QUỐC SƯ

nguyenvien

1.

Cơn mưa từ chiều đến giữa đêm vẫn chưa chấm dứt. Những cuộc hành hình liên tiếp bằng cách quấn rơm chung quanh kẻ bạo loạn rồi đốt giống như thui chó mấy ngày trước thịt vẫn còn khét. Sư bần thần đi lại trong thư phòng. Bất chợt một tiếng sét lớn sáng lòa đánh ngang cây gạo trước cổng chùa. Sư nghe thấy tiếng cây đổ vang dội trong tâm khảm. Điềm báo đến. Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, sư ngồi xuống, xếp bằng hai chân. Tịnh.

2.

Dân làng Diên Uẩn, châu Cổ Pháp nằm ở phía đông kinh đô Hoa Lư thầm thì với nhau về một bài sấm được khắc trên phần còn lại của cây gạo cổ thụ mới bị sét đánh đêm qua. Không ai hiểu bài sấm có ý nghĩa gì. Họ đem nghi vấn của mình đến gặp sư.

3.

“Thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh thanh, hoà đao mộc lạc, thập bát tử thành, Đông A nhập địa, mộc dị tái sinh, chấn cung hiện nhật, đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên hạ thái bình.” [*] Sư nói: Ý tứ của bài sấm này ám chỉ nhà Lê sắp mất, nhà Lý sẽ lên ngôi và thiên hạ thái bình.

Người ta hỏi: Nhà Lý là ai?

Sư chỉ im lặng.

Việc này đến tai Lê Long Đĩnh, vua cho giết sạch bọn trẻ con nhà Lý.

4.

Lý Công Uẩn khi đó đang làm quan Thân vệ trong triều, tuy binh quyền trong tay nhưng cũng sợ tai hoạ. Ông mang giấu sư ở Tiên Sơn vì biết sư là tác giả bài sấm trên cây gạo.

5.

Lê Long Đĩnh chết vì kiệt sức giữa lúc tuổi trai tráng và chỉ làm vua được 4 năm. Con nối dõi quá nhỏ không thể tranh chấp ngôi thiên tử. Sư cho vời quan Chi hậu Đào Cam Mộc đến, nói: “Ông là người hiểu lòng bách tính và cũng biết thời thế. Việc phế lập nằm trong tay ông”.

6.

Họp bàn với các quan, Đào Cam Mộc nói: “Nay (đối với nhà Lê) ức triệu người đã khác lòng, thần dân đều lìa ý, mọi người chán ghét sự hà khắc bạo ngược của tiên đế, không muốn theo về vua nối dòng và đều có ý suy tôn Thân vệ. Nếu không nhân dịp nầy cùng suy tôn Thân vệ làm thiên tử, phút chốc xảy ra tai biến thì liệu chúng ta có giữ được đầu không.” (*) Bá quan len lén nhìn Lý Công Uẩn hiên ngang tì đốc kiếm, im lặng.

7.

Giữa triều, thái hậu phán: Thái tử Sạ còn nhỏ, một ngày nước không thể không có vua, ta thuận theo ý của quần thần, thay mặt tiên đế trao vương quyền lại cho Thân vệ Lý Công Uẩn.

Thái hậu biết cách bảo toàn bản thân và khúc ruột của mình.

8.

Lý Công Uẩn làm vua, phong cho sư chức quốc sư. Phật giáo trở thành quốc giáo. Mọi việc quốc gia đại sự đều thỉnh ý sư.

9.

Một ngàn năm sau.

Sư và thày Quảng Đức bách bộ trong chùa Thiên Mụ.

Sư nói: Cần có một ngọn lửa bùng lên đưa phong trào đấu tranh đến sự quyết thắng.

Thày Quảng Đức hỏi: Thày muốn tôi là một ngọn lửa?

Sư nói: Vâng, cho đạo pháp được hoằng dương.

Thày Quảng Đức lại hỏi: Ở đâu?

Sư nói: Ngay trung tâm Sài Gòn. Mọi việc chúng tôi sẽ chuẩn bị hết.

