ta bảo nhỏ nầy…”

Rồi bên tai Lục lão nghe tiếng thì thào. Mắt lão sáng lên, gật đầu lia lịa…

Vài hôm sau, người dân Kinh Ngư Thôn ai cũng lấy làm lạ vì một hiện tượng không ngờ: Hàng trăm phu thợ ngày đêm thi công trên mảnh vườn Lục lão. Và sau đó, một gia trang đồ sộ không thua gì dinh cơ quan huyện. Có kiểng có vườn, giả sơn giả thủy, hồ cá ao sen… Duy có một điều kỳ quái là gần đó có một cái am thờ… hai chiếc sọ khô!

Chủ quán cười tinh quái:

– Lại làm đám cưới với hai chiếc sọ khô nữa chứ!

Khách:

– Đám cưới? Là thế nào?

– Thì… đám cưới chứ sao nữa…

– Quán có dự không?

– Hân hạnh được! Lão ta mời cả thôn nầy. Thật là vui vẻ!

– Họ dám dự à?

– Việc gì không dám? Có chẳng dám không dự thì có. Công tử đừng quên, uy thế Lục lão bấy giờ quan huyện còn phải kiêng dè, huống chi là đám dân ngu nầy? Điều đáng hoan nghênh là lão cấm mang quà cáp đến, tham dự là tốt rồi. Đám ngu dân nầy lâu lâu được đầy bụng một lần dại gì không đến? Và tiếc gì lời chúc tụng đầu môi?

– Còn cô dâu?

– Nào ai thấy mặt mũi gì đâu! Đã bảo quỷ ma mà! Xong tiệc, kẻ bàn ra người tán vào, nhưng rồi chuyện thị phi cũng lãng dần theo năm tháng.

***
Hôm sau, khách đến thăm nhà họ Lục, khác hẳn năm xưa như đen với trắng. Vạn phần không còn lại chút gì của nền đất cũ. Lục bà tuy áo gấm xênh xang, nhưng cung cách nông dân, vẻ chân quê vẫn còn lộ nét. Bà tiếp người quen cũ với nét niềm nở ban sơ, mà khách vẫn dễ dàng bắt gặp trên gương mặt phúc hậu ấy đượm nét ưu phiền.

Trên bộ ván cẩn ngà, Lục lão như bộ xương bất động, lâu lâu đưa đôi mắt mất hẳn thần khí nhìn khách một cách thờ ơ lơ đãng. Khách đã biết chuyện gì xảy ra với lão, trong khi Lục bà ái ngại:

– Xin công tữ miễn chấp cho. Lão nhà tôi bị bệnh. Số là… ôi! thật là oan nghiệt mà…!

Lục bà thuật lại cho khách nghe, tương tự như chủ quán, song còn đôi điều mà chỉ có Lục bà mới biết được. Khi lập am xong, một đêm Lục lão đang ngon giấc thì bị lay dậy. Lão bừng mắt, trước mặt là hai nữ nhân cốt cách khác phàm. Một người nói:

– “Đa tạ lòng tốt của ngươi, nhưng phận gái đã bị ngươi ẵm bồng, ngươi không cưới chẳng được đâu”.

Ngỡ trong mộng, Lục lão nắm thử bàn tay người nói chuyện, lạnh ngắt như băng. Lão kinh hoàng rút nhẹ tay về, run lập cập vì biết mình đang đối diện với ai!

– “Ma!”

– “Ma có gì đáng sợ, chẳng qua là âm cảnh nặng nề thiếu hẳn dương khí nên lạnh lẽo đó thôi. Cũng như người trần gian, khi vầng dương tắt, gió Bấc thổi về thì thịt da tê tái. Có chi là lạ? Sống là người, chết thành ma, ma chết thành quỷ, quỷ chết thành yêu tinh, việc đó như đường độc đạo, ai cũng phải đi, đi tất phải đến. Có chi mà ngại? Ngươi thấy ma hại người bao giờ chưa mà ngươi lại sợ? Còn hàng ngày ngươi thấy người hại người, cớ sao ngươi vẫn chung sống? Quan trấn áp dân, cướp của cải người, giàu ức nghèo, mạnh hiếp yếu, khôn lừa ngu làm cho cội gốc của người đời chao đảo. Cớ sao ngươi không sợ? Thế gian những chuyện vợ dối chồng, em dối anh, trò phản thầy, bạn bè, đồng hội đồng thuyền phản nhau, đâm lén nhau, tranh nhau từng miếng ăn cái uống, giành giựt nhau từng chút danh hời. Cớ sao ngươi không dè? Cũng chẳng thiếu chi những kẻ cướp giựt của người, chiếm đoạt vợ người, gạt gẫm thiên hạ, chém giết lẫn nhau, tranh giành áo cơm dơ bẩn, làm cho máu ruột phân ly, nhân tình phân tán. Cớ sao ngươi không ngại? Ta nghĩ lũ người kia không những đáng sợ mà còn đáng khinh nữa! Còn chị em ta đây, đường đường là cành vàng lá ngọc, đi có kẻ hầu, ngồi có kẻ hạ, chải tóc có người cầm lược, cài đầu có kẻ giắt trâm, mười tám năm khuê trung khép kín, chưa hề biết mặt nam nhân. Thế mà cũng tại con người giành quyền đoạt lợi, binh lửa nổi lên. Lũ giặc gặp chị em ta như cáo gặp gà, như hùm gặp thỏ. Và chúng ta tử tiết để bảo toàn tiết hạnh giá trong. Người xưa đã dạy “Nam nữ thọ thọ bất tương thân”. Nay ngươi đã ôm ta vào lòng, ấp ta vào ngực, nếu không là chồng vợ với chị em ta thì điều đó có đúng không?”

Lục lão nghe cũng có lý, chín mười phần sợ chỉ còn một hai. Đang trù trừ, lại nghe giọng cương quyết:

– “Chị em ta dòng dõi họ Tô, tổ tiên từ phương Bắc, theo Mạc Tướng Quân (*) xuôi Nam lánh nạn. Ta là Ngọc Phượng, em ta là Bích Phượng. Người đương thời gọi là “Song Phượng Bảo Châu”. Nay ngươi ưng ai cứ nói”.

Lục lão ái ngại:

– “Ta đã già rồi!…”

– “Điều đó không phải để ngươi lo”.

Mành mành lay nhẹ, hương thơm quyện ngợp căn phòng. Bấy giờ Lục lão mới dám nhìn thẳng vào mặt hai người: “Rõ ràng là hai thiếu nữ bội phần xinh đẹp, mỗi vẻ mỗi người”. Lục lão cảm thấy tuổi xuân trở lại, nên đáp:

– “Ta ưng cả hai”.

“Song Phượng Bảo Châu” nhìn nhau, nét thẹn thuồng hiện trên đôi má. Cô chị nói:

– “Cái lão già nầy tham lam quá, không sợ chị em ta phanh thây rỉa thịt sao?”

Khách hỏi:

– Vì cớ gì Lục ông lại ra nông nỗi nầy?

Lục bà não nùng:

– Chuyện còn dài. Sau đám cưới, ông nhà tôi dọn về sau am, xây phòng hoa chúc, vui cuộc mây mưa, không thiết gì đến cơm nước, hình vóc ngày càng tồi tệ, tâm trí ngày càng lú lẫn, biếng nói biếng cười, không nhận được người quen kẻ lạ.

***

Năm sau, có dịp qua Kình Ngư Thôn, ghé thăm Lục lão. Khách mặc nhiên thấy Lục lão đầu cạo sạch tóc, mặc áo già lam, sắc mặt hồng hào, dung quang tươi nhuận, chấp tay chào khách:

– A Di Đà Phật! Mừng công tử giá lâm!

Lục bà giải thích:

– Sau lần công từ viếng thăm. Lão nhà tôi càng ngày càng tệ, chúng tôi mời bao nhiêu đạo sĩ đến cúng chữa nhưng vô hiệu. Bỗng một hôm có vị đại sư đường đột vào nhà nói rằng:

– “Bần tăng không màng ngàn dặm đến đây vì thấy được yêu khí ngất trời. E rằng nếu chậm…”.

Đại sư chưa dứt lời, bỗng lão nhà tôi từ ngoài chạy vào phục đầu dưới đất, lạy như tế sao, sưng vù cả trán:

– “Sư phụ xót thương tình nghĩa vợ chồng mà đừng hành tội”.

Vị đại sư cười hiền hòa, nhưng giọng đầy cương quyết:

– “Ta vì đức hiếu sinh nên không cho ngươi chọn lựa con đường nào khác ngoài việc rũ bỏ nợ trần theo ta về sơn am tu luyện. Nghiệt súc! Không thu mình vào đây còn đợi chừng nào?”

Nắp hồ lô đậy lại, xem dễ dàng như một trò chơi, trong khi lão nhà tôi đang nằm bất động dưới nền. Đại sư nói:

– “Không sao! Vì hoang dâm vô độ nên thần kiệt khí hư, lại bị ma đạo hoành hành nên trí cùng lực tận, không chữa không xong. Đây là “Tái Sinh Phục Thần Dưỡng Khí Đơn”, hãy nhận và kiếp cho uống ngay. Còn đây, “Trấn Quỷ Phù”, hãy dán trước cổng ra vào, tà ma phải lánh xa. Nhân đây ta cũng chúc mừng: Vị thí chủ nầy ngày sau sẽ giác ngộ, phổ độ chúng sanh, nhờ lòng nhân của lão ấy”.

Đại sư nói xong, chỉ hai bước rời khỏi nhà, thoắt cái mất dạng.

***

Vị khách là La công tử, con của Lại Bộ Thượng Thư. Tuy dòng dõi trâm anh thế phiệt, nhưng không thích ràng chân nơi cửa ngọc lầu vàng. Tánh thích phiêu lưu lang bạc, khí phách mã thượng giang hồ.

Mùa Xuân năm qua, La công tử đến thăm ta, nằm trên sân thượng ngắm trăng, gác chân lên nhau rồi kể lại chuyện nầy. Đoạn cười nói:

– Thế gian không thiếu những kẻ lòng lang dạ sói, háo danh cầu lợi, mê sắc dục, làm điêu vô sỉ, bán đứng lương tâm, cậy quyền thế, đàn áp dân lành, làm cho thế sự đảo điên, nhân tình ta thán, oán ngút trời xanh, hận thâm địa ngục. Nghĩ mà phát ngán. Như ta đây, đầu đội trời, chân đạp đất; danh chẳng ham, lợi chẳng màng; chỉ cần ngày hai bữa. Phù điều phải, diệt điều trái; xa lánh bọn gian tà. gần bậc cao minh; học cái hay, bỏ cái dở; luyện thần trong sáng, giữ lòng thanh bạch; ưu tư thế sự, nặng tình nước non; bốn phương làm bạn, tám cõi là nhà; đi để danh thơm, ở để tiếng lành; lánh điều ác, làm điều thiện; vì đại nghĩa dám nói điều ngay, vì dân tộc cứ thẳng đường chính mà tiến; sống cho đời, chết vì đất nước. Thân xác hiên ngang sừng sững như bá như tòng, chí cao ý cả như trời cao biển rộng… Sá gì chuyện tử sinh, sợ gì lời dị nghị, đàm tiếu của phường vô liêm sĩ, của bọn tị hiềm, của loài ung nhọt…

Chuyện ta kể, đầy tính chất hoang đường, thế gian hi hữu, nhưng ngươi đã nghe thì cứ nghĩ rồi viết lại cho hậu thế xem…vui.

Thái Quốc Mưu
___________

Ghi chú: (*) Mạc Cửu

BÊN BỜ VỰC THẲM

thaiquocmuu

Trước kia Ba tôi là một bác sĩ rất nổi tiếng ở miền Tây Đô. Mẹ tôi mất khi tôi mới vào bậc trung học. Ba rất thương tôi. Sau khi tôi đậu xong bằng Tú Tài toàn phần, Ba khuyên tôi nên thi vào Y khoa để nối tiếp nghề nghiệp của ông. Nhưng tôi không đồng ý, vì tính tôi rất khiếp đảm khi thấy máu và xác người chết. Trong tôi có hai chọn lựa, ngành mô phạm hoặc luật.

Nhưng gia đình tôi không có truyền thống là nghề gõ đầu trẻ. Bác tôi là một luật sư tên tuổi ở Sàigòn, ông khuyên tôi nếu không nối nghiệp cha thì theo nghề bác. Tôi ghi danh vào đại học Luật Khoa. Trong thời gian học luật tôi sống với gia đình Bác tôi ở Sàigòn.

Có lẽ trong tôi có truyền thống ngành luật, dường như như vậy, vì ngoài bác tôi, ông Nội tôi cũng là luật sư, chú tôi, cô tôi đều là những luật gia tên tuổi. Theo ngành luật đối với tôi rất hữu lý, thích hợp và đủ điều kiện. Tôi có mộng vào ngành ngoại giao nên chọn ban Công Pháp Quốc Tế. Thời gian nầy tôi có người yêu. Thọ, hơn tôi tám tuổi, tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, ngạch Đốc Sự hạng hai, khi anh ra trường với điểm tối ưu. Sự nghiệp của anh khởi đầu bằng chức vụ Trưởng Ty Nội An ở Tòa Hành Chánh Gia Định. Hiện đang chuẩn bị lên đường nhận chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh ở một tỉnh cách Sàigòn chưa đầy bốn mươi cây số.

Ngoại trừ bị mất Mẹ khi còn non dại, nhưng bù lại trong cuộc sống, tôi luôn luôn có nhiều may mắn và luôn có những hình ảnh tốt đẹp trong đời tôi. Ba rất cưng yêu, Nội hết lòng thương mến. Các bác, chú, cô đều tỏ ra nuông chiều săn sóc. “Nó sớm mất Mẹ mà, mình hãy đổ tình thương vào nó!” Những người thân yêu của tôi thường bảo nhau như thế!

Tôi kể rõ như vậy, không có ý đề cao gia thế của mình, nhưng để quý độc giả biết và khi đọc tiếp phần sau dễ dàng cảm thông cho tôi.

Vốn sinh ra trong một gia đình thuộc dòng tộc thượng lưu, tôi được dạy dỗ, giáo dục chu đáo và cho học hành rất đàng hoàng. Cá nhân tôi cũng là thành phần trí thức trẻ. Thế nhưng, vì sao tôi có thể đi ngược lại những gì đã được dạy dỗ, giáo huấn…? Và vì sao tôi bị sa vào con đường đứng bên bờ vực?

Cuộc sống đầm ấm và hạnh phúc của tôi êm đềm trôi theo năm tháng, tưởng chừng không gì thay đổi được cho đến khi tôi vừa lấy xong chứng chỉ thứ hai, thì biến cố tháng Tư năm 1975 xảy đến. Trong thời gian hỗn độn ấy, vì đường sá cách trở. Ba tôi không kịp đón tôi về Cần Thơ. Ông vượt biên và mất tích. Cô, chú tôi ra đi cũng vắng bặt tăm hơi. Nội tôi buồn rầu rồi cũng qua đời. Bác tôi bị tập trung cải tạo. Tài sản bị tịch thu. Bác gái cùng các anh chị chú bác với tôi và cả tôi, tất cả đều bị tống xuất khỏi ngôi biệt thự sang trọng thân thương quen thuộc được tạo dựng bằng tài năng, trí óc và sức lực của bác tôi trên đường Phan Thanh Giản. Riêng Thọ, anh cũng cùng chung số phận với hơn triệu người thuộc các thành phần Quân, Công, Cán, Chánh trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa vừa bị mai một. Anh bị đưa ra Bắc.

Đời tôi đang từ đỉnh cao nhất, bỗng nhiên hụt hẫng rơi xuống tận cùng đáy vực. Song, tôi vẫn có niềm tin và hy vọng.

Mười sáu năm sau, Thọ được trả tự do, chúng tôi làm lễ thành hôn trong hoàn cảnh nghèo nàn. Khi ấy tóc hoa râm đã điểm trên mái đầu Thọ, và tôi đang ở vào lứa tuổi xấp xỉ bốn mươi. Trong đêm động phòng Thọ không ngờ, qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm, khổ đau, chờ đợi tôi vẫn giữ được “cái nghìn vàng” của người con gái để hiến dâng cho chồng.

Mười mấy năm trong trại tập trung cải tạo trên rừng sâu nước độc, thể xác Thọ đã bị mất đi nhiều phần sinh lực, anh gầy còm, xanh xao. Những khi trái trời, trở gió anh thường hay bị đau nhức hoặc ho. Đôi khi ho, anh nhổ ra cả bụm máu tươi.

Chức danh Trưởng Ty Nội An, ban đầu đối người chiến thắng nó ghê tởm và khủng khiếp hơn nhiều so với chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh. Anh “đền tội” lâu năm chỉ vì chức danh nghe qua có vẻ là kẻ đương đầu nguy hiểm.

