Tôi giật mình, trợn tròn con mắt, “See what?” Trong đầu hình dung cảnh một tên ôm bom tự sát vừa vạch ngực áo, phô bày những thoi chất nổ màu nâu sậm, quấn viền quanh bụng. Chứ sao không. Thời buổi bọn khủng bố mọc lên như nấm khắp nơi thế này. Nhưng không thấy tên nào vạch áo, phơi bụng, mặt đằng đằng sát khí hết.
“You didn’t see that?” Vẫn cái giọng trong trẻo, thanh thoát.
Vẫn đứa tôi ngơ ngác, “See what?”
Và trong cái đầu nhỏ hẹp nhưng trí tưởng tượng lại vô cùng phong phú của tôi hiện ra hình ảnh một tay tội phạm, lăm lăm khẩu súng máy trên tay, nhưng cũng chẳng thấy đứa sát thủ nào khoác AK-47 của Nga hay AR-15 của Mỹ trên vai, lững thững đi trên hành lang đông người qua lại hết.
“Don’t tell me you didn’t see that!” Đôi môi hồng lại lao xao. Tôi ngẩn ra như đứa trẻ không thuộc bài, bị cô giáo tra vấn.
“See WHAT?”
“Thiệt tình, đàn ông mấy anh, có mắt cũng như không!” Cô gái lắc đầu. Xin nhấn mạnh là cô vẫn nói bằng tiếng Anh đấy nhé. Tôi chỉ lập lại bằng tiếng Việt cho dễ hiểu thôi.
Trí tưởng tượng phong phú trong cái sọ nhỏ hẹp của tôi càng lúc càng phình ra, tưởng chừng sẽ làm nứt toác những khúc nối xương sọ. Tôi hình dung một cô gái tóc vàng đứng thẳng, vai xuôi, hai tay buông thõng, bàn tay xòe rộng. Những ngón tay có móng sơn màu hồng thắm duỗi ra. Ngao ngán. Buông xuôi. Vô vọng. Cử chỉ mà những người vợ, sau một ngày làm việc vất vả, về đến nhà, thấy nhà cửa bề bộn, con cái nheo nhóc, nhơ nhớp, bẩn thỉu, mà chồng thì đang ngồi trước màn hình ti vi, xem nốt trận chung kết giải túc cầu quốc tế. Tôi chớp mắt vài lần để xua cái hình ảnh không mấy đẹp ấy đi.
Cô gái vẫn ngồi cạnh tôi. Cô đang lắc đầu. Chẳng biết lắc đầu vì lý do gì, nhưng xem ra có vẻ ngao ngán lắm, cái lắc đầu thay cho ý nghĩ sẵn sàng buông xuôi. Tôi bứt rứt nhìn quanh. Thấy cái gì mới được chứ? Thiên hạ đi qua đi lại, đủ mọi thứ người, tôi có thấy gì khác thường đâu.
“Không thấy thật hả?”
“Không.” Tôi quả quyết.
“Cái túi xách hai chục ngàn đồng?”
“Túi xách nào?”
“Túi xách con nhỏ (kiểm duyệt bỏ) đeo trên vai chứ đâu.”
À, con bé (lại kiểm duyệt bỏ) thì tôi biết. Cái người đã làm tôi mất ăn mất ngủ bao lâu nay; cái người khiến tôi mất bao nhiêu thời gian khai đi khai lại những chuyện ấm ớ ở đồn cảnh sát; cái người khiến tôi đặt vấn đề với chính mình rằng bản hiến chương có tên The Charter of Rights and Freedoms của Xứ Tuyết bảo vệ mọi thứ quyền cơ bản của người dân nhưng có bảo vệ luôn cái quyền nhìn (và) ngắm hay không. Tôi nhớ có thấy người đàn bà ấy đeo cái túi trên vai nhưng cái túi là cái túi, chẳng có gì khác lạ hết.
“Đàn ông các anh thật vô tích sự. Cái túi lồ lộ như vậy mà không trông thấy, vậy thì lúc con nhỏ ấy đi qua, anh nhìn cái gì?”
Tôi giật mình. Lúc người đàn bà trẻ ấy đi qua tôi quả có nhìn, nhưng nhìn cái gì thì tôi không chắc lắm. Mà có chắc tôi cũng không dám mạnh dạn nói ra. Bởi cái người vừa mới hỏi tôi “Did you see that?” là một cô luật sư chẳng những chuyên về luật hình sự mà còn đặc biệt chuyên biện hộ những tội liên hệ tới sách nhiễu tình dục. Và tôi đang là thân chủ của cô ấy. Người đàn bà vừa đi qua, vai đeo cái túi xách hai chục ngàn đô là người tố cáo tôi có hành vi sách nhiễu tình dục. Và chúng tôi đang ngồi trong hành lang tòa án, giữa giờ nghỉ giải lao của tòa.
“My God! Cái túi hàng hiệu ấy tôi mơ ước từ lâu lắm rồi mà chưa dám mua!” Cô luật sư biện hộ của tôi thở dài. Và chờ cho nỗi u uẩn lắng xuống, cô quay sang tôi, “Đấy nhé, nhìn là một chuyện mà có thấy không lại là chuyện khác; và đó mới là điều quan trọng. Lát nữa vào tòa, tôi sẽ đem cái lý luận ấy ra để đập công tố viên. Mình sẽ thắng. Anh cứ chờ mà xem.”
Khúc phim ngắn buổi sáng hôm ấy còn mãi trong trí nhớ tôi. Nhìn và thấy là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Và điều làm tôi suy nghĩ là tôi nhận ra rằng cũng có hai mắt như nhau, cũng nhìn về cùng một hướng, nhưng hình ảnh ghi nhận được lại không giống nhau, nếu kẻ nhìn là hai người khác phái.
Tưởng tuợng nhé. Bạn là người đàn ông bảnh trai, bạn đi dạo với nửa kia của bạn trong thương xá, nửa kia của bạn cũng dễ thương, xinh xắn hết biết, sau khi để bạn chờ ngoài cửa tiệm giầy bốn mươi lăm phút, để thưởng công bạn đã chờ đợi và tán dương đức kiên nhẫn của bạn, nàng mua cho bạn ly Bubble Tea, cái thứ nước mà người Việt mình gọi là trà sữa trân châu. Rồi hai người lững thững đi bên nhau và bạn vừa nhấm nháp cái chất lỏng ngọt lịm và lạnh buốt vừa giả vờ chăm chú lắng nghe nửa kia thao thao kể cho nghe về những món hàng đang on sale trong tiệm giầy. Điều tôi muốn nói là nếu bạn để ý nhìn ánh mắt của những cô gái, của những bà xồn xồn, ngay cả của những nữ bô lão đi ngược chiều với bạn trước và sau khi bạn cầm ly Bubble Tea trong tay, bạn sẽ thấy sự khác biệt lớn lao. Lúc chưa có Bubble Tea, sẽ không có một phụ nữ nào đi ngược chiều với bạn, để mắt nhìn bạn dù chỉ một giây đồng hồ, mà phần lớn nếu có nhìn thì sẽ nhìn nửa kia xinh xắn của bạn. Đến khi bạn có ly Bubble Tea trong tay, bạn sẽ bắt gặp những cái nhìn đắm đuối từ những phụ nữ đi ngược chiều, những cái nhìn đắm đuối không phải cho bạn (dĩ nhiên), cũng không còn cho nửa kia nóng bỏng của bạn, mà cho ly Bubble Tea bạn cầm trong tay. Không tin bạn cứ thử mà xem. Tôi đã thực hành trắc nghiệm này nhiều lần và lần nào kết quả cũng giống nhau.
Ngược lại với các chàng trai, với các ông – nói chung – thì dù là ly Bubble Tea hay là ly gì đi nữa thì nếu có nhìn, các chàng thanh niên, các ông có tuổi… sẽ chỉ nhìn cô gái, tức là nửa kia của bạn mà thôi.
Nêu lên sự kiện rằng kết quả của thí nghiệm này chính xác, tôi không ngụ ý phê phán là phái nữ yêu thích Bubble Tea nói riêng và các món ăn nói chung (nghĩa là ham ăn), tôi chỉ muốn xác định cái lý thuyết rằng dẫu đàn ông và đàn bà cùng nhìn một thứ thì hình ảnh hiện lên trong võng mạc hai người vẫn hoàn toàn khác nhau.
Từ cái chuyện vặt ấy nở ra những thắc mắc khác cũng lặt vặt không kém. Tôi biết các cô sinh viên y khoa gốc Việt khi đi thực tập thường mang theo ô mai, xí muội, tầm ruộc để nhâm nhi nhưng tôi thắc mắc không biết khi đã ra trường hành nghề, các nữ bác sĩ có mang theo gói tầm ruộc, ô mai, me dầm, cóc dầm chấm muối, ổi, xoài… – toàn những thứ độc địa dưới con mắt người thầy thuốc – trong cặp sách, bên cạnh cái ống nghe không. Và tôi phát hiện ra là: có! Không tin bạn cứ hỏi bất kỳ bác sĩ Việt Nam nào mà xem.
Thì ra dù ngồi trên ngôi cao nữ hoàng, trong phòng thí nghiệm không gian của NASA, dù là phi hành gia đi bộ ngoài không gian, hay là chánh án tối cao pháp viện, dù là chiến sĩ đấu tranh cho nhân quyền hay chỉ là người nội trợ khiêm nhường các cô muôn đời vẫn là… các cô: dễ thương và… dễ thương hết biết.
Trở lại chuyện cái túi xách hàng hiệu. Từ lúc ngồi cạnh cô luật sư hình sự trong hành lang tòa án ngày hôm ấy, tôi bắt đầu học cách nhận diện những túi xách hàng hiệu. Một cô bạn của em gái tôi có thói quen sưu tập túi xách. Bộ sưu tập của cô lên tới hàng trăm món, từ những cửa hàng trứ danh trên thế giới, những cái tên mà tôi nghe như vịt nghe sấm nhưng lại là những cái tên có thể khiến nhiều người gọi thầm trong giấc ngủ: Chanel, Fendy, Hermes, Hilde Palladino, Lana Marks, Louis Vuitton, Marc Jacobs, Mouawad, Prada, Judith Leiber… (Những cái tên này tôi nhờ Google chỉ giùm chứ thật ra chẳng biết ất giáp gì.) Cô mua túi xách về, giấu biệt trong một cái walk-in closet của riêng cô, lâu lâu đem ra ngắm nghía, chuyện trò với cái túi, rồi lại cất vào góc tối. Những khi chồng cô có việc, phải đi xa hàng tuần lễ, phải ở nhà một mình nhưng cô không lo lắng, không buồn phiền. Cô cũng chẳng buồn chán hay cô đơn, bởi cô có thể đem toàn bộ sưu tập của mình rải đầy phòng khách, lan qua phòng ăn, xuống tận nhà bếp. Đứng trước rừng túi xách, như vị nữ tướng đứng trước đoàn quân tinh nhuệ, cô đắm đuối nhìn chúng. Cô vuốt ve cái mềm mại, mịn màng, mướt mát của lớp da, cô cầm từng cái xách tay lên hít hà mùi da mới thơm ngây ngất. Cô chuyện trò với từng đứa như chuyện trò với người bạn thân lâu ngày không gặp. Rồi cô cứ để rải ra như thế suốt mấy ngày chồng vắng mặt. Mỗi tối, cô lựa một vài “đứa” mà cô yêu thích nhất, cho ngủ chung giường với cô. Cứ thế, những ngày chồng đi xa lại là những ngày hạnh phúc nhất trong đời cô.
Những lúc chồng có nhà, để hợp thức hóa sự có mặt của đám túi xách xâm nhập gia cư bất hợp pháp, thỉnh thoảng cô đem một cái túi ra, lượn qua lượn lại cho chồng thấy và chờ chồng hỏi cái câu quen thuộc, “Mua hồi nào vậy?” là cô nhanh nhảu, “Mua lâu lắm rồi, cũ xì anh hổng thấy sao.” Và anh chồng dễ tính của cô cũng lại nhìn cái túi xách mà chẳng thấy gì hết, bèn xuống giọng, “Vậy sao!”
Hết chuyện.
Cô gái ấy là chuyên viên cao cấp về túi xách hàng hiệu. Và cái chân lý nhìn và thấy là hai chuyện hoàn toàn khác nhau bao giờ cũng đúng. Nhiều lần tôi muốn nhờ em gái nói với cô bạn cho tôi học một khóa nhận diện túi xách, nhưng con bé em khó chịu, không muốn anh mình vướng vào những chuyện không nên vướng, tôi đành thôi.
Để đền bù công ơn cô luật sư hình sự đã giúp mở mắt tôi để biết nhìn những thứ có giá trị – dù là vật chất – và quan trọng hơn là giúp tôi trắng án trong phiên xử ấm ớ ngày hôm đó – dĩ nhiên là trắng án bởi người ta chỉ nhìn mình một cái mà đã vội la toáng lên là bị sách nhiễu, là bị “he stared at me” thì ai mà tin được – tôi hứa với lòng là từ nay sẽ cố lựa thứ để nhìn cho phải phép.
Và nhìn thì phải thấy mới không uổng công vén mắt nhìn.
Bởi NHÌN và THẤY là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.
Hai cây cột đèn bên kia đường mỗi cây ném cho hắn một chiếc bóng. Một nghiêng về bên phải, một ngả sang bên trái nhưng cùng một đôi chân, như thể từ đôi chân ấy mọc ra hai hình hài riêng biệt. Hắn liếc nhìn ông anh vợ đi bên cạnh. Bóng anh ta cũng chẻ thành đôi. Những đôi chân dán cứng xuống đất khi hai người ngập ngừng bước lên bậc thềm, lọt vào khung một cửa tiệm đỏ thẫm ánh đèn.
Mùi thơm phảng phất của nước hoa, của trái cây chín tới lùa vào mũi hắn.
Ánh đèn đỏ lè bên trong. Hắn phải nheo mắt lại để nhìn cho rõ. Ngay bên lối vào là một cái quầy phủ lớp vải ren mỏng. Một đĩa trái cây nằm trên mặt quầy. Hắn liếc vội mấy trái táo tròn bóng lưỡng chen chúc với chùm nho chín mọng, rồi hồi hộp nhìn qua người đàn bà đứng tuổi ngồi phía sau quầy.
Hắn vội vã gật đầu. Bởi chần chừ, người đàn bà sẽ hỏi han lôi thôi bằng thứ tiếng Anh lai giọng, hắn sẽ phải vất vả tìm câu trả lời. Hơn nữa đây là tiệm massage. Bảng hiệu ba thứ tiếng gắn ngoài cửa ghi rõ ràng như thế.
Người đàn bà nói giá tiền. Hai gã thanh niên loay hoay đếm từng đồng bạc. Hắn đã chuẩn bị sẵn. Những đứa có dịp trốn trại ra thành phố chơi, đem về vô số thông tin. Tiệm nào, ở đâu, giá cả bao nhiêu, đi ta-xi hết bao nhiêu. Có đứa còn cả quyết tiệm này hình như có một em người Việt. Người đàn bà tỉ mỉ vuốt cho thẳng và thong thả đếm những đồng tiền giấy. Hắn cẩn thận nhét tờ hai chục – tờ giấy bạc duy nhất – còn lại sâu vào túi quần. Mất là lát nữa không có tiền trả ta-xi về trại.
Người đàn bà chỉ những chiếc ghế kê cạnh nhau ở sát vách ba bức tường, “Ngồi đi.” Hai đứa nhanh chân ngồi thụp xuống chiếc ghế nệm dài. Mỗi đứa một đầu. Cả hai quả tim cùng lao xao trong hai lồng ngực. Người đàn bà ngoái cổ ra phía sau réo một tràng tiếng Mã Lai. Vài giây sau, ba cô gái vén tấm màn ren thưa như vải mùng bước ra nhìn hai đứa hắn.
“Pick one.” Người đàn bà nói lớn. Hắn hiểu. Gã anh vợ của hắn cũng hiểu và nhanh tay chỉ cô gái da đen to con gấp đôi anh ta. Hắn nhếch mép cười và rụt rè chỉ ngón tay vào cô gái có dáng người nhỏ nhắn nhất: cô gái Á Châu. Thông tin rỉ tai quả là chính xác, nhìn cô gái này biết ngay là người Việt. Nhưng người Việt sao lại lạc qua tận nơi này. Chút băn khoăn dấy lên trong lòng hắn.
Cô gái thứ ba – một cô Ấn Độ có đôi mắt to, bộ ngực bề thế và chếc váy cũn cỡn trên đùi – nhún vai, xoay lưng, vén tấm màn ren ngúng nguẩy bước vào phía trong. Hắn chợt áy náy. Hắn không muốn làm ai thất vọng. Trong đời hắn đã thất vọng nhiều rồi. Hắn cảm được nỗi ê chề của cô gái không được chọn. Nhưng biết làm sao bây giờ.
Cô gái da đen nắm tay anh vợ hắn lôi đi. Cô gái Á Châu nhìn hắn, cười, rồi ngoắc tay. Hương trầm thoang thoảng không gian. Hắn ngoan ngoãn bước theo cái dáng mỏng manh ấy, thầm tiếc sao cô không nắm cổ tay hắn mà kéo đi, như cô gái da đen làm với anh vợ hắn.
“Con ấy nhỏ xíu, đấm bóp yếu xìu, sao không lấy con nhỏ Ấn Độ?” Anh vợ hắn đã bị kéo đi còn ráng nghểnh cổ lại, nói tiếng Việt với hắn. Hắn vội xua tay, bởi hắn sợ lỡ cô gái của hắn nghe được tiếng Việt thì kỳ lắm.
Anh vợ hắn toét miệng cười. Dưới ánh đèn đỏ lè, mờ ảo, cái bóng nhỏ bé của gã Việt Nam chìm vào cái khung đồ sộ của cô gái da đen. Cả hai biến đi sau một khung cửa. Cô gái của hắn thoăn thoắt bước, buông lại phía sau mùi hương lạ lẫm. Hắn nhanh chân bước theo. Hai cánh mũi phập phồng. Lồng ngực căng cố nén cho đầy, cho sâu cái mùi dịu dàng hương phấn lẫn chút trầm hương thanh thoát. Lâu lắm không hít hà được mùi hương của đời sống. Phải như hắn có thể đổ đầy cái mùi gợi cảm ấy vào một chiếc hộp, đậy nắp kỹ, đem về cái góc lụp sụp trong căn lều ở trại tị nạn, lâu lâu mở ra hít hà thì hạnh phúc biết chừng nào.