Thày Quảng Đức: Vì đạo pháp, tôi hy sinh.

Sư và thày cúi chào nhau.

Thày Quảng Đức vào chùa và phủ phục trước tượng Phật.

10.

Giám mục Ngô Đình Thục từ Vĩnh Long được Vatican phong chức Tổng Giám mục và điều về phụ trách tổng giáo phận Huế. Cả Tổng thống Ngô Đình Diệm và Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đều muốn Công giáo phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, ngoài ý nghĩa tông đồ còn để làm chỗ dựa lưng và củng cố thành trì chống Cộng. Phật giáo cũng không muốn mất vai trò truyền thống của mình, họ đã tranh đấu cho sự tồn tại một cách công bằng cũng như khẳng định chỗ đứng trong lòng dân tộc. Cuộc đấu tranh giữa Phật giáo và chính quyền trở thành cuộc đối đầu một mất một còn, đặc biệt ở Huế.

11.

Cả người Mỹ và người Cộng sản miền Bắc đều muốn thu lợi trong cuộc tương tranh giữa những người theo đuổi lý tưởng tự do ở miền Nam.

12.

Khi người Mỹ phát hiện ra chính quyền Sài Gòn của Tổng thống Diệm mất khả năng đoàn kết các lực lượng chống Cộng và có ý muốn lật đổ ông Diệm, cũng là lúc chính quyền ông Diệm nhận thấy ý đồ của người Mỹ muốn giành quyền điều hành cuộc chiến thực hiện chiến lược toàn cầu. Ông Diệm đã chủ động liên lạc với miền Bắc nhằm tìm một giải pháp nội bộ cho người Việt Nam tránh sự can thiệp của Mỹ, nhưng thất bại.

13.

Thày Quảng Đức được đưa đến ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng trên một chiếc xe hơi. Một số phóng viên quốc tế được cho biết trước sự việc cũng đã có mặt. Thày Quảng Đức ngồi thiền dưới đất. Hai người đổ xăng vào người thày, châm lửa đốt.

14.

Sự kiện thày Quảng Đức tự thiêu với sự hỗ trợ của các phóng viên quốc tế đã làm bầu khí chính trị miền Nam trở nên nóng bỏng.

Chính quyền cho tấn công chùa Xá Lợi, bắt tất cả các tăng ni trong đó.

Mỹ đưa sư vào tòa đại sứ của họ ẩn trốn. Họ mua cho sư một bàn cờ tướng giải khuây.

15.

Cùng với sự xâm nhập của các chiến binh Cộng sản miền Bắc, Mặt trận Giải phóng Dân tộc Miền Nam gia tăng hoạt động và nhanh chóng chiếm lĩnh được nhiều khu vực rộng lớn khắp nông thôn.

Các tướng lĩnh miền Nam sốt ruột trước tình hình chiến sự và được thúc đẩy bởi phong trào tranh đấu của Phật giáo, họ thoả hiệp với Mỹ làm cuộc cách mạng 1.11.1963. Hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu bị giết. Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đã được thu xếp rời Việt Nam trước khi có chính biến. Người em út của họ, ông Ngô Đình Cẩn sau đó cũng bị giết ở Huế.

Người Phật giáo coi việc lật đổ chính quyền Diệm – Nhu là công lao của mình. Và họ đã tận hưởng công lao đó một cách xứng đáng. Các cơ sở và tổ chức của Phật giáo lần lượt ra đời và tạo ra một ảnh hưởng bao trùm đời sống xã hội.

16.

Tin tức về cái chết của anh em ông Diệm được đích thân tướng Minh, chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng báo trực tiếp cho sư qua điện thoại. Sư chỉ nói “thế à” rồi cúp máy.

Trong trai phòng, toàn thể tăng chúng đứng bật dậy khi sư xuất hiện và họ nồng nhiệt vỗ tay chào đón sư. Sư cúi đầu tạ lễ rồi ngồi xuống bàn ăn. Không bàn luận điều gì.