Năm sau tôi cấn thai, cũng là lúc chúng tôi sắp sửa lên đường sang định cư trên đất nước Hoa Kỳ. Đến nơi, sau thời gian ngắn ổn định những nhu cầu cần thiết, Thọ vui vẻ cơm gói ngày ngày đến hãng cặm cụi làm việc. Tôi sắp ngày sinh nở. Thọ không cho tìm việc làm.

Thời gian cứ thế trôi qua, thoáng chốc đã bốn năm trên xứ người. Giờ nầy chúng tôi đã có hai cháu khá xinh. Tôi vẫn ở nhà chăm sóc con, thêm việc bằng cách nhận giữ thêm vài trẻ.

Vì nhu cầu của hãng, trong gần hai năm qua, Thọ bị chuyển từ ca ngày sang ca đêm. Anh làm từ tám giờ sáng đến gần năm giờ sáng mới về đến nhà. Bởi thế, sức khỏe anh ngày càng suy giảm, tôi khuyên anh nên xin đổi lại làm ca ngày như trước, nếu không được thì nên tìm hãng khác, nhưng anh cương quyết giữ nơi làm cũ. Lý do đơn giản là gần năm năm làm việc, đồng lương của anh bây giờ đã trên mười lăm đồng một giờ, trong khi nếu xin vào hãng mới, lại bắt đầu từ đồng tiền thấp hơn.

Do giờ giấc làm việc khắc nghiệt của hãng, nên Thọ dường như quá mệt mỏi, anh không còn thời gian và nghĩ đến việc chăm sóc mẹ con tôi. Phần tôi, tối ngày bận bịu trong việc chăm chăm nom hai đứa con của mình và mấy đứa trẻ tôi nhận giữ.

Cái chu kỳ khắc nghiệt và khủng khiếp theo năm tháng bám chặt lấy chúng tôi. Tối tối Thọ xách cơm đi đến tờ mờ sáng mới về. Về đến nhà trong trạng thái mệt nhọc, anh lăn ra ngủ vùi. Còn tôi, đêm nằm quạnh hiu trên chiếc giường vắng bóng chồng. Sáng sáng thức dậy khi thấy Thọ đang say nồng giấc ngủ, tôi nhìn anh lòng cảm thương dâng trào và tôi cũng thương cả chính tôi nữa.

Tuổi tôi năm nay vừa đúng bốn ba, những chị em ở vào lứa tuổi tôi bị vắng chồng hay không may sớm bị phần góa bụa, mới có thể hiểu được lòng tôi. Tôi là một người đàn bà, một sinh vật giống cái, tôi cần sự ve vuốt mơn trớn và ngay cả sự ân tình như những người phụ nữ có cuộc sống đầy đủ vật chất lẫn tinh thần.

Có lẽ Thọ cũng hiểu được điều đó, nhưng sức khỏe anh không cho phép. Riêng tôi, tôi có ý nghĩ Thọ đã bỏ quên tôi.

Những tấm check trên ba trăm bạc mỗi tuần, được trả bằng sức lao động của Thọ, anh vẫn trao tôi đều đặn. Nhưng giờ đây tôi lại nhận ra, những tấm check ấy đã mất đi phần ý nghĩa trong cuộc sống lứa đôi.

Cuộc sống của con người không phải chỉ có tiền mà còn phải có những nhu cầu khác quan trọng chẳng kém hơn tiền bạc. Hơn năm qua, Thọ chỉ lo toan về phần vật chất và anh đã bỏ quên tôi ở phần đời sống vợ chồng. Tôi rất buồn, đôi khi còn oán hờn anh.

Là một người trí thức, ít ra chính Thọ phải hiểu, trên phương diện sinh học, khi còn trong giai đoạn chỉ là cái phôi, dù giới tính nam hay nữ, mỗi cái phôi đều có đặc tính của cả hai giới tính. Vì thế, khi đã lớn lên và trở thành giới tính thuần nhất, dù nam hay nữ đều cảm thấy bản thân mình vẫn còn nhớ đến phần hòa hợp thuở ban đầu. Và nó phải được bổ sung mãi, phải được đền bù bằng sự cộng hưởng từ giới tính khác. Sự đền bù ấy phải được thực hiện thiết thực, thường xuyên và nó quan trong trọng chẳng kém gì thức ăn, nước uống… Tôi cũng vậy, vì tôi chỉ là phân nửa của một con người trọn vẹn.

Tình cảm Thọ đối với tôi vẫn bình thường, nhưng trong lòng tôi, tôi cảm thấy anh không chu toàn trách nhiệm một người chồng. Từ đó, tôi cảm thấy lòng mình buồn bã cô đơn.

Trước khi xem tiếp phần dưới đây, xin quý vị độc giả hãy nghiêm khắc lên án, hãy nguyền rủa tôi, một người đàn bà không chung thủy. Nhưng cũng xin cho tôi được nói. Vâng! Xin cho tôi được nói sự thật của lòng tôi, cho tôi xin thay mặt những chị em phụ nữ khác cùng lứa tuổi với tôi, có cùng hoàn cảnh như tôi hoặc, những chị em không may trở thành sương phụ khi tuổi đời còn phơi phới như tôi, đang sống trên đất nước dư thừa vật chất và phim ảnh đã hỗ trợ sự gào thét trong lòng chúng tôi.

Tôi đã mất nhiều đêm không ngủ, khi đối diện với lương tâm mình, khi nhìn chồng tôi phờ phạc sau ca làm đêm về, khi nhìn hai đứa con thơ ngây đang nô đùa.

Hàng triệu triệu năm qua, triệu triệu năm sắp tới, tình cảm và nhu cầu của con người vẫn luôn là một. Khác chăng chỉ về hình thức, cách biểu hiện mà thôi! Từ lúc mới tạo dựng cho đến bây giờ, trong thế giới sinh vật đều có sự dung hòa giữa hai giới tính. Mất một phải tìm, thiếu một phải kiếm. Trong xã hội con người từ thời thượng cổ đến khi bước vào thềm thế kỷ hai mươi mốt nầy, nhân loại vẫn không vượt khỏi nguyên lý đó. Còn tôi, tôi cũng chỉ là một sinh vật bé mọn mang giới tính nữ.

Nếu Thọ không đau, nếu tôi quyết định không nghe lời Thọ, ở nhà không đi dự lễ cưới con một người bạn của anh hôm ấy, và nếu không có sự sắp đặt chẳng biết từ đâu… Có lẽ lòng chung thủy của tôi đối với Thọ không sớm chiều bị mai một.

Khi tôi bước vào nhà hàng, thì thực khách đã đông, sau phần ký tên vào sổ lưu niệm, chụp ảnh với cô dâu chú rể, tôi được mời đến ngồi chung bàn với vài người đàn bà xa lạ. Ngồi khá lâu, cùng nhau chuyện vãn bâng quơ, chiếu lệ. Bỗng nhiên, linh cảm cho tôi biết có ai đó nhìn trộm từ phía sau mình. Tôi quay lại và bắt gặp cái nhìn đắm đuối, phát ra từ ánh mắt của một người đàn ông xa lạ. Ông ta có dáng dấp của một nhà trí thức, gương mặt đầy đặn, ngũ quan cân xứng, mái tóc được cắt cao, kiểu thông thường như những người đàn ông lớn tuổi, dáng vẻ đạo mạo, đàng hoàng.

Khi tôi quay nhìn, ông ta không bỏ lỡ cơ hội và khẽ cúi đầu chào tôi. Tôi cũng gật đầu đáp lại. Bất ngờ, ông ta tiến đến làm quen:

– “Xin lỗi, nhìn bà tôi ngờ ngợ quen, không nhớ đã gặp nơi nào?”

Tôi hiểu đó là câu xã giao, gợi chuyện. Nhưng lòng cảm thấy vui vui, tôi đứng lên và cười:

– “Có lẽ ông đã gặp tôi ở siêu thị nào đó thì phải!”

Ông ta cũng cười, nụ cười thật đôn hậu:

– “ Tôi là Phong, xin lỗi, tôi có thể biết quí danh của bà?”

Không chút ngại ngùng, tôi đáp:

– “ Hân hạnh được biết ông Phong. Còn tôi là Thanh Nhã”.

Phong tấn công:

– “Thanh Nhã, cái tên rất đẹp, được đặt cho một con người vừa quý phái vừa xinh đẹp như bà”.

Tôi cảm thấy lòng sung sướng, mặc dù tôi cũng biết đó chỉ là lời khơi mào cho cuộc tấn công không chùng bước. Tôi nghĩ đến Thọ, trước kia anh thường hay bảo tôi, “em đẹp, đẹp tuyệt trần”. Nhưng thời gian hơn năm nay, thay vì cho nhau những lời như thế, bằng những câu chán nản, thán oán “không biết anh có giữ nổi em không?”

Những khi ấy, tôi nghĩ, có lẽ Thọ cảm nhận ra sức khỏe của mình ngày càng xấu đi, không cung ứng được cho nhu cầu của người vợ trẻ và cũng có lẽ anh cảm thấy trước điều gì đó sắp xảy ra trong đời sống vợ chồng………

Tôi đang nghĩ ngợi, thì Phong cắt đứt bằng câu:

– “Trường hợp không gì trở ngại, Thanh Nhã có thể cho phép chúng mình xem nhau như bạn?”

Tôi nhủ thầm, “gớm thật, đây không phải là tay vừa! Chưa chi đã bảo “chúng mình, chúng ta rồi”. Tuy nghĩ thế, nhưng lòng tôi cảm thấy thích thú. Sự dại dột của phái yếu là thích khen và được “bốc”. Tôi cảm thấy mình cũng dại dột như thế. Nhưng trong tôi, không một giác quan nào bảo, “đừng!” Tôi lại vui vẻ gật đầu.

Buổi lễ cưới bắt đầu, một xướng ngôn viên đại diện hai họ bước lên khán đài. Phong trao tôi tấm danh thiếp và xin số phone của tôi. Phong trở lại chỗ ngồi của mình. Tôi liếc nhanh qua tấm danh thiếp đang cầm trên tay: “ Vũ Phong, giám đốc nhà xuất bản…”

Về nhà, dù đối với Phong với tính chất xã giao thường lệ, nhưng có điều khác lạ thấm nhập vào tâm hồn tôi. Tôi lắc đầu xua đuổi nó khi nhận ra trong lòng tôi có nhen nhúm sự phản bội Thọ.

Bẵng đi hai tuần, tôi chẳng hề có tin tức gì về Phong, một hôm Phong gọi đến tôi. Từ đó, chúng tôi thường gọi cho nhau, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện về những gì cuộc đời mình đã đi qua. Và cũng từ đó, chúng tôi thay đổi các xưng hô với nhau. Song, tôi chẳng biết gì lý do gì, tôi không hề kể với Phong, rằng tôi đang sống với Thọ, mà chỉ cho Phong biết, ban ngày tôi rất bận vì phải trông coi bốn trẻ nhỏ, đến tám giờ tối, mới được rảnh rang sau khi những người gởi trẻ đến đem con về. Phong vô tình không biết, tôi khéo léo tránh trường hợp Phong gọi phone đến khi có Thọ ở nhà. Trong khi Thọ vẫn vô tình, đêm đi, ngày ngủ.

Một hôm, Phong ngỏ ý muốn đến nhà thăm tôi. Tôi hốt hoảng khước từ. Trưa hôm ấy, sau khi dỗ dành mấy đứa trẻ ngủ yên. Tôi vào phòng, nằm bên Thọ. Những ý nghĩ về Phong dù không muốn, nhưng chẳng biết vì sao nó cứ lởn vởn trong đầu tôi. Tôi muốn xóa tan nó, bằng cách nghiêng người qua ôm chặt Thọ.

Trong cơn say ngủ, Thọ ú ớ, “anh mệt lắm, để yên anh ngủ tí đi em!” Tôi chán nản, ngồi lên. Chuông điện thoại reo vang. Tôi chạy ra nhấc phone. Giọng Phong từ đầu dây bên kia hớn hở:

– “Em cho phép, chiều nay Anh đến thăm em nhé!”

Tôi cương quyết:

– “Không, anh không được đến.”

Giọng Phong bướng bỉnh:

– “Nhưng anh vẫn cứ đến.”

Tôi quả quyết:

– “Em nhất định không tiếp.”

Tưởng thế là thôi. Tôi chẳng ngờ hơn tám giờ tối hôm ấy Phong đến thật. Nghe tiếng chuông, nhìn lỗ thông ngoài thấy anh, tôi nén lòng im lặng. Chuông reo giục giã tôi vẫn lặng im. Tôi quay mình bước lên tầng trên mà nghe lòng rung rung se thắt, hé màn cửa sổ nhìn xuống, tôi thấy Phong lủi thủi bước lên xe ra về. Lòng tôi tê buốt. Tôi thấy lòng mình đã nặng về Phong, nhưng tôi cũng không muốn phụ Thọ. Và tôi chẳng biết mình giữ được lòng chung thủy với Thọ đến bao giờ?

Vào khoảng sáu giờ sáng hôm sau, trong khi Thọ còn say giấc. Phong phone cho tôi, anh trách tôi bằng lời lẽ thống thiết. Tôi thấy lòng mình se thắt. Phong than van nài nỉ. Cuối cùng tôi nhận tiếp Phong và buộc Phong hứa chỉ đến một lần thôi. Tôi khéo léo nhắc lại Phong chỉ đến sau tám giờ tối – giờ Thọ đang trong hãng, nhưng tôi nói dối Phong rằng sau giờ ấy những đứa trẻ tôi nhận giữ mới được người nhà đến đón chúng về. Tôi dối Phong, anh không biết và ngoan ngoãn theo lời.

Tối đến, Thọ đã đi làm từ 6 giờ chiều, tôi thấy thời gian chậm lại và cảm thấy lòng mình bồn chồn kỳ lạ. Tôi chọn cho mình chiếc áo ngủ bằng lụa mỏng màu vỏ hột gà, trang điểm nhẹ và ngồi trước máy Tivi mà lòng nghĩ mãi tận đâu đâu, tôi hồi hộp lạ lùng.

Trong thời gian ấy, tôi nhận ra mình đã phản bội Thọ, nhưng tôi vẫn muốn gặp Phong. Những mâu thuẫn dày xéo trong tôi, cuối cùng lòng tôi lại ngã về cuộc gặp gỡ phản bội nầy.

Phong đến, tôi thở phào, vội vàng mở cửa. Anh vừa bước vào liền ôm chặt lấy tôi. Tôi đồng tình ôm chặt và gục đầu vào vai anh. Phong hôn tới tấp vào mặt, váo trán, vào cổ, vào gáy tôi, hơi thở anh dồn dập ấm nồng, lòng tôi rộn lên nóng bỏng. Không kềøm được những xúc cảm cuồng nhiệt khiến tôi khẽ rên rỉ, đón mời. Môi Phong tìm môi tôi, tôi rún người quằn quại. Phong nói thì thào:

– “Mình vào phòng nằm nói chuyện nghe em!”.

Tôi biết việc gì sẽ xảy ra, nhưng tôi ngoan ngoãn như con trừu, chúng tôi dìu nhau lên phòng ngủ của tôi.

Phong khỏe mạnh, điêu luyện trong tình trường, anh đáp ứng những gì mà cơ thể tôi cần thiết trong khi Thọ đã bỏ lại sau lưng. Tôi hả hê hưởng thụ và cảm nhận sung sướng tràn trề, đắm đuối trong hoan lạc. Tôi xiết chặt thân chàng.

Sau cuộc mây mưa, tôi bảo Phong:

– “Anh ở với em đêm nay nhé!”.

Nói xong tôi giật mình, nên nói lại:

– “Đến ba bốn giờ sáng rồi về cũng được”.

Phong bảo:

– “Đã ở thì phải ở đến chín, mười giờ sáng luôn, sao lại phải về lúc ba, bốn giờ khuya? Nhưng hôm nay anh bận, mười hai giờ anh về”.

Tôi thở phào nửa mừng nửa hối tiếc, vì nếu Phong ở lại thì tôi chẳng biết phải làm sao, năm giờ Thọ đã về rồi kia mà! Tôi dối gạt bằng cách đẩy đưa:

– “Thôi tùy anh. Em nói ba, bốn giờ sáng là vì em biết nếu anh ở lại anh sẽ… em nữa. Em cần có thời gian nghỉ ngơi để sáng còn coi mấy đứa nhỏ.

Phong chẳng nói gì thêm, anh nghiêng người sang tôi. Bàn tay anh phiêu du bất tận trên thân thể trần trụi của tôi. Nhiều lần tôi co rún người hân hoan đón nhận.

Chiếc đồng hồ trên tường đổ mười hai tiếng giục giã, tôi hối tiếc ôm chầm lấy Phong chẳng muốn xa rời. Cuối cùng, chúng tôi cùng vào phòng tắm. Tôi nhìn Phong:

– “Anh sao mà…”

Phong cười:

– “Có lẽ lâu rồi anh không gần gũi đàn bà”.

– “Thật không?”.

– “Thật chứ em!”

Tôi nghĩ có lẽ Phong nói dối, nhưng qua lời khẳng định ấy làm tôi rất hài lòng. Lát sau, tôi đứng lên vòng tay qua cổ Phong, âu yếm nhỏ giọng:

– “Mai anh đến với em?”