Đang thoăn thoắt bước, cô gái đứng sựng lại, quay người đẩy một cánh cửa bên lối đi. Hắn dán mắt vào tấm bảng nhỏ gài trên khung cửa. Ba con số nằm cạnh nhau. 007. Vậy là hắn vào phòng số bảy. Hắn quên nhìn xem ban nãy anh vợ hắn bị kéo vào phòng số mấy. Và hắn ngạc nhiên về cách ghi số phòng của tiệm này. Như thể họ có hàng trăm căn phòng nên phải ghi tới ba con số để khỏi nhầm lẫn. Cô gái khép cửa, vói tay bật công tác điện. Ánh sáng màu xanh tràn ngập căn phòng. Vừa mới quen với chất màu đỏ thẫm của ngọn đèn hành lang và phòng khách, hắn phải chớp mắt mấy lần mới quen được với ánh đèn xanh dịu dàng, màu của bầu trời mùa hạ ngập nắng và vũng biển biếc xanh. Máy lạnh ở góc phòng phả ra cái hơi mát dịu dàng.
Cô gái cởi áo khoác, treo lên cái móc trên tường. Rồi cô xoay lại, nhoẻn miệng cười, chỉ vào người hắn. Hắn lúng túng loay hoay mấy cúc áo. You need help? Cô hỏi, giọng trong. Hắn xua tay, it’s okay. Cô cởi luôn áo ngực, treo lên tường. Thân hình mỏng mảnh chỉ còn chiếc quần lót vừa một lòng bàn tay. Hắn hồi hộp liếc trộm đôi vú vun đầy. Dưới ánh đèn biếc xanh, vệt bớt son trên vòm cong ngực trái cô gái tím ngắt, như vết bầm. Và hắn chóng mặt. Ánh đèn xanh mướt biến thân thể cô thành loài thủy quái dưới thủy cung.
Cô lấy trong túi xách một cái kẹp tóc, gom mái tóc và kẹp lại sau lưng. Hắn đứng ngẩn nhìn và thầm tiếc. Phải chi cô cứ để tóc xõa nhìn sẽ thơ mộng hoặc có chút gì đó liêu trai hơn.
Cô chỉ chiếc giường nhỏ có tấm nệm mỏng và khăn trải biếc xanh ánh đèn, gật đầu nhìn hắn. Hắn ngoan ngoãn trèo lên và nằm sấp trên lớp vải mát rượi. Cô leo lên giường theo hắn, hai đầu gối hằn trũng mặt nệm.
“Anh ở đâu?” cô hỏi bằng tiếng Anh, hai bàn tay xoa nhẹ trên lưng hắn.
Hắn nghiêng đầu trên mặt chiếc gối tẩm nước hoa để trả lời, “Kuala Lumpur.”
Hai bàn tay cô sựng lại, “Đây là Kuala Lumpur mà.”
“À, trong trại tị nạn.”
Những ngón tay lại xoa đều trên lưng hắn, “Làm gì trong đó?”
Hắn bảo hắn chẳng làm gì cả. Ngày ngày học Anh Văn và chờ được phỏng vấn. Những ngón tay người con gái lại nằm yên trên lưng hắn. Hắn vội tiếp, “Tôi là dân tị nạn.” Và để cô khỏi hiểu lầm, hắn nói thêm, “Tôi là người Việt Nam.”
“À!” Cô gái thở phào. “Thì ra vậy.”
Cô vừa xoa bóp lưng hắn vừa hỏi ở trại tị nạn được ăn những gì. Hắn kể về những con cá rán cháy. Những miếng thịt gà nướng khô. Và những thố cơm nồng mùi khét. Cô chép miệng. Cô hỏi hắn hết ở trại tị nạn thì đi đâu. Hắn bảo cũng không biết nữa. Tính xin đi Mỹ mà chẳng biết có được nhận không.
Nắn bóp từ cổ sang bả vai, xuống lưng hắn xong, cô chống hai tay hai bên người hắn, và đắp thân thể cô lên người hắn. Dùng đôi vú mềm xoa đều lưng hắn.
“Trại tị nạn tên gì?” Cô hỏi. Hơi thở nóng ran trên gáy hắn. Da thịt mùi trầm gây gây. Hắn nói cho cô nghe cái tên trại bằng giọng hụt hơi. “À,” cô reo lên khe khẽ. “Tôi biết rồi. Ngày nào tôi cũng đi qua chỗ ấy. Thấy người ta đứng bám tay vào hàng rào, nhìn ra ngoài.”
Cô làm hắn nhớ những buổi chiều đứng ở hàng rào bên hông trại, nhìn ra Kuala Lumpur, đứng hoài cho đến khi đêm xuống, mơ tưởng cái ngày khăn gói rời trại, đi định cư ở một quê hương khác. Đêm xuống, một vừng ánh sáng bao phủ những cao ốc nhấp nhô trong cái nền đen của bầu trời nhiệt đới lấp lánh những vì sao. Có những đêm trăng tỏ, hắn say trăng. Nhìn hoài, bởi trăng rất quen, như trăng ở quê nhà.
“Nhìn họ, thấy tội nghiệp,” cô chợt nói.
“Có tôi trong đám ấy đó.”
Hắn nghe tiếng thở dài của cô gái, cảm động hay mỏi mệt sau một ngày dài làm việc hắn cũng không rõ, nhưng hắn cố tin cô thở dài vì cảm động.
“Tôi cũng người Việt Nam,” cô chợt nói.
Hắn ngóc đầu dậy như con kỳ đà thấy mồi.
“Hồi nhỏ tôi ở Việt Nam,” cô nói nhỏ. “Trong Chợ Lớn.” Cô phát âm hai chữ Chợ Lớn nghe tức cười nhưng hắn không buồn cười. “Mẹ tôi gửi tôi cho dì nuôi tôi hồi ba tuổi.”
“Tại sao?”
“Bên Việt Nam đánh nhau hoài… với lại cha tôi không thích…”
“Sao cha cô lại không thích?”
“Tôi không phải con ông ấy.”
“Thế bây giờ cha mẹ cô…”
“Mất liên lạc.”
Hắn nhớ như in thời kỳ chiến dịch bài Hoa trong nước lên cao độ khi có chiến tranh biên giới phía Bắc. Giọng cô rì rầm, “Sau 75, mất liên lạc. Nhưng nếu ông bà trốn ra nước ngoài được, chắc chắn họ sẽ liên lạc với dì tôi. Chỉ sợ…” Cô ngưng ngang câu nói và bảo hắn lật người nằm ngửa cho cô nắn bóp bả vai và hai cánh tay.
Hắn hiểu cái nỗi “chỉ sợ” của cô gái. Và hắn trấn an cô, “Chắc không sao. Người Hoa được cho phép đi, chỉ cần có tiền.” Hắn nghĩ cha mẹ của cô gái này trong Chợ Lớn hẳn phải có đủ khả năng đóng ghe, mua bãi. “Không chừng họ đang ở cùng trại với tôi…” Hắn nói.
Cô gái tròn con mắt. Ánh đèn xanh làm đôi mắt ấy long lanh, và hắn đọc được trong đó niềm hy vọng. Từ bao lâu nay, con người – ở bất cứ nơi đâu – đều bám lấy hy vọng mà sống.
“Cha cô tên gì?” hắn hỏi.
Cô đọc cho hắn một cái tên, nhưng cô phát âm bằng tiếng Quảng Đông, nghe lạ lẫm. Hắn cố lẩm nhẩm cái tên ấy.
“Khi về trại tôi sẽ để ý tìm,” hắn nói.
Hắn nghe tiếng thở dài của cô gái. Giọng cô bỗng đượm nỗi buồn, “Lúc trước dì tôi cứ nói sẽ đưa tôi qua thăm mẹ tôi, nhưng chần chừ mãi. Bây giờ thì hết thăm được rồi.”
Not anymore. Âm thanh hụt hẫng. Nghe như một lời than của đám đông hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu người thở ra cùng một lúc. Chẳng còn nữa đâu, chẳng còn gì nữa đâu.
Hắn hình dung đến những người Việt gốc Hoa trong trại. Và hắn chợt nhận ra cái hay của họ là ở đâu cũng xoay sở để nắm được những chức vụ then chốt. Trong trại tị nạn nơi hắn tạm trú. Ban Ẩm Thực, Ban Thư Tín, Ban Y Tế, Ban Nhân Lực, Ban Vệ Sinh… nghĩa là những ban có đặc quyền hoặc có những thứ “ăn” được đều do người Hoa làm trưởng ban. Câu réo gọi của nhân viên ban ẩm thực bằng tiếng Quảng Đông khi nhận thẻ từ tay người xếp hàng lãnh cơm còn vang trong đầu hắn. Dất co. Dì co. Sám co. Một người. Hai người. Ba người. Tất cả bằng tiếng Quảng, để nhân viên cho một, hai, hay ba con cá. Cha mẹ của cô gái này biết đâu là một trong những nhân viên ấy.
“Mẹ tôi thương tôi lắm,” cô gái nói, tay vẫn không ngừng nắn bóp hai vai hắn. Hắn nghĩ thương mà lại đem con cho người khác nuôi. Như đọc được ý nghĩ hắn, cô nói, “Ở lại bị pháo kích chết á.”
Rồi cô hỏi hắn có vợ con chưa. Hắn thật thà kể chuyện đi vượt biên, xuống ghe hoảng hốt sao đó, vợ hắn bị lọt lại. Hắn đi thoát. Và hắn thở dài. Hắn nhớ vợ và đứa con còn ẵm trên tay, nhưng phút giây này hình ảnh vợ nhòe nhoẹt như bức tranh màu nước chưa kịp khô, ai đó sơ ý đánh rơi vào vũng nước. Và mùi trầm thoang thoảng từ thân thể cô gái làm lòng hắn lâng lâng.
“Anh nhớ vợ anh không?” Cô gái chợt hỏi. Câu hỏi như nhát cuốc đào trúng mạch nước ngầm, hắn ngậm ngùi, “Nhớ chứ. Hồi còn ở đảo Bidong, nhiều đêm không ngủ được, tôi ra bờ biển, nhìn hoài về phía Việt Nam. Bị phạt mấy lần vẫn không chừa.”
“Sao lại bị phạt?” Cô hỏi.
“Giới nghiêm. Sau chín giờ không được ra ngoài.”
“Bây giờ hết nhớ chưa?”
“Còn chứ, nhưng trại tị nạn ở Kuala Lumpur không có biển, nên chẳng biết nhìn về đâu.”
Những ngón tay thuôn vuốt lên má hắn, “Anh thèm lắm phải không?”
Câu hỏi xoáy vào thịt da hắn như trăm ngàn mũi kim châm cứu đâm sâu vào huyệt đạo khát khao. Hắn nuốt nước bọt.
“Anh muốn không?” Cô thì thầm.
Tim hắn ngưng đập. Hắn chưa biết trả lời sao thì có tiếng gõ cửa. Và giọng phụ nữ gắt gỏng vọng vào, “Phone.”
Cô gái ngưng vội hai bàn tay. Bước qua người hắn, xuống đất, vói tay lấy chiếc áo choàng khoác lên người. “Anh chờ chút xíu,” cô nói rồi thoăn thoắt bước ra ngoài. Giọng người đàn bà gắt gỏng bên ngoài, hắn nghe tiếng được tiếng không, và hắn đoán là cô gái đang bị mắng vì để ai đó gọi cô trong giờ làm việc. Hắn ngểnh cổ nhìn theo. Ánh đèn xanh trong phòng hắt ra, trộn lẫn với ánh đèn đỏ ngoài hành lang, tô thân hình cô gái một màu nâu sẫm như màu gạch cũ.
Một lát cô trở lại, mang theo một không gian đằm thắm hương trầm. “Dì tôi gọi.” Cô vừa nói vừa thở phì phò.
Hắn “Vậy à?” rồi lặng thinh. Hắn không biết nên hỏi tiếp câu gì cho phù hợp. Nói chuyện với phụ nữ đã khó mà còn không được nói bằng tiếng nước mình thì khó gấp trăm lần. Nhưng vừa leo lên chiếc giường bé và chật nơi hắn đang nằm tay chân duỗi dài, cô đã tiếp, “Dì tôi không đến đón được.”
Hắn lại “Vậy à?” và vẫn lặng thinh. Hắn chờ cô hỏi lại cái câu ban nãy, bởi cả người hắn đang bừng bừng cơn sốt.
Cô bảo hắn nằm sấp trở lại và nắn bóp hai bả vai hắn. Hắn nằm ngoan thưởng thức cái mềm mại, ấm áp của những ngón tay thon. Rồi hắn bỗng nghĩ ra được câu để hỏi, “Vậy làm sao lát nữa cô về nhà được?”
“Tôi phải đi bộ ra bến xe.”
Hắn “Vậy à?” rồi lặng im suy nghĩ. “Sao không đi ta-xi?” Hắn hỏi, bởi hồi chiều hắn và ông anh vợ cũng đi ta-xi ra đây. Có hơi đắt chút xíu nhưng bảo đảm đến đúng nơi, đúng chỗ mình muốn. “Sao không đi ta-xi?” Hắn lặp lại câu hỏi.
“Đi ta-xi thì còn được bao nhiêu tiền để đi chợ mua đồ ăn,” cô nói.
Trán hắn cau lại, mặt hắn nhăn nhúm. Hắn cố hình dung những đồng tiền Mã Lai, những đồng Ringit. Thân nhân ở nước ngoài gửi chi phiếu qua trại, đổi sang tiền Mã Lai có hình ông vua Abdul Rahman, trên đầu quấn thứ vương miện có hình dáng lạ kỳ. Tất cả tiền giấy đều có hình ông ấy ở một mặt. Chỉ mặt sau tiền giấy thì có những hình ảnh khác nhau. Mỗi đồng có một màu riêng biệt. 5 đồng xanh lá mạ, 10 đồng màu đỏ gạch, 20 đồng màu cam, 50 đồng màu xanh da trời, 100 đồng màu tím. Và những đồng tiền cắc có kích thước khác nhau. Từ lúc đến Mã Lai, hắn đã cố nhớ mặt những đồng tiền giấy và tiền cắc của xứ này. Trong túi hắn chỉ còn mỗi một tờ màu cam đủ để trả tiền ta-xi về trại tị nạn. Mấy tháng trời ăn nhờ ở đậu trên cái đất Mã Lai này hắn chưa từng thấy tờ giấy bạc màu tím nào.
Cô nhún vai, “Không sao, chỉ là từ đây ra bến xe hơi xa, qua mấy khúc đường vắng, tôi sợ, vậy thôi.”
Hắn buột miệng, “Tôi sẽ đi với cô ra bến xe.” Nói rồi hắn chợt nhớ mình đi chung với ông anh vợ, chẳng biết anh ta có chịu đi cùng với hắn đưa cô gái ra bến xe không. Nhưng lỡ nói rồi, hơn nữa, đưa cô gái lẻ loi, dù xa lạ, một quãng đường có mất mát gì đâu. Cứ coi như đi dạo Kuala Lumpur. Thăm những con phố lạ về đêm.
Cô gái chợt nằm hẳn lên người hắn. Sức nặng thân thể và hơi ấm da thịt cô làm tim hắn rối nhịp. Rồi cô ngồi lên bên cạnh hắn, luồn tay vào sợi dây thun chiếc quần đùi của hắn, tuột xuống.
Hắn run rẩy nắm lấy bàn tay cô, “Tôi không đủ tiền.” Hắn nghĩ đến đồng hai chục nhét sâu trong túi quần, vừa đủ chuyến ta-xi về trại tị nạn.
Cô gái cười. Nụ cười thiểu não dưới ánh đèn biếc xanh khuấy lên nét liêu trai pha chút u uẩn, “Cho anh thiếu nợ.”
Hắn điếng người, “Tôi cũng không có tiền để tip cho cô.”
“Cũng cho thiếu luôn,” cô nói, giọng vui, nhưng với nụ cười buồn.
Cô bước xuống giường, mở ngăn kéo chiếc tủ kê sát tường, bới loạt xoạt mớ đồ trong ngăn tủ, lôi ra vật gì đó, đưa cho hắn. “Cho thiếu nợ, nhưng anh phải mang cái này.”
Hắn trố mắt nhìn cái vật nằm gọn trong lòng bàn tay cô gái. Bao cao su ngừa thai bọc trong giấy kính màu đỏ càng sậm lại dưới ánh đèn xanh mờ ảo.
Rồi cái thân hình mỏng mảnh ấy nằm ép xuống bên hắn, đẩy hắn sát cạnh giường. Hơi hướm Việt Nam rộn ràng khứu giác. Tóc rất đen và mắt đặm nâu. Hắn bàng hoàng nhìn thân mình mỹ nhân ngư biếc xanh ngan ngát hương trầm. Ký ức những lần nằm dài trên bãi cát biển Bidong, chờ con sóng cuốn đi, hoặc nhắm mắt hình dung một nàng tiên cá dạt vào bờ nằm kề bên bỗng tràn về như trăm ngàn con sóng. Da thịt mát rượi vỗ về hắn. Người con gái Mã Lai gốc Việt. Em là người Việt, người Hoa hay người Mã. Những câu hỏi vô nghĩa. Em là ai tôi cũng thấy quá đỗi gần. Như cô gái bên nhà. Như cô bạn học ngồi ở bàn ngay phía trước. Những câu hỏi quấn vào nhau trong óc. Tim hắn rối nhịp. Hơi thở ngắt quãng. Hắn thấy mình run rẩy, lúng túng và vấp váp như thằng bé học trò lần đầu làm chuyện người lớn. Lâu lắm rồi, hắn không được gần gũi, không được ôm ấp, không được nâng niu một thân thể đàn bà. Người con gái xa lạ này ban cho hắn niềm hạnh phúc bất ngờ. Hắn sắp ngất đi vì hạnh phúc. Hắn hít hà mùi da thịt ngai ngái hương trầm. Hắn vùi mặt vào mái tóc nồng hương thơm thứ thuốc gội đầu nào đó mà cả đời hắn chưa lần nào bắt gặp. Đôi cánh tay lạ lùng của người con gái xa lạ siết quanh tấm lưng èo uột của gã lưu dân ốm đói. Đôi cánh tay ấy ôm hắn sát vào thân thể nàng. Hắn hung hăng nhưng dịu dàng, mạnh bạo nhưng nhẹ nhàng, bởi hắn sợ sức nặng thân mình trần tục hắn làm nhàu nhò đôi vòm cong của bờ ngực mỏng mềm con gái. Hắn cong người, đứt hơi, hai bàn tay vò nát cơn thèm trên mặt nệm. Rồi hắn rũ xuống, đuối người, vô vọng. Hắn ngẩn ngơ tiếc nuối cơn động kinh hạnh phúc chưa đầy một phút đồng hồ. Phù du biết chừng nào.
