SỐNG NHƯ LẦN NỮA

Có bao giờ bạn trải qua cảm giác này chưa? Mà chắc là rồi: Bạn soạn sành, sắp xếp lại sách vở, hoặc đem sách ra khỏi thùng để giải ẩm, bỗng dưng bạn gặp lại một tựa đề từng quen, và nhớ rằng mình đã đọc quyển ấy từ lâu lắc xa xưa. Bây giờ lướt lại vài trang –và do đó buổi soạn sách của bạn bị đình chỉ ít nhất một ngày– tim bạn khẽ rộn ràng khi bắt gặp vài đoạn văn đằm thắm mà mãnh liệt, mãnh liệt vì chúng lập tức lôi bạn tuốt trở về hơn nửa thế kỷ trước.

Khẽ rộn ràng như vậy, rồi sau đó tôi xao xuyến nhớ lại lần đầu làm quen với những đoạn trích mà cô giáo đọc cho nghe hồi thời học lớp 3. Nhớ lại phòng học nhỏ xíu, hẹp, dài, và nóng, với cô giáo lúc nào cũng rịn mồ hôi ở màng tang, cô giáo với cây thước kẻ vuông, bằng nhựa trong suốt…

Cô đọc vài đoạn văn. Với học trò lớp 3 thì không hiểu hết văn chương của những cây bút lỗi lạc đâu, nhưng chữ nghĩa, nhất là không khí của những đoạn hay đẹp ấy, đã âm thầm ghi lại dấu ấn của chúng. Tấm lòng của học trò đã nhiễm phải những cái hay cái đẹp như phiến trinh bạch nhuộm màu. Rồi quên. Tưởng đã quên. Để hơn nửa thế kỷ sau tình cờ gặp lại thật se sắt tâm can, khi đó là…“…ngày đẹp nhất buổi cuối mùa thu. Không khí thật sắc, thật trong, nhưng nắng vẫn còn nóng và trời không mây. Ta nghe tiếng chim sáo bay trong đám cây bách xù. Một con thỏ rừng màu hung ngạc nhiên dừng chân giữa vùng đất truông gai, rồi nhảy phóc thật mạnh sải nhanh sát đất. Lũ quạ gọi nhau; có tìm chúng thì cũng không thấy đâu. Có thể nói rằng đó là sành sứ xanh lơ của bầu trời rạng vỡ. Trong đám giậu trụi lá, những trái của cây tầm xuân đã mềm và dịu vì đẫm sương đêm.” (trang 177)Gặp lại những đoạn văn như vậy, mà ngày xưa ta từng nghe cô giáo giảng, hoặc đọc viết chính tả, làm sao mà không khiến ta xao xuyến?

Tất nhiên tôi không dám tự cho rằng mình đã lột tả được hết cái ‘nhã’ khi dịch văn của Giono. Nếu chỉ được cái ‘tín’ thì đã là khá rồi. Bởi vì văn Giono là một thách thức cho người dịch. Không, văn của ông không khó hiểu như văn của James Joyce với Ulysses, cũng không phải kiểu mệnh đề nhỏ lồng trong mệnh đề lớn, rồi lại lồng trong các câu dài cả trang giấy kiểu như Marcel Proust khi ông đi tìm ‘thời gian đã mất’. Văn của Giono bình dân, loại bình dân thôn dã, chứ không bình dân phố thị như Simenon. Thể hiện lại cái khẩu khí bình dân đã là khó cho người dịch, ngoài ra văn của Giono còn rất địa phương, cái địa phương Manosque mà nhà văn sinh ra, lớn lên, và qua đời ở đó, mà chưa hề rời khỏi. Mà không chỉ từ ngữ địa phương… bình thường, Giono dùng tiếng lóng, loại tiếng lóng cách nay hơn thế kỷ, mà ngay cả người Pháp đương đại cũng khó mà hiểu hết. Tôi có vài người bạn ở Lyon, tôi đem những tiếng từ này hỏi họ. Họ thú nhận là không hiểu, bảo rằng ‘Để tao hỏi ba tao, may ra…’Còn lại thì những tiếng từ phổ thông cũng khó dịch, không phải vì chúng khó hiểu, mà vì chúng giàu nghĩa quá. Ngay cái tựa đề của tác phẩm. Trong tiếng Pháp, nghĩa đầu tiên của Regain là loại cỏ dại mọc trở lại sau khi nông dân đã gặt xong. Nghĩa thứ hai là sự cánh sinh của một vùng đất mỏi. Nghĩa thứ ba mở rộng từ nghĩa thứ hai, nói về sự phục hồi, chẳng hạn như phục hồi sức khoẻ sau cơn bạo bệnh. Nhưng đọc tác phẩm, ta biết là ‘hổng phải vậy đâu’, khi bắt gặp thân phận đớn đau của những nhân vật, mà nếu không có Giono, lẽ ra họ đã lặng lẽ tàn phai ở miền đồi núi vùng sâu nghiệt ngã. Những thân phận ấy tưởng đã bị đóng đinh rồi, nhưng một phần nhờ sức bật của họ, một phần do tình cờ (chăng?), mà họ sống lại, làm lại, hay nối lại ước mơ dang dở một cách được chăng hay chớ. Nhìn chung, là họ ngẫu nhiên sống thêm lần nữa.