17.

Chỉ ba tháng sau ngày lật đổ ông Diệm, tướng Nguyễn Khánh đã làm cuộc chỉnh lý. Phật giáo bị phản bội. Các cuộc đảo chánh liên tiếp xảy ra để tranh giành quyền lực. Chính quyền quốc gia bị bao vây cùng lúc bởi cả Công giáo, Phật giáo và giới sinh viên học sinh.
Nhưng chỉ có Mỹ và Việt Cộng thu lợi.

18.

Mỹ đổ quân ồ ạt vào miền Nam.

Chiêu bài hoà bình và dân tộc được Cộng sản phát động đã thành công trong việc đồng nhất nó với phong trào tranh đấu của sinh viên học sinh và Phật giáo.

19.

Người Mỹ cho rằng, chính họ mới là chủ của thành quả cách mạng. Họ dựng một người Công giáo khác: tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống của nền đệ nhị cộng hoà.

20.

Các cuộc tranh đấu chống Mỹ – Thiệu và đòi chấm dứt chiến tranh càng lúc càng lên cao. Nước Mỹ rung rinh. Hình ảnh của sư tràn ngập báo chí phương Tây. Các chính trị gia và các tướng lĩnh bu quanh sư. Bàn cờ chính trị do sư điều khiển, nhưng chưa bao giờ sư là người toàn thắng. Các cuộc tự thiêu của giới tăng lữ vẫn tiếp tục. Chính quyền Huế và Đà Nẵng tê liệt bởi các cuộc bãi công bãi thị. Bàn thờ Phật được đưa xuống đường cả ngay tại Sài Gòn. Toà đại sứ Mỹ buộc phải điều đình với sư. Họ đón sư bằng trực thăng đưa vào căn cứ Chu Lai.

Ông Đại sứ nói: Chúng tôi muốn ngài chấm dứt mọi cuộc xuống đường bãi công bãi thị.

Sư nói: Có thể được.

Ông Đại sứ hỏi: Ngài muốn thế nào?

Sư rút từ trong tay áo ra một tờ giấy đưa cho ông Đại sứ. Đó là danh sách nội các, kể cả chức tổng thống do sư đề nghị.

Ông Đại sứ xem qua, bảo: Chúng tôi sẽ nghiên cứu đề xuất của ngài một cách nghiêm túc.

Trước khi chia tay, ông Đại sứ tặng sư một bộ cờ tướng bằng ngà voi.

Như thói quen thanh bạch của sư, tất cả mọi thứ quà cáp chúng sinh dâng tặng, sư đều tặng lại cho tăng chúng. Bộ cờ tướng, sư tặng cho một tăng sinh trẻ.

21.

Trước chùa Diệu Đế, sư nói với đám đông cuồng nhiệt: Đồng bào hãy nghe tôi. Tôi nói đồng bào đứng thì đồng bào đứng. Tôi bảo đồng bào đi thì đồng bào đi. Nay tình hình đang biến chuyển tốt, cuộc tranh đấu của chúng ta đã gần đến thắng lợi, đồng bào hãy về nhà…

22.

Cơn mưa đổ xuống đám cháy. Cuộc sống trở lại bình thường.

23.

Chính quyền Sài Gòn đem lính nhảy dù ra dẹp loạn, lần lượt từ Đà Lạt, đến Qui Nhơn, Đà Nẵng rồi Huế. Tướng tư lệnh vùng I mất chức. Một số lãnh tụ sinh viên tranh đấu buộc phải nhảy núi chạy theo Mặt trận Giải phóng. Sư bị phản bội một lần nữa. Những cuộc tự thiêu của tăng chúng không làm quân đội chùn tay. Việc sư tuyệt thực cũng không làm cho “cuộc biến động miền Trung” bốc lửa trở lại.

24.