Cô gái ngơ ngác một giây rồi nhẹ nhàng gỡ hai cánh tay rã rượi như hai khúc bột mềm của hắn thả xuống mặt nệm. Hắn bối rối giấu cái bao cao su trong lòng bàn tay. “Đừng bỏ ở đây.” Cô nói nhỏ, và lấm lét nhìn quanh, “Tôi không muốn bị phạt.”
Hắn nhét vội cái vật nhơm nhớp vào túi quần, rì rầm, “Mai mốt…”
Cô nhướng mắt nhìn hắn, ngón tay gài vội cái khuy áo ngực, gói lại hai bầu vú xanh non. Hắn nói như hụt hơi, “Mai mốt kể chắc chẳng ai tin.”
“Chuyện gì?” Cô hỏi.
Hắn lắp bắp, “Chuyện tôi có… người yêu ở Kuala Lumpur.”
“Người yêu?”
“Vâng, người yêu, bởi…” hắn toan nói “người yêu mới không tính tiền” lại ngậm ngay lại, và nói trớ đi, “người yêu mới… yêu như thế.”
“Cho thiếu nợ mà.”
“Biết bao giờ trả được.” Giọng hắn trộn lẫn chút hớn hở và một thoáng ngậm ngùi.
Cô gái cười. Rồi cô suy nghĩ một giây, “Tôi sẽ cho anh cái gì đó làm bằng chứng.”
“Chi vậy?”
“Để người ta tin anh nói thật.”
Cô nhìn quanh, tìm kiếm, hắn nghĩ đến cái áo ngực mỏng và nhỏ như cánh bướm ban nãy cô treo trên móc và vừa mới khoác lại lên người. Giả như cô dúi vào tay hắn cánh bướm màu đen ấy chẳng biết hắn có dám đem về trại không. Nhất là khi đang ở chung phòng với ông anh vợ. Dù hai đứa xê xích tuổi nhau nhưng khi đã là anh vợ, vai vế của gã cũng được nâng cấp lên theo. Nếu đem về được qua xứ sở định cư, hắn sẽ treo cánh bướm ấy trong phòng ngủ, để sống mãi phút giây hạnh phúc bất ngờ. Dẫu vô cùng ngắn ngủi.
Chợt cô đưa tay lên đầu, nhanh nhẹn tháo cái kẹp tóc. Mái tóc đen nhánh bung ra, lòa xòa hai bờ vai. Cô đưa cái kẹp tóc cho hắn. “Có tên tôi khắc trên đó đó,” cô nói.
Hắn nghiêng cái kẹp tóc kim loại dưới ánh đèn. Ba chữ Tàu khắc trên mặt ngoài cái kẹp tóc. Hắn xoay chiếc kẹp tóc về phía cô, “Cô đọc tên cô được không?”
Cô cười, “Không. Anh tự tìm lấy. Và nhớ đọc bằng tiếng Phổ Thông nghe mới hay.”
Rồi cô mở cửa căn phòng màu xanh cho hắn bước ra cái hành lang đỏ loét. “Đừng kể cho cha mẹ tôi nghe chuyện này.” Cô dặn với theo làm như chắc chắn hắn sẽ tìm cha mẹ dùm cô. Hắn mau mắn gật đầu.
Hắn ngồi với ly nước lạnh. Không biết thằng anh vợ hắn làm gì mà lâu lắc đến như thế. Quán sắp đóng cửa rồi. Cuối cùng, anh ta cũng ra tới, hai tên thanh niên cảm ơn người đàn bà ngồi ở quầy rồi bước ra cửa. Phố đêm mờ ảo ánh đèn. Hắn đứng xớ rớ bên cánh cửa. Cô gái người Hoa (của hắn) cũng ra tới. “Let’s go!” Cô nói nhỏ. Và nhanh chóng rảo bước. Hắn lặng lẽ đi theo. Phố vắng tanh. Chiếc bóng nhỏ nhoi của cô lạc loài trong đêm tối. Tiếng giầy cao gót lóc cóc khua vang động lòng phố.
“Đi đâu đây?” Gã anh vợ hỏi.
Hắn lắp bắp, “Tôi hứa đưa cô ta ra bến xe. Khuya rồi, đường vắng, tội nghiệp.”
Anh vợ hắn tròn mắt ngạc nhiên, nhìn hắn rồi nhìn cái bóng nhỏ bé của cô gái nhập nhòe trong bóng đêm. Gã nhún vai, rồi lặng lẽ gật đầu.
Không nói gì với nhau, họ đi hoài như thế. Qua vô số ngõ ngách quanh co, qua những đoạn đường vắng tanh. Thỉnh thoảng một chiếc xe chạy vụt qua dưới lòng đường. Lũ đèn giao thông xanh đỏ, chớp tắt ở ngã tư, những cửa tiệm rực rỡ ánh đèn, lác đác đám người đi chơi đêm. Cuối cùng ba người cũng đến được bến xe. Hắn đứng nhìn bóng cô gái lọt vào trong lòng chiếc xe bus dài. Bỗng dưng hắn muốn chạy ào tới, leo lên xe, đi với cô thêm một đoạn đường nữa. Hắn đã sống lẻ loi trong trại tị nạn, đã khao khát vô cùng chút ấm áp mềm mại của thịt da người nữ. Bỗng dưng hắn nhận ra nỗi cô đơn như cảnh sát nhận diện được can phạm. Nỗi cô đơn quyện lấy hắn như cơn lốc xoáy. Hắn thèm đi với cô một đoạn đường. Hắn thèm đi với cô nhiều đoạn đường. Đường phố hay đường đời, cho nhạt bớt nỗi cô đơn.
Cho tôi ở lại đây, với một người con gái Việt, giữa trăm ngàn con phố lạ.
Hắn cứ đứng hoài như thế. Cho đến khi ông anh vợ níu vai áo hắn, “Chờ gì nữa?”
Hắn không biết mình chờ điều gì. Cô gái đã lên xe, cô đã an toàn rồi, còn chờ gì nữa. “Thì về vậy,” hắn nói nhỏ.
Trên ta-xi trở về trại, gã anh vợ tò mò về “con nhỏ Tàu”, rằng con nhỏ có mát-sa tử tế không mà cậu lịch sự với em ấy như thế. Hắn không trả lời mà hỏi ngược lại rằng cô gái da đen vai u thịt bắp của anh thế nào.
Anh vợ hắn lắc đầu, “Nó lười lắm, làm qua loa, chẳng thấm vào đâu.”
“Thế có nói chuyện nhiều không?” Hắn hỏi.
“Nó hỏi tôi làm nghề gì, ở đâu, tôi nói tôi là du khách.”
Hắn tròn mắt ngạc nhiên. Câu nói dối của ông anh vợ không phù hợp chút nào với cái diện mạo xác xơ, với áo quần nhăm nhúm trên người, và đôi dép Nhật mòn nhẵn dưới chân hai đứa. Hắn nghĩ đêm nay hắn may mắn chắc là nhờ nói thật. Mẹ hắn ngày trước đã chẳng từng nhắc đi nhắc lại rằng thật thà là cha quỷ quái đó hay sao.
Hắn bâng khuâng nhớ dáng mỏng cô gái lạc loài trên lề phố Kuala Lumpur. Hắn biết hương trầm của thịt da, cảm giác mát lạnh đôi vú người con gái miết trên lưng, vệt bớt son trên vòm cong ngực trái, ánh đèn xanh nhập nhòe vóc dáng loài thủy quái trong căn phòng hẹp mang số 007 sẽ mãi còn đặm nét trong trí nhớ. Và tiếng gót giầy khua vang lòng phố đêm Kuala Lumpur sẽ còn hoài trong ký ức rộn ràng.
“Thế còn cánh hồng Trung Quốc của cậu thế nào?” Anh vợ hắn hỏi.
Hắn muốn kể hết cho anh ta nghe cái phép lạ hắn bắt gặp trong căn phòng nhỏ bé dưới ánh đèn màu xanh dịu dặt, hắn muốn kể về mùi thịt da ngan ngát hương trầm làm hắn ngất ngây, hắn muốn kể về những móng tay bấu vào lưng hắn như móng vuốt lũ cào cào, châu chấu thời thơ ấu, và nhất là hắn muốn khoe với gã anh vợ cái kẹp tóc nhưng nghĩ sao đó lại thôi. Hắn biết anh ta sẽ không bao giờ tin hắn. Hắn biết không có người nào trên thế gian này tin đó là chuyện có thật, rằng có một người con gái hoàn toàn xa lạ, cho hắn yêu mà không tính tiền.
Hai người về đến trại tị nạn lúc gần sáng. Cái kẹp tóc có khắc tên cô gái cả chục năm sau hắn vẫn giữ. Như dấu tích của một lần hạnh phúc. Thứ hạnh phúc nhỏ nhoi hái được trong tiệm massage. Như một nhắc nhở rằng hạnh phúc có thật cho dù quá đỗi phù du.
Ít lâu sau, bảo lãnh vợ qua, đôi lần vợ hỏi, hắn nói dối là kẹp tóc của một đứa em bà con đi cùng chuyến ghe vượt biên. Vợ nghĩ hắn nói dối bởi hắn không giải thích được vì sao bà con người Việt lại có chiếc kẹp tóc khắc ba chữ Tàu.
Nhiều lần hắn toan nói thật hết cho vợ nghe nhưng hắn không sợ vợ sẽ ghen cho bằng sợ vợ sẽ không tin và nhạo rằng hắn nói dóc để xóa đi cái mặc cảm thua thiệt. Cái mặt anh, con nào điên mới cho anh chạm vào người nó. Thì thôi vậy, cứ giữ lấy một mình cho yên chuyện. Vợ không biết và sẽ không bao giờ biết rằng ở giữa thủ đô Kuala Lumpur có một cô gái Hoa gốc Việt cho hắn yêu mà không lấy tiền.
Hắn chỉ áy náy một điều là đã không bỏ công tìm cho ra bố mẹ của cô gái Kuala Lumpur. Cũng vì cô đọc tên họ bằng tiếng Quảng Đông hắn chẳng biết phiên âm thế nào sang tiếng Việt.
Chúng tôi bước dạt lên bờ cỏ để tránh một người đàn ông và một người đàn bà đi ngược chiều. Bởi từ xa tôi đã thoáng thấy người đàn bà che miệng ho. Đại dịch chưa dứt hẳn mà cả hai đều không đeo khẩu trang. Buổi sáng, trời hiu hiu gió. Lũ siêu vi trùng lởn vởn bay. Trong vạt nắng xuyên ngang khe lá, tôi thấy những vẩy bụi; những con siêu vi trùng đánh đu trên những vẩy bụi li ti ấy. Tôi tưởng tượng ra thế. Và tôi sợ. Tôi không ưa những cái máy trợ hô hấp, tôi ghét những mũi kim gài sâu vào tĩnh mạch, và nếu may mắn không bỏ mạng, thì tôi vẫn ghét những di chứng như không còn ngửi được mùi ly cà phê buổi sáng, không nếm được vị thức ăn ngon bữa tối, và mệt đuối người từ ngày này sang ngày khác. Vì vậy tôi sợ, dù tôi đã chích ngừa đầy đủ và còn thêm hai mũi tăng cường. Với chừng ấy thuốc men, nếu nhiễm bệnh, dù đã lớn tuổi nhưng tôi sẽ sống sót, tôi nghĩ thế. Nhưng tôi vẫn sợ.
Qua khỏi hai người ấy một quãng xa, chúng tôi mới bước trở lại lề đường cho người đi bộ. Vừa bước lên nền gạch, con bé níu những ngón tay tôi, kéo tôi lên thềm đậu xe trước cửa nhà người lạ, khom người cúi xuống nhìn người đàn ông nằm ngửa dưới gầm chiếc xe màu trắng, đang cặm cụi vặn những con ốc.
“Are you okay?” Con bé hỏi.
Người đàn ông nằm dưới gầm xe ngưng tay vặn, cái mặt lem luốc vết dầu nhớt xoay qua nhìn con bé. Một vạt nắng từ cành phong bên đường thả xuống, vắt ngang cái đầu bù xù, nhuộm mái tóc một màu nâu thẫm. Con bé gỡ tay tôi ra, ngồi thụp xuống, lặp lại câu hỏi, “Are you okay?” bằng giọng rất trẻ thơ nhưng vô cùng tha thiết. Cử chỉ và câu hỏi bất ngờ của con bé cháu ngoại tôi làm tôi vừa ngỡ ngàng vừa bối rối.
Trong khoảng nhá nhem dưới gầm xe, nụ cười méo mó hé nở trên khuôn mặt người đàn ông. Nhưng ông ta không nói được bởi môi ông ta đang mím chặt một cái đinh ốc.
Tôi đặt tay lên vai con bé, “Ông ấy không sao đâu, con ạ. He’s okay.”
“Ông ấy kẹt dưới chiếc xe,” con bé lắc đầu, đôi mắt đen nhánh ánh nhìn lo âu.
“Ồ, không,” tôi nói vội. “Ông ấy không sao đâu.”
Người đàn ông tóc nâu luồn cánh tay dưới cái khoảng chật hẹp, đưa bàn tay có những ngón tay nắm lại và ngón cái duỗi ra. Đầu ông ta khẽ gật gù.
“Đấy, con thấy không, ông ấy ra dấu là ông ấy okay.” Tôi nói với con bé và cũng đủ để người đàn ông dưới gầm chiếc xe Toyota nghe được.
Con bé “Ô!” nho nhỏ cùng với tiếng thở ra nhẹ nhàng. Và nó nhoẻn miệng cười.
Bỗng dưng tôi chột dạ như vừa nghe ai nói ra một điều không đẹp nhưng trúng tim đen mình. Và tôi bồi hồi như tình cờ gặp lại điều gì đó rất quen thân từ thuở nào xa lơ lắc. Cảm giác ấy làm tôi nghĩ ngợi. Ngày xưa tôi có tử tế và ngây thơ như thế không nhỉ. Và nếu có thì tôi đã đánh mất sự tử tế ấy từ lúc nào?
Vừa tròn ba tuổi (hôm qua sinh nhật nó), cháu ngoại tôi tâm hồn còn trong vắt, bụi đời chưa phủ mờ nên nó còn nhìn ra được những con người. Còn tôi, ông ngoại con bé, thì bụi bặm, nhọ nồi bịt kín tâm hồn, không còn nhìn xa được, chỉ loanh quanh với cái bóng của chính mình; và nhân loại chung quanh, nếu như tôi có thể nhìn ra thì cũng chỉ là những bóng mờ.
Tôi hít một hơi dài, xua vội đi những ý nghĩ lẩn quẩn trong đầu. Chạm nhẹ những ngón tay lên vai con bé, tôi bảo, “Ông ấy không sao đâu. Xe bị hư, ông ấy chui bên dưới để sửa.” Tôi nói câu dài, con bé chắc chỉ hiểu một phần. Nhưng nó nhùng nhằng không muốn bước đi.
“Thôi mình đi, cháu ơi,” tôi cầm lấy bàn tay bé bỏng của con bé. “Ông ấy okay.”
Và tôi dợm bước. Cháu ngoại tôi bước theo, nhưng bỗng dưng nó sựng lại, gỡ tay tôi ra, quay lại khom người nói với người đàn ông dưới gầm xe, “Have a nice day!” bằng giọng ân cần và trong như tiếng hót của một loài chim lạ.
Người đàn ông lại ra dấu bằng ngón tay cái duỗi và những ngón kia nắm lại.
Chúng tôi lại rảo bước trên lề đường dành cho người đi bộ. Con bé nhún nhảy trên những đốm nắng dập dìu vẽ trên mặt đường như chơi nhảy lò cò. Thường ngày, nó vẫn rủ tôi chơi lò cò trên sân nắng và bao giờ tôi cũng hăng hái làm theo dù hai đầu gối thỉnh thoảng lại nhói đau. Hôm nay tôi không nhảy theo nó, bởi đầu óc tôi bận rộn. Con bé làm tôi giật mình.
“Coi chừng ngã, con ơi!” Tôi nhắc. Và tôi nhớ một ngày mùa đông, một đứa bé tóc vàng gỡ tay mẹ, vừa chạy nhảy vừa líu lo hát lời ca quảng cáo Coca Cola trên ti vi, và trượt chân ngã ngay trước mặt tôi. Tôi thụt lùi, bất động, bối rối nhìn lọn tóc vàng vắt ngang mặt tuyết. Tôi không biết phải làm gì. Có điều tôi biết chắc chắn tôi không muốn mẹ nó thưa tôi ra tòa. Tôi đã quen như thế rồi. Chả biết từ lúc nào. Và tôi tránh nhìn mẹ đứa bé. Lách qua một bên, lặng lẽ bước đi. Nghe kể lại chuyện ấy, mấy ông bạn già gật gù tán thành, “Phải rồi, người lạ, bận tâm làm gì.”
Chúng tôi đã quen sống như thế.
Một con chim đậu trong khóm lá phong líu lo tiếng hót. Cháu ngoại tôi đứng lại, ngước lên, đôi mắt săm soi, “Grandpa! Con chim màu vàng kìa.”
Tôi ừ hử chiếu lệ, trong đầu vẫn vướng víu những thắc mắc. Chúng tôi đã quen sống bằng sự dửng dưng. Đã quen thở ra những câu nói dối. Lỗi tại lũ siêu vi trùng hình quả cầu trang điểm bằng những bông hồng đỏ thắm. Trong thế giới những con người xa lạ, tôi làm sao biết kẻ nào đang mang trong người cuốn sổ thông hành của Thần Chết?