Chính vì vậy mà tôi chọn dịch ‘Regain’ là ‘sống như lần nữa’.Thật ra trong số cư dân của cái làng quê bé xíu đang bám víu cộng sinh ở sườn cheo leo đồi núi ấy, vẻ như chỉ có chàng Panturle lực lưỡng và nàng Arsule hoa dại là thực hiện được ước mơ tại bước ngoặt của cuộc đời. Còn thì tất cả cư dân đều không gặt hái được gì vui. Dân làng bắt đầu bỏ đi sau khi ông thợ đào bị cát chôn dưới giếng; vợ ông trở thành nửa tỉnh nửa rồ, để dân làng xem như mụ phù thủy dị hợm một cách cô đơn. Nhưng ai mà chẳng cô đơn trong làng quê đó nhỉ, như lão ông thợ rèn, yêu nghề đến mức khi buộc lòng rời khỏi làng, bỏ lại nguyên cả cơ ngơi, thì vật duy nhất ông muốn mang theo là cái đe; đe nặng đến nỗi ông không thể tự khiêng, mà phải nhờ Panturle đèo giúp. Cô đơn như mụ ‘phù thủy’, cô đơn như chàng thợ săn Panturle phải luôn độc thoại (trước khi gặp Arsule). Hoặc cô đơn như nàng Arsule, mặc dù phải sánh đôi với ông thợ mài dao để kéo chiếc máy mài qua truông cỏ.

Khuôn khổ bài này không cho phép tôi nói hết những điều thú vị của tác phẩm, chỉ nêu lên rằng xuyên suốt là khát vọng sống của các nhân vật, mà họ không đủ chữ nghĩa đến nói ra. Regain không phải là tác phẩm trữ tình hay lãng mạn theo nghĩa mà chúng ta từng gặp. Mà là bối cảnh của bản năng. Bản năng sống, sống còn, và tính dục. Mặc dù sặc mùi mồ hôi (nói chính xác là phéromone), Regain dung, nhưng không tục.

Chẳng hạn“Luồn vào áo cánh của nàng, luồng gió cứ như đi vào nhà mình. Gió chảy giữa hai bờ ngực, xuống tới bụng như một bàn tay; gió trôi giữa hai đùi, gió sũng hết cả hai, gió như tắm mát nàng. Hông và thắt lưng nàng đẫm những gió là gió. Cơ thể nàng cảm được gió, mát, vâng, nhưng cũng ấm áp như đầy những hoa, toàn những nhồn nhột, tựa rằng ai đó phẩy vào người nàng bằng những lọn rơm.” (trang 60)Vừa rồi là lúc mà Arsule tạm rũ khỏi đôi vai ê ẩm những sợi đai kéo chiếc xe gỗ chở máy mài dao, ngồi nghỉ ngơi giữa cao nguyên cao ngất cỏ bồng. Cơ thể của người phụ nữ mạnh mẽ này bỗng dưng lên tiếng, một loại ngôn ngữ mà nàng không tiện đặt tên.