Phong nhìn tôi đậm đà
:
– “Anh mê em rồi”.

Tôi dúi đầu vào ngực anh:

– “Anh nói xấu em phải hôn?”

Phong cười. Chúng tôi trở vào phòng ngủ. Phong lấy áo ngủ khoác vào tôi. Xong anh mặc lại áo quần, trong khi tôi cài khuy cổ áo anh, Phong sờ sẫm lần chót:

– “Em thật tuyệt vời!”

Phong ra về, tôi lên giường nằm lòng cảm thấy thoải mái. Những khao khát bao năm trong tôi giờ đây đã được thỏa mãn. Tôi mỉm cười đi vào giấc ngủ êm đềm.

***

Thường khi Thọ về, anh vào phòng mình ngủ, chỉ khi nào thức dậy anh mới xuống ăn cơm, chuyện vãn hoặc xem tin tức trong Tivi một chút rồi tiếp tục đi ngủ. Anh bỏ tôi suốt ngày cặm cụi với hai con và mấy đứa trẻ tôi nhận giữ. Đó như là một điệp khúc của bản nhạc tình buồn.

Hôm ấy, trong giờ cơm. Thọ ăn rất ít, nhìn anh tôi thấy sắc mặt xanh xao, lộ nét mệt nhọc hơn. Lòng tôi cảm động, hối hận về sự phản bội của mình. Sự hối hận thương yêu lẫn lo lắng xáo trộn trong lòng tôi.

Tôi nói:

– “Anh mệt? Hay là anh lấy mấy ngày vacation nghĩ dưỡng sức vài hôm hoặc tìm job ban ngày cho sức khỏe đỡ hơn.”

Thọ thở mệt nhọc:

– “Bây giờ kinh tế đang xuống, hãng xưởng khó tìm, kiếm một hãng có đồng lương kha khá đâu phải chuyện dễ dàng. Thôi thì còn nước, còn tát.”

– “Nhưng dù sao anh cũng phải nghĩ đến sức khỏe của mình chứ! Vả lại, anh cũng cần có thì giờ gần gũi với em, với con nữa chứ anh!”

Ý tôi muốn nhắc Thọ đừng bỏ quên chuyện tình cảm cũng như nhiệm vụ làm chồng. Nhưng anh không hiểu hoặc cố tình không hiểu, hay là hiểu nhưng để né tránh, nên nói:

– “Ngoài giờ giấc ở hãng anh có đi đâu đâu, không gần gũi mẹ con em là gì?”

Anh nén tiếng thở dài rồi tiếp:

– “Anh muốn tạo dựng ít tiền để dành, nếu rủi ro anh có bề gì em cũng không phải vất vả lắm!”

Nỗi hối hận dâng ngập lòng tôi, tôi rơi nước mắt:

– “Anh nghĩ chuyện gì không đâu! Tiền bạc chỉ là phương tiện cho đời sống, có nhiều xài nhiều, có ít tiêu ít, “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Em muốn anh hãy chú trọng đến sức khỏe của anh hơn!”

Sau một cơn ho, Thọ nhìn tôi, giọng yếu ớt:

– “Anh thật có lỗi với em. Em còn trẻ đẹp quá mà anh thì…”

Nói chưa dứt câu, dừng lại để thở rồi anh nghẹn ngào tiếp:

– “Mà anh thì không còn đủ sức lực để cung phụng cho đời sống vợ chồng. Anh thấy anh có lỗi”.

Tôi quỳ xuống ôm chầm lấy anh, vừa thật tâm, vừa lừa dối:

– “Không, anh không cần nghĩ gì về chuyện đó. Trong hoàn cảnh nào, em cũng vẫn là người vợ của anh. Chúng mình đã có với nhau hai đứa con rồi!”

Thọ vuốt vuốt tóc tôi, anh nói trong tiếng nấc:

– “Anh biết em rất thương anh. Nhưng trong tình yêu hay trong tình nghĩa vợ chồng, con người đâu phải chỉ sống bằng ánh mắt nhìn nhau không đâu em!”

– “Em biết, nhưng chúng mình đã luống tuổi rồi. Em chẳng cần gì khác. Em chỉ cần anh và hai con của chúng ta.”

Thọ đỡ tôi đứng lên:

– “ Anh biết và anh cũng hiểu rõ lòng em. Nhưng lòng anh vẫn không sao tránh được ý nghĩ, không biết anh giữ được em đến ngày nào đây?”

Tôi hốt hoảng, thầm nghĩ hay là Thọ đã biết chuyện vụng trộm đêm qua giữa với Phong. Tôi bụm miệng anh:

– “Anh đừng nghĩ vẩn vơ. Anh không tin em sao?”

Thọ gượng cười:

– “Dĩ nhiên là anh rất tin em, nhưng em còn rất trẻ. Sức khỏe em còn dồi dào. Em không thể ép xác mãi như thế nầy được!

Nói xong, Thọ buồn bã đứng dậy lên lầu để ngủ tiếp. Nhìn theo, tôi thấy đôi bờ vai anh run run. Còn lại một mình ở phòng ăn, tôi cảm thấy lòng hối hận vô bờ, sư ăn năn lỗi lầm làm nghẹn lòng tôi. Thọ là người chồng tốt, anh hết lòng hết dạ yêu thương, thế mà tôi đã đáp lại tình yêu thương đó bằng sự phụ bạc, ngoại tình.

Dọn dẹp chén bát xong, tôi trở lên phòng mình sau khi xem lại mấy đứa bé đang say giấc. Ngả người trên chiếc giường êm ấm, tôi chợt nghĩ đến những hình ảnh đêm qua cùng Phong quất quít nồng nàn trên đó. Tôi liếm môi nhớ lại bàn tay vuốt ve mơn trớn của Phong mà lòng thì cố nghĩ đến Thọ để đè nén lòng mình.

Nhớ đến Phong, tôi nhớ nhung thèm khát, nghĩ đến Thọ tôi hối hận ăn năn. Tôi cố xua đuổi hình ảnh Phong ra khỏi tâm thức tôi, nhưng nó cứ chờn vờn trong tim óc. Tôi cố nghĩ đến Thọ, đến tình yêu nồng thắm của anh dành cho tôi nhưng sao bóng hình Thọ cứ chỉ nhạt nhòa. Hình ảnh mạnh khỏe đầy sinh lực của Phong đã làm nhạt nhòa bóng hình xanh xao gay guộc của Thọ trong tôi. Tôi úp mặt vào gối khóc nức nở. Cuộc chiến nội tâm dằn xéo tôi, tôi cảm thấy mệt mỏi vô cùng.

Thọ vẫn đi làm, Phong lại đến. Tôi đón nhận và tận hưởng những gì Phong trao tôi bằng cách say mê nồng nàn. Giây phút lặn hụp cuồng nhiệt trong ân tình trôi qua. Phong nằm ngửa người thản nhiên dang tay chân thoải mái, tôi gối đầu lên tay anh, xoa xoa bờ ngực căng đầy, nở rộng.

Phong hỏi:

– “Anh có điều thắc mắc, anh muốn biết sự thật, xin em hãy nói thật. Vì sao em không cho anh gọi phone hay đến ban ngày, còn ban đêm phải đến đúng giờ qui định?”

Tôi dối anh:

– “Em đã nói với anh rồi mà… Ban ngày em bận lắm, phải trông mấy đứa nhỏ, tối đến phải sau 8 giờ người nhà chúng mới đến đón về”.

Phong chẳng chịu, anh tiếp:

– “Anh nhận thấy có điều gì em muốn giấu anh và điều đó có thể gây bất ổn cho tình cảm giữa hai chúng ta. Anh cảm nhận dường như em chưa thành thật với anh. Em dấu anh điều gì? Tại sao chúng ta không thể san sẻ với nhau những điều thầm kín ấy?”

Tôi khẽ thở dài, cuối cùng tôi thú thật tất cả với Phong, tôi còn có Thọ, một người chồng rất tận tụy với gia đình, thương yêu vợ con rất mực.

Nghe xong. Phong giật thót người, nét mặt Phong se lại. Đôi mắt hiện lên nét buồn. Giọng anh trầm trầm thấp xuống:

– “Anh xin lỗi em. Anh đã làm một điều mà anh không ngờ là anh xúc phạm đến em và đến gia đình em. Anh rất ân hận và anh rất cảm phục em đã can đảm nói thật và đã giúp anh dừng lại kịp thời, đúng lúc. Anh hoàn toàn thông cảm hoàn cảnh của em và của chính anh. Anh tin rằng lòng can đảm ở em sẽ giúp em giữ được tình tốt đẹp, bảo vệ hạnh phúc gia đình và tương lai các cháu. Từ hôm nay, anh sẽ không bao giờ dám quấy rầy em nữa. Chúng ta hãy quên nhau. Quên hẳn những gì đã xảy đến. Anh xin em hãy tôn trọng và giữ trọn tình yêu cao đẹp mà Thọ đã dành cho em. Kể từ hôm nay, chúng ta phải hối cải những điều chúng ta đang vấp phải, cho dù, đó là việc ngoài ý muốn của chúng ta! Chúng ta hãy quên đi, như quên một giấc mộng kinh hoàng!

Tôi rơi nước mắt vì cách xử sự cao đẹp của Phong. Tôi muốn nói với anh bằng tất cả lòng mình:
– “Cám ơn anh! Sau hôm đó, chính em đã nhận ra mình có lỗi với chồng con. Nhưng em không đủ can đảm nói với anh những điều đó. Em rất yêu chồng em, nhưng em cũng cảm thấy mất mát nếu thiếu anh. Xin anh hiểu cho lòng em. Em chỉ là một người đàn bà, một sinh vật yếu đuối. Xin anh đừng khinh em! Cuộc đời em đã nhơ nhuốc vì một lỗi lầm, nông nổi. Em vô cùng hối hận!”

Nhưng tôi im lặng.

Phong đứng lên, anh đứng lên rồi nắm tay tôi:

– “Xin em hãy tha thứ cho anh! Em là một phụ nữ đẹp. Cám ơn em đã cho anh những giây phút tốt đẹp nhất của cuộc đời. Tuy ngắn ngủi nhưng trọn vẹn bao điều! Nhưng khi đã biết mình đứng bên bờ vực thì chúng ta đừng để mình ngã xuống đáy sâu! Trước khi chia tay, anh xin em hãy bình tâm, giữ vững tinh thần và hãy quên đi tất cả những gì đã xảy đến giữa chúng ta.”

Mắt hoen lệ. Tôi nhìn anh gật đầu không nói lời nào.

Phong nói, tôi nghe giọng anh nghẹn ngào:

– “Vĩnh biệt em!”

Xong, anh bước nhanh lại cửa lách người ra ngoài như kẻ trốn chạy. Tôi muốn lao người tới giữ lại bóng hình anh. Nhưng tôi đã không làm điều đó. Mâu thuẫn ngập lòng tôi!

Tôi vặn lại chốt cửa, trở lại ngồi trên chiếc sofa. Nỗi buồn man mác len trong sự hối hận ngập tận đáy lòng. Bất chợt, tôi nhìn lên tấm ảnh chụp chung với Thọ trong ngày cưới treo trên tường, anh nhìn tôi mỉm cười. Tôi thì thầm với tấm ảnh như nói với chính anh:

– “Em có lỗi với anh. Xin anh hãy tha thứ cho em!”