Con chim màu vàng vỗ cánh bay đi. Cháu ngoại tôi đứng ngẩn trông theo. Tôi phải cầm tay đánh thức nó. “I love that bird!” Con bé nói nhỏ.
Hai ông cháu lại thong thả bước đi. Một đám năm sáu đứa trẻ vừa nhún nhảy níu kéo nhau vừa tíu tít trò chuyện phía bên kia đường. Nhìn đám trẻ, con bé hỏi, “Họ đi đâu vậy, Grandpa?” Đang lứa tuổi tò mò, cái gì cũng làm con bé thắc mắc. Cháu ngoại tôi vậy đó!
Tôi nhìn lũ trẻ vừa trai vừa gái, áo quần gọn ghẽ, túi xách đeo trên lưng, chuyện trò ríu rít như những con chim nhiều chuyện, “Chúng nó đi học.”
“Con cũng muốn đi học,” con bé nhanh nhảu.
“Thì… mai mốt lớn lên, con cũng sẽ… ơ… đi học,” tôi ngập ngừng câu nói dối.
“Con muốn mau lớn để đi học,” con bé quả quyết, rồi nó vươn cánh tay vẽ một vòng tròn trước mặt, “Lớn như thế này nè.”
Bỗng dưng tôi mong con bé đừng lớn như nó ước mơ, tôi mong nó mãi bé bỏng như nó phút giây này để những trang đời tinh khôi của riêng nó mãi là trang giấy trắng. Ngoài chuyện mong mỏi phù phiếm ấy ra, tôi còn nghĩ con bé sẽ không được đến trường học bởi bố mẹ nó dự tính cho nó học ở nhà sau vụ một tên điên đem súng vào cái trường ngay khu phố này, giết cả chục học sinh vô tội cách đây chưa đầy bốn tháng.
Buổi sáng, nắng mềm, gió ấm. Lòng tôi vừa lâng lâng bay bổng, vừa nặng trĩu kéo lê trên mặt lề đường dành cho người đi bộ. Bằng giọng hót của loài chim, con bé kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện. Hai ông cháu đi dạo hết hai vòng khu phố mà con bé vẫn chưa muốn về. Suốt ngày hôm ấy nó quấn quýt bên tôi.
Chập tối, khi tiễn chân tôi ra cửa, con bé níu tôi lại. Tôi ngồi xuống, nó kề tai tôi, hỏi nhỏ, “Grandpa, are you sure he’s okay?”
“Ai hở con?”
“Người đàn ông bên dưới chiếc xe.”
Tôi ngập ngừng, “Ông ấy… ông ấy okay, con à.”
Tôi lại nói dối. Tôi lại không thành thật như cháu ngoại tôi. Tôi biết người đàn ông ấy không okay. Nhưng tôi vẫn bảo cháu tôi là ông ấy okay. Và hai con mắt trẻ thơ lại thắp sáng cơn vui.
Hồi trưa, xe cứu thương hú còi vang dội và chớp đèn lập lòe khu xóm. Lối xóm xì xào với nhau là người đàn ông tiếc tiền, không đem xe ra tiệm mà tự sửa ở nhà. Cây trục sắt – mà ông ta dùng để nâng chiếc xe rồi chui xuống gầm để sửa gì đó – bị gẫy. Người ta phải dùng cần trục nâng chiếc Toyota lên mới kéo ông ta ra được. Thương tích không rõ nặng nhẹ ra sao nhưng chắc chắn ông ta sẽ phải nằm bệnh viện ít lâu.
Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu tôi. Tôi ôm con bé, nói nhỏ vào tai nó, “Ngày mai ông cháu mình sẽ đi thăm ông ta, chịu không?”
Con bé reo lên, “Thank you, Grandpa!” Và ôm chầm lấy ông ngoại, hôn ghì lên gò má nhăn nheo.
Vậy là hai ông cháu tôi sẽ đến bệnh viện thăm người đàn ông ấy. Gặp con bé chắc ông ấy sẽ ngạc nhiên và vui lắm. Cháu ngoại tôi sẽ vui, còn tôi thì có chút lo âu, bởi những con siêu vi trùng tròn như quả cầu, trang điểm rực rỡ những đóa hoa mào gà đỏ thẫm nhỏ li ti vẫn còn lởn vởn trong bầu không khí ông cháu tôi hít thở.
Con bé níu tay tôi, ghé tai tôi thì thầm, “Con chỉ muốn biết chắc là ông ấy okay.”
Vừa tròn ba tuổi, cháu ngoại tôi đã làm tim tôi lỡ nhịp. Thôi thì hãy cứ tạm coi như nhân loại mất đi tính người một phần cũng vì cơn đại dịch. Bởi người ta sợ lây, người ta sợ chết. Nhưng một ngày sau sinh nhật của cháu ngoại tôi, con bé đã giúp tôi tin tưởng lại vào con người. Vào lòng nhân ái. Vào thế hệ tương lai. Và tin tưởng rằng quanh lũ người chúng tôi vẫn có những thiên thần còn sót lại ở trần gian.
Chứ sao không!
Thế nhưng ngày hôm sau, cái hôm hai ông cháu dự tính đi thăm bệnh, năn nỉ mãi người ta vẫn không cho tôi dẫn con bé vào thăm người đàn ông sửa xe không quen mà chúng tôi gặp ở cuối con phố. Người ta bảo trước hết bệnh viện cấm trẻ nhỏ vào thăm, thứ hai đại dịch chưa hết hẳn nên không cho thăm viếng.
Chuyến viếng thăm của hai ông cháu tôi trở thành khúc phim tôi tưởng tượng trong đầu.
***
Người đàn ông nửa nằm nửa ngồi trên giường, vành băng bột quấn quanh cổ vòng lên đầu thành ra ông ta không gật đầu hay lắc đầu được. Lúc đứng bên giường người đàn ông ấy trong bệnh viện, cháu ngoại tôi chạm nhẹ vào vành băng vải, và lại hỏi, “Are you okay?” Tôi không kịp kéo tay con bé lại. Tôi thấy những con vi trùng, vô số vi trùng, nhưng con bé thì chẳng thấy con vi trùng nào; nó chỉ thấy những vòng băng vải màu trắng quấn quanh cổ và đầu người đàn ông, và nghĩ chắc ông ta đau đớn lắm. Nó lặp lại câu hỏi bằng giọng hót của loài chim, “Are you okay?” Người đàn ông chớp mắt, đưa tay cầm lấy bàn tay bé bỏng của con bé, nói nhỏ, “I’m okay. You’re an Angel, sweetie!”
***
“Ông ấy nói vậy thật hả ngoại?” Con bé hỏi sau khi nghe tôi kể khúc phim giả tưởng hai ông cháu đi thăm người bệnh. Tôi hăng hái gật đầu. Dù cái cổ tôi có sượng lại ít nhiều khi biết chắc mình đang nói ra những điều không thật.
“Mai mốt gặp ông ấy, ông ngoại nói…” con bé ngập ngừng.
Tôi hỏi vội, “Gì hở con?”
“Nói với ông ấy, con không phải thiên thần, con chỉ là a little girl.”
Tôi gật đầu liên tục. Tôi hứa tôi sẽ chuyển lời con bé đến người đàn ông xa lạ. Tôi nói dối, tôi hứa cuội. Bởi sáng hôm ấy khi chiếc trụ chống chiếc xe bị gẫy, chiếc xe đổ sụp xuống, không một ai hay biết. Mãi đến khi có người phát hiện ra, gọi xe cấp cứu thì đã muộn mất rồi. Tin tức trên truyền hình nói thế. Cháu ngoại tôi không được xem ti vi. Bố mẹ nó không muốn đầu óc nó bị vẩn đục. Bố mẹ nó muốn che chở cho nó được chừng nào hay chừng nấy. Bởi con bé là thiên thần, một trong những thiên thần còn sót lại thế gian này.
Bước xuống bậc thềm, tôi quay lại hôn gió cháu ngoại tôi thêm một lần rồi đeo cái khẩu trang lên mặt. Toan bước ra xe, tôi vội lùi lại. Ba bóng người rảo bước trên lề đường cho người đi bộ qua chỗ tôi đậu xe. Tôi chờ cho họ đi qua. Bao lâu cũng được nhưng tôi sẽ chờ.
Đại dịch đã giảm nhưng lại có thêm những biến chủng mới. Biết đâu đấy!
(Năm Mới, gửi bạn một truyện ngắn cũ về một đêm giao thừa xứ lạnh. Cầu mong ai cũng có một nơi chốn để trở về. HC.)
Hắn ngồi thụp xuống, lượm những mảnh giấy vụn ghi địa chỉ lũ bạn, loay hoay nhét vào cái bóp da rách nát. Con nhỏ bạn gái ỷ có tiền đuổi hắn ra khỏi nhà. Ngay đêm cuối năm mới đau chứ. Đuổi thì đuổi bằng miệng được rồi, nỡ lòng nào quăng cả thẻ quốc tịch, thẻ bảo hiểm sức khỏe, thẻ an sinh xã hội với cái bóp rách ra ngoài hành lang.
Hắn lủi thủi nhét cái bóp vào túi quần. Thế là hết một chuyện tình.
Hắn lết ra đường. Đêm 31 tháng Mười Hai, trời lạnh căm căm. Những ngọn đèn xanh đỏ nhấp nháy ở ngã tư. Không biết đi đâu, hắn leo đại xe buýt, ra tổng trạm. Xuống xe, hắn co ro trong hành lang, nhìn ra ngoài khung kính. Những đóa hoa tuyết nở trên ngọn cây nhuộm ánh đèn xanh xanh đỏ đỏ vui mắt. Vài người khách lơ đãng chờ chuyến xe khuya. Ai cũng cuộn mình trong hai ba lớp áo. Đầu óc hắn làm việc tận lực. Cần một địa chỉ tạm trú qua đêm. Hắn gỡ cái găng tay dầy cộm ra, tẩn mẩn lật qua lật lại những mảnh giấy nhàu nát, nhìn đăm đăm những con số điện thoại. Rồi cái bàn tay cục mịch ấy luồn vào túi quần, sục sạo. Còn đúng sáu đồng hai mươi lăm xu, ba đồng năm xu và mấy đồng một xu vô tích sự. Vậy là gọi được sáu người. Một danh sách lướt qua óc hắn. Phải thanh lọc rất kỹ. Chỉ những người nào hắn tin là có chút lòng mới đáng cho hắn bỏ phí hai mươi lăm xu mà gọi điện thoại giữa đêm giao thừa.
Hello. Khỏe không. Mày đó hả. Đang làm gì đó. Vậy hả. Tao lại chơi được không. Thì lại đón giao thừa với mày cho vui mà. À bận hả. Thôi khi khác vậy, đi party vui vẻ nghe.
Hắn buông cái ống nghe điện thoại xuống, biết chắc sẽ chả bao giờ còn có khi khác nào nữa.
Ô chào chị. Có anh ở nhà không chị. Em đây mà. Em vẫn lại nhà anh chị chơi mỗi cuối tuần đó mà. Đúng rồi, em là người khiêng đồ dọn nhà tiếp anh chị đó. Cái tủ lạnh mới của chị nặng nhưng mà quá trời đẹp. Anh ấy bận hả chị. Thôi vậy. Bye. Vâng thì mai mốt rảnh em ghé chơi. Hắn cúp máy, biết chắc sẽ chẳng còn mai mốt nào nữa hết.
Hello, Nancy. Tom there? Can I talk to him? Sleeping? I want talk to him. He don’t want talk now? OK. See you later.
Hắn giộng mạnh cái ống nghe điện thoại vào khung gác máy. Sẽ chẳng còn later nào nữa để see you. Con vợ Tây không muốn thằng chồng Việt đi nhậu. Bây giờ mới hiểu được lòng người. Té ra tất cả chỉ là những kẻ lợi dụng, đãi bôi và yêu thương giả hình.
Những ngón tay run rẩy lật cuống cuồng những trang giấy vụn xé từ cuốn sổ ghi số điện thoại người quen, bạn bè. Người trần gian vậy là không được rồi. Còn ba đồng xu nữa, đành thử gõ cửa nhà Chúa và nhà Phật thôi. Hắn bấm số điện thoại nhà ông mục sư người Việt, chỉ thấy máy trả lời. Gọi chùa Việt Nam cũng lại thấy máy, vậy là mất toi năm chục xu. Buông cái ống nghe điện thoại xuống mà đầu óc hắn quay cuồng. Lâu nay hắn nghiệm ra một điều là những thằng bạn có gia đình sớm muộn gì cũng thành những tên tù giam lỏng, bị vợ kìm kẹp tới nơi tới chốn. Bụng đói cồn cào làm hắn nghĩ tới những món ăn. Hắn ngồi xuống băng ghế gỗ, con mắt ngó mông lung những bóng người lướt qua trước mặt. Món ăn tây: miếng hamburger nóng, ngầy ngậy hương vị thơm ngon làm ứa nước miếng ở chân răng. Tô bún bò Huế cay nồng nàn làm dựng đứng cả những sợi tóc trên đỉnh đầu. Đĩa cơm sườn có quả trứng chiên vàng óng, có mỡ hành lấp lánh, có nước mắm chua chua, ngòn ngọt. Ôi những món ăn Việt Nam làm ruột gan cồn cào. Những tiệm ăn Việt Nam trong thành phố làm món ăn không ngon cho lắm và những người chạy bàn chỉ xăm xoi coi khách ăn xong chưa để dọn. Nhưng mà có còn hơn không. Muốn có miếng ngon và chỗ ăn thoải mái phải tự nấu lấy. Có vợ cũng sướng. Hắn bần thần nghĩ ngợi. Chỉ khổ cho cái tự do bị tước đoạt. Có vợ nấu nướng, chồng chỉ việc mua đồ ở tiệm thực phẩm Việt Nam về rồi đứng phụ bếp với vợ, là tha hồ có món ăn ngon. Đồ ăn thì mua ở tiệm thực phẩm Á Châu. Tiệm thực phẩm Á Châu. Phải rồi. Tiệm thực phẩm Á Châu. Còn chỗ nào hơn tiệm thực phẩm Á Châu trong thành phố. Nơi tạm trú tuyệt vời cho một đêm cuối năm đói, lạnh. Hắn dùng đồng 25 xu cuối cùng, gọi điện thoại hỏi giờ đóng cửa. Giọng con gái trả lời. Hắn hình dung cô gái bán hàng trong tiệm một đôi lần dẫn con bồ tây đi chợ hắn đã gặp. Cũng may mà hắn có mấy tấm vé xe buýt nhân viên xã hội tặng trước hôm lễ Giáng Sinh.
Hắn leo lên chiếc xe buýt. Tới trạm ngừng gần tiệm thực phẩm, hắn lục tục bước xuống và tất tả đi bộ lại tiệm Á châu. Hắn luồn vào theo mấy gia đình người Việt ồn ào mua đồ vào giờ chót. Người chủ tiệm đang sửa soạn đóng cửa không thèm nhìn mặt khách hàng. Cô gái làm công đang loay hoay tính tiền. Hắn luồn lách giữa những kệ đồ, rồi len vào kho chứa gạo, ngồi co trong đó. Mùi hôi mốc sộc vào mũi hắn. Hắn bóp chặt hai lỗ mũi, cố dập tắt cảm giác ngứa ngáy. Giờ này mà hắt xì một cái thì có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nếu mọi chuyện suôn sẻ, hắn sẽ nghỉ đêm ở đây. Hết giờ chủ tiệm đóng cửa ra về, hắn chỉ cần nằm im trong góc nào đó. Chủ tiệm đi rồi, chả lụa, bánh mì, thịt hộp… sẵn trên quầy, tha hồ no say. Ngày mai mồng một tết tiệm không mở cửa, hắn được bảo đảm thêm một ngày no nê.
Hắn co người trong khung tối chật hẹp. Tiếng người thưa dần. Tiếng gã chủ quán ồm ồm. Tiếng cửa sắt khép lại. Ánh đèn tắt bớt. Giọng đàn ông cười pha lẫn cái thô lỗ với cái quyền uy. Giọng nài nỉ của cô gái giúp việc. Tiếng dép lê trên sàn nhà. Giọng người con gái run rẩy. Không được đâu chú ơi, con có chồng rồi.
Nói dóc đi, anh rể em bảo lãnh em qua đây ai mà không biết…
Không mà, con nói thiệt đó. Con về muộn chồng con đi tìm…
Ai mà tìm em được. Đêm nay ở lại đây đi. Anh không chạc thêm tiền đâu mà sợ. Thằng anh rể cho tiền nó cũng không dám đi đón.
Không có anh rể nào hết, chồng thiệt mà.
Chồng bảo lãnh vợ qua đâu có bỏ lây bỏ lất như vậy. Ưng anh cho rồi cưng ơi, làm bà chủ tiệm không sướng à.
Những tiếng động cục mịch. Hình ảnh giằng co tô đậm nét trong trí tưởng tượng hắn. Người con gái có thân thể gầy gò. Có đôi con mắt buồn buồn hay nhìn lơ đãng ra ngoài khung cửa sổ. Người con gái hắn hay gặp nhặt những lá sâu trong bó rau bỏ qua một bên. Buộc những cọng hành xanh thành từng bó nhỏ. Hắn nhớ cái giọng khó khăn của bà cụ lúc nào cũng nồng mùi dầu khuynh diệp, mẹ người chủ tiệm.
Hạ ơi, mày bó rau thế này thì tao có mà dẹp tiệm thôi. Hắn nhớ cả một lần bắt gặp cô bị con cua kẹp ngón tay. Hắn đã anh dũng bẻ gẫy càng con cua để gỡ cho cô. Hắn nhớ nét nhăn nhó dễ thương trên khuôn mặt gầy gò.
Cám ơn chú. Chú cháu gì. Tôi đáng tuổi anh cô thôi.
Lần ấy, con bồ Tây đã thắc mắc với hắn anh nói chuyện gì với con nhỏ bán hàng vậy.