Ngay từ những trang đầu tiên, Regain đã dành một sân chơi rộng rãi cho gió miền Nam, khi viết rằng “ Gió làm bầu trời dậy như biển, gió khiến trời sôi sục đen ngòm, nổi bọt như núi […] có những lúc, gió ấy lặn xuống, đè nặng cánh rừng, vụt lên con lộ và cuồn cuộn thắt lấy những bím bụi dài.”Nếu sử dụng gió để mô tả sức sống của các ước ao mãnh liệt như vậy thì hình tượng lắm, loại ngôn ngữ của những người muốn quật cường, là tiếng nói chung của Arsule và gã thợ săn Panturle cường tráng. Cả hai cơ thể bần bật ấy gặp nhau thật tình cờ, làm quen nhau thật lặng lẽ, không chút thô tục giữa bao bụi bặm và mùi vị một miền quê bị lãng quên. Nồng nàn một cách đằm thắm, để rồi“Anh đang đứng trước đồng ruộng của mình. Anh cúi xuống. Anh vón lấy một nắm đất thịt ấy, đất có nhiều gió và đất đã mang mầm.”

Bạn cảm được điều đó không?

SUN YATA

MÂY NƠI GÓC NÚI

sunyata

“Đồi chè dưới ánh nắng chói chang này không thể nào gọi là buồn. Nhưng bảo là vui, hẳn cũng không phải. Tháng hạ sắp mưa, chiều đang chuẩn bị tới, trời tà còn hắt từng tia từ thảm lá lên gương mặt chần chừ của thiếu phụ những thoáng thay đổi và thay thế lần lượt sáng tối, tùy theo các khóm thực vật có rung động hay không. Căn nhà gỗ ọp ẹp bé xíu lọt thỏm giữa đồi nương, với mái ngói hài lòng màu yên ắng, vừa đủ để tạo thành một khối nâu đen nổi bật trong gam sắc thái xanh, từ tươi đến ủ. Nhà tựa vào cây mít cổ thụ để đứng vững. Có lẽ thế. Bằng chứng là vuông cửa sổ nhỏ nhưng cao cũng nghiêng nghiêng, vừa đủ để làm duyên cho ai đó muốn làm họa sĩ.
Phía bên trong vuông cửa ấy, như mọi thiếu phụ, cô đang ngóng chờ. Từ đây, cô có thể nhìn xuống con đường đất ngoằn ngoèo ẩn hiện sau từng khúc quanh, và tùy theo từng mùa thay lá thay hoa, cô sẽ nhìn thấy anh suốt một thôi dài, hay là vừa đấy mất đấy, như là chơi trốn tìm. Trước kia xuân thu nhị kỳ anh lên thăm cô thật bất chợt, khiến cô tuy ngỡ ngàng vui nhưng vẫn lúng túng, khi trái tim thổn thức pha với ít nhiều tự trọng cứ muốn cho không gian này thật đẹp đẽ gọn ghẽ, thật nữ tính, sao cho xứng với chuyến hành trình vất vả hàng nghìn cây số. Thời gian gần đây, mỗi lần anh lên, cô được báo trước, nên mọi thứ đều đâu vào đấy cả, nhưng đổi lại, sự chờ đợi khiến thiếu phụ cháy bỏng cả tâm can. Không mặc áo thun quần bò như vài năm trước, dạo sau này cô đã diện những bộ dịu dàng hơn, mặc dù hơi quá mượt mà khi so với khung cảnh sống. Cô muốn anh cảm thấy đây là chốn ấm êm, mặc dù chỉ ấm êm vài lần trong năm, vào những dịp như hè, lễ tết, và càng về sau này, là vào những dịp mà cả hai đều cố vin vào để có nhau. Bởi vì anh vẫn phải gánh những bổn phận riêng.
Cô bâng quơ nhìn những thứ đã sắp sẵn, ngăn nắp như trong một bức tranh. Biết là anh sẽ bảo rằng cô đừng sắp xếp gì cả, cứ để mọi thứ trong sự bộn bề của chúng, mà anh gọi là sự bộn bề rất nghệ thuật. Ba năm trước ở lần thăm đột xuất, anh lù lù vào lối cửa nhà bếp khiến cô giật phắt người. Mặt bàn bằng gỗ thật dày ở góc gian bếp đang la liệt vài củ khoai, bắp ngô, con dao cùn, cái bát sứt, bên cạnh chiếc đèn bão dấy bùn màu da ngựa. Anh cười cười bảo “bọn chúng rất đẹp, chúng khiến anh liên tưởng đến một bức tranh của Cézanne…”
Vì thế hôm nay cô cũng không vun vén quá khéo, e rằng sự chỉn chu khiến căn nhà nhỏ có thể thêm nét lạnh lùng hay khắc khổ. Bày bừa một tí, như thể có bóng dáng đàn ông.
Vì cái bóng dáng ấy mà cô chưa bao giờ tận hưởng hạnh phúc một cách trọn vẹn. Vắng, đã đành là phải trống trải, nhớ nhung như thiết như tha. Nhưng như thế vẫn còn dễ chịu hơn là khi có nhau mà đã phải nghĩ đến lúc anh ra về, lầm lũi xuống hết triền đồi. Buổi trưa của hôm trước chưa kịp trôi qua mà trong lòng cô đã hừng đông. Để rồi ngày hôm sau, nhìn quẩn nhìn quanh nơi đâu trong căn nhà vắng lạnh cũng thấy bóng dáng anh như ma ám. Ngẩn ngơ nhớ chỗ anh ngồi cạnh chiếc bàn gỗ cũ đến sờn cả mép, vì đó là chỗ anh ngồi lâu nhất. Hẫng hụt tại bìa giường này, nơi tựa vào nhau mà nghe hết cả buổi chiều xuống đầy hương. Mủi lòng khi nhìn ra ngạch cửa, nơi cô ngồi luồn tay vào mái tóc dày của anh, vạch tóc ra để nghịch vết chàm nơi mé trán. Những hình ảnh êm đềm ấy chính là giây phút đáng sợ nhất. Hơn cả nỗi chờ trông.