Thái Quốc Mưu

TÔI CƯỚI VỢ

thaiquocmuu

Hồi học lớp đệ tứ (lớp 9 bây giờ), tôi có đọc đâu đó truyện ngắn tựa là “Lấy vợ miền quê”, của tác giả nào tôi quên. Tôi rất khoái truyện ngắn nầy và định bụng lớn lên mình cũng “lấy vợ miền quê” như tác giả kia. Nói thì hơi xấu hổ, vừa đậu Tú Tài phần hai, lúc đó tôi mới 18 tuổi tây, tức 19 tuổi ta, mà tôi đã…”muốn vợ”! Con trai mà “muốn” chuyện gì thì thường vòi vĩnh với mẹ, như chiếc xe đạp, đồng hồ, quần áo mới, kể cả chiếc solex cáu cạnh tôi đang chạy, mà chỉ hàng “thiếu gia”… ở tỉnh như tôi mới có.
Những thứ đó tôi đều manh dạn nói với mẹ, và lần nào cũng vậy, mẹ tôi không cần suy nghĩ mà “ô kê” liền. Còn cái vụ “muốn vợ” nầy, tôi có miệng mà chẳng thốt nên lời! Tôi định bụng lúc nào mẹ vui và khi chỉ có hai mẹ con ở nhà thì tôi “tâm sự” liền. Mẹ lúc nào lại không vui! Vả lại tôi là con một trong gia dình, chỉ cần ba tôi đi uống cà phê hay đi đâu đó thì có biết bao nhiêu dịp… may!
Thế mà khi thấy mẹ ngồi, tôi vừa xề lại thì bao dũng khí đã tiêu tan! Bao lần như vậy, dường như bà để ý, giọng ngọt ngào cố hữu:
– Gì đó con trai cưng? Muốn gì nữa phải không?
Lúc đó tôi chỉ cần một “gờ-ram” dũng khí, thêm một tiếng “vợ” sau tiếng “muốn” của me tôi thì đòn cân cục diện đâu lại vào đấy rồi.
Đàng nầy tôi lại nhút nhát, rụt rè! – Điều nầy, vốn không phải là bản tính của tôi:
– Dạ… có “muốn” gì đâu mẹ!
Trả lời xong tôi thấy ấm ức, giận mình sao quá yếu gan! Thì may thay, vợ chồng anh hai Trân tới chơi. Anh với tôi là chú bác ruột tôi. Hai Trân là con trai trưởng của bác hai, còn cha tôi đến thứ chín, nên ảnh nhỏ hơn cha tôi chẳng bao nhiêu. Anh rất vui tính, cởi mở, lẹ làng, sốt sắng. Cái gì cũng chịu hoạch toẹt, không chịu úp úp mở mở, nên có khi hơi lố lố. Vậy mà tôi lại quý mến anh ở điểm nầy nhất, mới lạ!
Chưa chào hỏi mẹ tôi, anh nhìn tôi bôm bốp:
– Đậu (Tú Tài ) rồi hả mậy? Là người lớn rồi, cưới vợ được rồi đó nghen!
Thuở đó đậu Tú Tài cũng oai lắm, kiếm việc làm dễ như chơi. Trong thân tộc có người đậu tú tài là niềm hãnh diện chung. Nghe anh nói, tôi khoái chí tử, nhưng cũng làm bộ:
– Mới bây lớn mà có vợ gì anh ơi!
– Sao lại “bây lớn”? Hồi tao cỡ mầy là con cu biết gáy rồi. Mầy hỏi chú chín….
Chị hai thúc mạnh vào hông chồng:
– Nói bậy không hà! Thím chín kìa!.. Chú nó còn nhỏ…
– Nhỏ nhỏ cái gì? Cỡ tuổi nó tôi có con rồi!
Tôi mỉm cười, thấy thích anh lạ! Anh hai quay sang mẹ tôi:
– Thím chín! Em lớn rồi nghen thím. “Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương”đó thím. Em nó đẹp trai, học giỏi, nhà giàu, mà thím không chịu cưới vợ cho nó là có ngày có người bồng cháu nội về cho thím nuôi đó!
Chị hai nạt:
– Nói bậy không hà! Cái tật không bỏ!
Anh hai nói chuyện thường chêm vào mấy câu chữ nho, những lần đó tôi cũng bực mình, vì có câu tôi cũng không hiểu nghĩa rõ ràng.
Câu anh vừa nói tôi hiểu, xem ra nó cũng hay đó chứ! Còn chị hai, là người phụ nữ nết na, đẹp lại hiền, hay kìm chế chồng những khi anh quá trớn. Đặc biệt lần nầy tôi lại thấy chị hơi… quá trớn!
Mẹ mỉm cười:
– Biết nó chịu không mà cưới?
Tim tôi đập thình thịch. Không ngờ diễn tiến lại thuận lợi như vậy. Mẹ nói thế tức là nếu tôi “chịu” thì mẹ cưới chứ gì? Ôi con đường… cưới vợ sao mà hanh thông như vậy!
Anh hai quyết liệt:
– Sao lại hổng chịu thím? Hỏng lẽ nó muốn vợ nó lại la làng lên sao? Hồi trước con muốn vợ, con cũng đâu dám nói cho má con mà phải nhờ chú chín mở hơi giùm. Thím quên rồi sao?
Quay qua tôi, anh dịu giọng:
– Nè cưng, anh hai hỏi thiệt nghen, cưng có muốn cưới vợ không?
Phải nói là nhờ anh hai mà lòng tôi tràn dũng khí. Tôi quyết không bỏ lỡ cơ hội. Chỉ cần tôi nói một tiếng “muốn” là bài toán có đáp số ngay, và bao nhiêu đè nén trong lòng bấy lâu chắc chắn giờ đây tan biến! Nhưng như vậy xem phàm phu quá! Tôi cười cười, đợi cho mọi người chờ một lát, thần khẩu xui tôi phát ra một câu quá tuyệt vời:
– Thì hồi trước anh hai sao thì giờ em vậy thôi!
Mọi người cười rần và mang ý nghĩa khác nhau. Tôi cười cho… đở mắc cở. Chị hai cười xòa góp phần vui; anh hai cười ngất, cười sặc sụa của người thích chí; còn mẹ thì cười hiền hòa, sung sướng, lấy tay áo chậm hai khóe mắt rưng rưng. Tôi thấy thương mẹ vô cùng, sà vào lòng mẹ. Dù là một cậu tú, nhưng với mẹ, tôi vẫn thường thích mẹ vuốt ve như thuở lên ba. Mẹ vò tóc tôi, nói với anh chị hai:
– Bây thấy hôn? Nó làm còn như nhỏ lắm vậy!
Mẹ hỏi tôi:
– Bộ con có để ý bạn gái nào ở trường hả?
Tôi lắc đầu. Mẹ bảo:
– Vậy thì mẹ biết ai mà cưới cho con?
Anh hai nhanh nhẩu:
– Thì làm mai! Hồi trước chú chín cũng vậy, con cũng vậy. Có ai thương yêu ai trước đâu? (liếc sang chị hai) Chừng về ở chung cũng khoái thấy mồ…
Anh phủi bàn tay chị hai định nhéo vào hông anh:
– Vậy chớ hỏng phải sao?
Rồi quay sang tôi, anh lại ngọt ngào và xôm tụ:
– Nè, bây giờ em chưa quen ai phải không? E hèm! Hồi trước anh cũng vậy thôi. Có sao? Nhưng em phải cho thím chín và anh chị hai đây biết mẫu người em ưng thế nào thì ở đây mới kiếm cho em được chứ! Thí dụ, hồi trước anh ra tiêu chuẩn là phải vừa đẹp, vừa hiền, vừa có chút học vấn. Em thấy hôn, chị hai đúng bon tiêu chuẩn đó, Anh thấy là khoái liền. Hề hề…!
Tôi thấy mặt chị hai đỏ lên vì sung sướng:
– Nói không biết mắc cở….
Sẵn đà, tôi tiếp:
– Mà phải ở miệt vườn nữa em mới chịu.
Anh hai có vẻ cụt hứng, còn mẹ thì có vẻ vui:
– Phải đó à bây, con gái ở vườn nó nết na, thùy mị, giỏi giang.
Anh hai cười. lại xông xáo:
– Trúng tủ bả rồi! Mà cũng dễ thôi! Thím bán tạp hóa lớn, mối mang miệt vườn biết bao nhiêu, nhờ họ mối lái giùm.
Chị hai:
– Sao hăng hái dữ! Mai mốt anh hai chịu lạy đó nghen!
– Tất nhiên! tất nhiên!
Thói thường người ta tin tưởng vào những gì mình hy vọng, và sợ mất những gì mình có. Mẹ đã xong rồi, còn ba thì sao? Ba thường hay chìu ý mẹ dù đôi khi ý mẹ có đôi chút ông chẳng hài lòng, nhưng đó là những việc nhỏ đời thường, còn đây là “hôn nhân đại sự”, liệu ba có còn chìu mẹ hay không?
Ngày hôm sau, tôi thấy ba có vẻ khác khác – vậy là mẹ nói với ba rồi! Ba ít nói, có chiều nghĩ ngợi. Khi giáp mặt tôi, ba mỉm cười khó hiểu. Phúc hay là họa đây!
Rồi ngày tôi chờ đợi cũng đến. “Phái đoàn” gồm ba mẹ, anh chị hai và tất nhiên có vai chánh là tôi. Thật khó tả được bao cảm xúc bồn chồn lo lắng, hồi hộp, đủ thứ lộn xộn trong lòng tôi. Mẹ tôi cứ dặn dò đủ mọi việc, hết chuyện nọ tới chuyện kia, đến nỗi khó mà nhớ hết; còn anh hai thì cứ lải nhải bên tai “bình tỉnh, bình tỉnh, đừng có run”.
Nhà ông nhạc tôi (tạm gọi vậy) ở xã Ngũ Hiệp, cách thành phố Mỹ tho 30 cây số về hướng tây. Chợ Ngũ Hiệp nằm bên kia sông, muốn qua phải nhờ một phà nhỏ. Từ chợ, theo lời bà mai, chúng tôi phải đi bộ thêm gần ngàn mét nữa. Nghe vậy anh hai nói với tôi:
– Như vậy là “vườn trong vườn” rồi phải không cưng? Tiêu chuẩn một đạt hai trăm phần trăm rồi hén!
Chị hai cau mặt:
– Cái ông nầy lúc nào cũng đùa được.
Thật vậy, đây là vùng trù phú đất đai, cây lành trái ngọt. không biết cơ man nào là cây trái quả mọng trĩu cành! Cam, bưởi, sa bô, dừa, vú sữa, nhãn, chôm chôm… nhất là sầu riêng cây nào cây nấy chân tay đeo đầy nghẹt quả, theo gió thơm lừng. Bà mai chỉ tay về căn nhà ngói kiểu xưa (kiểu “chữ đinh”) nói:
– Nhà đó đó.
Tất cả dừng lại “hội ý”. Mẹ khẩn trương thấy rõ, lại dặn dò:
– Nhớ những gì mẹ dặn nghen con!”
– Dạ!
Anh hai cũng thì thào:
– Nhà cất kiểu nầy mà gặp ông già củ tỏi thì mệt lắm à nghen!
Chị hai nạt nhỏ:
– Ông lo cái miệng ông đó. Vô đó nói bậy đi!
Bà mai vô trước, mẹ sửa lại áo quần tôi chưa xong thì có người ra mời vào. Giờ phút nầy tôi càng thấy tình mẫu tử bao la như thế nào. Mẹ hồi hộp như sắp bước vào nơi hang hùm nọc rắn không bằng, lại điệp khúc “Nhớ nghe con!” lại phát ra!
Vừa vào cỗng, tôi bị hốt hồn vì hơn hai chục cặp mắt, đủ hạng tuổi, nhiều nhất là trẻ em chăm chú vào tôi, một bà trạc tuổi mẹ có lẽ thông cảm được điều ấy, bèn rầy đám nhỏ:
– Nè, mấy đứa làm gì tụ tập lại đây dữ vậy? Có đi hết không?
Đám trẻ tản đi vài bước rồi bẽn lẽn đứng nhìn.
Phòng khách được bài trí hai bàn. Bàn giữa gồm ba mẹ tôi, bà mai, ông bà nhạc và hai vị cao niên. Bàn bên có anh chị hai tôi và bốn người bên gái cùng trang lứa.
Phần tôi nghe lời mẹ là không được ngồi, mà đứng sau ghế cha mẹ, hai tay xếp lại để dưới bụng (nếu đã mời trà xong), tư thế y như lính hầu ở phủ huyện, hay các thái giám ở cung đình hầu hạ đức vua!
Theo cách nói chuyện… lại có dịp đứng trước nhạc phụ mẫu; tôi biết ông bà là người cởi mở, dễ tính. Câu chuyện của hai “sui” càng lâu càng khởi sắc tốt đẹp. Dần dà khách khí không còn, mà như đã quen nhau từ trước vậy.
Bỗng Ông nhạc gọi:
– Con hai đâu, châm trà mới đi con!
Một tiếng “dạ” thảnh thót không kém Điêu Thuyền thời Tam Quốc từ nhà dưới vọng lên làm tim tôi rộn ràng. “Phái đoàn” nhà trai ai cũng hồi hộp chờ đợi. Bởi ai cũng biết bảo “châm trà” chẳng qua là lời nói khéo cho con mình ra chào để nhà trai “coi mắt” đó thôi!
Mẹ quay lại nhìn tôi mỉm cười, thầm bảo ”hãy xem kỹ vì thời gian không lâu”. Tôi chưa kip mỉm cười với mẹ thì rèm hoa lay động, một kiều nữ vận bộ bà ba, không phấn không son mà má phấn môi hồng.Tóc dài phủ long gọn gàng bởi chiếc kẹp vàng có đính bông hồng chói lọi. Thoạt trông, tôi giật nẩy người, đến nỗi bố vợ nhìn thấy. Đợi giai nhân chăm trà xong, ông vội bảo:
– À quên nữa, cháu qua bên ngồi uống nước, hay cứ ra ngoài dạo cho thoải mái.
Mẹ lại quay ra tôi, nhướng mày, thầm bảo “hãy đi đi con”, vì thực ra, ông nhạc cũng ngầm ý cho tôi và vợ tôi gặp nhau để “tìm hiểu”, dù thời lượng ít oi, nhưng nếu tri túc ắt tiện túc mà thôi! Mọi sự đều được người lớn sắp xếp có bài có bản và, có màn có lớp hẳn hoi!
Không khí bên ngoài thực thoãi mái. Nhiều loại cây trái lớn nhỏ thi nhau che rợp ánh mặt trời làm mát rượi cả một không gian rộng. Vài tia sáng yếu ớt cố gắng chen vào đất tạo thành những đóm trắng lưa thưa đây đó tựa rãi hoa. Mùi sầu riêng thơm lừng. Hàng sa-pô thẳng tắp trái nặng sai oằn. Mấy nhánh ổi cho trái bóng láng no tròn, rục mềm rơi rụng tứ tung, tỏa hương thơm bát ngát. Chim hót líu lo, bướm vờn thẳng cánh. Đàn ong tranh nhau hút mật của trăm ngàn hoa đủ sắc đủ màu. Rõ ràng là vùng đất lành thừa mứa cây lành trái ngọt.
Bên sau một giọng êm đềm:
– Biết người ta ưng hay không mà dám đi hỏi vậy?
Tôi quay lại, thì ra là vợ tôi, (tạm gọi vậy), mà cũng là Vi, người đã làm tôi kinh ngạc đến đánh thót cả người khi nãy!
Vi là bạn học cùng lớp với tôi hồi năm đệ tứ. Hồi đó lớp đệ tứ được xem là cái “móc” của sự chia tay. Bởi con trai, nếu thi rớt thì cha mẹ thường cho nghỉ để học nghề, còn thi đậu (cấp bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp) thì cũng mỗi người một hướng đi: Vào sư phạm hoặc ngành nghề nào đó, hoặc học tiếp ba năm nữa để lấy Tú Tài rồi lên đai học. Con gái thì ít người được học đến chốn đến nơi. Rớt hay đậu cũng thường bị cha mẹ cho nghỉ mà lo phụ việc nhà, viện lẽ con gái “học cao” khó có chồng! Vi cũng nằm trong số phận nầy. Bởi vậy cuối năm đệ tứ, chúng tôi thường trao nhau lưu bút, mọi người đều nắn nót tuồng chữ cho trang mình thường tặng cả ảnh, dán vào giữa trang viết, dưới đề:
“Thương nhau mới tặng ảnh nầy,
Để làm kỷ niệm những ngày xa nhau’
Dù cho ảnh có phai màu,
Cũng đừng xé bỏ mà đau lòng người!”

Không biết bốn câu thơ ấy là của tác giả nào, sáng tác tự bao giờ, mà đến nay, thỉnh thoảng tôi lại thấy sau bức ảnh ”tặng nhau” của các em cũng có đề như vậy.
Hơi lạc đề, nhưng nói thêm cho vui: Hồi đó tôi cũng có quyển lưu bút, tất nhiên khi ai nhận thì cũng nắn nót từng chữ và giữ sạch sẽ như nói ở trên. Khi tôi đưa cho thằng Nhứt, ngày sau nó trả (thường thì vậy), nó viết vào trang đôi mấy chữ tổ bố: “Lưu niệm làm cái xê bình phương gì?” (2), rồi láu cá ký tên giáp cả hai trang giấy!
Tôi xem giận run. Cự nó. Nó cười: “Để sau nầy mầy nhớ tao”.
Tôi nghe cũng xìu lòng. Quả thật, đến giờ, nó là người tôi nhớ nhất. Và đến ngày cuối, chúng tôi tổ chức tiệc liên hoan cuối khóa tại lớp. Văn nghệ xung quanh các bài hát về “mùa chia tay”, “tạm biệt”, “nỗi buồn hoa phượng”… Tôi có sở trường ngâm thơ, ngâm hai bài thơ Đường luật, bài đầu của thầy H.C, giáo sư sử địa (3), bài nầy tôi chỉ nhớ hai câu cuối:
“…
Rồi đây nếu chẳng sau mùa phượng,
Tất cũng mai kia ở chợ đời!”

Và bài họa của tôi:
“Việc cũ, ngàn sau vẫn đổi dời.
Chút tình tâm huyết nói sao vơi?
Luyến lưu kẻ ở đôi dòng lệ,
Tiếc nhớ người đi một góc trời
Chín tháng vui buồn trong một lớp,
Vài giây ly biệt rẽ ngàn khơi,
Đường mây một kẻ hanh thông bước,
Một kẻ lang thang giữa chợ đời!
(Thơ Kha Tiệm Ly)