Đầu óc hắn quay cuồng những đoạn phim cũ. Tiếng ì ạch bên ngoài. Đừng chú ơi. Con sợ lắm. Tiếng con gái ui da vang vọng tới từng ngõ ngách căn nhà. Tiếng ngã đổ của chai lọ phũ phàng lùa vào tai hắn. Tiếng xô đổ của cả một quầy hàng rổn rảng. Hắn hình dung những ống lon lăn lóc dài theo lối đi hẹp. Ôi trời. Tiếng đàn ông rống lên đau đớn. Mẹ mày, muốn tao báo cho sở Di Trú biết mày di dân lậu phải không, con khốn nạn.
Con không di dân lậu, con có chồng thiệt mà. Tiếng con gái khò khè qua cuống họng bị siết. Chồng mày là ai, tên gì, hả con khốn nạn… Tên gì, nói đi, tao để yên…
Lòng hắn bừng bừng lửa đốt. Tiếng vải xé sắc lạnh. Đến nước này thì không còn lặng im được nữa. Hắn đứng bật dậy. Đầu húc vào khung gỗ đau choáng người. Tiếng khò khè van vỉ xoáy hai lỗ tai. Con lạy chú, con lạy chú…
“Thôi!” Hắn quát lên, hai chân luồn lỏi giữa những chai lọ, thùng, ống ngổn ngang trên lối đi hẹp.
Người đàn ông kéo vội bàn tay ra khỏi ngực áo cô gái. Trong một thoáng, hắn thấy được khuôn ngực tròn tròn mầu hồng lợt lạt dưới ánh đèn nê ông.
Người đàn ông lồm cồm ngồi dậy. “Anh là ai?”
Cô gái tóc tai rũ rượi, luống cuống kéo vạt áo che ngực, loay hoay chống tay đứng dậy.
“Mày là ai?”
Hắn luống cuống một giây, tay xoa chỗ đau trên đỉnh đầu, rồi hít một hơi dài, dõng dạc, “Tôi là chồng cô ấy.”
Cái đầu người đàn ông quay tới quay lui, hết nhìn hắn đăm đăm rồi lại trân trân nhìn người con gái. Giọng gã run run, “Anh nói gì?”
“Hạ là vợ tôi.”
Hắn đứng thẳng người, lần đầu tiên trong đời hắn đứng thẳng người. Hắn nhìn người con gái một cách tự tin. Nàng nhìn hắn bằng tất cả sững sờ trên thế gian trộn với một chút gì rất mênh mang, trìu mến.
Những ngón tay người đàn ông run rẩy phủi bụi trên chiếc áo sơ mi lòe loẹt mầu sắc. “Sao cô ấy không bao giờ nói với tôi… Nhưng mà anh trốn trong tiệm tôi làm gì.” Gã đổi qua giọng hùng hổ, “Định ăn cướp phải không?”
Hắn tự tin, “Tôi nghe đồn anh dê vợ tôi cả năm nay rồi, hôm nay mới bắt được quả tang.”
“Vợ anh mới làm chưa được ba tháng làm sao dê được cả năm, đồ gian xảo. Tôi gọi 911 cho xem.”
“Gọi đi, tôi chờ.” Hắn đứng sát vào người con gái lúc này đã thu hẹp lại như chiếc bóng sát bên quầy trái cây đóng hộp, ân cần nhìn nàng, “Em đừng phủi áo quần, cứ để nguyên vậy làm bằng chứng cho cảnh sát.”
“Tụi mày ra khỏi đây ngay!” Người đàn ông sừng sộ.
Người con gái níu tay áo hắn, “Đi về thôi, chú… anh à!”
“Áo lạnh của em đâu.” Hắn hỏi.
Người con gái đi vòng ra phía sau quầy hàng. Hắn đi sát theo nàng. Mùi gây gây của tóc luồn vào mũi làm hắn ngây ngất. Hắn kéo dây cài áo cho nàng. Rồi hắn đẩy cửa. Hai người bước vào vũng lạnh băng của tuyết giá cuối năm.
Hai người đứng sát vào nhau cạnh cây cột đèn. Hơi lạnh phả vào mặt hắn, căm căm, làm hắn quên mất tiêu cơn đói bụng cồn cào.
Chợt hắn nghe tiếng người con gái sụt sùi.
Hắn liều lĩnh choàng tay qua vai nàng. Những ngón tay sần sùi chạm vào chiếc quai da cái túi xách nàng đeo trên vai.
“Hạ sao vậy?”
“Em sợ quá!”
“Qua rồi, đừng sợ.”
Đôi con mắt thất thần của người con gái nhìn quanh, “Xe anh đâu?”
Hắn ngượng ngùng, “Anh không có xe.”
Dường như người con gái rùng mình trong gió lạnh. Hắn cầm lấy bàn tay đeo găng của nàng, “Lại đón xe buýt đi Hạ.”
Nàng bước theo hắn. Hắn đi sát vào nàng. Cố nghe ngóng chút hơi ấm của thân thể một người con gái đồng hương. Ít nhất đêm nay cũng có chỗ tạm trú, cũng có miếng cơm nóng, cơm rưới nước mắm cũng được nữa. Chỉ nghĩ tới một nồi cơm trắng bốc mùi thơm gạo nhập cảng từ Việt Nam qua, hắn đã thấy ấm cả lòng.
Tới trạm xe buýt. Hắn nhường cho nàng lên trước.
“Mình đi đâu hả anh?” Hắn ngập ngừng một giây, rồi mạnh dạn,
“Về nhà em.”
Nàng bật người dậy khi thân thể vừa mới chạm xuống mặt ghế.
Hắn lo lắng, “Sao vậy?”
Nàng ngập ngừng, “Về nhà anh được không?”
Hắn lắp bắp, “Anh mất… chìa khóa… cửa…”
“Thì mình gọi súp-pờ gì gì đó.”
“Superintendent.”
“Đúng rồi, mình hỏi mượn chìa khóa.”
Hắn ngồi xuống bên nàng, “Thằng chả… đi…” Hắn nhìn vào đôi mắt trong của người con gái đang khuấy lên những vẩn buồn mà nghe lòng nao nao. “Nó đi xa, sau tết mới về. Hay mình về nhà em đỡ đêm nay đi…”
“Em đâu có nhà!” Hắn tròn mắt nhìn nàng.
Nàng buồn rầu nói, “Ngày thường em ngủ lại tiệm; ở sau bếp đó.”
Hắn ngồi thụp xuống ghế, ngó mông ra những khoảng đường thành phố sáng tối chập chờn bên ngoài khung cửa. Những ngọn đèn Giáng Sinh còn dăng đầy hai bên con phố. Những ngọn đèn xanh đỏ chớp tắt không ngừng. Hắn ủ rũ thở dài. Đêm cuối năm nào cũng vậy. Tưởng năm hai ngàn là tận thế luôn cho rồi để hắn đỡ phải lêu bêu ai ngờ hai ngàn lẻ mấy rồi mà cũng vẫn lại lêu bêu.
Xe chạy ngang trung tâm thành phố. Hai con mắt vô hồn, hắn nhìn thiên hạ ùn ùn xô đẩy nhau đi dọc hai bên đường để chờ đón giao thừa.
Những cặp tình nhân quấn quýt bên nhau. Những cha mẹ dìu con nhỏ lướt đi nhẹ nhàng trên bề mặt bóng loáng của sân trượt băng. Ban nhạc chơi những bài nhạc quen thuộc trong năm. Lát nữa đây người ta sẽ đếm khi chỉ còn mười giây cuối cùng là bước qua năm mới. Mười, chín, tám, bẩy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một, chúc mừng năm mới.
Xe bò vào tổng trạm. Hắn vẫn bần thần nhìn đăm đăm vào cái nhộn nhịp của thành phố bên ngoài khung kính. Những ngón tay ấm áp của người con gái nắm hờ cổ tay hắn.
“Hai bạn, tới trạm cuối rồi. Happy New Year!” Tiếng nhắc nhở của người tài xế làm hắn giật mình. Hắn happy new year lại người đàn ông da trắng rồi uể oải lách đi giữa hai hàng ghế, lục tục bước xuống xe. Người con gái đi bên hắn, lặng thinh như chiếc bóng.
Tiếng ca hát rộn ràng trong cái lạnh căm căm. Nhạc rock quẫy động không gian. Hắn dắt người con gái luồn lách trong đám người cao nghều nghệu và to xù vì quần áo mùa đông. Những tiếng chúc tụng nổ ran đó đây. Chúc mừng năm mới. Chúc mừng năm mới.
“Hạ… thấy vui không?” Hắn hỏi.
Không nghe tiếng nàng trả lời, hắn quay đầu qua, bắt gặp hai con mắt ướt nhèm. Hắn không biết nói gì. Mãi, hắn mới nghĩ ra một câu nghe được, “Năm mới khóc xui lắm đó!”
Nàng nhoẻn miệng cười, “Tết tây mà xui gì!”
Hắn thích thú đi sát vào người nàng, “Cứ khóc là tết nào cũng xui. Cười như vậy mới hên.”
Một lát, nàng than lạnh. Hắn trấn an là chút xíu rồi sẽ quen, lúc mới qua ai cũng chịu lạnh dở như vậy đó.
“Sắp giao thừa rồi đó Hạ ơi.” Giọng hắn sôi nổi.
“Giao thừa xong mình đi đâu hở anh?”
Hắt cụt hứng. “Để từ từ rồi tính.”
Nàng cằn nhằn, “Phải như hồi nãy đừng cãi với ông chủ làm gì…”
Hắn giật mình, “Bộ Hạ muốn nó làm gì thì làm à?”
“Nó đòi hoài chứ đâu.” Tim hắn thắt lại. Cô gái tiếp, “Nhưng em cứ hẹn lần này qua lần khác. Chắc ông ấy cũng biết bị lừa…”
Hắn nói thẳng ra cái điều muốn biết, “Sao Hạ không ở đỡ nhà ông anh rể.”
Người con gái bỗng dưng sụt sùi, “Thì cũng hơn gì thằng cha chủ tiệm tạp hóa!”
Tiếng vỗ tay, tiếng la hét ồn ào xung quanh. Một người con gái tóc vàng mặc áo lông dầy đứng trên bục cao cầm cái dùi lớn chuẩn bị gõ vào cái phèng la tròn như cái nia bên nhà.
“Giao thừa tới rồi đó. Nói chuyện gì vui lấy hên đi Hạ. Hạ thấy con nhỏ tóc vàng đó không, sắp count-down đó.”
Thấy nàng ngơ ngác, hắn toan giải thích lại thôi.
Từng nhịp vung của cánh tay. Tiếng phèng la lanh lảnh. Tiếng đếm ngược từ mười trở lại. Hắn thấy môi người con gái mấp máy, lẩm nhẩm đếm theo. Vui anh há. Hắn nghe tiếng nàng thì thào. Ừ vui. Mười, chín, tám, bảy. Hắn đếm thầm bằng tiếng Việt. Sáu, năm, bốn, ba, hai, một. Happy New Year. Hắn gỡ vội cặp găng tay nhét vào túi áo choàng rồi xoay qua ôm chầm lấy người con gái, hôn vội lên trán nàng. Hắn không muốn làm nàng sợ, nên chỉ hôn thật nhẹ lên vừng trán lạnh băng. Rồi buông ngay nàng ra. Nhưng Hạ đứng yên. Đầu gục hờ trên vai hắn. Những ngón tay gầy của người con gái mầy mò tóc hắn, chạm cả vào cục u vẫn còn ê ẩm. Giao thừa rồi đó Hạ. Chúc mừng năm mới em. Chúc em năm mới đừng bị homeless như anh.
Chúc em năm mới nhiều may mắn.
Đầu người con gái vẫn ngả trên vai hắn. Bầu trời lóe sáng trăm ngàn ngọn pháo bông rực rỡ. Tiếng nổ bùng vỡ không gian, nghe như pháo giao thừa ở một miền quê hương xa thẳm. Trong tiếng reo hò tở mở của thiên hạ xung quanh, hắn nghe tiếng nàng thì thào, “Bây giờ mình về đâu hả anh?”
Dễ Thương thông báo một buổi chiều thứ tư. Trời còn chút mùa xuân. Nắng trong, gió nhẹ.
Bất ngờ như hụt chân bước lọt vào khoảng trống, người đàn ông hoảng hốt, “Chừng nào về?”
“July.”
“Sắp tháng Bảy rồi.”
Nụ cười nở ra trên cánh môi. Con mắt ướt như có gió có mưa đâu đó tạt về. Cõi lòng như cái ống nước cao su bị xoắn, người đàn ông kiếm giùm cô một cái cớ. Tháng Bảy ở Việt Nam thì có gì nhỉ. Loài hoa nào nở vào tháng Bảy ở quê nhà. Mùa mưa bắt đầu từ tháng nào. Bão nhiệt đới thổi về. Bão rớt từ biển đông. Tháng Bảy có gì. Xa Việt Nam lâu quá, người đàn ông quên mất tiêu.
“Tháng Bảy nóng muốn chết.”
“Thì nóng.”
Đoán mò, người đàn ông hân hoan thầm nghĩ, vậy mà trúng phóc. Thành ra người đàn ông hăm hở, “Why?”
“Why what?”
“Nóng vậy sao lại về?”
“Chỉ có nghỉ hè mới về được.”
“Sài Gòn tháng Bảy vừa nóng vừa mưa dai, không nhớ sao.” Ông thêm một chi tiết nhỏ vào bảng phân chia thời tiết của quê nhà.
“I know.”
“Biết nói I know mà còn về.”
“Đi lâu lắm rồi.” Người con gái nhăn nhó, như giải bày một điều quá hiển nhiên.
“Lâu là bao lâu?”
“Bốn năm.”
“Bốn năm ăn nhằm gì.”
Cô nhìn ông, ngạc nhiên. Chắc hôm nay ông không bình thường như mọi khi thành ra cô mới nhìn ông như thế. Bởi ông thấy chút ngỡ ngàng rất mỏng, rất thưa, như những miếng mành mành treo đầy những cửa nhà Việt Nam giăng trong mắt cô. Và một chút gì đó loang ra thật nhanh trong đáy mắt. Vết loang của một nỗi niềm không tên gọi.
Ông vội chữa, “You về Việt Nam, me sẽ đi uống cà phê với ai đây?”
Ông hạ thấp giọng ở cuối câu, thành ra câu nói thành một lời than không dấu chấm than ở cuối.
Cô cười, “Đi uống một mình.”
Có cái gì đó ngân nga trong lòng người đàn ông. Vậy là người ta cũng quan tâm đến nhau ít nhiều dù nỗi bận tâm chỉ vương trên trán, như lọn tóc mầu nâu đen, chả làm bận lòng ai. Nhưng vẫn là mối quan tâm. Cô không muốn ông đi uống cà phê với ai. Vắng cô, ông hãy chỉ đi uống cà phê một mình.
Vắng em, anh không được đi uống cà phê với ai đâu đó. Ông dặn lòng như vậy, giùm cô.
“Đi một vòng nghe.” Lòng muốn rủ cô về căn phòng trọ nhưng miệng lại nói ra một điều xa lơ lắc. Người con gái gật đầu và người đàn ông thầm trách mình.
Ngang cà phê Tim Hortons, ông ghé vào gọi cho cô một ly capuccino lớn và một ly nhỏ cho ông, rồi lái xe ra hướng ngoại ô. Khu rừng quen. Lá xanh rợp trời. Cỏ mượt trải thảm nhấp nhô những mảnh đồi cao thấp. Nắng lấp ló đầu cành.
“Nhớ chỗ này không?” Ông hỏi với chút bồi hồi trong lòng.
“Sao không?” Cô trả lời, đôi mắt chớp nhanh.
“Mới đó mà đã nửa năm rồi.” Câu nói tuột ra khỏi miệng, nghe không khác một tiếng thở dài.
“Đâu đã tới nửa năm.” Cô vặn, nhỏ nhẹ.
Lòng lại nao nao. Thì ra cô còn nhớ. Một buổi tối mùa đông. Tuyết trắng mặt đất. Mây mù xám không gian. Vặn vẹo trong tay nhau. Hụt hẫng những hơi thở. Xe thổi hơi nóng sưởi ấm hai bàn chân. Hơi ấm thổi nóng cái lưng trần nhấp nhô. Môi dán lấy môi. Cái miệng tham lam bò miết như loài ốc sên trong bóng tối. I love your breasts. Thổi vào tai người con gái cái câu sần sùi, cái lời thô nhám. Nhưng không thể nào không nói, bởi đôi vú thật căng, thật đầy; đầy nứt những ngón tay ôm. No căng tuổi trẻ, mê man hạnh phúc. Hạnh phúc trong vòng tay. Gã trung niên thì thầm cám ơn đất trời đã cho mình những đặc ân không lời nào viết hết. Biết người con gái có nhớ được như ông vẫn nhớ không.
“So you still remember.” Ông nói bâng quơ.
“Sao không.”
Cô đưa cái ống hút lên môi, mắt nhìn xa vắng.
“Another exam tomorrow.” Cô thở dài, nói nhỏ lúc bỏ ly cà phê xuống chỗ đặt ly trước mặt. “Ghét Shakespeare quá trời.”
Ông nhìn cô bằng con mắt khoan dung. “Vất vả một thời gian, mai mốt khỏe.”
“Không dám đâu. Nợ tiền học ngập đầu.”
“Vất vả ít năm, có bằng đại học, lấy chồng giầu. Về làm dâu nhà triệu phú.”
Người đàn ông thấy ngộ nghĩnh cái chuyện cô về làm dâu nhà nào đó (lòng sẽ đau, riêng một mình ông). Và hình ảnh cô rót nước, bưng cơm hầu hạ bố mẹ chồng nó ra làm sao nhỉ. Không cách nào hình dung ra được.
“What?”
“Lấy chồng, làm dâu.”
“Làm dâu, trời ơi, nghe chị Phi Nhung ca chuyện làm dâu, thấy sợ luôn. I’ll never làm dâu.”
“Chắc không?”
“Sure.”
“Canada never có chuyện làm dâu.”
“Tại chưa yêu ai.”
“Dù có yêu mà bắt me làm dâu là me good-bye liền.”
Nghiêm trang sau câu nói nhưng có ánh cười trong khóe mắt. Người đàn ông cười. Cô gái cũng cười theo. Nụ cười làm rung những giọt nắng trên vai. Không cưỡng lại được cái cảm xúc nhảy múa trên những đầu ngón tay nên những ngón tay rụng xuống một bên vai thiên thần.
Cứ thế mà hẹn hò.