Bây giờ cô thẫn thờ nhìn cái bàn cũ có đôi quả mọng lẩn giữa mớ rau đang héo dần. Xuyên qua ô gió, nắng xiên thêm một chút và vãi một loạt trứng gà lốm đốm trên mớ rau khiến đôi quả chừng như phập phồng thổn thức cứ như muốn gào lên. Nhưng không phải thế. Cô lại thở dài quay nhìn ra ngoài, thấy cặp cây si đực cái, chúng từng rải hàng đợt lá phì nhiêu căng nhựa xuống mặt đất trước thềm nhà, biến thành tấm thảm, đủ dày để cho cô soi lấy đời mình.
Mỗi lần nghĩ đến đôi si, cô hơi cáu cho bản thân. Sống lặng lẽ qua xuân hạ thu đông, cô điềm nhiên đến độ có lần phải vỗ về anh, khi tự ví mình như mây núi, nhàn nhã vô tư, trong khi anh lại như dòng nước dưới khe kia, tuy sống động nhưng quá rộn ràng. Song dường như đã có sự đổi ngôi, khi dần dà mây núi biết chờ mong, và dòng suối đã từ từ chảy chậm. Giờ đây, thời gian giữa hai lần gặp nhau đã khó có thể chịu đựng hơn, vào lúc cô không còn kịp nhìn thấy con chim chào mào bay qua cửa sổ, mà chỉ đau đáu xót xa với tiếng hót vang vọng những tụ tan khi bóng nó đã khuất tự bao giờ.
Nhẩm lại những gì đã diễn ra, lúc khoan lúc nhặt, nhiều khi cô không biết là mình tỉnh hay mơ. Cái khung cảnh mà anh gọi là thần tiên này, biết đâu chỉ như là cung quế nhung lụa ấm êm, nhưng sẽ đọa đày ta suốt cả quãng đời còn lại, trong khi cô lại còn quá trẻ. Nhưng thôi, cũng chẳng tiếc rẻ, cứ điềm nhiên như thế mà sống. Vả chăng, anh từng thì thầm rằng anh yêu cô cũng vì nét hời hợt ấy. Vả chăng hiện nay cô cũng chẳng còn thảnh thơi để lo nghĩ thêm. Ở góc giường, thằng bé đã đạp tung chăn. Cô rướn người lên kéo kín lại, nhân tiện vuốt ve mấy sợi tóc tơ lòa xòa đang che phủ vết chàm nơi mé trán.”

SUN YATA

Phận gương soi

sunyata

Virginia Woolf(1882-1941) là một nhà văn nữ nổi tiếng người Anh, bà được coi là một trong những nhà văn nổi bật nhất của thế kỷ 20. Sinh thời, Virginia Woolf là một nhân vật có tầm ảnh hưởng đối với giới văn chương Anh. Những tác phẩm của Woolf có đề cập tới sự bất ổn về tâm lý và những suy ngẫm về ý nghĩa của sự tồn tại.