Trong khi người Mỹ thất bát trong cuộc chiến, Việt Cộng tiếp tục thu lợi và họ quyết tâm chiến thắng bằng cuộc tổng nổi dậy Mậu Thân 1968. Người miền Nam không tuyên truyền và giáo dục lòng căm thù như người miền Bắc, nhân dân đã không hưởng ứng cuộc tổng nổi dậy như Việt Cộng mong đợi. Cuộc tổng nổi dậy thất bại ở miền Nam. Nhưng với chiêu bài hoà bình, Cộng sản Bắc Việt đã thắng ngay trong lòng nước Mỹ.

Mỹ bỏ cuộc và bỏ rơi đồng minh. Hiệp ước Paris 1973 chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Mỹ cắt giảm viện trợ cho miền Nam. Đầu tháng 1.1975, Ngũ Giác Đài kèo nài thêm 300 triệu USD chiến phí cho Tổng thống Thiệu, nhưng quốc hội Mỹ không duyệt.

Hết đạn, hết tiền, quân đội Việt Nam Cộng Hoà tan hàng vào tháng 4.1975.

25.

Những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh ủy nhiệm, sư đã thành công trong việc đưa tướng Minh vào chức vụ Tổng thống của miền Nam chuẩn bị cho một kết thúc ít đổ máu nhất. Nhưng dường như vai trò lịch sử đó vượt quá tầm vóc của Tổng thống Minh, ông bồn chồn nhấp nhổm giữa chùa Ấn Quang và dinh Độc Lập.

Sư trấn an tướng Minh: Tôi đã liên lạc và lo liệu hết mọi việc, họ sẽ đến với Tổng thống, Tổng thống cứ bình tĩnh chờ…

Tổng thống Minh chờ một cuộc bàn giao, nhưng trưa 30.4.1975, ông đã phải lên đài phát thanh đọc lời đầu hàng do một người lính Cộng sản soạn ngay tại chỗ sau khi tiếp quản chính quyền Sài Gòn.

26.

Sư bị buộc phải rời chùa Ấn Quang, vốn là cứ địa tranh đấu của sư, ra ngoại thành ẩn tu. Những năm cuối đời, sư về chùa ở Gò Vấp biên soạn kinh sách.

27.

Nhìn xuống hồ nước tĩnh lặng, sư không thấy bóng mình. Nước đục. Cũng như lịch sử của dân tộc này vốn đã là một huyền thoại mù mờ ngay từ khi lập quốc, việc sư đến và đi khỏi một giai đoạn lịch sử khốc liệt tang thương cũng rất mù mờ như huyền thoại của cái lý sự vô thường.

NGUYỄN VIỆN

(*) Theo Trương Hoàng Minh

(2011)

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI MANG BẦU

nguyenvien

Không thể chịu đựng nổi cái tình trạng phẳng lì khô khốc, hắn muốn thoát ra bằng cách nhảy từ ban công tầng bảy xuống bãi cỏ bên dưới. Hắn không nghĩ rằng bãi cỏ mượt sẽ làm hắn thoải mái hơn hay bớt tẻ nhạt hơn, mà đơn giản chỉ vì hắn muốn thay đổi. Kiểu gì cũng được, miễn là khác đi. Hắn chán cái việc phải đi làm mỗi ngày. Chán những bữa cơm trưa. Chán những buổi cà phê sáng. Chán những chầu nhậu. Chán phải nói năng. Chán phải có thái độ. Chán những viên thuốc hạ huyết áp và tăng tuần hoàn não. Chán bọn trơ tráo. Chán bọn ồn ào. Chán bọn trình diễn. Chán màu mè. Chán hiện tại và chán cả tương lai. Chán muốn nôn mửa.

L nói với hắn: “Em muốn xuống nghĩa trang quân đội cũ”.

Hắn hỏi: “Em cũng muốn làm tử sĩ à?”

L nói: “Không. Có cái gì đó thôi thúc em phải xuống đó. Anh biết nghĩa trang quân đội cũ không?”

Hắn bảo: “Biết. Ngày xưa đi trên xa lộ Hà Nội có thể nhìn thấy nó. Gần ngã ba Tân Vạn”.

L hỏi: “Anh dẫn em xuống đó được không?”