Đám con gái mắt đỏ hoe, có đứa khóc thành tiếng. Chúng tôi lai tặng quà lưu niệm cho các bạn “nghỉ luôn”. Tôi tặng Vi cái kẹp tóc bằng vàng 14 (tôi là… “thiếu gia” mà! Vàng hồi đó rẻ lắm, đàn bà con gái chẳng thấy ai đeo, có đeo thì cũng sơ sài, đeo nhiều mắc cở, bị coi là “quê”; không thấy ai đeo cục cục như giờ. Vi tặng lai cho tôi cây bút Pilot nắp vàng, loại cao cấp nhất thời ấy.
– Sao không trả lời?
Vi nghiêm trang như thuở nào, tôi hơi chột dạ:
– Thật lòng tôi không ngờ mình đi hỏi cưới Vi. Đã bao năm rồi, vả lại lúc đó mình còn nhỏ cả mà!
– Bộ mấy năm qua không nhớ chút gì về Vi sao?
– Vẫn nhớ về người bạn nhỏ hiền lành, nhiều nước mắt.
Vi vừa đưa tay rút cây viết trên túi áo tôi, vừa nói:
– Xin lỗi nghe, cho Vi mượn.
Rồi xoay cán viết, nhìn những dòng chữ khắc trên ấy, Vi có vẻ xúc động:
– Vẫn còn giữ của Vi à?
Tôi không đáp, nhìn hai rèm mi chơm chớp, tôi thấy Vi đẹp não nùng. Tôi nắm lấy tay Vi:
– Không ngờ lại gặp lại Vi. Chẳng phải không có duyên số hay sao? Vi đồng ý nhé!
Vi tủm tỉm cười:
– Nếu em không ưng thì sao?
– Thì anh về, nhưng xin gởi trái tim anh lại.
Lại cười:
– Rõ là thi sĩ! Em đã đồng ý từ khi bà mai nói chuyện với ba mẹ, đâu phải đến bây giờ.
– Không biết mặt làm sao ưng?
Vi kéo mái tóc về phía trước ngực:
– Khờ quá đi! Mọi người ở đây ai không biết con trai một của tiệm tạp hóa Vạn Phát, chứ em thì rành lắm. Vị “công tử” ấy còn tặng cho em chiếc kẹp xinh đẹp nầy nữa phải không?
Trên đường về, mẹ luôn miệng với ba:
– Con nhỏ xem nết na và lịch sự ghê ông há?.
Lại lo ngại:
– Hổng biết nó có ưng thằng con trai cưng tôi không nữa?
Nãy giờ tôi lặng thinh, nhớ lại những lời nói của Vi mà thấy lòng hân hoan lạ. Nhưng thấy mẹ cứ lo lắng mãi, tôi mói nói:
– Chắc ăn rồi mẹ ơi! Mẹ đừng lo!
Mẹ nghi ngờ. Anh hai nói:
– Hồi nãy ngoài vườn tụi nó nói chuyện, chỉ cần khi về, đá lông nheo một cái là kể như xong. Thím lo gì!
Ba châm vào:
– Hồi trước bả cũng vậy, sao bả mau quên quá!
Không biết mẹ đánh hay phủi bụi cho ba::
– Cha già mất nết!
oOo
Thế là chậm lắm khoảng một tuần, mươi ngày tôi đều đến tham nhạc gia, nhạc mẫu. Ba mẹ vợ tôi đều nhân hậu, nghiêm khắc với con cái nhưng xem chừng ”dễ” với thằng rể tương lai.
Trước khi đi, ba tôi dặn. Con đến đó thấy cái gì làm được thì làm, chứ đừng lấy mắt ngó là không được! Ngày xưa trước khi cưới, phải làm rể ba năm: Chẻ củi, vác lúa, cày bừa, làm đủ thứ nặng nhọc, chứ chẳng phải chơi đâu!
Nhưng tôi biết cái gì mà làm, mà phụ? Lần đầu đến, tôi thấy ba vợ tôi đang chài cá, thấy tôi sựng rựng, ông hiểu ý, nói:
– Con đứng chơi, ba vãi vài chài nữa ba vô.
Thế coi sao được! Đợi mỗi khi ba kéo chài lên, tôi phụ gỡ cá, mà có được đâu! Tôi đụng tới con nào thì con ấy giãy rồn rột, rách cả tay, có khi phóng lại xuống mương; trong lúc ông bỏ vào giỏ lia lịa như bỏ đá vào vậy!
Một lần thì thấy ông đang chiết nhánh cây, cái nầy tôi càng mù tịt, nhưng cũng có việc làm là… đưa dây cho ba tôi cột “bầu”; cái công việc không cần người phụ tá!
Ba vợ tôi rất điệu đời, ông thường bảo vợ tôi dắt tôi ra vườn xem có “cái gì nó thích thì hái nó ăn”. Tôi biết ba tạo điều kiện cho chúng tôi chuyện trò. Ông dư hiểu, bởi nói tiếng là thăm cha mẹ vợ, nhưng chủ yếu của chàng rể tương lai nào cũng là thăm… vợ cho đở nhớ mà thôi. Nếu không, tại sao mỗi lần đến thăm mà cha mẹ vợ đi vắng thì chàng rể lại hớn hở trong lòng!?
Vườn nhà vợ tôi đủ loại cây nên có trái quanh năm, chúng chen chút nhau nên chỉ cách hơn mười thước là không thấy dáng người. Tôi có cảm tưởng như hoàng tử gặp công chúa trong rừng vậy! Đến hàng dừa tơ, quày ôn trĩu trái màu vang rực, sai oằn đụng tới mép mương, Vi đưa tôi dao, bảo:
– Chặt dừa uống nhé!
– Trái nào đây?
– Thì tùy chọn
Khổ sở lắm tôi mới đem được hai trái dừa rời quày được. Dùng dao chặt phần đầu có cuống. Dao bén ngót mà tôi phạt năm bảy nhát liền mà vỏ dừa chỉ dập dập, trầy trầy, tung mấy miếng văm! Vi cười khoe hai hàm rang đều như hạt bắp:
– Để nô tì giúp cho, thưa công tử!
Giành lấy dao, Vi chỉ phập ba nhát nhẹ nhàng mà vỏ dừa tách ra từng mảng lớn, nhát thứ tư, nhẹ hơn, chạm vào gáo, Vi thuần thục lách nhẹ lưỡi dao, để lộ phần “cái” trắng bóc mịn màng, bao quanh phần nước sóng sánh trong veo! Một tay đưa dừa cho tôi, tay kia chỉ chỉ vào trái dừa bảo:
– Chặt dừa phải chặt đầu lớn nầy nầy, Lưỡi dao phải để hơi xiêng. Ai đời ở trên bổ xuống… 90 độ. Làm sao đứt được?
Lợi dụng tôi nắm lấy cổ tay tròn trịa mịn màng của Vi, ghé mũi xuống hít một hơi dài. Vi vẫn để yên nhưng bặm môi:
– Có thấy con dao ở đây không thì bảo?
Rồi cùng cười, tôi hít mũi chọc:
– Còn ngọt hơn cả nước dừa!
Đến địa phận chuyên canh sầu riêng. Ôi! hàng hàng thẳng tắp. Không biết cơ man nào là trái đậu trên cành! Toòng teng nhỏ to đủ cở, lủng la, lủng lẳng tầng thấp tầng cao, xem vô cùng ngoạn mục. Tôi hỏi:
– Nghe nói sầu riêng chỉ rụng về đêm, phải không?
– Sao lạ vậy?
– Thì … trời khiến để đừng bể đầu người!
Vi cười ngoặt ngoẽo:
– Sao trái dừa vẫn rụng ban ngày? Bộ trái dừa không làm bể được đầu người? Chủ vườn nòi vậy để cho mấy thằng ăn trộm không dám lẻn vào đó thôi!
Rồi chỉ vào phía trước, bảo:
– Có hai trái rụng kìa! Anh lại lượm đi! Coi chừng nó “bịch” một cái là hết có vợ đo.o..ó!
Tôi nhìn lên, thấy hàng trăm trái lòng thòng, gai tua tủa, giống như những quả chùy của các võ tướng ngày xưa. Nói dại, nếu nó mà”phịch” xuống một cái như lời Vi nói thì dù không bể đầu, thì mặt mũi chắc cũng khó coi! Dợm chạy đi, bỗng luồng gió quái ác từ đâu lùa tới, bèn chột dạ, tôi dừng lại. Vi cười ngất:
– Coi vậy mà cũng sợ mất vợ hén!
Tôi chữa thẹn:
– Vậy chớ vợ như Tây Thi thì chết sao dành!
Má Vi càng đỏ thêm, nắm tay lại giá giá vào tôi:
– Cái tật nịnh…….
Tôi vừa dặt hai trái sầu riêng xuống thì Vi bảo:
– Tách ra đi!
Nói đoạn lại bờ rào tìm hái những nhánh bông. tôi lui cui lấy dao chặt phình phịch vào đầu lớn trái sầu riêng, dao cũng để xiêng một góc mà xem ra vỏ sầu riêng còn dai hơn cả vỏ dừa. Thật tình, sầu riêng tôi ăn có hàng trăm nhưng mỗi lần đều được mẹ bóc sẵn bỏ vào tủ lạnh, nên có biết gì đâu!
Tôi lật qua, lật lại, chợt nhớ tới cái vỏ sầu riêng mẹ bóc xong đâu có trầy trụa, hay mất một góc đàng đầu trái, mà xem ra nó còn nguyên vẹn giống như một chiếc xuồng! Tôi sửa lại rồi dùng dao bổ theo chiều dọc, cũng chẳng ăn thua! Mệt, tôi định gọi cầu cứu, thì Vi đã đứng sát bên tôi bụm miệng cười tự lúc nào…
Rõ ràng là Vi biết tôi không làm được mà cố chọc chơi! Bèn ngồi xuống, lấy dao, vừa làm vừa dạy đời:
– Hồi nãy em bảo công tử “tách” ra chứ có bảo “chặt” đâu mà làm như bửa củi vậy? Đây nè, chỗ nầy lúc nào cũng có một khe hở. Chỉ cần để mũi dao vào đây rồi dùng đòn bẩy Ạc-Shi-Met là xong. Làm rể kiểu nầy mất vợ như chơi.
Tôi bá lấy cổ Vi:
– Giỏi quá, để anh thưởng cho một cái.
Vi nhắm mắt, lắc đầu quầy quậy:
– H..ô..ông..!
Đợi khi tôi “chụt” xong, Vi mới mở mắt ra, chỉ tay vào vỏ sầu riêng, nói:
– Cái vỏ sầu riêng nầy mà vô mặt thì còn hơn té thùng đinh nữa đó!
Lần nào cũng có chuyện tương tự như vậy, thử hỏi sao tôi không khoái về thăm… ông bà nhạc?
Gần tới ngày cưới, tội nghiệp Vi gầy thấy rõ. Sau nầy tôi mới biết, là con gái trưởng trong gia đình, Vi lo lắng sắp xếp mọi thứ, lại nghĩ tới ngày theo chồng, xa mẹ bỏ em nên đủ thứ tình cảm ray rức trong lòng. Vậy mà trò chuyện với tôi một hồi, mặt hoa lại rạng rỡ, nói nhỏ cho tôi vừa nghe, như một chuyện gì quan trong lắm:
– Làm rể mà lỏng nhỏng không động móng tay, cứ đeo sát con gái người ta hoài không sợ bà con họ nói sao?
Ba vợ tôi thường bảo tôi: “Con ở chợ không quen việc ở vườn. Con cứ về thăm, khỏi làm gì hết, đừng ngại, cứ coi như ở nhà con”.
Tôi đem lời nầy nói cho vợ nghe, rồi châm thêm:
– Vậy chứ anh có việc gì để làm?
– Em chỉ cho. Gần tới ngày cưới rồi, phải có củi để nấu chứ! Hay là anh chịu khó ra chẻ một mớ….
– Ở đâu?
Vi chỉ tay về một hàng củi được chất ngay ngắn từng ô một, dài chừng… vài chục mét, khúc nào khúc nấy cở bắp đùi… voi. Tôi chột dạ:
– Chẻ hết sao?
Vi làm mặt nghiêm:
– Ừa!… thì tới đâu hay tới đó! Ngày còn dài mà!….
Tôi xách búa đi mà tác phong rời rã như Hạng Võ tại bến Ô Giang! Nhưng muốn ăn phải lăn vào bếp, muốn cưới được vợ thì phải bửa củi, cày bừa… Thì ra lời ba tôi nói chẳng sai, bằng chứng là tôi cũng không ngoại lệ!
Tôi cởi áo sơ mi máng trên cành bưởi, còn lại chiếc áo thun ba lổ trắng tinh, vốn là mô đen của con nhà giàu mới có áo lót bên trong. Dù là “công tử”, nhưng tôi thường tập tạ nên bắp thịt coi cũng ngon lành. Tôi đếm thầm: Một, hai, “phập!”; một, hai “phập!” Có cái “phập” làm củi vỡ ra, có cái “phập” thì búa lại dính khắn vào củi, gỡ ra cũng tróc vải trầy vi! Khi độ mệt đã choáng váng mặt mày, nhưng còn đủ để nhận được tiếng ông nhạc ở sau lưng:
– Bây làm cái gì vậy?
Tôi quay lại chào ông bà vừa đi xóm về, rồi trả lời với giọng điệu của người vừa lập nên công trạng:
– Dạ, vợ con biểu chẻ củi để khi đám cưới có mà xài!
– Thôi, thôi! Bây “bị” nó rồi! Đi vô! Đi vô uống nước con!
– Dạ, để con chẻ thêm một mớ nữa, ba!
– Củi nầy ba để bán cho lò bánh mì, đâu cần chẻ! Còn củi dùng cho đám cưới thì để trong nhà kho kia, có xài mười đám cũng không hết!
Bà nhạc lắc đầu:
– Cái con nhỏ nầy…
Vào nhà bà nhạc rầy Vi:
– Chồng của mầy nó không quen làm việc nặng. Xúi dại rũi nó trợt chân trợt cẳng thì sao?
Bà nhạc dùng tiếng “chồng mầy” tôi thấy ấm áp lạ lùng! Còn vợ tôi thì chúm chím cười, còn liếc qua tôi với ánh mắt còn bén hơn… lưỡi búa, lại chu đôi môi đỏ ao chế nhạo.
Thế là bao mệt mỏi trong tôi biến mất tiêu!
Phải nói trong đời thường, về sự thông minh, lúc nào vợ cũng hơn tôi một phép. Khi về làm dâu vợ tôi đã chứng minh đầy đủ điều đó. Ngoài sự hiếu thảo với cha mẹ chồng, vợ tôi còn nhiều đức tính như nhân hậu, cần kiệm…
Thuở đó, ở thành phố “nhà giàu” mới có tủ lạnh (ti vi chưa có), còn dưới quê thì tuyệt đối không, bởi có điện đâu mà xài! Nên những ngày đầu, tủ lạnh đối với vợ tôi là một phát minh khoa học lớn lao, nó đủ công năng, nên có cái gì cũng “thồn” vô trong đó. Có lần mẹ tôi mở tủ lạnh, rồi nói với vợ tôi:
– Tô mắm nêm nầy, con đừng có để vào đây, nếu không tất cả cái gì trong nầy đều có mùi mắm nêm hết.
Chỉ chờ có dịp nầy, tôi cười hí hí:
– Trái cây mà có mùi mắm nêm ăn càng ngon chứ sao mẹ?
Mẹ cười, còn vợ tôi cứ đem cái sở trường là bắn nửa mắt vào tôi.
Tôi khoái chí, nói theo kiểu đá banh thì “gỡ” được một, nhưng dường như chỉ có một mà thôi!
Khi con chúng tôi đã lớn, tuổi có thể về quê thăm ngoại một mình, thế mà một tối cả nhà xem ti vi, không phải nhằm đoạn hài mà vợ tôi cười ngất. Con hỏi, “sao tự nhiên mẹ cười?” Một lát vợ tôi mới trả lời được:
– Mẹ thấy bộ tướng ông thái giám đứng khúm núm kia giống”mấy thằng cha“ lần đầu coi mắt vợ quá!” Hi! Hi!
Biết bị xỏ ngọt nhưng tôi biết gì hơn ngoài làm…thinh! May sao đến chương trình quảng cáo, quảng cáo tủ lạnh, tôi nói tỉnh bơ:
– Tủ lanh đời mới coi bộ tốt à nghen! Nó tự khử mùi, dù “mấy con mẹ” ở vườn có để mắm nêm vô đó cũng không sợ hôi. Ha! Ha!…
Tức thì vành tai tôi bị kéo ra cả thước, tiếp theo là một giọng tru tréo, muốn nổi da gà:
– Trời..u.u..i! Chuyện cũ nhắc hoài! Nhắc hoài!
Vậy đó, “chuyện xưa” thì vợ tội nhắc được, còn “chuyện cũ” tôi nhắc thì như bị muốn nhai xương!
Có vợ miệt vườn, miệt quê là vậy đó!

THÁI QUỐC MƯU

ĐÀN ÔNG…KHIẾP LẮM!

thaiquocmuu

Không ghen chẳng phải đàn bà,
Không dối vợ nhà đâu phải đàn ông.

Thái Quốc Mưu

Mọi người đều bảo vợ tôi đẹp, so với tuổi “năm” thì “cụ bà” còn rất trẻ. Đặc biệt, nụ cười mặc dù đã ngoài năm chục nhưng những cô gái còn mơn mởn xuân thì khó thể sánh được. Tạo hóa đã ban cho “bà cụ” nhà tôi đôi môi đỏ mọng, nụ cười rất duyên dáng, đôn hậu, hiền lành… Bạn bè tôi thường bảo “ông được người vợ có nụ cười rất đẹp.” Có thể nhận xét đó chẳng sai lầm và ví dầu có kẻ nào ganh ghét vợ tôi cách mấy cũng không thể phủ nhận nụ cười tươi thắm của vợ tôi.

Riêng tôi – một thằng đàn ông lang bạt từ thời niên thiếu đến bây giờ, đang trong tuổi “tri thiên mạnh” – cũng thừa nhận và say đắm nụ cười ấy. Thật thế! Vợ tôi rất đẹp. “Bà cụ” đẹp từ hình vóc tới bản chất. Nàng đúng là típ phụ nữ “mặt tiền sáng sủa, điện nước trong ngoài đầy đủ.”

Quý bà chòm xóm, láng giềng người bản xứ hay cùng màu da mái tóc, những khi rảnh rỗi thường tới lui thăm viếng chuyện trò với “bà cụ” nhà tôi.

Hơn ba mươi năm trước, vợ tôi từng là Á khôi của một trường trung học ở Sài Gòn. Nàng rất được nhiều chàng trai săn đón, tán tỉnh… nhưng tất cả đều là những tên võ sĩ hạng tồi, bị tôi đánh gục dễ dàng.

Tôi có gì đặc biệt? Chẳng có gì cả! Tôi vẫn bình thường như những chàng trai cùng trang lứa. Có điều, xin bật mí, lúc tôi mới sanh ra, Đại Lục Tiên, một lão tướng số thời danh người Trung Quốc, đi ngang qua cửa tự ghé vào nhà, tìm gặp thân phụ tôi rồi phán: “Chúc mừng ông, bà nhà vừa hạ sanh quý tử, sau nầy dựng nên danh phận, tiếng tăm để đời, có điều mệnh tại cung đào hoa cho nên bản chất lang bạt, tình cảm lăng nhăng, nhiều bà lắm cô săn đón…”

Việc “bí mật” nầy, thân phụ tôi giấu mãi cho đến khi người lâm chung. Gần hai mươi năm trước, tôi tình cờ biết được lời phán của lão thầy tướng số qua lời kể của người anh lớn, sau khi ông nhắp mấy xị đế đến quắt cần câu rồi mới tự khai.

Nghe được lời “vàng ngọc” của lão thầy tướng số, tôi tự bảo thầm: “Có lẽ, trời sinh ra mỗi người có một số mệnh nhưng nếu bảo mình dựng nên danh phận thì.. coi như trật lất, còn bảo có số đào hoa thì… thì phải xét lại.” Tôi lại nghĩ “nếu ông ta bảo mệnh mình tại cung đào hoa không thôi thì chưa đủ, phải bảo thêm tâm ngự tại “cung đểu” nữa mới chính xác! Vì nếu mệnh tại đào hoa cung mà tâm tại Phật thì đếch thế nào đào hoa được!”

Nghĩ vậy, tôi liền tự xem tướng mình rồi tự phán “mệnh tại đào hoa, tâm tại đểu”. Và tôi lập thành châm ngôn, “phi đểu bất thành đào hoa”.