Sinh thời, bà cũng thường phải chịu đựng trạng thái lo lắng, bất an dẫn tới suy sụp tâm lý. Những bi kịch trong gia đình càng góp phần làm nặng thêm những rối loạn tâm thần ở bà. Thế chiến II càng khoét sâu vào sự bất an thường trực khi chứng kiến thành phố London yêu dấu bị tàn phá. Cuối cùng, Woolf quyết định tự tử.

Không nên treo gương soi trong phòng, cũng như không nên để cho người khác thấy nội dung cuốn ngân phiếu của mình hay thư từ thú nhận tội ác tày trời nào đó. Ta không thể nào mà không nhìn vào chiếc gương soi cao treo ở ngoài tiền sảnh. Cũng có chút tình cờ. Ngồi thật sâu trong ghế sofa ở phòng khách, nhìn vào gương soi, ta không chỉ thấy chiếc bàn với mặt bằng cẩm thạch, mà còn thấy cả một quãng của khu vườn phía xa xa. Ta có thể thấy lối cỏ dài len lỏi giữa hai bờ hoa cao cao, kéo mãi cho tới khi cắt góc, thì đường viền mạ vàng của gương soi mới dứt mất.
Ngôi nhà trống vắng, và vì là người duy nhất trong phòng khách, ta cảm thấy mình giống như một nhà thiên nhiên học nào đó, đang đội lốt lá cỏ, nằm dài để quan sát những con thú rụt rè nhất đang tự do di chuyển. Căn phòng vào buổi xế trưa hôm ấy cũng đầy những sinh linh rụt rè như vậy, những ánh sáng và bóng đổ, màn cửa lộng gió, cánh hoa lả tả – những điều dường như chưa bây giờ xảy ra, nếu ai đó thử nhìn vào. Căn phòng thôn dã cũ kỹ yên bình với những tấm thảm và mặt tiền lò sưởi bằng đá, với những kệ sách võng oằn, với tủ sơn vàng và son, cũng đầy những sinh linh u ẩn ấy. Chúng xoay xoay qua sàn nhà, với những bước cao chân tao nhã, đuôi xòe ra, mỏ mổ gió, chừng như chúng là bầy cò hay hồng hạc thanh tao với màu lông chớm lạt phai, hoặc như chim công với bộ đuôi phủ mờ ánh bạc.
Nhưng ngoài kia, chiếc gương đang phản ánh cái bàn ở sảnh, chiếu hoa hướng dương, rọi lối đi trong vườn thật chính xác và chắc chắn đến nỗi dường như chúng bị giữ chặt trong thực tại của mình mà không thể nào lẩn trốn được. Thật là một sự tương phản lạ lùng – ở kia thì tất cả đang biến chuyển, ở đây lại tĩnh tại. Ta không thể nào không lần lượt liếc nhìn ở đây rồi ở kia. Trong lúc ấy, vì tất cả cửa sổ cửa cái đều mở toang cho mùa hạ, cho nên có một âm thanh liên lỉ từng hồi thở dài và ngưng nghỉ, tiếng nói của nỗi phù du và héo úa, hình như vậy, rồi đến rồi đi như hô hấp của con người, đang khi đó trong gương kia, mọi thứ đã ngưng thở và nằm yên giữa cơn mê sảng trường sinh.
Cách nay nửa giờ, nữ chủ Isabella Tyson mặc áo váy mỏng mùa hè, lần xuống lối cỏ, mang theo cái giỏ, sau đó mất hút vì hình ảnh đã bị viền vàng của chiếc gương xén gọn. Chừng như cô xuống vườn dưới để hái hoa; hoặc muốn chắc ăn hơn nữa, là giả định cô xuống để hái chút gì đó vừa nhẹ tênh vừa huyền ảo, vừa rườm lá lại vừa lất lây, như hoa ông lão, hoặc một trong những chùm bìm bìm tao nhã uốn mình quanh những bức tường thô, để thỉnh thoảng òa vỡ thành từng đóa trắng đây tím kia. Ta toan nghĩ rằng cô là nhánh bìm bìm rập rờn kỳ ảo hơn là loài cúc sao thẳng thớm, cúc zinnia như đơ hồ, hoặc ngay cả khóm hoa hồng đang cháy bỏng trên cây, trông như những ngọn đèn trên trụ đứng.