Hắn nói: “Được”.

L bảo: “Vậy khoảng 7 giờ sáng mai. Anh đón em ở chùa Từ Phước nhé”.

Hắn hỏi: “Em làm gì ở chùa Từ Phước?”

L nói: “Tụng kinh”.

Hắn nghĩ, L đã đi xuyên qua thế giới.

Bây giờ, đi trên xa lộ Hà Nội chỉ nhìn thấy nghĩa trang liệt sĩ của chế độ đương thời.

Xa khuất về phía bên kia đường là nghĩa trang quân đội chế độ cũ, có lẽ đây là nghĩa trang quân đội duy nhất còn lại của một chế độ đã bị xóa sổ.

Không còn nhìn thấy tượng chiến sĩ vô danh ngồi an nghỉ bên đường, toàn bộ khuôn viên rộng lớn và hoàn chỉnh của nghĩa trang này đã bị chia cắt và lấn chiếm xây dựng các công trình quân sự lẫn dân sự khác. Phong thủy địa lý hình thế con ong của nghĩa trang bị phá vỡ.

Phần còn lại của nghĩa trang là những ngôi mộ hoang tàn được cư dân địa phương tự nguyện chăm sóc, ngoài một số ít được thân nhân thuê trông coi, nhang khói.

L mua một bó hoa, ít bánh và hai bó nhang lớn.

Hắn phải đoán chừng mới tìm được đường vào nghĩa trang vì những dấu vết oai hùng và tôn nghiêm cũ đã bị hủy hoại.

Một anh bảo vệ của một xưởng sản xuất gần đó nhận biết họ muốn gì. Anh ta vẫy họ lại và chỉ lối vào Đền Tử sĩ. Giống như một cái miếu hoang, cây cỏ mọc um tùm che kín phía trước. Họ phải leo lên các bậc cấp phía sau, nơi có một số thanh niên đang đốt rác. Những người này chỉ họ chỗ để cúng và họ nói theo “nhớ cúng gà”.

L nói: “Đất nước khốn nạn vì những linh hồn không được siêu thoát”.

L bày ít bánh lên cái dĩa. Cắm hoa vào bình. Và thắp nhang. Hắn không biết L khấn vái như thế nào. Nhưng hắn biết cô thành kính.

Hắn ra ngoài nhìn quanh.

U uất. Hắn nghĩ, L bước vào cõi oan khiên.

Cúng xong, họ quay trở lại chỗ gởi xe và hỏi người bảo vệ khu nghĩa trang ở đâu. Anh ta chỉ đường.

Hắn chạy xe qua cổng “Nghĩa trang Bình An”. Những người bảo vệ nghĩa trang chặn lại, hỏi: “Đi đâu?”

Hắn đáp: “Đi thăm mộ”.

Hỏi: “Mộ ai?”

Đáp: “Tất cả các mộ”.

Bảo vệ: “Vô văn phòng khai tên tuổi, địa chỉ”.

Hắn kiếm chỗ dựng xe. L vào văn phòng, cô ghi vào sổ: “Trần Thị Mít. Địa chỉ: số 1 Lê Duẩn. Tp. HCM”.

Hắn hỏi: “Chạy xe vào trong được không?”

Bảo vệ: “Được”.

L leo lên xe, hắn từ từ chạy vào khu vực trung tâm. Một bảo vệ chạy theo, bảo cấm chụp hình, quay phim. Sau đó anh ta quay lại.

Cây kiếm thiêng của Nghĩa Dũng đài đã mất ngọn. L đứng vái ba lần.

Một cậu bé đi tới tỏ ý muốn hướng dẫn họ tham quan. Họ đến bàn thờ cúng ở khu dành cho binh lính. L đốt tất cả số nhang mang theo, rồi họ cùng cắm từng cây nhang dưới chân mỗi ngôi mộ.

L hỏi cậu bé: “Ai trồng những cây tràm này?”

Cậu bé nói: “Bộ đội”.

L đi sâu xuống từng nấm mộ.