Tôi cùng vợ tôi lập gia đình, xây dựng hạnh phúc đã gần ba chục năm nay. Sống bên nhau, lúc nào nàng cũng tận tình chăm sóc, lo lắng, nuông chiều tôi hết sức chu đáo. Ngoài sắc vóc đẹp đẽ, tính nết nhu mì, hiền thục và… ghen. Vợ tôi còn là hội viên năng nổ của “Hội sinh sản”. Để chứng minh cho mọi người thấy mình là một thành viên hoạt động tích cực nhất trong hội, mỗi năm vợ tôi đóng góp cho nạn nhân mãn thêm một nhóc tì, riêng lần sinh thứ tám nàng “chơi” liền hai đứa song sinh. Thấy thế, tôi hoảng quá, nên tìm cách đi làm ăn xa. Năm sau, tôi trở về, vợ tôi bù lỗ một năm tôi vắng nhà, nàng “xoạc” ra một lần hai nhóc nữa. Ngày kỷ niệm mười năm chung sống, chúng tôi trình làng thành tích “chín lần đẻ đái với sáu cu, năm cái”.

Với thành tích hào hùng đó, ở người phụ nữ khác chắc chắn sức khỏe bị hao mòn, sắc vóc dần phai nhạt nhưng với vợ tôi thì khác. Cứ mỗi lần xoạc ra một nhóc tì thì nàng càng đẹp thêm ra, da dẻ càng hồng hào, càng mịn màng hơn trước. Nhiều bà lắm cô cứ theo hỏi vợ tôi dùng thuốc thang gì, thầy nào, ở đâu… mà được như vậy? Vợ tôi chỉ biết cười… trừ rồi thật thà khai báo chẳng thuốc thang chi cả và bảo rằng có lẽ trời thương nên mới được như vậy mà thôi. Vợ tôi càng thành thật, mọi người càng không tin, họ cứ cho là vợ tôi ích kỷ muốn giấu giếm để được trội hơn mọi người.

Tối đến, vợ tôi thỏ thẻ với tôi những điều đó. Tôi bảo nàng, “có trời nào cho em đâu, em nhờ thuốc của anh thì có!” Chẳng biết nghĩ thế nào, nàng bấu tôi một cái đã đời. Đúng là nàng suy bụng ta ra bụng người!

Thắm thoát chúng tôi sống bên nhau gần trọn đời người, thời gian không đủ khả năng làm phai nhạt sắc đẹp của vợ tôi. Có lẽ trời cho sắc đẹp cùng tồn tại với cái ghen của “cụ bà” đến khi nào không còn hiện hữu trên thế gian nầy nữa.

Nói đến cái ghen của vợ tôi thì “thế gian vô nhị” nhưng vợ tôi ghen đầm, ghen ngầm, ghen chịu đựng, ghen… trí thức. Hoàn toàn khác xa với những con sư tử Hà Đông ghen ẩu, ghen tả, ghen hỗn hào, ghen vô giáo dục, ghen hạ đẳng, ghen bóng, ghen gió, ghen tùm lum tà la, ghen bất kể… trời đất.

Nhưng dù với hình thức ghen thế nào chăng nữa, dù có rình rập thế nào chăng nữa… vợ tôi chỉ có thể nghi mà không thể khẳng định bởi tôi vốn là “hào hoa chi đểu” cơ mà!

Đã đểu thì phải đểu từ trong ra ngoài, phải đểu y như thật, đểu từ cuộc sống trong gia đình đến ngoài xã hội, đểu từ đình chùa đến nhà thờ nhà thánh,… Tóm lại phải có nghệ thuật đểu, đểu phải cao cấp. Muốn đạt đến mức thượng thừa của đểu thì phải biết đóng kịch, phải là kịch sĩ thứ thiệt, có biệt tài và năng khiếu, nếu không thì chẳng ai tin. Chẳng ai tin thì làm sao đểu được?

Đã là một phụ nữ đẹp, một vẻ đẹp quý phái dịu dàng rất hiếm hoi trong giới nữ, bên cái đẹp vợ tôi còn có tính nhân từ, hiền hậu, biết nhịn nhục, cần mẫn, cả cuộc đời chỉ biết chăm sóc chồng con. Quả thật, “bà cụ” là người vợ, người mẹ lý tưởng, tuyệt vời! Nhiều người bảo “ông có phước nên mới được bà nhà như vậy…”

Nhưng với kẻ đã mang số “đào hoa chi đểu” như tôi thì khác. Trước mắt tôi, trong lòng tôi vợ tôi đúng là người vợ tuyệt vời, quá tuyệt vời nữa là đàng khác! Nhưng hãy ví von, mỗi ngày ta cứ dùng món cari hay vịt quay thơm ngon, béo ngậy, chắc chắn không thể nào nuốt trôi được và vẫn muốn đổi bữa bằng những món khác như cá kèo, cá rô, rồng rồng, lòng tong kho tộ ăn với canh khoai từ, khoai môn mộc mạc… Tôi cũng vậy, là đấng nam tử, bậc nam nhi chi chí mà! Nếu muốn mà không làm thì sao thành người “quân tử”?

Ra khỏi nhà một người bạn, tôi định lên xe thì một phụ nữ tuổi ngoài bốn mươi ngừng xe trên sân ngôi nhà kế bên vừa bước xuống. Nàng nhìn tôi khẽ cúi đầu chào rồi nở nụ cười thật tươi, giọng ngọt như đường phèn:

– Chào ông! Ông là bạn của bác Quân?

– Xin chào bà, Quân là bạn tôi, chúng tôi biết nhau gần hai mươi năm.

– Hân hạnh được biết ông. Xin lỗi có phải ông là…

Tôi tiếp lời người đẹp:

– Tôi là Kỳ Nhân, thưa bà! Xin lỗi, tôi có thể được biết quý danh của bà?

– Xin ông đừng khách sáo, cứ gọi tôi là Thu Quỳnh.

– Ồ! Hân hạnh được biết bà. Bà Thu Quỳnh, tên của bà đẹp như người!

Thu Quỳnh liếc nhẹ tôi rồi mỉm cười duyên dáng:

– Ông Nhân, ông lại khách sáo rồi!

Xong, Thu Quỳnh đổi giọng:

– Tôi đã được đọc nhiều bài viết của ông trên các báo, hôm nay được gặp mặt, thật là vinh hạnh.

– Cám ơn bà. Tôi chỉ viết để mua vui thôi!

Thu Quỳnh nhẹ nhàng phản đối:

– Tôi không đồng ý, trong mỗi chúng ta đều có một mảnh, à không, mà là cả một bầu trời riêng biệt. Viết không chỉ để vui hay giải tỏa tâm tư mà còn trang trải, trao tặng tâm tư, ước vọng của mình đến với mọi người. Tôi chẳng biết viết lách là gì nhưng tôi rất tôn trọng những người cầm bút. Ngoài việc trang trải, gởi gắm tâm tư, ước vọng… Họ còn dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình trước quần chúng. Họ trao cho người và để lại cho đời bằng tất cả tấm lòng của họ. Tôi nghĩ thế có phải không, thưa ông?

Tôi hơi giật mình, nhìn lại người đàn bà xinh đẹp, dáng vẻ quý phái đang đối diện. Tôi tự nghĩ, đây là một phụ nữ có học, giàu kiến thức mới có thể có những nhận xét và ngôn ngữ tao nhã như thế!

– Thưa bà Thu Quỳnh – Tôi nói, bà nói rất đúng, nhưng trong giới độc giả không phải mọi người đều có sự suy nghĩ thông minh như bà.

Thu Quỳnh nở nụ cười nhẹ nhàng trên vành môi xinh mọng:

– Cám ơn ông, không dám làm phiền ông. Đây là nhà của tôi. Ba mẹ con chúng tôi ở với nhau. Trường hợp không có gì trở ngại, mời ông hôm nào đến chơi.

Ngừng một chút, hơi do dự, Thu Quỳnh tiếp:

– Hai cháu nhà tôi đi học từ chín giờ sáng đến bốn giờ chiều mới về. Ông có thể đến chơi lúc nào cũng được.

Sự linh cảm bật dậy trong lòng tôi. Không chút chần chừ, tôi đáp ngay:

– Vâng, tôi sẽ đến thăm bà!

***

Qua giao tiếp lần đầu, tôi biết tỏng “con cá kèo” Thu Quỳnh có sẵn cảm tình với mình, tôi liền áp dụng chiến thuật cố hữu đánh nhanh, tiến mạnh làm cho đối phương bất ngờ không kịp trở tay và… thích thú.

Mười giờ sáng hôm sau, lên tầng trên nhà, nơi đặt phòng làm việc của tôi. Tôi lấy cái cell phone, bấm số phone office của mình, chờ chuông reo vài hồi, tôi tắt phone rồi cất giọng oang oang:

– “Hello! Thời Báo nghe!”.

Ngừng một chút, tôi tiếp:

– “Vấn đề đó, như tôi đã trình bày với ông ngày hôm qua. Dà, không thể được! À! Vâng tôi sẽ đến gặp ông. Vâng, chúng ta sẽ cùng thảo luận lại. OK! Vâng! Mười lăm phút sau chúng ta gặp nhau! Bye!”

Tôi vừa úp phone thì thấy vợ tôi hai tay khệ nệ bưng bình trà lên. Tôi nhìn vợ, se lòng nhưng “con cá kèo” Thu Quỳnh ngon ơ làm biến mất nhanh chóng giây phút chạnh lòng ấy. Tôi làu bàu:

– Anh phải đi ngay để gặp ông giám đốc công ty Z. Có thể anh mời ông ta đi ăn trưa, em ở nhà ăn trước, đừng chờ và đừng để phần anh.

Nói xong, tôi lấy cái cặp nghề nghiệp luôn đặt sẵn trên bàn, một tay xách cặp, tay còn lại vòng qua thân mình vợ tôi siết mạnh rồi đặt lên trán nàng nụ hôn nồng nàn.

Tôi lên xe, trực chỉ đến con đường quen thuộc của nhà bạn tôi. Mươi phút sau, tôi đậu xe trước sân nhà Thu Quỳnh. Đã gọi hẹn trước, chỉ sau hồi chuông ngắn ngủi, người phụ nữ xinh đẹp hiện ra trước cửa. Nàng nhìn tôi đon đả:

– Chào ông, hân hạnh được tiếp ông, mời ông vào…

Tôi ngăn lời người đẹp:

– Xin xem nhau như bạn. Xin bà đừng khách sáo!

Sau khi thấy sự yên ắng trong nhà tôi tiếp:

– Bà ở nhà một mình?

Dường như Thu Quỳnh chỉ chờ câu hỏi đó nên sau khi nghe tôi hỏi, nàng khẽ thở dài, trút tâm sự:

– Hôm qua, khi hầu chuyện với ông, tôi có thưa, chúng tôi sang đây có ba mẹ con và giờ nầy hai cháu đều đi học.

Tôi làm ra vẻ mình lãng quên:

– Ồ! Xin lỗi bà, tôi nhớ lại rồi. Thưa bà, còn ông nhà?

Thu Quỳnh thở hắt ra rõ to:

– Thưa ông, nhà tôi qua đời trước khi ba mẹ con chúng tôi sang đây.

Tôi lại làm ra vẻ cảm thông:

– Tôi thành thật san sẻ nỗi đau của bà.

Thu Quỳnh tiếp:

– Biết sang Mỹ mà cô đơn như thế nầy, thà rằng tôi ở lại quê hương. Thú thật với ông, ông nhà tôi trước kia làm ngành y, anh ấy là bác sĩ X quang, qua đời sau ca phẫu thuật tim.

Sau lần “gặp gỡ đầu tiên ấy”, bản chất ăn quen bén mùi, tôi thường đến thăm Thu Quỳnh, nghe nàng tâm sự. Thế rồi chuyện phải đến tất đến. Con đường dẫn đến nhà Quân – bạn tôi – bào nhẵn vỏ xe tôi lúc nào không hay…

Mỗi khi từ nhà Thu Quỳnh về, lên xe, trước khi thắt dây an toàn, tôi lấy chai dầu thơm xịt quanh xe. Cứ sau mỗi lần “đổi món ăn chơi”, tôi thường làm như vậy và kinh nghiệm nầy là một trong nhiều mạng lưới an toàn có khả năng đánh lạc hướng, tránh được sự theo dõi, nghi hoặc từ “món cari” thơm phức của tôi. Mũi “bà cụ” nhà tôi thính lắm!

***

Sáng hôm sau, tôi đang nổ máy xe cho nóng thì vợ tôi nói:

– Nhà hết rau xanh rồi, anh chở em đi chợ một chút rồi hãy đi công việc nha!

Tôi vui vẻ sốt sắng:

– Sao lại không? Vợ cưng của anh muốn gì mà chả được!

Vợ tôi cười thích thú:

– Còn anh cũng là ông xã cưng nhất đời em.

Sự hổ thẹn xâm chiếm lòng tôi. Tôi đã đáp lại lòng yêu thương chân thật của vợ tôi bằng hết sự gian dối nầy đến sự gian dối khác. Vài phút sau, đợi đúng lúc vợ tôi mở cửa xe, tôi lấy chai đầu thơm quen thuộc ra xịt trong xe rồi nói:

– Chở người đẹp thì xe phải thơm tho.

Vợ tôi trả lời bằng ánh mắt, nàng cười không đáp.

Chừng mươi phút sau, trên đường đến siêu thị, chiếc cell phone của tôi reo lên từng chặp. Tôi biết tỏng ai gọi mình nhưng tôi đâu dại bắt phone. Giữ bình thản, nhìn vợ tôi bảo:

– Em bắt phone đi!

Vợ tôi làm theo. Nàng vừa dứt hai tiếng Hello! Đầu dây bên kia cúp máy. Vợ tôi càu nhàu:

– Ai gọi mà mình mới vừa lên tiếng thì cúp máy.

Vẫn giọng bình thường, tôi nói đùa:

– Đó là “chuyện thường tình” mà em!

Vợ tôi cũng đùa:

– Hay là bà nào gọi anh, nghe em lên tiếng mới cúp phone?

Tôi nhìn vợ âu yếm:

– Em không biết em đẹp như thế nào sao! Trái tim anh đã nhét kín em mấy chục năm nay rồi, đâu còn chỗ cho “con mẹ” nào chen vào!

Nghe tôi nói với luận điệu cứng cỏi, vô giáo dục như thế, vợ tôi rất hài lòng, “bà cụ” cười rạng rỡ:

– Em chỉ nói đùa thôi! À anh, đối với người đàn ông, sắc đẹp của người vợ là yếu tố chính để giữ hạnh phúc phải hôn anh?

Tôi cười đáp:

– Phân nửa thôi. Phần còn lại bao gồm nhiều yếu tố khác.

– …?

– Chẳng hạn tánh tình, cách cư xử với nhau…

– Anh thấy em có khuyết điểm nào không?

– Trên ba mươi năm vợ chồng mình sống trong hạnh phúc, đó là câu anh trả lời em.

Nói xong, tôi cầm phone bấm số quen thuộc. Tiếng chuông đầu dây bên kia vừa vang lên, đã có người nhấc máy. Tôi nói ngay:

– Hello cháu Hoàng! Chú xin lỗi đến trễ tí nha! Chú đang chở thím đi chợ, khoảng tiếng sau chú cháu mình gặp nhau.

“Bắn tin” xong, cúp phone, quay nhìn vợ mình, tôi nói:

– Anh có hẹn với cháu nầy nhưng em muốn đi chợ anh phải đưa đi nên gọi hẹn lại.

Vợ tôi tỏ vẻ hối hận:

– Sao hồi nãy anh không nói cho em biết? Việc làm ăn quan trọng hơn, nếu anh bận thì mình em tự lái xe kia đi cũng được. A, hay là đến chợ rồi trong thời gian em mua sắm, anh đi gặp cháu ấy, sau đó trở lại đón em!

Trong đầu tôi thoáng nhanh sự tính toán, so với nhu cầu của cuộc hẹn hò tình tự, thời gian ngắn ngủi ấy có thấm thía vào đâu! Nghĩ vậy, tôi đáp:

– Em cứ an tâm mua sắm, anh đã hẹn lại rồi. Sau khi mình đi chợ về, anh sẽ đến gặp cháu ấy.

Vợ tôi khẽ chép miệng, làm thinh.

“Bà cụ” bước vào phòng làm việc của tôi, nàng đặt bên tôi ly café đá. Xong, từ sau ôm choàng lấy tôi hôn nhẹ vào má tôi rồi bước xuống bậc thang lầu. Ngay khi đó, tiếng chuộng điện thoại reo lên. Tôi nhấc phone. Từ đầu máy bên kia, một giọng nữ:

– Anh Kỳ Nhân phải hôn? Sao mấy tuần nay em không thấy anh đi nhà thờ?

Tôi thật sự ngạc nhiên:

– Xin lỗi, tôi không nhận ra tiếng của ai?

Vẫn giọng miền Bắc mát lạnh:

– Thảo Chi đây mà! Anh đâu thèm nhớ giọng nói của em.

Tôi phân trần:

– Chẳng phải thế đâu, có điều chưa được tiếp xúc với Thảo Chi nên chưa quen giọng đó thôi. Thảo Chi vẫn khỏe? A, sao giờ nầy Thảo Chi còn nằm nhà? Hôm nay off phải hôn?