Sự so sánh chứng tỏ rằng, sau từng năm tháng ấy, người ta ít biết về cô đến nhường nào; bởi vì không thể nào một phụ nữ bằng xương bằng thịt vào độ ngũ tuần lục tuần như vậy phải thực sự là một vòng hoa hay chỉ là tua dây leo. Loại so sánh như vậy còn tệ hơn là rỗi hơi và nông cạn nữa, thậm chí tàn nhẫn, bởi vì sẽ tựa như hoa bìm bìm đang run rầy kia đem so với thực tế. Phải có sự khớp khít, phải có một chỗ dựa chứ. Cũng thật lạ là đã quen Isabella sau từng ấy thời gian, ta lại không thể biết sự thật về cô; ta vẫn buông ra những câu kiểu như hoa bìm bìm và hoa ông lão. Muốn thực tế, thì thực tế rằng nàng là một bà cô; rằng nàng giàu; rằng nàng đã mua ngôi nhà này và chính tay nàng đã thu thập những tấm thảm, ghế bành, tủ nhỏ mà giờ đây đang sống một cuộc sống âm thầm trước mắt nàng. Đôi khi dường như chúng biết về nàng nhiều hơn là chúng ta, trong khi chúng ta vẫn thường xuyên ngồi trên ghế hoặc đi trên thảm ấy.
Ở mỗi tủ nhỏ như vậy có nhiều ngăn kéo, hầu như mỗi ngăn đều chứa thư từ, được bó lại bằng dải nơ, được rắc lên nhiều mảnh oải hương hay cánh hoa hồng. Vì có một thực tế nữa – nếu thực tế là những gì ta muốn có – rằng Isabella từng gặp gỡ nhiều người, kết nhiều bạn bè; và do đó nếu đủ táo bạo mở một ngăn kéo và đọc thư của nàng, ta sẽ bắt gặp dấu vết của nhiều bối rối, của nhiều hẹn hò, nhiều hờn trách khi lỡ hẹn, những bức thư dài thật thân thiết mến thương, những bức mãnh liệt của đố kỵ và trách cứ, những lời khủng khiếp sau cùng của chia phôi – bởi vì những gặp gỡ và hẹn hò kia chẳng dẫn đến đâu cả – nghĩa là, nàng chưa bao giờ lập gia đình, và rồi đó, xét thấy sự dửng dưng như chiếc mặt nạ của nàng, ta sẽ biết rằng nàng đã trải qua những say mê và kinh nghiệm nhiều gấp hai mươi lần hơn ai kia từng lu loa về các mối tình của mình cho cả thế giới biết. Bị căng thẳng do nghĩ sâu về Isabella, căn phòng của nàng mang nhiều nét biểu trưng ẩn dụ hơn, trong góc tối tăm hơn, các chân bàn chân ghế càng thêm ẻo lả và ẩn chứa.
Bỗng dưng những phản chiếu ấy dừng lại thật mãnh liệt – mà không phát ra âm thanh nào cả. Một hình thù to lớn đen ngòm hiện lù lù trong gương, che mờ hết mọi thứ, rải lên bàn một xấp phiến màu cẩm thạch có gân hồng và xám, rồi đi mất. Nhưng ảnh trong gương đã hoàn toàn thay đổi. Ngay trong khoảnh khắc ta không thể nhận ra vì nó mờ ảo phi lý. Không hiểu người ta sẽ làm gì với những phiến kia. Và rồi dần dần một tiến trình lôgic nào đó bắt đầu, và cuối cùng ta nhận ra rằng chúng chỉ đơn giản là những bức thư. Gã kia đã mang bưu tín tới.