Rễ cây tràm đâm xuyên qua những xác chết và trói chặt các linh hồn. Thân xác thì đau đớn. Linh hồn thì ngục tù.

Cậu bé dẫn họ lại khu mộ mấy ông tướng và mộ của người đã làm mẫu cho bức tượng chiến sĩ vô danh. Một người bảo vệ nghĩa trang lượn xe gần chỗ họ. Cậu bé bảo nếu muốn chụp hình thì cậu trông chừng cho.

L đã bay lên ngọn cây.

Cô nhìn thấy một đám đông đi vào nghĩa trang. Họ mang theo hoa và những bịch cháo. Trong một thoáng rất nhanh, trên mỗi ngôi mộ đều có một bông hoa và một bịch cháo.

Cô nói: “Hãy an nghỉ”.

Trong lúc đó, hắn nghe được tiếng hát như lời sông núi và đám đông biến mất. Cùng lúc hắn thấy nhiều người “bảo vệ” xuất hiện.

L về chùa.

Cô lấy cái dùi gõ mõ gõ vào đầu gối Phật, nói: “Ngồi mãi không chán à?” Phật im lặng. Ông “Thày dùi”, L gọi thế vì ông lúc nào cũng cầm cái dùi, đang đứng gần đó nghe thấy, nói: “Thày thì rất chán, nên lúc nào cũng phải tập cái đầu gối”. L bảo: “Đừng xưng Thày với tôi. Tôi là con Phật, nhưng không phải đệ tử ông”. Ông “Thày dùi” nói: “Cũng chẳng sao. Cái áo không làm nên thày tu”. L đáp: “Đúng vậy. Ông mặc cà sa nhưng không phải thày tu”. Ông “Thày dùi” bảo: “Lại càng đúng. Tu tại tâm mà”. L nói: “Ông trơ tráo không khác gì đồng bọn”. Ông “Thày dùi” cười đểu: “Cô nói đồng bọn nào?” L bảo: “Đồng bọn nào thì ông tự biết”.

Sư phụ của L đã già. Không biết có phải là chân tu hay không, nhưng cụ phó mặc mọi sự cho ông “Thày dùi” khi ông thày giả hiệu này được điều từ ở đâu đó về trụ trì và đòi quyền điều hành.

Sư phụ dạy L về khí công. Cô không mưu cầu sự giải thoát mà chỉ muốn thân xác được khỏe mạnh và tĩnh tại tinh thần. Tuy nhiên, sư phụ thường bắt L phải tụng kinh trong tư thế kiết già mỗi sáng một tiếng đồng hồ. Cụ muốn đưa L lên một cảnh giới cao hơn.

Ông “Thày dùi” cũng tụng kinh sáng chiều, nhưng ông thích uống rượu. Và ông thường uống rượu trong phòng riêng với một số thiện nam, tín nữ.

Bạn hắn bảo: “Những người tu hành thường có nội lực rất mạnh. Đàn bà mê lắm. Cái sức mạnh được coi là “siêu nhiên” và “tinh tuyền” đó dễ dàng đưa tâm tình hiến dâng của các bà tới cõi cực lạc”.

Hắn nghĩ, sự hàm dưỡng nào cũng tốt.

Bạn hắn nói: “Hồi trước 1975, tôi đã từng ở trong chùa 3 năm, khi có nguy cơ bị lộ tông tích”.

Hắn nói: “Có nghĩa là ông cũng từng là một nhà tu giả hiệu?”

Bạn hắn bảo: “Không. Tôi ở trong chùa, nhưng rất ghét sư sãi. Vì thế, tôi không phải là một nhà tu giả hiệu”.

Hắn hỏi: “Ông ăn cơm chay, có tinh tiến không?”

Bạn hắn nói: “Tôi chay mà không tịnh, nên có cái tinh tiến, có cái giật lùi. Tuy nhiên, tôi có một kinh nghiệm là cái gì được tập trung cao cũng tạo nên một sức mạnh đáng kể”.