***
“Uống cà phê nghe.”
Cái gật đầu rất nhẹ cũng làm lòng ông xao xuyến. Người con gái như cánh hoa, thế gian đã ví von trăm ngàn lần. Và ông thấy nhân gian nói những điều chí lý. Như cánh hoa chỉ nở một lần. Những ý nghĩ vụn vặt vắt ngang tâm tư. Lòng ông rối bời. Rồi em có yêu như những người con gái Việt Nam thuở trước. Yêu một người, yêu một đời. Người con gái lưu lạc. Người con gái nửa tây nửa Việt. Xứ sở văn minh. Cuộc sống buông thả. Điều khổ tâm suốt một đời là mai sau, lòng cứ nổi trôi trên những bến bờ tình cảm vô định.
“Thiên thần.” Ông buột miệng.
“What?”
Vẫn mảnh hợp âm thơ dại. What. Cao ở đầu, trũng xuống ở khúc giữa khi âm hưởng vẫn tròn đầy, rồi vươn cao như một dấu hỏi gợi tình. Whaaaaat. Whaaaaat. Rồi làm sao tôi quên được cái hợp âm dễ thương ấy, hỡi thiên thần bé nhỏ.
“Thiên thần.” Ông lập lại tiếng than. Người con gái mở ra cho ông một nụ cười.
***
Cuối cùng, ông quyết định không nghĩ đến điều đó nữa, bởi càng nghĩ, ông càng thấy như mình đang làm điều gì sai trái. Đời người ngắn ngủi. Tâm trí đâu bận rộn những chuyện không đâu. Ông đứng dậy, bấm công tác điện bình nước, rồi trở lại ghế ngồi. Cuốn sách nằm trên mặt bàn. Cây bút viết mầu đen. Xấp giấy trắng trơ vơ như chờ đợi một điều gì khác thường. Ông nhìn quanh căn phòng trống trải. Lâu lắm không làm được điều gì. Ngày hai mươi lăm tuổi, người bạn học trò đã bảo, ở tuổi này nếu có tài thì đã có rồi. Bây giờ tuổi tác đã chồng lên quá con số nhân đôi của cái thời hoa mộng ấy. Và ông thấy mình vẫn chưa làm được điều gì coi được.
Tiếng nước sôi réo gọi. Hơi nước ngùn ngụt bốc lên từ vòi cái ấm nhựa. Ông chậm rãi đứng lên, mở hộc tủ lấy một gói cà phê Việt Nam, xé một góc, đổ vào chiếc ly thủy tinh cũ. Bột cà phê quẫy động, bọt nâu sủi lên ngầu đục. Ông khuấy chiếc muỗng vào lòng ly. Tiếng thủy tinh kêu lanh canh như đánh thức cái xôn xao ngái ngủ trong đáy lòng. Lâu lắm mới tìm lại được cái lao xao thời mới lớn. Ông vẫn nghĩ mình không làm điều gì sai trái. Ông đưa ly cà phê lên môi. Thành ly mịn màng, quen lắm; như đôi môi người con gái. Đôi môi của thiên thần bé nhỏ ông gặp mới hôm nào.
Lớp học có đủ các sắc dân. Người đàn ông chìm vào cái đám đông nhốn nháo. Lúc cầm miếng giấy sắp lớp từ văn phòng giáo viên hướng dẫn, lững thững đi dọc hành lang, nhìn chăm chú từng con số dán trên cửa mỗi phòng học, lòng ông lặng lờ như mặt nước ao tù. Cái thuở một tay ôm cặp sách, một tay níu áo mẹ rụt rè bước vào cổng trường tưởng như đã từ thế kỷ nào, có ai mà ngờ. Xin lỗi, có ai ngồi đây không. Ông hỏi đôi mắt đen nhánh đang ngỡ ngàng nhìn ông. Cánh mi mềm khẽ rung. Cánh bướm lạc vào khu vườn lạ.
Tiếng Anh của ông cứng, nhưng mái tóc dài đen nhánh ấy vẫn nghe ra được. Cái đầu tròn tròn lắc qua lắc lại thay cho câu trả lời. Ông bỏ cuốn tập xuống bàn, loay hoay kéo chiếc ghế cho xa cái bàn một chút, rồi ngồi xuống một cách chật vật. Ông cảm thấy như bao nhiêu mắt nhìn đang dán vào lưng mình. Chưa đến giờ học, giáo viên chưa đến. Ông tháo cây bút trong túi áo, đặt lên bàn, ngước nhìn dòng chữ viết bằng phấn đỏ trên mặt bảng đen. Lớp văn chương Anh. Đâu ngờ cũng có lúc lại phải làm một tên học trò sách vở lếch thếch đến trường.
Đến giờ ra chơi thì ông biết người con gái ấy là người Việt. Vài câu trao đổi thành quen, như thể trước kia ở cùng một khu phố bên nhà. Đến giờ ăn trưa, hai người ngồi đối mặt nhau qua chiếc bàn gỗ sơn cái mầu vàng ệch bỏ trống dưới bóng mát cây phong già.
Hỏi nhau cơn gió nào dun dủi cho hai người vào chung một lớp. Đổ thừa cho số mạng. Chừng ấy tuổi đầu rồi mà vẫn phải cắp sách đến trường. Người con gái cười nửa miệng, được đi học hoài, lucky thấy mồ.
Người đàn ông không cười. Câu nói vô tình nhưng cứa nhẹ vào lòng, chỗ một vết thương đã cũ.
Một lát ông khẽ lắc đầu, cảm khái, “Cái thuở hàn vi sao mà dài dằng dặc.”
“What do you mean hàn vi?”
Cô gái ngước mắt nhìn ông. Bầu trời xanh cuối mùa thu chìm sâu trong đáy mắt ấy. Ông thấy cả những ngọn cây phong còn xanh mầu lá trong vũng mắt thăm thẳm.
“Hàn vi là cái thời còn trẻ, còn nghèo túng,” ông ngập ngừng giải thích.
Hàn vi là gì nhỉ trong tự điển Hán Việt. Ông moi óc tìm tòi. Không một chữ thánh hiền nào trở về với ông. Chữ nghĩa thánh hiền rơi rớt dọc những đoạn đường đời mịt mờ bụi đỏ. Chữ nghĩa đã bỏ ông. Như tuổi trẻ; như những mùa vui. Ông xé một miếng bánh donut, bỏ vào miệng để lấp đi cái khoảng trống không thể đặt tên.
“You eat too much.” Cô gái nhìn ông, nghiêng đầu, chớp mắt.
Nghiêng đầu. Chớp mắt. Cách làm duyên thông thường và cổ điển.
Ông nheo mắt suy nghĩ. Người con gái nào năm xưa hay nghiêng đầu chớp mắt nhỉ.
“You eat too much.” Cô nhắc lại. Ông đọc được trong âm hưởng giọng nói chút gì như trách móc. Lâu lắm rồi, không được nghe một lời trách móc. Bây giờ ông thấy tiếng Anh dễ thương và tình tứ hơn tiếng Việt bội phần. Nếu bắt cô phải nói với ông bằng tiếng Việt, cô sẽ nói câu ấy thế nào cho ông khỏi bị đẩy sâu vào xó lạnh của cõi người bóng xế. Gọi nhau bằng you, tình tứ biết bao nhiêu.
“Not too much,” ông phản đối dịu dàng.
“Yes, you eat again and again.” Cô quả quyết. Những ngón tay gõ nhẹ trên mặt bàn. Hai mắt ông dán vào những móng tay mầu hồng mịn màng, không sơn phết đỏ đỏ đen đen. Lòng khi không dấy lên chút gì đó quá đỗi dịu dàng, khói sương, phù ảo. Từ tháng năm nào đã không còn những người con gái để mộc mạc đầu mười ngón tay thon. Có một dịp nào đó ông sẽ nói với cô bé rằng ông yêu hai bàn tay cô, từ những đầu ngón tay thuôn, những móng chuốt sạch, yêu cái mầu hồng hồng của móng, yêu cái phao ngón tay mầu trắng đục, những cái phao tay hình lưỡi liềm. Yêu những vừng trăng quê nhà xa lơ lắc. Ở những móng tay sơn đỏ sơn đen sẽ không còn thấy được những cái phao tay mầu trắng đục. Ông yêu mười đầu ngón thuôn, và ông yêu luôn cả chiếc nhẫn đeo ở ngón tay cái. Sao lại có người đeo nhẫn ở ngón cái. Ông thầm hỏi.
“Tại đói chứ bộ.” Câu trả lời bâng quơ. Mãi đến bây giờ ông mới trả lời cái câu thắc mắc của cô từ năm mười phút trước. Bỗng dưng ông thấy mình nói năng hệt như cái thời mới lớn; cái thời mượn xe của bố đi đến chỗ hẹn với người yêu.
“Why?”
“Why what?”
“The ring.” Ông chỉ ngón tay cái của cô.
“The ring.”
Nụ cười thắp sáng một vũng không gian hẹp. The ring. Những ngón tay co lại, duỗi ra trên mặt bàn. Nhưng không có câu trả lời. Chỉ có môi cười thật tròn, thật ngọt.
“Sao đeo nhẫn ngón tay đó.”
“Don’t ask.”
“Okay.”
Có dịp nào đó ông sẽ nói ông yêu những ngón tay học trò kia.
Những ngón tay còn da non như da tay trẻ em chưa dùi mài vất vả.
“Why don’t you go to university?
Tiếng Anh của cô có âm hưởng Á châu, như những người Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam thường có. Cái âm hưởng nghe quê mùa nhưng hiền hậu. Và ông cũng hiểu được là cô hỏi sao ông không vào đại học.
“Phải lấy bằng trung học trước.” Ông chậm rãi trả lời.
“Thì ra vậy. Your English very good. My English not good.”
“You’ll be okay.”
“Don’t think so.”
Cái lối nói chuyện trống không, xa xa gần gần ngày xưa ông không thích. Lối nói chuyện ở quê nhà người ta cho là xách mé. Ừ, một con bé mười chín tuổi nói chuyện với bậc cha chú ai lại trống trơn như vậy. Ngày xưa dễ gì ông ưa lối nói ấy, vậy mà bây giờ ông thấy dễ thương. Rồi cái lối Anh không ra Anh, Việt không ra Việt cũng vậy nữa. Thà cứ dốt hẳn tiếng Anh. Hoặc mù luôn chữ Việt. Nhưng đó là chuyện xưa. Từ lúc gặp cô bé, ông trở nên độ lượng với cuộc đời.
Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ. Ông thì thầm câu hát Trịnh Công Sơn.
“Whaaaat?”
“Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ.” Ông lại thì thầm.
Cô gái nhăn mặt, “Whaaat. Yêu em lòng… what?”
“Chợt từ bi bất ngờ.”
“What do you mean từ bi?”
Ông cố tìm một chữ có nghĩa tương đương trong tiếng nước người. Nhưng chữ nghĩa nhồi nhét ngày đêm bao nhiêu năm trời mà lúc cần tra tìm bỗng dưng thấy mình thành kẻ ăn đong.
“Không hiểu thì thôi.” Ông nói bằng tiếng Việt.
Cô gái bậm môi, “Không hiểu mới hỏi.”
“Người Việt mà không hiểu tiếng Việt.”
“You don’t want to tell me. That’s fine. I don’t care.”
“O-kê. Từ bi là rộng lượng, bao dung.”
“Bao dung?”
“Yes.”
“What do you mean bao dung?”
“Ví dụ như nói chuyện tiếng Việt mà you không hiểu, but I don’t give up. I try to explain to you. Even though I want to yell, I still keep calm trying to explain. That’s từ bi.”
Câu nói pha trộn nửa Anh nửa Việt, nhưng chắc cô cũng hiểu.
“Lúc ở Việt Nam người ta còn nhỏ chứ bộ.” Cô gái phụng phịu.
“I know.”
“I don’t want to talk to you any more.” Cô xoay ghế qua phía bên kia. Trước khi lọn tóc trên trán cô rũ xuống che kín khuôn mặt trái xoan, ông còn kịp bắt gặp bóng tối loang đầy hai con mắt.
Lần nào đó cũng giận hờn như thế, trong một thương xá. Ngồi đối diện nhau. Nhưng không nhìn vào mắt nhau như mọi khi. Ông ngước nhìn khung trời hẹp phía trên khung kính lộ thiên. Bầu trời trên ấy biếc xanh. Tiếng nhạc lao xao. Giận dỗi mềm và mỏng, như miếng bánh tráng nhúng nước. Dễ giận, nhưng cũng mau quên.
“You know that song?”
Cô hỏi. Cô hay hỏi trống không. “Biết bài hát đó không?”
“Bài hát nào?”
“Bài hát mình đang nghe đó. Hay là you đang ngủ quên.”
“À, hay.”
“They talk about biology gì gì đó.”
“Yes.”
“You know that song,” cô lại hỏi.
“Yes.”
“Translate for me.”
Thì dịch. “Hình như là don’t know much about biology don’t know much about đủ thứ. Không biết gì về sinh vật học. Không biết gì về bao nhiêu thứ; chỉ biết chắc là I love you và biết luôn là you love me too.”
“Nice song.”
“Yes.”
Ông nhìn cánh môi hơi cong lên một chút ở khóe. Ông nhìn chăm chú đường viền ngăn cách làn da vàng nâu nhạt trên má với mầu hồng mịn màng của môi. Đường viền mỏng như sợi chỉ. Đường viền này sẽ máy động như thế nào khi vạch những lời thì thầm yêu đương, và sẽ gẫy khúc ra làm sao khi đứa con gái vểnh cổ lên cãi lời bố mẹ.
Ý nghĩ làm ông mỉm cười.
“Whaaaaat?” Cô hỏi, giọng trẻ thơ ngân nga cái chữ duy nhất trong câu nói, kết thúc ở nốt cao như một nét nhạc đeo đầy dấu hỏi. Đôi mắt tròn. Cái đầu nghiêng. Như tình cờ bắt gặp một nụ cười chế nhạo trên môi người đối diện.
“Nothing.” Ông buột miệng, rồi vội thêm. “You’re so cute.”
Đường viền trên cánh môi giãn ra, vẽ cho ông một nụ cười.
Buổi sáng. Nụ cười hiền. Mắt hồn nhiên. Hồn giấy trắng. Thiên thần. Hãy mãi mãi là thiên thần nghe cô bạn học trò. Ông thầm khấn vái. Cô học trò ngây thơ duy nhất còn sót lại trên xứ người.
Mình không làm điều gì sai trái. Ông dỗ dành mình hàng trăm lần như vậy. Cô bé chưa tròn mười chín tuổi. Trẻ thơ. Thiên thần. Nụ cười lúc nào cũng đọng trên môi. Cặp môi hồng tinh khiết. Đôi mắt chưa biết ngóng xa xăm. Con mắt chưa biết liếc tình. Thân thể thiên thần ấy chưa một bàn tay trần gian nào ve vuốt. Ông không được phép tháo gỡ đi những lời kinh thơm tho của đời sống. Thần linh nào đó nhắc nhở ông một cách nghiêm trang. Đừng làm vấy bẩn một trang giấy, đừng làm nhăn nhúm tấm khăn hồng trên bàn tiệc vua chúa. Đừng bao giờ. Never. Nhưng mà trời ơi, sao Trời lại tạo nên cô dễ thương như thế. Tại sao trời đất lại xui khiến cho ông gặp cô nơi xứ sở lạnh ngắt mùa đông và hừng hừng nóng những ngày mùa hạ.
Cái chuyện sai trái ấy nó như thế này.
Số là buổi ấy, đưa cô đi lòng vòng, trời đất khiến xui, ông dừng xe bên đường.
“Want to have a look at my apartment?”
Cô nhún vai.
Ông mở cửa, gật đầu khuyến khích. Cô khẽ nghiêng đầu rồi duỗi chân chuồi ra khỏi xe, nặng nề như phạm nhân bước ra khỏi xe cảnh sát.
Hết những bậc cầu thang, ông mở cửa, đứng lách qua một bên cho cô bước vào.
“Wow, messy!”
“I know.”
“Bụi không hà.”
“I know.”
Ông chạm khẽ vào vai cô. “My room’s over here.”
Cô bước theo ông vào căn phòng hình chữ nhật.
Cô ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng. Ông lách vào khoảng trống hẹp phía sau chiếc giường, đẩy khung kính cửa sổ cho gió lùa vào.
“Cold!” Cô vòng hai cánh tay ôm lấy hai vai. Co ro như con mèo nhỏ.
Ông đứng sững lại nhìn cô. Tất cả những dịu dàng, hiền thục trên thế gian gom lại nơi người con gái mặc quần jean xanh, mặc áo thun trắng, đôi vớ trắng dầy và đeo nhẫn ngón tay cái kia. Ý nghĩ nặng nề nào đó níu lấy tâm tư ông. Trời ơi. Đừng làm gì hết. Hại người ta tới cả một đời. Trách nhiệm một đời người đi theo cái hành động ngắn ngủi năm mười phút ấy thôi. Hãy nhìn đi chỗ khác. Vẫn biết khuôn ngực trắng hồng và no căng ấy gọi mời đến xao xuyến cả những núi đồi của rặng Rocky Mountain, đến xôn xao những thảo nguyên trải dài khắp miền đồng bằng xanh ngắt một vựa lúa mì của tỉnh bang Saskatchewan phì nhiêu. Ý nghĩ xào xáo đầu óc gã trung niên. Người đàn ông trải cả trăm trang địa lý hùng vĩ của xứ sở tạm dung ra trên bàn viết trí tưởng mong làm nhòa đi cái quyến rũ mê hồn của đứa con gái vừa qua tuổi dậy thì ngày hôm trước.
Ôm hờ một bên vai thiên thần, ông thì thầm, “Sweetie.”
“Whaaaat?” Cô hỏi lại, ngơ ngác – thật hay giả – ông không còn phân biệt được nữa. Nhưng cái giọng vẫn dễ thương và quen thuộc. Bắt đầu ở nốt thấp, wh uốn cong lên tới wha, cao nhất khi chữ what tròn đầy, rồi buông xuống nhịp nhàng thành câu cong như một dấu hỏi. Wwwhhhhaaaatttttttttt.