Thư nằm trên mặt bàn cẩm thạch, thoạt tiên tất cả đều nhỏ giọt ánh sáng, thô và trơ. Và rồi thật lạ khi nhìn thấy chúng được thu nhỏ, sắp xếp, hình thành một phần của bức tranh, phát ra vẽ tĩnh tại và bất tử mà chiếc gương dành tặng. Chúng nằm đó, được khoác thêm một thực tại và ý nghĩa mới, và cũng thêm mật độ, giả như nếu muốn bứng chúng khỏi mặt bàn, thì ta phải dùng lưỡi đục. Và, cho dù có do trí tưởng hay không, chúng hình như đã không chỉ trở thành một mớ thư tín bình thường, mà là những phiến được khắc bởi sự thật vĩnh cửu – nếu có thể đọc chúng, ta sẽ biết những điều cần biết về Isabella, vâng, và cả về cuộc đời nữa. Những trang thư bên trong các phong bì như cẩm thạch ấy có lẽ đã được khắc sâu bằng những vạch đậm đà ý nghĩa. Isabella sẽ vào, và nhón lấy chúng, từng chiếc một, thật là chậm, rồi mở ra, rồi đọc thật kỹ từng chữ một, rồi thở hắt ra hơi dài thông cảm, tuồng như cô đã đáo để mọi việc, cô sẽ xé phong bì thành mảnh vụn, và buộc các trang thư lại, rồi khóa ngăn kéo tủ nhỏ, quyết định giấu kín những gì mà cô không muốn tiết lộ.
Chỉ mỗi ý tưởng đó thôi cũng trở thành thách thức. Isabella không muốn lộ chuyện riêng tư – nhưng cô cũng không thể tránh mãi được. Thật là phi lý, thật là kinh khủng. Nếu cô giấu giếm quá nhiều và biết chắc rằng người ta sẽ ép cô mở toang ra bằng dụng cụ tiện dụng nhất có sẵn: trí tưởng tượng. Người ta sẽ chăm chú vào cô ngay ở khoảnh khắc ấy. Người ta sẽ trói chặt cô xuống. Người ta sẽ không để cho cô hẹn lần khất lữa chút nào nữa, cho dù bằng những câu bãi buôi hay cách ửng xử hợp với hoàn cảnh lúc đó – chẳng hạn như bữa dạ tiệc, chuyến viếng thăm, hay chút trò chuyện khách sáo. Người ta sẽ đặt mình vào địa vị của cô, mà nói sát sườn hơn, theo nghĩa đen, là đặt chân họ vào chính đôi giày của cô, đôi giày mà cô đang mang ngay giây phút ấy, ở khu vườn dưới. Giày của cô rất hẹp và dài và hợp mốt – chúng được làm bằng loại da mềm nhất và dẻo nhất. Cũng giống như bất kỳ trang phục nào khác của cô, chúng rất thanh tú. Và cô sẽ đứng dưới rào giậu cao ở khu vườn phía thấp, giơ kéo lên để cắt vài cánh hoa tàn, vài cành tua tủa. Mặt trời sẽ vỗ vào mặt cô, vào mắt cô; nhưng không, ngay thời điểm nhạy cảm, một màn mây che phủ mặt trời, khiến cho mắt cô có vẻ lưỡng lự – là vẻ chế giễu hay dịu dàng, lấp lánh hay mờ đục? Ta chỉ có thể thấy đường viền mơ hồ của gương mặt cô đang nhìn trời, gương mặt thanh tú nhưng đôi chút nhạt phai. Có lẽ cô đang nghĩ rằng mình phải mua một dàn lưới mới cho đám dâu tây; rằng mình phải gửi hoa cho góa phụ Johnson; rằng đã đến lúc mình phải lái xe sang thăm nhà mới của gia đình Hippesleys . Chắc chắn đó là những điều mà cô bàn bạc lúc ăn tối. Ta lại muốn nắm bắt và thể hiện bằng chữ nghĩa cái thể trạng sâu lắng hơn của cô, cái trạng thái có tầm quan trọng đối với tâm trí cũng như hơi thở đối với thể xác vậy, tức là điều mà ta gọi là hồng hạnh hay bất hạnh. Khi nhắc đến những từ này, thì chắc chắn một điều hiển nhiên là cô phải hạnh phúc. Cô giàu, cô sang, cô giao thiệp nhiều, cô du lịch – cô mua thảm ở Thổ Nhĩ Kỳ và chậu lam ở Ba Tư. Những luồng mãn nguyện tỏa ra theo cách này hay cách khác từ chỗ cô đang đứng cầm kéo tỉa cành, trong khi mây giăng che chắn mặt cô.