Hắn hỏi: “Theo ông, cái gì bây giờ cần được tập trung nhất?”

Bạn hắn nói: “Về phương diện cá nhân, tôi muốn tập trung vào cái chết”.

Hắn lại hỏi: “Thế còn không phải cá nhân?”

Bạn hắn nói: “Cũng thế thôi. Khi bạn muốn thay đổi, cần phải có cái gì đó chết đi”.

Hắn hỏi lại: “Cái gì phải chết đi?”

Bạn hắn nói: “Một trở lực nào đó”.

Hắn bảo: “Chán nhất là cứ phải nói vòng vo”.

Bạn hắn cười: “Ông không biết là bọn cựu trào chúng tôi lúc này đang được chăm sóc kỹ à?”

Hắn nói: “Tôi không rõ lắm. Nhưng tôi nghĩ chính các ông phải là những người đầu tiên phản tỉnh. Các ông không thể nhắm mắt mãi. Không thể ngậm miệng ăn tiền mãi”.

Bạn hắn cười: “Dường như sự chai lì của cuộc sống đã làm cho người ta không còn bận tâm đến việc mình còn có lương tri hay không. Xét cho cùng cũng là vì hèn. Cũng đành phải nói theo kiểu AQ Nguyễn Tuân, nhờ hèn mới sống được. Trong khi tất cả chúng ta đều tỉnh, từ thằng dân đen đến thằng cai trị. Chỉ vì tham thành ra ác. Cũng vì tham mà bọn cai trị sẽ không bao giờ thay đổi thể chế. Độc tài là thành trì vững chắc của đặc quyền và đặc lợi. Vì thế, quyền lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng sẽ vẫn cứ muôn năm. Trừ ra, khi những áp lực xã hội đủ mạnh để nó tự diễn biến”.

Hắn nói: “Tôi nghĩ đã đến lúc Tiếng hát những người đi tới (*) phải biến thành tiếng khóc của sự sám hối. Nếu cả đến sự sám hối cũng không thể được bày tỏ, vì bất cứ lý do gì, thì đấy là sự mạt vận”.

Bạn hắn hỏi: “Ông có biết vụ anh em cựu trào vừa rồi có dự định tổ chức một cuộc họp mặt không?”

Hắn nói: “Tôi có nghe loáng thoáng mấy ông định tổ chức ở Sài Gòn, nhưng không được, rồi phải mang ra Đà Nẵng, cũng không biết có thành không?”

Bạn hắn bảo: “Đảng sợ tất cả mọi cuộc tụ tập biểu hiện những khuynh hướng tự do. Cái vòng kim cô đang xiết lại. Một loạt các hoạt động tư tưởng văn hóa độc lập vừa rồi đã bị cấm…”

Hắn nói: “Đến mấy thằng “No U” tụ tập đi đá bóng cũng bị làm khó dễ, thì những người tự cho rằng mình là “những người đi tới” nên tự đâm đầu xuống lỗ”.

Bạn hắn cười: “Thì tôi đã tự chôn mình rồi đó thôi”.

L đang ngồi dưới chân tượng Phật. Cô sợ sự vọng động của mình. Nhưng cô không sợ những bóng ma lảng vảng.

Ông “Thày dùi” ngồi xuống cạnh cô. Ông cầm dùi gõ vào chiếc mõ và nói: “Cô ngồi mãi mà không mỏi chân à?” Cô nói: “Tôi chỉ mỏi đít thôi”. Ông “Thày dùi” bảo: “Vào phòng tôi, đít cô sẽ bay bổng”.

L nghĩ, cô cần đi tìm hắn.

Hắn nghĩ, đít bay bổng hay đầu bay bổng cũng không khác nhau mấy.

(*) ”Tiếng hát những người đi tới”, tuyển tập “giới thiệu các hoạt động đấu tranh của phong trào sinh viên học sinh thời chống Mỹ của thành phố Hồ Chí Minh cùng một số tỉnh thành ở miền Nam”. NXB Trẻ, 1990.

NGUYỄN VIỆN

(2012)