Ông run rẩy nhấc hai bàn tay mình lên. Hai bàn tay run ấy ôm lấy đôi bờ vai thon. Hai bàn tay dìu cái mảnh mai lại bên giường. Hai bàn tay dịu dàng đỡ cho cái mảnh mai nằm nhẹ xuống miếng nệm dầy. Môi khô đắp xuống khuôn mặt trái xoan những nụ mềm. Cánh môi hồng mở ra. Những nụ hôn đắp lại. Trời ơi. Thương quá là thương. Nhưng sao lại dịu dàng đón nhận. Sao không quay mặt qua bên phải. Sao không quay mặt qua bên trái. Sao không cau mày. Không bậm môi.
Không dừng lại nữa đâu. Tới đời kiếp nào nữa mới lại được mê đắm với một người con gái vừa qua tuổi dậy thì khi mình đã quá cái tuổi trung niên. Ông vùi mặt lên khuôn ngực căng. Hàm răng nhay nhay đôi núm vú hồng thẫm.
Những gì xảy ra sau đó tuần tự như những bài bản thời mới lớn.
Áo quần ông quăng vội xuống sàn nhà. Áo thun trắng vẽ một vòng cung, đáp xuống, vắt một bên thành ghế. Cái mặt già cỗi vùi vào khoảng trũng dưới chiếc bụng thon. Gã trung niên mê man nhưng vẫn đủ tỉnh táo để chờ những phản công cuối cùng của thành trì thời con gái. Sẽ đẩy ra hoảng hốt, sẽ cuống cuồng kéo lại cái zipper, sẽ chống tay ngồi dậy, sẽ khoác vội lên mình bất cứ thứ gì quơ quào bắt được đầu những ngón tay. Như bất kỳ người con gái nào khác; như bao nhiêu con gái, như bao nhiêu đàn bà đã qua trong đời. Với cô, ông sẽ nghe những chữ nửa Anh nửa Việt. No, I don’t want to. Đừng. I don’t like it. Không thích vậy đâu.
Cuốn kinh thân xác với thịt da thơm mùi giấy mới mở ra trước đất trời ông những trang huyền hoặc.
Chữ nghĩa sắp hàng trong đầu, sẵn sàng tuôn ra. Vô số những lời dỗ dành. Please. Sẽ phải please thật nhiều. Không gì dễ nói bằng please. Không cần phải vội vã I love you. Chuyện gì phải đến, sau này sẽ đến. Tình yêu là chuyện lâu dài. Còn chuyện thể xác, chuyện mê đắm. Chuyện having sex. Không thể nào ngừng, bé ơi. Gã trung niên tự nhủ sẽ rất nhẹ nhàng. Sẽ đẩy vào thong thả. Cô sẽ không đau. Cô học lớp mười ba ở Canada, cô thừa biết chuyện tình dục. Dù chưa làm bao giờ thì cô cũng vẫn biết chuyện tình dục nó ra làm sao. Tụi học trò bên này quỷ quái gấp ngàn lần bọn học trò bên ông thời trước. Ông phải chỉ cho cô biết thế nào là ân ái. Tụi tây chỉ biết làm tình, ít đứa biết ân ái như người Á đông mình. Ông sẽ chỉ cho cô biết thế nào là ân ái. Năm tới cô vào đại học, cô sẽ có bồ, rất nhiều hy vọng sẽ là bồ tây. Lúc ấy ông có vun xới, đắp bồi đến thế nào đi nữa thì tòa lâu đài ông dựng lên cũng chỉ là phù phiếm. Ý nghĩa biện hộ cho ông.
Gã trung niên yên tâm xua quân chiếm đoạt. Gã trung niên vùi mặt vào khoảng trũng dưới bụng cô, để đánh lạc hướng, để cô không để ý được tới những ngón tay gian manh đang đẩy xuôi cái zipper. Rồi cái mặt có những nếp nhăn của gã học trò già tuồi lên phía trên ngực người con gái. Để hai bàn tay rảnh rỗi tuột cái quần jeans đang vướng lại ở hai mảnh xương hông.
Chợt bàn tay người con gái rời khỏi cái lưng trần của người đàn ông, chạy xuôi xuống hai bên thân thể, tiếp tay với ông, kéo chiếc quần xuống khỏi khoảng hông. Ông mừng rỡ nhổm dậy, gỡ những vướng víu còn sót lại trên cặp đùi trắng muốt.
Và ông đổ xuống thân thể cô cái ham muốn không dây cương nào chế ngự.
Đã chuẩn bị cho một tiếng kêu não lòng; đã chuẩn bị cho một cái tát tai nảy lửa; ông chuẩn bị luôn cho cả cái trầy trật, vất vả, vượt đèo lội suối, trần ai lai khổ trước khi có thể vào sâu được trong thân thể người con gái vừa qua tuổi dậy thì. Lòng ông cuống quýt khúc thánh ca rực rỡ hào quang cho một lần động phòng hoa chúc. Thiên thần của đời sống. Thiên thần của riêng anh. Từ giây phút sắp tới đây. Người con gái ngây thơ duy nhất còn sót lại trong cái thành phố Bắc Mỹ nói tiếng Anh này sẽ thành đàn bà. Người đàn bà trẻ thơ. Người đàn bà mới dậy thì sáng hôm qua.
Anh sắp yêu em đây, em nhỏ. Em sắp là của anh đây, hỡi thiên thần trẻ con.
Người con gái mở rộng cặp đùi. Ông nhìn đăm đăm hai con mắt trẻ thơ, ông đón bắt một nét thất thần. Ông ôm ghì lấy thân thể mượt mà. Ông hít hà mùi của thịt da.
Nhưng bỗng dưng ông nhận ra mình đã lọt sâu vào thân thể cô tự lúc nào. Không một cái ngắt quãng của hơi thở. Ông ngỡ ngàng như người bước hụt. Thôi thì cứ mê muội. Lúc này có ngừng cũng không được. Ông nghe hơi thở mình ngắt quãng. Ông nghe hơi thở cô hình như cũng ngắt quãng ít nhiều.
Khăn trải giường trắng. Chiếc nệm dày. Êm. Chiếc gối mầu hồng.
Những hình ảnh đập vào mắt ông. Sẽ in sâu vào trí nhớ. Không tiếng thét não lòng. Không vật vã, không quằn quại. Ông hụt hơi leo dốc. Những ý nghĩ nổi loạn trong đầu. Thua rồi. Thua mấy thằng nhóc tóc vàng tóc nâu trong trường trung học của cô rồi. Tụi nó đã dẫn cô đến nơi ấy trước ông. Người con gái mới qua tuổi dậy thì sáng hôm qua.
Thua thật rồi.
Cả một lâu đài nhòe nhoẹt đổ xuống trước mắt, gã trung niên vùi mặt lên cái khoảng tối tăm ẩm ướt mà tủi thân. Rồi ông thong thả lau chùi. Rồi ông mặc quần áo cho cô, như người y tá ân cần chăm sóc bệnh nhân. Đầu óc nặng nề, ông tránh nhìn vào mắt cô. Cô cũng tránh nhìn ông.
Rồi ông lặng lẽ đưa cô về. Lúc về gần tới nhà, cô xoay qua hỏi ông, ngôn từ mỏng mảnh.
“Why are you crying.?”
***
“I’ve just got an English name.” Nàng đánh thức người đàn ông ra khỏi cơn độc thoại nặng trĩu ưu tư.
“Really?” Gã xoay qua nhìn nàng. “Tên gì?”
Nàng đọc cái tên cùng với sự phấn khởi trong giọng nói.
“Beautiful name.”
Nàng cười.
“Có ai chọn dùm không?”
“No, coi trong cuốn sách baby’s name.”
“Good. Nhớ giữ cuốn sách.”
“What for?”
“Mai mốt cần.”
Nàng cau một bên mày. Rồi đôi môi khẽ nở ra một nụ cười. Người đàn ông cười theo.
“Can I ask you something?”
Một buổi chiều. Mưa. Họ ngồi trong xe với nhau như vẫn thường ngồi chiều này qua chiều khác. Chạy vòng vòng qua bao nhiêu phố phường vẫn chưa hết mưa. Lâu lâu, ngừng xe lại bên đường. What are you doing. Cô hỏi bằng vành môi cong và con mắt ướt. Người đàn ông gài số xe, thận trọng tháo dây thắt lưng an toàn rồi xoay qua ôm lấy vai người con gái. Whaaaat. Vẫn tiếng what kéo dài lên bổng xuống trầm, như khúc nhạc ngắn. What nhưng ánh cười trong mắt.
Người đàn ông vòng tay ra sau vai dễ thương, níu nhẹ đôi vai mềm lại gần, rụt rè hôn lên đôi môi hồng. Bao nhiêu lần như thế, và lần nào dễ thương cũng nhắm hờ đôi mắt, và đôi môi đón chờ nụ hôn người đàn ông một cách nhiệt tình.
Rồi ông thong thả buông cô ra, vuốt nhẹ sợi tóc vương trên má người con gái.
“Biết tại sao phải ngừng xe không?”
Cô ngơ ngác nhìn, đôi con mắt ngạc nhiên.
“Tại vì dễ thương quá.” Ông thấy mình cải lương Hồ quảng nhưng ông biết mình nói thật. Ông thấy đôi con mắt cười; cả đôi môi cũng cười. Và ông cho xe chạy lướt đi.
“Ô kê. Bây giờ hỏi đi.”
“You like children?”
Gã trung niên lặng yên, đo lường những ẩn ý nằm sâu trong đôi mắt đen nhánh. Rồi, rất nhiệt tình, gã dịu dàng yes và ngập ngừng hỏi lại why. Trong đầu gã bập bềnh những ước mơ ngoài tầm tay với. Có cô vợ mười chín đôi mươi ở cuối đoạn đường trung niên là cả một điều hãnh diện lớn lao. Gã nhớ Picasso. Bỗng dưng chỉ nhớ được mỗi một Picasso tám mươi tuổi có người tình ngoài hai mươi mặc dù trước đây gã có nguyên một danh sách những người đàn ông có vợ hoặc người tình đáng tuổi con, tuổi cháu.
“You want to do me a favour?”
Làm ơn. Do me a favour. Tiếng nước mình, tiếng nước người. Do me a favour tiếng nước người nghe đơn giản. Làm ơn, tiếng nước mình, nghe nặng nề, có phải vì đôi khi còn kèm hai chữ mắc oán theo sau.
“Được không?” Nàng nhắc.
“Được chứ. Mà cái gì?”
“You promise.”
Nàng gài gã trung niên vào thế kẹt. Người đàn ông lừng khừng. Hứa-với nàng-có thể là chuyện đơn giản như làm giùm bài luận văn về những chủ đề chính trong The Catcher in the Rye của J.D. Salinger nhưng cũng có thể là chuyện về Việt Nam, lên rừng Ban Mê Thuộc, tìm cho được con cọp, lấy miếng cao hổ cốt.
“Nói thử xem.”
“You không promise thì thôi.”
Cái giọng của Dễ Thương tẩm với nước mưa. Cái giọng ẩm ướt, buồn như gỗ mục.
Gã vội vàng, “Thì hứa.”
Nàng đưa ra một ngón tay cho gã móc. Gã ngoan ngoãn móc ngón trỏ vào ngón tay trỏ của nàng.
“Rồi nói đi.”
“You hứa do me that favour.”
“OK.” Hắn kéo dài hai chữ OK suốt một quãng đường, tới khi xe ngừng ở đèn đỏ. Nàng bật cười vì cái hơi dài của người đàn ông.
Gã quay qua nhìn nàng. Trong cái nhá nhem của buổi chiều mưa cuối tháng Sáu, gã thấy nàng đẹp và dễ thương như thiên thần đi lạc.
“I will do anything to make you happy.”
Nàng đặt bàn tay mát lạnh lên cánh tay trần của người đàn ông. Đó là lần đầu tiên nàng đặt tay lên tay gã. Một luồng cảm giác lạ lùng tỏa ra từ những đầu ngón tay người con gái làm người đàn ông ngây ngất. Gã nhìn xuống bàn tay nhỏ bé của nàng và gã thấy rõ những vòng ánh sáng tỏa ra từ năm đầu ngón tay nàng, bập bềnh như một mảng sương sa mỏng, mềm, thường thấy đầu những ngọn lá những ngày mùa đông rất lạnh ở núi đồi cao nguyên thời nhỏ dại.
Cho dù đầu óc gã bị nhiễm những cảnh trong phim ảnh thần thoại, huyền hoặc với phép phù hôn ám mà thấy như vậy nhưng cái cảm giác tê tê trên thịt da nơi tiếp xúc với bàn tay người con gái là điều hoàn toàn có thật. Thiên thần. Người đàn ông thì thầm. Thiên Thần. Thiên thần của tôi.
“Nói nghe đi,” người đàn ông dịu dàng khuyến khích.
“Phải hứa không được la me nữa đó.”
“Cũng ô kê luôn.”
Nàng cười, nhưng con mắt buồn. Long lanh nỗi buồn như người đàn ông vẫn bắt gặp nơi những người con gái thuở trước trong thi ca.
***
Cuối cùng, ông quyết định không nghĩ đến điều đó nữa, bởi ông thấy mình không làm điều gì sai trái. Đời người ngắn ngủi. Tâm trí đâu bận rộn những chuyện không đâu. Ông đứng dậy, bấm công tác điện bình nước. Rồi ông trở lại ghế ngồi. Sáng nào cũng vậy. Cuốn sách nằm trên mặt bàn. Cây bút viết mầu đen. Xấp giấy trắng trơ vơ như chờ đợi một điều gì khác thường. Ông nhìn quanh căn phòng trống trải. Lâu lắm không làm được điều gì. Ngày hai mươi lăm tuổi, người bạn học trò đã bảo, ở tuổi này nếu có tài thì đã có rồi. Hồi đó ông mới ngoài hai mươi. Bây giờ tuổi tác đã chồng lên quá con số nhân đôi của cái thời hoa mộng ấy. Và ông thấy mình vẫn chưa làm được điều gì khả dĩ coi được. Tiếng nước sôi réo gọi. Hơi nước ngùn ngụt bốc lên từ vòi cái ấm nhựa. Ông chậm rãi đứng lên, mở hộc tủ lấy một gói cà phê Việt Nam, xé một góc, đổ vào chiếc ly thủy tinh cũ. Bột cà phê quẫy động, bọt nâu sủi lên ngầu đục. Ông khuấy chiếc muỗng vào lòng ly. Tiếng thủy tinh kêu lanh canh như đánh thức cái xôn xao ngái ngủ trong đáy lòng. Lâu lắm mới tìm lại được cái xôn xao mới lớn. Năm sáu năm trời ngủ yên, bây giờ thấy lại cái xôn xao. Ông vẫn nghĩ mình không làm điều gì sai trái. Ông đưa ly cà phê lên môi. Thành ly mịn màng, như đôi môi người con gái. Đôi môi thiên thần bé nhỏ của riêng ông.
Thằng bé lăng xăng đạp chiếc xe ba bánh vòng vòng trong phòng khách. Người đàn ông mắt nhắm mắt mở nhưng cũng cố rõi mắt nhìn theo. Thằng bé chạy quanh cái bàn gỗ rồi len lỏi đẩy chiếc xe vào khoảng cách giữa cái bàn và chiếc ghế sa lông dài. Một bánh xe sau vướng lại sau cạnh bàn. Thằng bé cố bậm môi, cong người đạp. Chiếc xe không nhích đi được chút nào.
“Dad.” Tiếng gọi lanh lảnh. “Daddy.”
Mãi đến bây giờ mới có người gọi ông là daddy.
“Lui lại mới qua lọt được.” Người đàn ông nói bằng giọng khàn khàn.
Thằng bé ngước nhìn người đàn ông, nét van nài trong ánh mắt.
“Daddy, help.”
“Okay. Chờ chút.”
Người đàn ông nhẫn nại chống tay đứng dậy, xỏ chân vào đôi dép cao su mầu đen, lững thững bước về phía thằng bé.
“Where’s mom?”
“Nói tiếng Việt.” Giọng ông lạnh băng.
“Mẹ đâu?” Thằng bé cũng cộc lốc.
“Mẹ đi học.” Ông cộc lốc như trả thù.
“Again?”
“Yes.”
Ông trả lời với chút ẩm ướt trong giọng nói. Chút uất ức nào đó, chút giận hờn nào đó không tên gọi. Ông lặng lẽ giúp thằng bé đẩy bánh xe qua một bên cho chiếc xe đi lọt.
“Thanks, dad.”
“Don’t call me dad.”
Ông gầm gừ như con báo bị cướp mất miếng mồi. Thằng bé ngước mắt nhìn ông, ngơ ngác.
“Đạp xe được rồi,” ông nhắc, giọng dịu lại.
Thằng bé vẫn sững sờ nhìn ông. Mầu nước biển của đôi mắt trẻ thơ xoáy vào tim ông những con sóng lao xao. Mầu biếc xanh của một thứ hy vọng mượt mà. Nhưng không phải mầu con mắt của mẹ nó. Không phải con mắt của Thiên Thần. Con mắt biếc xanh ngả qua mầu đỏ, như ráng chiều, như mặt trời vỡ loang những vạt máu trên bãi hoang, bên bờ biển vắng. Con mắt hờn ghen, con mắt của vết đớn đau tột cùng. Và những giọt ứa ra ở khóe bờ biển xanh. Tiếng sụt sùi kéo người đàn ông trở về với cõi thực của cuộc đời.
“Don’t cry.” Ông quên mất tiêu rằng mình vẫn nhắc thằng bé nói tiếng Việt. “I’m sorry. Đừng khóc.”
Ông đặt tay lên đầu thằng bé, những ngón tay vùi vào mớ tóc rậm nhưng mịn màng trăm ngàn sợi nhỏ quăn cuốn vào nhau.
“When will mom be back?”
“Nói tiếng Việt.”
“Chừng nào mẹ về?”
“Tối mẹ về.”
Thằng bé phụng phịu. Người đàn ông ngồi xuống, đưa tay bồng thằng bé lên.
“Đừng khóc. Mẹ đi học, mai mẹ về. Lại coi ti-vi với daddy.”
Ông đặt thằng bé xuống ghế. “Dựa lưng chỗ này êm này. Con thích coi phim gì?”