Đây, bằng một nhát kéo nhanh gọn, chùm hoa ông lão rơi xuống đất. Và khi rơi, chắc chắn hoa sẽ nhường chỗ cho ít nhiều ánh sáng, chắc chắn ta sẽ len lỏi vào tâm thể của cô thêm một ít. Lúc ấy hồn cô đang mềm và nuối… Cắt một nhánh trội lên cũng khiến cô buồn bởi vì nhánh ấy từng đã sống, và với cô, cuộc sống thật quý giá. Vâng, và cùng lúc ấy sự rơi rụng của nhánh hoa cũng nhắc nhở rằng bản thân cô sẽ phải chết như thế nào, cùng với sự vô nghĩa và vô thường của mọi vật. Và rồi một lần nữa khi nhanh chóng phát hiện ý tưởng ấy, tính cách tích cực bộc trực giúp cô nhớ rằng cuộc đời đã nồng hậu với mình; thậm chí nếu có phải ngã, thì cũng chỉ là nằm trên đất và tan biến êm đềm vào rễ của loài hoa tím. Cô đứng suy tư như vậy. Không hiển rõ bất kỳ ý tưởng cụ thể nào – vì cô thuộc tuýp người trầm mặc, giữ tâm tư trong đám mây bòng bong im lặng – tâm cô tràn đầy ý tưởng. Tâm cô giống như không gian của cô, nơi mà ánh sáng tới rồi lui, khi đến thì xoay tròn với những bước nhỏ nhẻ, xòe đuôi, mổ lấy đường đi; và rồi cả người cô tràn ứa, lại cũng giống như không gian ấy, với một vầng am hiểu sâu xa nào đó, dăm ba nuối tiếc lặng câm, và rồi tâm hồn cô đầy ắp những ngăn kéo khóa kín, nồn nộn thư từ, giống như những chiếc tủ nhỏ. Thật là bất kính và phi lý khi nói là “ép cô mở ra” như thể cô là một con sò, cho dù có dùng bất kỳ dụng cụ nào tinh vi nhất, đẹp đẽ nhất, uyển chuyển nhất. Ta phải tưởng tượng – đây, cô đang ở trong gương.
Thoạt tiên cô đứng ngoài tầm soi của gương nên ta không thể thấy rõ. Cô tiến đến thật uể oải và nhẩn nha, nơi đây chỉnh sửa cành hồng, chỗ kia lại nâng đóa hoa lên ngửi, nhưng cô không dừng chân hẳn; và như thế trong gương cô cứ mỗi lúc to hơn, càng lúc cô càng trở thành người mà ta muốn len lỏi vào chốn tâm tư. Ta kiểm tra cô từng cung bậc – kết hợp cái cơ thể phàm trần ấy với những phẩm chất mà ta đã phát hiện. Này là cái áo váy xám xanh, và đôi giày dài, cái giỏ, và cái gì đó lấp lánh ở cổ của cô. Hiện ra từng chút một, nên dường như cô không làm rộn cái khuôn mẫu trong gương, mà chỉ mang đến yếu tố mới nào đó đang dịch chuyển nhẹ nhàng và thay đổi những vật thể khác, chừng như lịch sự yêu cầu chúng dành cho cô chút không gian. Và những lá thư và cái bàn và lối cỏ và lũ hoa hướng dương, vốn đợi chờ trong gương, giờ lại tách ra và cởi mở, như thể đón mời cô. Ít ra thì cô cũng đã ở đó, ở tiền sảnh. Cô dừng chân đột ngột. Cô đứng gần cái bàn. Cô đứng yên tuyệt đối. Ngay lập tức, gương soi bắt đầu rót lên cô một ánh sáng dường như ấn định cô; dường như có loại axít nào đó đã ăn mòn những gì phu phiếm và không cần thiết, để chỉ chừa lại sự thật. Cảnh tượng thật lôi cuốn. Mọi thứ rơi rớt khỏi cô – những mờ mịt, y áo, giỏ xách, kim cương – và tất cả những gì mà ta đã gọi là dây leo và bìm bìm. Có một bức vách cụ thể đã lộ diện. Có một phụ nữ là chính mình. Cô đứng trần trụi trong ánh sáng nhẫn tâm. Và hư vô. Isabella hoàn toàn trống vắng. Cô không có ý niệm. Không bạn bè. Không quan tâm đến ai. Và những cánh thư? Tất cả đều là hóa đơn. Nhìn xem, cô đứng đấy, già nua và xương xẩu, nổi gân và nhăn nheo, với sóng mũi cao, cổ xếp nếp, thậm chí cô không buồn mở phong bì.
Lẽ ra người ta không nên bỏ mặc những gương soi lơ lửng ở nơi của chúng.

Tác giả: Virginia Woolf

Người dịch: Śun Yata