Vẫn giọng ngọt mềm:

– Em làm ca đêm, ngày nào mà chả ở nhà.

Tôi ngần ngại:

– Như vậy thì Thảo Chi nên nghỉ ngơi để lấy sức, tối còn đi làm. Mà nầy, ngọn gió nào đưa Thảo Chi gọi tôi?

– Mấy tuần qua không thấy anh đi lễ, sợ anh có chuyện gì nên gọi hỏi thăm vậy mà. Biết anh vẫn khỏe em yên lòng rồi.

– Cám ơn Thảo Chi. Đã trưa lắm rồi, cô nên nghỉ để giữ gìn sức khỏe.

– Cám ơn anh! Nhưng chẳng hiểu vì sao nằm nhắm mắt hoài mà không tài nào em ngủ được.

Tôi đùa:

– Không ngủ được thì cố mà ngủ.

– Biết thế! Nhưng không sao ngủ được cơ!

Sau câu nói ấy, tôi nghe rất rõ trong phone có tiếng thở dài thườn thượt.

Lòng không khỏi băn khoăn, tôi hỏi

– Thảo Chi, cô làm sao vậy?

Tôi lại cảm nhận được sự đè nén trong lồng ngực từ người bên kia đầu dây, tiếp theo là giọng nghẹn ngào, tâm sự:

– Đêm đêm em đi làm, sáng về đến nhà thì con cái đi học hết. Ăn xong, vào phòng nằm một mình, em không ngờ mình sang đây bị đời bỏ quên. Em cảm thấy cô quạnh quá!

Giả như có kẻ nào “dốt đặc cán mai” chẳng biết chuyện tình cảm yêu đương nam nữ là gì, nghe qua lời tâm sự ấy cũng hiểu, biết trong lòng đối tượng muốn gì, huống hồ tôi là kẻ “đào hoa chi đểu”?

Không bỏ lỡ cơ hội, tôi đổi ngay cách xưng hô:

– Trường hợp Thảo Chi thấy cần người để san sẻ nỗi cô đơn. Em cho phép anh đến thăm em nha!

Giọng Thảo Chi mừng rỡ, nàng thách đố:

– Anh dám xuống không?

Tôi thầm nghĩ, “con cá rô mề kho tộ” nầy đã thách thức mời gọi. Nàng muốn trao vàng cho tướng cướp. Trên đời nầy có kẻ cướp nào lại chê vàng?

Tôi xách cặp xuống lầu, thấy vợ tôi đang bày bữa cơm trưa. Nàng nhìn tôi nói:

– Anh định ra ngoài? Cơm nước đã dọn xong rồi, anh ăn uống rồi hãy đi nha!

Nơi bàn ăn, tôi ngồi cạnh vợ tôi, trên bàn bày la liệt các món ăn còn bốc hơi, mùi thơm thức ăn tỏa lên ngan ngát. Trong bữa ăn, như thường lệ, tôi gắp những món ngon cho nàng. Vợ tôi giẫy nẫy:

– Bộ anh muốn em làm bồ tượng hay sao mà cứ ép em ăn hoài, Em nấu nướng là vì anh thôi!

Suốt bữa ăn chúng tôi nói năng cợt đùa vui vẻ nhưng lòng tôi vẫn nhen nhúm hình ảnh “con cá rô kho tộ”.

Thảo Chi là một phụ nữ đẹp, nàng xuất thân từ dòng tu nữ Saint Paul. Nàng rời nhà dòng khi vừa hăm sáu, lập gia đình và chịu cảnh góa bụa khi chưa tròn ba mươi. Trong thời gian góa bụa, nhiều chàng võ sĩ trổ tài thi thố tài năng hầu mong được cặp mắt mùa Thu của nàng chiếu cố. Song tất cả đều thất bại. Nàng quyết định ở vậy, chẳng phải để thờ chồng mà là để chờ “ngày ra đi có trật tự”, không phải vướng bận rắc rối lôi thôi.

Tôi đến nhà Thảo Chi, nàng tươi cười đón tiếp. “Con cá rô mề” trước mặt tôi là một bông hoa rực lửa, nàng khoác lên người chiếc đầm ngủ màu xanh lơ để lộ hai gò bồng đảo no đầy không nịt ngực, khiến màu da thịt hiển hiện mơ huyền dưới làn lụa mỏng… Vốn kẻ tôn thờ chủ nghĩa thực tế, tôi nhủ thầm, “cơ hội đến mà không nắm bắt thì chẳng thể thành công”.

Nghĩ sao làm vậy. Tôi mở cuộc tấn công. Mười lăm phút sau, trong gian phòng của nàng, Thảo Chi nằm gối đầu trên tay tôi, nàng thỏ thẻ thì thầm:

– Chuyện tình cảm giữa anh với chị Thu Quỳnh tới đâu rồi?

Tôi chối ngay lập tức:

– Chỉ quen biết qua loa thôi, không có gì đáng kể.

Thảo Chi ngờ vực:

– Nhưng Thu Quỳnh bảo em, chị ấy với anh thâm tình lắm cơ!

– Có lẽ bà ấy nói đùa cho vui…

– Em hy vọng những gì anh nói với em đều bằng lòng thành thật!

Tôi khẳng định:

– Tất nhiên rồi!

***

Bữa cơm chiều hôm ấy, vợ tôi làm thêm món cà-ri Ấn Độ thơm ngon! Đó là một đặc sản mà tôi rất thích khẩu nhưng hôm nay, chẳng hiểu sao mới ăn vào vài miếng tôi ngán đến tận cổ. Trong bữa ăn, tôi chỉ nói cười chiếu lệ. Vợ tôi lo lắng:

– Anh làm sao vậy? Không được khỏe à?

Tôi lắc đầu:

– Không! Tự dưng anh thấy ngán món cà-ri nầy quá! Hay là hôm nào đi chợ, em mua cá kèo, cá rô về kho tộ, đổi món xem sao!

Vợ tôi ra chiều hối hận:

– Anh hổng nói, em đâu biết! Lúc trước anh nói, em có biệt tài nấu cà-ri và anh rất hợp khẫu vị, thỉnh thoảng em nấu để anh dùng. Nếu anh muốn ăn cá kho tộ thì ngày mai mình đi chợ nữa…

Tôi nhìn vợ tôi, nỗi thương cảm dâng trào, ngay lúc ấy, mùi cà-ri ngầy ngậy lại bốc lên, tôi khẽ thở dài bảo nàng:

– Ngon thật đấy nhưng ăn hoài cũng ngán lắm đó em!

Nghe tôi nói, “bà cụ nhà tôi” khẽ giật mình, do dự giây lát rồi nói:

– Món ăn thì như vậy, còn tình nghĩa vợ chồng thì như thế nào hở anh?

Tôi nhìn nàng như rất thành thật:

– Không thể đem thức ăn mà so sánh với tình nghĩa vợ chồng. Hơn nữa bên anh, em là người vợ tuyệt vời. Rất tuyệt vời đó em yêu!

Vợ tôi cười, nửa đùa nửa thật:

– Nhưng em chỉ sợ đến ngày nào đó, anh chán em như ngán ăn cà-ri vậy.

Tôi cười thật to, đáp:

– Nhưng em không phải là món cà-ri. Em là một con búp bê xinh đẹp.

Vợ tôi trề vành môi đỏ mọng rồi nàng xì một cái thật dài:

– Cho em xin đi ông. Nịnh nhau vừa thôi!

Tôi hú hồn và cảm ơn cách nghĩ đơn giản của vợ tôi. Giả như nàng hiểu, con búp bê dù đẹp đẽ thế nào, nhìn mãi, nhìn hoài cũng mất dần thích thú. Chính vì thế, người ta mới nghĩ đến những con thú nhồi bông khác.

Trong tôi, cứ sau mỗi lần lang thang với “bà hàng xóm” tôi cảm thấy thương vợ tôi nhiều hơn bởi vì nàng luôn luôn tin tưởng một cách chủ quan rằng sắc đẹp, đức hạnh của mình là bức tường kiên cố giữ được lòng chung thủy của đức lang quân… đồng thời cũng tuyệt đối tin tưởng vào cử chỉ săn sóc, âu yếm, lời lẽ ngọt ngào và sự nuông chiều… của tôi – người chồng mà nàng hết lòng yêu thương, tôn trọng.

Nhưng, “bà cụ nhà tôi” biết sao được, trong chuyện tình cảm nam nữ, đàn ông nói chung và riêng tôi, như là một thứ sinh vật ma mãnh, xảo trá, quỷ quái nhất trên đời! Và chẳng người đàn ông nào không ham thích “ăn” món lạ!

Còn quý bà? Quý bà sẽ làm thế nào nếu gặp phải ông chồng “đào hoa chi đểu” như… tui?

Thái Quốc Mưu

HOA KỲ HỐT RÁC VIỆT NAM VỀ XÀI

thaiquocmuu

Ngày nay, người trong nước đi du lịch ra nước ngoài không ít, còn người có thân nhân ở nước ngoài nhiều hơn. Nhất là ở Mỹ. Nhờ đó, hai nền văn hóa Đông Tây không còn xa lạ, cách biệt như thời xa xưa. Tuy nhiên, dù du lịch đến Mỹ, định cư ở Mỹ hoặc có thân nhân từ Mỹ về nước kể chuyện Mỹ cũng không ai có thể tự hào biết nhiều về đất nước có gần 10 triệu cây số vuông.

Sau bảy, tám năm “thụ huấn” trong các trại “cải tạo” được trở về với gia đình. Tại địa phương nhà, tôi không còn là người mà là một thứ cặn bả, một thứ rác rưới của xã hội. Thậm chí còn tệ hơn thế nữa! Chừng tháng sau ngày về, trong khi tôi đang lui cui xách nước từ giếng lên, thì một “vị” du kích, đến tự lúc nào, đứng phía sau cái chòi không mái, không vách của tôi, vẫy vẫy tôi và nói to, “Ê! Thằng già vô biểu coi” (khi ấy tôi 42 tuổi). Tôi vội vàng chạy vô, đứng trước mặt “vị quan du kích” ấy. “Ông” ta, khoảng hăm ba, hăm bốn tuổi, đưa cho tôi tờ giấy và bảo, “Ngày mai đem lương khô một tháng vô rừng lấy cốt chiến sĩ đem về nghĩa trang liệt sĩ.”

Là kẻ khi trong tù bị vợ “chia xa”, về không có cơm ăn, quần áo duy nhất chỉ là bộ đồ phát trong trại mà lưng áo được vá trọn bao cát. Với bầy con 6 đứa nheo nhóc, đi làm công không ai dám mướn vì sợ vấy với hủi, họ sợ bị “mời, gọi” lôi thôi. Phải đi hái mót bắp, đậu, chuối chín, đu đủ chín trên cây ăn qua ngày, (vì trái chín không chuyên chở được, chủ rẫy thấy thương tình cho hái ăn)… thì… lấy lương khô đâu mà đem theo một tháng?

Tối hôm đó, tôi thì thầm với phụ thân tôi, để bầy con lại cho cha già 72 tuổi, đã bị đánh tư bản tan tác, nên nghèo xác xơ. Tôi trốn lên Sàigòn, không hẹn ngày về, mỗi ngày tay cầm ly, tay xách ấm nước bán trà đá ở bến xe, tối mướn chiếu ngủ ở đó.

Do sống bất hợp pháp. Nhiều đêm bị “giặc càn” tôi chạy thụt mạng.

May, nhờ Trời xót thương…

Tôi đến Mỹ ngày 22-02-1992, tính đến khi viết bài nầy thì… trong 76 tuổi đời mà nương thân xứ người hết 24 năm, coi như một phần ba cuộc đời “vừa làm Việt Gian vừa là Việt Kiều Yêu Nước”. Vậy mà tôi vẫn là thằng tôi, một kẻ chân quê thứ thiệt, là kẻ có dân tộc tính đầy mình, nhất định không thèm… nói tiếng Mỹ. Ra cửa, trên đường gặp người bản xứ, chẳng thèm “Hi!”, chẳng thèm “How are you?” gì ráo, tôi chỉ đưa tay lên cười là… xong.

Đi đâu gặp dân mũi tẹt da vàng đồng lứa nghe họ xổ tiếng Mỹ ì xèo, thấy hứng quá, không kềm lòng được tôi bèn xoạc, “Hao a-rờ du tùm lum”, kể cũng oai!

Ở Mỹ tôi trung thành với bản chất Chân Quê của Nguyễn Bính, vẫn “… cái yếm lụa sồi? Cái dây lưng đũi… cái áo tứ thân?… Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?”

Lúc mới đến Mỹ, hội bảo trợ đưa tôi vào làm hãng (ở Mỹ dù là Corporation nhưng “dân ta” vì “tự ái dân tộc”, chẳng thèm gọi là Công ty mà chỉ gọi là hãng (Company) mà thôi) bào chế dược phẩm, đi đâu gặp bạn bè họ hỏi tôi làm gì? Tôi đáp, “lau chùi cầu tiêu”. Họ ngạc nhiên, “ở đây làm gì có hãng cầu tiêu mà cần người lau chùi? Nói thật đi cha, anh làm hãng gì?” / “Hãng bào chế dược phẩm, nhưng phần hành là lau chùi cầu tiêu” / “À ra thế! Nhưng nè, ai có hỏi thì anh nói là làm ở hãng dược chứ đừng nói lau chùi cầu tiêu nha!” / “Dược mẹ gì mà dược? Tôi chùi cầu tiêu thì nói chùi cầu tiêu. Sao lại phải nói là dược?” / “Ngày trước mình làm ông nầy ông nọ chẳng lẽ giờ qua Mỹ lại đi chùi cầu tiêu? Mình phải có tự ái dân tộc chứ anh!” / “Tự ái cái quái gì cho mất công, làm gì thì nói nấy cho xong. / Bộ anh không biết tự ái sao? Nếu mình làm Job (công việc) ngon thì mình nói để còn hãnh diện với người ta, chứ lau chùi cầu tiêu mà nói làm chi?”

Thì ra, nhiều người vẫn thích cái “ảo” giữa đời.

Chả trách, có lần về nước, khi trở qua Mỹ, ngồi nơi phòng chờ ở phi trường Tân Sơn Nhất, gần một “vị” khoảng gần năm mươi, dáng gầy gầy, tay chân gân guốc, màu da Phi châu… Buồn miệng tôi bắt chuyện mua vui. Khi tôi hỏi, “Xin lỗi, ở bển (Mỹ) chú làm hãng gì?” “Vị” ấy đáp rất “oanh liệt”, “Tôi có công ty riêng” / “Ồ vậy à! cho tôi xin lỗi”. “Trời bất dung gian”, vị ấy muốn đi vệ sinh, cô vợ đang đứng tán gẫu gần đó, trở lại ngồi trông hành lý ngay ghế người chồng vừa đứng lên. Tôi tự nhủ, “mình chân quê thứ thiệt mà nhìn cô nầy còn chân quê rặc ròi hơn mình nữa…” Tôi nghĩ ra câu châm ngôn, “Ở đâu, nơi nào cũng có người hơn mình” (hơn điều gì là việc khác). Thấy cô ta chân chất như khoai sắn, tôi gợi chuyện, “Bên Mỹ hai ông bà mở công ty gì vậy cháu?” / “Làm gì có công ty hả chú? Cháu đi làm hãng, còn chồng cháu thì cắt cỏ” (tức là nghề cắt cỏ thuê ở sân, vườn các tư gia). Lát sau, thấy vị ấy trở lại, tôi đứng lên, nhường ghế cho ông ta ngồi bên vợ mình.

Nhiều “Việt kiều ác ôn” ở Mỹ đi cày tróc vẩy, về nước nổ như B52 oanh tạc ầm ầm, như Việt Cộng pháo kích đùng đùng. Thiếu điều điếc con ráy.

Công ty Dược tôi làm, rất nhiều nhân viên có 5 restroom (phòng vệ sinh), mỗi restroom có 10 bàn cầu, 5 bồn tiểu, cứ luân phiên lau chùi hoài, hết cái nầy đến cái kia, ngày lau chùi 8 tiếng, muốn “ná thở” chứ chơi sao? Nói tội lỗi với trời đất, phòng vệ sinh ở Mỹ còn sạch sẽ hơn cái “biệt thất” của những người đồng bệnh “cải tạo” với tôi khi trở về sum họp vợ con.

Sau giờ “công tác” ở hãng về, tôi giết thời gian bằng cách viết văn, làm thơ gởi cho vài tờ báo. Sau hai năm lau chùi cầu tiêu, tôi gom góp tiền đi làm của ba đứa con, ra tờ Tạp Chí Kiến Thức Phổ Thông Dân Việt và sống bằng nghề báo đến ngày nghỉ hưu.

Về văn học, thỉnh thoảng bạn bè ở khắp năm châu – kể cả trong nước, khi ra tuyển tập, họ mời tôi hợp tác. Tính đến nay, có khoảng 60 tác phẩm văn học viết chung ở Mỹ, Pháp, Úc, Canada, Việt Nam… Còn riêng mình, tôi có 11 tác phẩm văn thơ, một tuyển tập nhạc và một CD ca cổ và chủ nhiệm trang nhà liêutiênsinh.com (vì tuổi già, tôi tự động bỏ mấy năm rồi).

Tính tôi “ngông ngông” ăn ra ăn, làm ra làm, khi “chơi” thì hết biết, nên sách tôi viết không cuốn nào dưới 350 trang, có cuốn đến 600 trang. (Khác xa với những vị đầy thông minh, họ in một tác phẩm chừng hơn trăm trang, đôi khi còn ít hơn nữa. Để hầu khi “rặn” thêm tác phẩm nữa ra điều “ta đây” ra mắt tác phẩm thứ hai!).

Những vị cầm bút xưa nay “bị bệnh khen” không tiếc lời, họ khen tôi tóe lửa, khen đáo để. Thậm chí có vị ở Việt Nam còn viết cả cuốn sách 400 trang chỉ nói về tôi và giao công ty Amazon ở Mỹ phát hành toàn cầu. Wow! Kể cũng vui!

Nhưng vốn là RÁC tôi không muốn mặt mình phình lên như xác chết ai kia để lại chỉ làm ô nhiễm môi trường xã hội.

Có những ông cầm bút thân thiết trong giới viết lách họ gọi tôi là “thợ đụng”, đụng thể loại nào tôi chơi thế loại đó! Chẳng kiêng cử gì cả. Từ Bình luận, phê bình văn học, truyện ngắn, truyện dài, các thể thơ, tản mạn, phiếm, cả Cổ Nhạc tôi cũng… chơi luôn. Có người với “ngụ ý chơi khăm” họ nói, “Thứ nào anh cũng “chơi!” Làm như tôi là lính viễn chinh khát gái vậy!

Về sinh hoạt văn học nghệ thuật, tôi được bầu làm Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Đông Nam Hoa Kỳ và Florida, là thành viên International PEN và thành viên Văn Bút Đông Dương (Indochine Writes In-Exile). Dự Đại Hội Thi Ca Quốc Tế ở nhiều quốc gia, Và vài lần dự Đại Hội Truyền Thông Báo Chí Hoa Kỳ.

Về sinh hoạt quần chúng, ngày kỷ niệm không quân Hoa Kỳ, tôi được làm khách mời, chụp hình chung với tướng tư lệnh ba sao, kể cũng hay hay!

Còn Bộ Trưởng Du Lịch Hàn Quốc, sang Mỹ, trước khi trở về nước, tổ chức bàn tiệc chiêu đãi 7, 8 người, chẳng biết vì sao cũng được Ban Tổ Chức mời dự. Tính tôi hay chiều người, ai “ép ăn” thì đi. Khi sắp tàn tiệc, ông ta trao tôi tấm danh thiếp và dặn, “khi nào đến Seoul, ở đâu xin gọi tôi”. Khi ra về, ông ta vội vàng bước ra cửa, cúi rạp người rồi bắt tay tôi chào tạm biệt. Trời! Làm như tôi là… Chủ Tịch Nước… (nào đó) không bằng.

Đọc tin tức, thấy anh chàng gốc Phi Châu da đen thui, người ốm tong muốn đổi chiến lược Hoa Kỳ bằng cách quay lại Châu Á Thái Bình Dương, tôi liền viết thư gởi cho anh chàng có màu da đen, ốm nhách ấy, nhắc nhở đôi điều…”. (Ông ta là người mà Putin Tổng Thống Nga, khi đối diện với đồng nhiệm đấu lý không lại, bèn hùng hồn mạt sát với thủ hạ, “Tôi đã từng đấu với gấu, chẳng lẽ lại sợ thằng ốm nhách nầy sao?” Thật lãng xẹt! Putin đúng là một lãnh tụ “gương mẫu”, một tay ngoại giao tầm cỡ, một cách nói “lịch sự” biểu hiện của kẻ còn thua… Rác Việt Nam như tôi)

Được thư tôi, anh ta mừng húm mấy ngày sau tôi nhận được thư hồi đáp. Thư gởi tôi anh ta cám ơn lia lịa, lại còn bày đặt khuyến khích tôi vào trang mạng White House để tham gia chánh quyền Hoa Kỳ. Trời! Làm như tôi là “Tiến sĩ gió!”

Được chút thành công trong viết lách, nghề làm báo, “thừa thắng xông lên”, tôi mở công ty Quốc Tế Vụ, đưa học sinh từ Việt Nam sang Mỹ học. Gõ đúng cửa vào thời gian Mỹ còn hạn chế du sinh từ Việt Nam sang Mỹ, lại thành công. Với “chiến thắng không ngừng nghỉ”, nghe lời người bạn rủ rê, tôi cùng anh ấy thành lập công ty xuất nhập khẩu THÁI & NGUYỄN IMEX, INC. đưa máy lạnh, máy giặt, máy sấy, xe gắn máy về Việt Nam, nhập hàng gỗ từ Việt Nam qua Mỹ. Ông Trời thấy “thằng nầy” tham quá, cho “chết” một lần để nó có kinh nghiệm sống. Thất bại 100%. Trắng tay! Giờ sắp theo ông theo bà, hưởng hưu và trợ cấp $700/tháng. Khi đau bệnh “bắt đền” chánh quyền Mỹ phải lo. Ai biểu để tôi bệnh làm chi, để “nó” lo cho đáng đời!

Đôi khi, bất chợt thấy trong người khác lạ, bảo con cháu gọi xe cứu cấp, vài phút sau, xe đến trước nhà, bốn năm “ông Mỹ” bấm chuông reng reng, đập cửa rầm rầm, vác băng-ca, dụng cụ cứu cấp,… chẳng khác gì bọn cướp hùng hổ xông vào nhà, chạy lên lầu, ông thì đo huyết áp, ông nghe mạch, ông “điều tra” hôm qua ăn gì, sáng nay ăn gì, đã uống thuốc gì, phải “thật thà khai báo”,… Không thì “ông” cho “tự vận” trong đồn Công an.

Xong, hè nhau khiêng ông cụ 70 ký xuống lầu, tống vô xe, đèn cấp cứu quay lia lịa, còi hú rợn người, trên đường tất cả xe đang chạy đều phải dạt ra hai bên đường và ngừng lại hẳn. Đến ngả tư đèn đỏ, còi hú dồn dập hơn, to hơn, báo cho xe chạy trên “khắp các nẻo đường đất nước” phải tránh xa, để xe cứu cấp vượt đèn đỏ khẩn cấp đưa “ông cụ về Dinh”.

Vào bệnh viện, nhiều cô y tá xinh như mộng, mỗi lần đo huyết áp miệng cười như hoa, khi tiêm thuốc, lụi xong thì “xin lỗi đã làm ông đau”. Hết y tá, đến Bác sĩ luân phiên hoài. Chán bỏ bu! Mẹ! Tôi chỉ là thứ Rác trong nước, mà Mỹ “nó ngô nghê” đến mức coi mạng sống tôi chẳng kém gì những công dân thượng đẳng trên thế giới. Đúng là “đồ điên!”

Nhớ lại, có lần về trong nước, tôi bị bệnh, “bồ nhí” đưa vào Chợ Rẫy, phải xì tiền mới được khám, mới có giường nằm, tim thuốc thì phải nạp vài chục ngàn để làm vừa lòng “quan y tá”. Không thì “sao biết sau sẽ ra sao!”

(Xin mở ngoặc, nói thêm chuyện xe cứu cấp, xe chống hỏa, để quý bạn đọc mua vui)

Hồi năm nẳm, một lần lái chiếc Mercedes đời mới, mua xong đi xin số xe, nhân viên phụ trách phải buộc miệng, “Xe ông đẹp quá! Đây là chiếc thứ hai ở tiểu bang mình”. Khi lái xe đi bưu điện lấy thư, lúc trở ra đường, chờ đèn xanh quẹo trái. Từ hướng trái, cách khoảng 300m, một xe chống cháy quay đèn, hụ còi inh ỏi, tự nghĩ còn xa, vừa lúc đổi đèn xanh quẹo trái liền, chạy chưa đầy 50 mét, nhìn kính chiếu hậu, thấy xe Police quay đèn sáng rực sau đuôi xe, tìm chỗ tấp vào, bấm kính xe xuống, hai tay để trên tay lái thì… xe cảnh sát “hộ tống” trờ tới, đậu sát bên.

Người cảnh sát nữ da màu, bụng bự, vú như hai trái dưa hấu, lúc lắc bước đến, “Chào ông, xe ông đẹp quá!” / “Cám ơn! Xin lỗi, tôi đã phạm lỗi gì?” / “Ông đã quẹo trước đầu xe chống cháy đang “thi hành công vụ”. “Ông có nhận lỗi không?”… Thế là… ký tên vào và nhận giấy phạt, chờ ngày “đối diện với quan tòa”.

Ngày ra tòa, ngồi chờ khá lâu, thì tới lượt “đứng trước vành móng ngựa” (nói vậy chứ chỉ đứng trước bàn làm việc của ông Tòa thôi). Quan tòa nói, “Ông có nhận lỗi không? / “Yes sir” / “Ông biết lỗi ông nặng lắm không?” / Yes Sir!” / “Thấy ông lớn tuổi, phạm lỗi lần đầu, tôi rất muốn tha ông, nhưng lỗi nầy nặng quá. Xin lỗi, tôi phải phạt ông $600 (sáu trăm). Ông có bằng lòng không?” / “Yes Sir!” / “Ông muốn khiếu nại không?” / “No Sir!”. Thế là nhận và “vác” giấy phạt đem về nhà.

Sau đó, nhận giấy từ tòa gởi đến, nội dung như sau: Nợ $600.00. Mỗi tháng trả tối thiểu $15.00. (cứ như vậy trừ dần cho tháng kế, đến khi nào trả hết thôi). Tính tôi vốn “sợ nợ”, liều mình, bấm bụng ký cái check trả quách một lần cho xong.

Tôi than với bằng hữu, “mới ra tòa, bị phạt sáu trăm”. “Họ hỏi, vụ gì vậy?” Đáp, “Đua với xe chống cháy.” Họ trợn mắt, cười rồi phán, “Đáng đời!”

Là kẻ lưu lạc quê người mà lọt thỏm vào thiên đàng hạ giới, thành công có, thất bại có, “vinh quang” tủi nhục đầy mình. Vậy mà, tôi vẫn là tôi. Vẫn chân quê rặt ròi của người dân Nam Bộ.

Ở Mỹ, sau 5 năm, vào quốc tịch Mỹ, nhiều người thay tên đổi họ cho thành công dân Mỹ chính thống. Còn tôi, vốn quê mùa vẫn giữ Thái Quốc Mưu, nhưng ở Mỹ người ta “tự cải biên” biến tên tôi thành “Mưu, Quốc Thái”. Tôi rất khó chịu về cái tên quỷ quái nầy. Vậy mà, bây giờ ở trong nước, thỉnh thoảng tôi thấy có người đã đảo lộn họ tên như thế!

Với tôi, cái tên của Cha Mẹ đặt cho tôi, cũng như với Tổ Quốc Việt Nam có cái gì thiêng liêng cao cả và vĩnh hằng. Vì thế, với tổ quốc, tôi có châm ngôn “Non sông tổ quốc cao hơn hết. Hãy đặt lên trên mọi vấn đề.” Bản chất thật thà, chân chất nhưng đầy khi phách của dân tứ chiếng Nam Bộ, nên tôi không theo phe phái, còn bạc tiền hay quyền lực nào đủ sức mạnh đẩy tôi vào còn đường phản bội quê hương, dân tộc mình.

Có lẽ do “NGU” nên tôi nên tôi chẳng biết “phi thương bất phú, phi mại quốc bất vinh thân”. Và, tôi tự bảo, tự an ủi mình, thà ngu như mầy để về sau không bị lịch sử lên án, dân tộc nguyền rủa.

Có lần chơi biển, tôi thấy các nàng Mỹ, chân dài như cây cau lão, cô thì mặc quần xì, cô kia nịt ngực đều may bằng hình lá quốc kỳ Mỹ. Thậm chí, có cô thêu 3 chữ USA ngay trên Cái Quạt Giấy của Hồ Xuân Hương. Lạ! Ở nhiều quốc gia khác, nếu có kẻ nào xâm mình, may quần lót, nịt ngực có biểu tượng lá Quốc Kỳ nước đó, thì chắc chắn không tù mọt gông thì cũng “tự vận” trong đồn công an.

Khi về, tôi đến nhà người bạn Mỹ cùng xóm, dùng tay “hỏi cho ra lẽ”, vì sao những người ăn mặc như vậy mà Police không bắt. Ông ta cười đáp, “người ta thích Quốc Kỳ, yêu nước của mình, họ mới mặc như vậy. Ông không nhớ ở nước ông thường hô hào, “chỗ đó” là cái ngàn vàng, vậy lấy Quốc Kỳ, lấy đất nước mình giữ cái nghìn vàng có gì là tội lỗi? Nhưng ông nên nhớ, khi Quốc Kỳ bị cũ, rách ông phải xếp lại đàng hoàng, cho vô bọc nilon rồi đem giao cho Bưu Điện hoặc Ngân Hàng gần nhất. Ngược lại, nếu ông không làm như vậy mà đem Quốc Kỳ Mỹ ném vào thùng rác thì ông sẽ bị truy tố trước tòa án.” Quái!

Sơ sơ đã thấy, ở quê hương tôi, tôi là Rác, thậm chí còn tệ hơn rác, người Mỹ hốt rác từ Việt Nam về nước họ đặt rác lên bàn. Đúng là tên Sen Đầm Quốc Tế “điên” quá đi thôi!

Phần trên, tôi cố tình “huênh hoang, xạo và nổ” để có cớ lấy tôi làm điển hình cho những thứ “RÁC” mà Việt Nam đem vứt bỏ để bọn “Đế Quốc Mỹ” tha hồ nhặt đem về nước Mỹ, để rồi ngày nay sang thế hệ thứ hai của Rác, trong quân đội Mỹ có một Chuẩn Tướng, hàng chục Đại Tá, vài chục Trung Tá, còn cấp dưới hơn thì hàng hà sa số. Tất cả đều được đào tạo đúng với tiêu chuẩn sĩ quan quốc tế. Còn hàng dân chính thì biết cơ man nào kể xiết!

Thế nào là tiêu chuẩn Sĩ Quan Quốc Tế, tôi không rõ lắm. Có điều tôi biết chắc chắn rằng, với học vị Tiến sĩ Y khoa (Bác sĩ) tốt nghiệp ở Việt Nam, nếu qua Mỹ mà không học lại thì chỉ có nước ngày cày 8 tiếng ở hãng mà thôi. Từ học vị Bác sĩ, ta có thể tự suy nghĩ tiêu chuẩn Sĩ Quan Quốc Tế khác với bọn sĩ quan đào tạo kiểu Tàu phù như thế nào?

Sĩ Quan được đào tạo như bọn sĩ quan Tàu phù nếu trôi dạt ra nước ngoài chẳng ma nào thèm dùng chúng điều binh khiển tướng. Còn sĩ quan Mỹ đến bất cứ quốc gia nào cũng được “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”. Đó là điều không ai có thể chối cãi.

Nếu thế hệ RÁC thứ thứ nhất ở Việt Nam, “không bị Đế Quốc Mỹ” hốt về Mỹ, thì những thứ RÁC như TUI làm sao được ngồi chung bàn “đớp hít” với Bộ trưởng Du Lịch Hàn Quốc? Làm sao được đứng chung chụp hình với Tướng Tư Lệnh Không Lực Mỹ, với Đại Sứ Mỹ, với mấy ông Giám Mục, Tổng Giám Mục cùng vô số Học giả, Tiến sĩ, Viện Sĩ… ở khắp nơi trên thế giới?… Và, làm gì có thế hệ RÁC thứ hai lớn lên ở Mỹ, đã cung ứng cho đất nước Mỹ vô số nhân tài, như Sĩ Quan, Hạm Trưởng, Nghị Viên, Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ, Cố Vấn Chánh Phủ, Bác sĩ, Luật sư, Nhà khoa học, Học giả… vân vân và vân vân.

Và, giả sử, nếu bây giờ thế hệ RÁC thứ hai đó còn ở lại Việt Nam họ sẽ như thế nào? Câu hỏi ai cũng có thể trả lời: “Lượm bọc là cái chắc!”

Nếu đất nước tôi không phí RÁC cho Mỹ hốt đem qua Mỹ, thì giờ đây làm gì có “huyền thoại” “Tập Cận Bình” hay quan chức của ông ta sang Mỹ phải đi cửa hậu để tránh bị RÁC ném thứ gì đó vào mặt mũi? Buồn thay!

Tiếc thay, đất nước tôi đã một thời hoang phí “RÁC!” Ai là kẻ chịu trách nhiệm những sai lầm nghiêm trọng và mất mát lớn lao nầy?

Người viết không đủ khả năng trả lời.

Atlanta, Aug. 01, 2015
Thái Quốc Mưu