Chiếc nệm ghế trũng xuống dưới sức nặng của ông và thằng bé. Chiếc ghế nệm cũ, bất cứ sức nặng nào cũng làm trũng xuống được. Ông nhìn một đầu ghế bạc mầu. Mái tóc thiên thần xõa trên ấy. Những sợi đen nhánh, như những nhánh sông, như trăm ngàn ngả rẽ của dòng sông mùa nước lớn. Mùa ân tình. Môi hồng nở tròn như con cá mắc cạn, như con cá hớp nước. Thiên thần đi lạc xuống dương gian.
“Beauty and the Beast.”
“À, phim Beauty and the Beast.”
Cuốn phim mua tặng mẹ bây giờ thằng con đòi coi đi coi lại hoài. Ông thầm nghĩ.
“What’s mom doing now?” Thằng bé bỗng hỏi.
Giờ này Thiên Thần đang làm gì ở Sài Gòn nhỉ. Ông loay hoay tìm câu trả lời. Thiên Thần về quê thăm mẹ. Ba tuần nữa mới trở lại.
Ông bỗng nhớ một cảnh trong phim. Quái vật bắt giam người con gái, nhưng đành thả cho nàng về thăm cha bệnh nặng. Quái vật nghĩ nàng sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng khi quái vật bị trúng thương, giữa lúc thập tử nhất sinh, người con gái trở lại. Ông nhớ hoài mẩu đối thoại trong phim. You come back. Of course, I come back.
Còn Thiên Thần của ông. Nàng có trở lại không. Và ông? Có điểm nào để nàng nhìn ông thành quái vật.
“Dad!”
“Cái gì?”
“What’s mom doing now?”
“Mom’s with granny.”
“I want…”
“Thôi không want gì hết. Coi phim. Mở lên đi. Turn it on. Và không được nói chuyện khi coi phim nghe chưa. Okay?”
Nhớ em muốn khùng. Mẹ gì đi xa đến nửa vòng trái đất mà không gọi về hỏi thăm con đến một lần. Người đàn ông lẩm bẩm.
“Dad, đừng la me mà.”
Ừ thì không la. Mẹ bắt hứa trước không được la, con cũng giao hẹn không la.
Người đàn ông lặng lẽ lắc đầu. Hôm nay chắc không ngủ sớm được rồi, ngày nào cũng phải thức sớm đưa thằng bé lại chỗ gửi trẻ rồi đi làm trễ thế này chắc bị đuổi việc sớm. Thiên Thần ơi, where the hell are you now?
(Nhân chuyện nước Nga hôm nay, gửi bạn một câu chuyện về Liên Bang Xô Viết năm xưa.)
Trong giờ ăn trưa, một người làm chung chỗ – tạm coi như bạn khá thân – nói thẳng vào mặt bạn rằng bạn là kẻ sát nhân. Những đồng nghiệp của bạn ngồi quanh bàn ăn, trố mắt nhìn, người yếu bóng vía khe khẽ đẩy cái ghế ra xa hơn chỗ bạn ngồi một tí. Vài người khác lặng lẽ liếc về phía góc tường, chỗ gắn cái điện thoại công cộng, mỗi lần gọi phải bỏ vào cái khe của máy đồng hai mươi lăm xu.
Tim bạn ngưng đập mất vài giây. Bạn tròn mắt nhìn anh chàng đồng nghiệp. Và cả phút đồng hồ sau bạn mới bình tĩnh trở lại, và bạn lên giọng, yếu ớt: “Murderer, Me?”
Có bao giờ bạn lâm cảnh ấy chưa?
Tôi đã từng lâm vào cái cảnh đứng tim ấy. Để thong thả, tôi kể lại cho bạn nghe từ đầu.
Trong số những người làm chung với tôi trong hãng làm cây cọ sơn – những tháng năm đầu đời của tôi ở Xứ Tuyết – có một anh chàng trông giống hệt tài tử Richard Pryor. Giống tới mức nhiều người làm chung xúi anh qua Hollywood nộp đơn – trong thời kỳ chưa nổi tiếng thì – xin đóng thế cho Richard Pryor những lúc cần. Chúng tôi dám chắc anh mà mò đến một phim trường nơi Richard Pryor đóng phim, chắc chắn người ta sẽ nghĩ anh là Richard Pryor thật. Cả hãng chúng tôi đặt cho anh cái tên Richard-Pryor-Hãng-Cọ. Anh chàng Richard của chúng tôi làm công việc chạy máy. Anh rất siêng năng. Giờ nghỉ giải lao hoặc giờ ăn trưa anh với tôi thường đem lunch-box ra sân, ngồi dưới bóng cây, vừa ăn vừa tán dóc.
Anh chàng Richard này và tôi gần gũi nhau bởi cả hai cùng là di dân. Tôi là thuyền nhân. Xuống thuyền ở Rạch Giá, được tàu dàn khoan cứu ngoài hải phận quốc tế và đem vào Pulau Bidong. Con đường của anh chàng Richard-Pryor-Hãng-Cọ vòng vo hơn nhiều. Từ quê nhà, anh vượt biên giới bằng đường bộ, băng qua sa mạc, băng qua những vùng hoang vu, dạt vào những ốc đảo, kết bạn với dân du mục, nương nhờ bóng mát dưới bụng những con lạc đà. Cứ vậy, từ nước này qua nước khác. Bị tạm giam giữ, bị trục xuất, lại “ngựa quen đường cũ”. Cứ như vậy cho đến khi anh được Canada công nhận quy chế tị nạn.
Không như tôi, chỉ một lèo từ Việt Nam qua đến Mã Lai và thẳng đường sang Xứ Tuyết, con đường tìm đến nơi chốn bình yên của anh qua nhiều giai đoạn quá nên tôi không nhớ nổi, và tôi chỉ nhớ được cái tên quê hương anh: Djibouti.
Bạn đã bao giờ nghe đến cái tên quốc gia ấy chưa? Djibouti. Quốc gia nhỏ bé ở vùng Sừng Phi Châu. Với dân số chưa đầy một triệu và sử dụng ba ngôn ngữ chính thức: Pháp, Ả Rập và Somali (Trong khi Canada của tôi dùng Anh và Pháp như hai ngôn ngữ chính thức.)
Giờ ăn trưa, chúng tôi kể cho nhau nghe chuyện cố hương của mình. Chuyện của tôi từ đời vua Hùng, đến 1975 thì ngừng lại; chuyện của anh lại bắt đầu từ 1977, năm mà xứ sở anh Djibouti được Pháp trả độc lập. Anh thích thú nhắc đi nhắc lại con số cử tri bầu chọn việc dành độc lập cho quê hương anh Djibouti: tới 98.8%.
Anh thắc mắc sao tôi không kể tiếp về đất nước mình sau 1975 trong khi anh hãnh diện nói về một đất nước non trẻ nơi người dân thẳng thắn phát biểu ý muốn của họ về một quốc gia độc lập: nước Cộng Hòa Djibouti. Anh khoe phương châm của nước anh là Thống Nhất – Bình Đẳng – Hòa Bình mà tiếng Pháp là Unité – Égalité – Paix. Tôi thích thú lắng nghe. Tôi bảo phương châm của nước anh chắc cũng có họ hàng xa gần với phương châm của nước Pháp: Liberté – Egalité – Fraternité. Anh bảo chắc vậy bởi Pháp đã từng là “mẫu quốc” của quê hương anh Djibouti, hệt như Pháp đã từng làm “mẫu quốc” của Việt Nam.
Tôi tỉ mẩn hỏi anh về đất nước Djibouti. Anh cần mẫn trả lời, rồi bỗng dưng anh hỏi tôi: phương châm nước Việt Nam là gì? Tôi lúng túng. Chẳng lẽ phun ra cái điều gian dối đại khái như: Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc; những thứ mà ở nước VN bây giờ đố ai tìm cho ra.
Rồi chúng tôi chuyện trò về bài quốc ca. Anh rì rầm hát bằng tiếng Ả Rập và dịch ra tiếng Anh bài quốc ca của nước mình đại khái như thế này:
“Hãy vươn lên cùng sức mạnh! Vì ta đã kéo cao lá cờ. Lá cờ bồi đắp bởi muôn vàn gian khổ. Với cơn khát và nỗi đau cùng cực. Quốc kỳ chúng ta, màu xanh lục vĩnh cửu của đất đai, xanh dương của bầu trời, và trắng, màu của hòa bình. Trung tâm là ngôi sao màu máu đỏ. Ơi lá cờ của chúng ta, hình ảnh hào hùng biết bao!”
Rồi anh bảo tôi hát và dịch lời bài quốc ca Việt Nam cho anh nghe thử. Tôi lảng tránh. Nhưng anh cứ đốc thúc mãi, tôi đành gian dối. Tôi hát: Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời, Việt Nam hai câu nói bên vành nôi… Anh khen bài quốc ca Việt Nam có ý nghĩa và sâu sắc. Tôi xấu hổ, lặng im. Anh cứ nói đi nói lại về chuyện quốc ca. Anh than phiền rằng quốc ca nước anh đơn giản quá, rằng nhạc quả có hùng nhưng lời thì thiếu sâu sắc. Nghe anh than thở hoài, tôi đành thú thật là bài Việt Nam, Việt Nam mà tôi vừa hát và dịch lời cho anh nghe chỉ là bài quốc ca trong lòng người Việt, còn bài chính thức của nhà nước thì khác. Anh hỏi thế bài quốc ca hiện tại như thế nào. Tôi bảo tôi không thuộc.
Chúng tôi làm chung hãng một thời gian dài. Và chúng tôi trở thành đôi bạn thân từ lúc nào không hay. Giờ ăn trưa, hai đứa đem đồ ăn mang theo ra ăn chung. Chúng tôi kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện. Từ chuyện thuở nhỏ đi học đến những chuyện lẩm cẩm mà hai đứa đã trải qua ở cái thời làm con trai mới lớn. Chúng tôi giúp đỡ nhau, nhường nhịn nhau như hai anh em. Cho đến khi một biến cố lớn lao xảy ra, làm chúng tôi đối mặt với nhau một cách phi lý.
Chuyện như thế này. Ngày 01 tháng Chín năm 1983, phản lực cơ chiến đấu Sukhoi Su-15 của Liên Xô dùng hỏa tiễn không-đối-không bắn rơi chiếc Boeing dân sự của Korean Air Lines, chuyến bay 007 trên không phận vùng biển Nhật Bản, phía tây đảo Sakhalin, làm thiệt mạng 269 hành khách cùng phi hành đoàn. Cuộc tàn sát gây chấn động ấy bị mọi người lên án. Tin tức tiết lộ sau này cho thấy tư lệnh lực lượng phòng không khu vực Viễn Đông Của Sô Viết, tướng Valery Kamensky đã cương quyết ra lệnh tiêu diệt chiếc KAL 007 cho dù nó đang bay trên vùng hải phận quốc tế nếu như xác định được là đó không phải máy bay chở hành khách.
Thuộc cấp của ông ta, tướng Anatoly Kornukov nhất quyết cho rằng không cần nhận diện nữa bởi “kẻ xâm nhập” đã bay trên không phận bán đảo Kamchatka của Liên Xô.
Bản tin chấn động ấy lan vào hãng cọ. Công nhân viên lao xao bàn tán ngay cả trong lúc đang chải lông cọ. Và ngậm ngùi thương cho số phận những hành khách vô tội trên chuyến bay.
Giờ ăn trưa, trời mưa tầm tã, chúng tôi rút vào ngồi trong phòng ăn với mọi người. Anh bạn Richard-Pryor-Hãng-Cọ của tôi lầm lì nhai bánh mì. Mọi người lặng lẽ với phần ăn trưa của mình. Không ai nói gì với ai. Không khí keo đặc.
Rồi anh Richard-Pryor-Hãng-Cọ bỗng buột miệng, như không thể nén thêm được phút giây nào nữa: “Tụi Cộng Sản Liên Xô tàn bạo không tưởng tượng được. Biết là máy bay dân sự mà vẫn bắn rơi. Đúng là bọn sát nhân!”
Thấy anh yên lặng biết bao lâu, bỗng dưng lớn tiếng phát biểu, tôi tán đồng, “Đúng là bọn sát nhân!”
“Cả thế giới đều lên án,” anh tiếp.
“Đúng, làm sao mà không lên án cho được,” tôi phụ họa.
Anh tiếp, “Cả thế giới chỉ có ba đứa vỗ tay reo mừng.”
Tôi ngẩn người ra, nhìn Richard-Pryor-Hãng-Cọ, chờ anh nói thêm cho rõ.
Anh nhìn những khuôn mặt đồng nghiệp – đủ mọi sắc dân – quanh bàn ăn, rồi tia nhìn ấy dừng lại ở tôi. Anh chậm rãi nói, “Thằng Cuba, thằng Tàu và tụi Việt Nam chúng mày.”
Sựng lại mất một giây, tôi phản đối yếu ớt, “Chỉ có bọn Cộng Sản Việt Nam vỗ tay thôi, ông ạ.”
Anh bạn tôi vắn tắt một câu làm tôi chết đứng, “Thì cũng là Việt Nam!”
Và trước khi bỏ đi, anh ném cho tôi phán quyết sau cùng, “Đồng lõa với bọn giết người thì cũng chẳng khác gì chính mình đi giết người. Murderer!” Đám đồng nghiệp tròn mắt ngó anh, rồi nhìn sang tôi. Anh mỉm cười – phủi tay – sau câu nói và ôm cái hộp đựng đồ ăn trưa ra chỗ vòi nước rửa tay.
Tôi lắp bắp, “Murderer, Me?”
Bạn cũng biết ở Việt Nam nói tới chữ giết người chẳng ai thèm để ý bởi mạng người bên ấy rẻ, nhưng ở Bắc Mỹ khi nghe nói đến chữ murderer thì ai cũng tròn con mắt nhìn (và không chừng còn báo cảnh sát nữa.)
Tôi lúng túng nhìn đám đồng nghiệp, và cố mỉm cười. Cô đồng nghiệp người Bồ Đào Nha mà công việc là liên tục dán nhãn hiệu lên cây cọ – nghe không rõ nhưng cũng đẩy nhẹ cái ghế ra xa, trợn mắt hỏi: “Ai giết ai?” Anh chàng người Hungary chuyên đóng cọ vào thùng để gửi cho khách hàng vươn cao cái cổ dài: “Mày giết ai vậy?” Người đàn ông Salvador kín đáo liếc mắt về phía cái điện thoại công cộng ở góc phòng.
Khỏi nói bạn cũng biết tôi mất cả nửa tiếng giải thích cho đám đồng nghiệp hiếu kỳ về chuyện chuyến bay dân sự KAL-007 của Nam Hàn bị không quân Liên Xô bắn nổ tung thành hàng ngàn mảnh vụn rơi xuống biển Nhật Bản. Và thêm chuyện đám đàn em cộng sản vỗ tay reo mừng, trong đó có nhà nước Cộng Sản Việt Nam. Và tôi nhấn mạnh là tôi và hàng triệu người Việt Nam khác không hề vỗ tay tán thưởng hành động sát nhân của Liên Bang Xô Viết. Tôi hăng hái giải thích rằng bọn Cộng Sản Việt Nam đã từng không chùn tay trước bất kỳ hành vi ác độc nào miễn sao ý đồ của bọn cộng sản đàn anh được thực thi trên đất nước mình. Tôi bảo bọn chúng là Việt Cộng chứ không phải Việt Nam nói chung.
Một ông trung niên người Québec chuyên chạy máy cắt gật gù, “Cậu nói đúng, nhưng thằng Richard-Pryor-Hãng-Cọ nói đúng hơn. Chuyện Việt Cộng hay không Việt Cộng chỉ liên hệ đến người dân Việt Nam mấy cậu thôi, ra khỏi cái tầm quốc gia thì ý niệm ấy không còn quan trọng nữa. Cũng như vượt ra ngoài cái tầm nhân loại, từ hành tinh khác nhìn về trái đất thì bọn người ngoài hành tinh chỉ biết có loài người – humankind species và các loài thú cùng thảo mộc. Vậy thì bọn Việt Nam nhà cậu đúng là đồng lõa với bọn sát nhân Xô-Viết, chống lại nhân loại.”
Bạn thân mến. Câu chuyện ấy in đặm trong trí tôi từ dạo đó. Rời hãng cọ, tôi mất liên lạc với tất cả những người cùng làm. Tôi cũng mất liên lạc với anh chàng Richard-Pryor-Hãng-Cọ. Chắc hẳn anh đã đi học lại, thành công và lập thân ở một khung cảnh khác không còn vướng víu cái cổ xanh thuở ban đầu. Ông trung niên chạy máy giờ này chắc đã về hưu, và hẳn vẫn khư khư cái ý niệm “Bọn Việt Nam đồng lõa với bọn sát nhân Xô-Viết chống lại nhân loại.”
Từ đó mỗi khi có ai hỏi, “Bạn từ đâu tới?” hay “Phải bạn là người Việt Nam không?” Tôi lại ngập ngừng không biết người hỏi có phải đang có trong đầu hình ảnh những mảnh vụn trôi bập bềnh trên biển ít ngày sau khi chiếc máy bay của Hàng Không Đại Hàn bị Không Quân Liên Bang Xô Viết bắn hạ.
Và tôi thủ sẵn câu trả lời năm xưa, để thốt ra cái giọng cay cú, “Murderer, me?”
Tôi đi làm về, vừa mở hé cửa đã nghe tiếng cô ấy dịu dàng như đang dỗ dành ai đó. Cô ấy bảo, “Xin lỗi quý vị khán giả thân yêu, hôm nay chuyến bay bị delayed nên MC của chúng ta đến không kịp giờ trình diễn. Để quý vị không phải nóng lòng chờ đợi, chúng tôi xin bắt đầu chương trình mà không có MC.”
Giọng nói cô ấy lọc qua cái microphone đắt tiền tôi mua tặng cô ấy hôm sinh nhật (sinh nhật thứ bao nhiêu tôi không thể nói ra đây dù không đến tai cô ấy nhưng đây là nguyên tắc lịch sự tối thiểu).
“Xin lỗi quý vị khán giả thân thương. Vì em không phải là chuyên viên kỹ thuật nên điều chỉnh âm thanh không được khéo, mong quý vị khán giả thân thương rộng lòng tha thứ.”
Tiếng nhạc trổi lên. Bài hát quen. Dàn máy karaoke, cũng món quà tôi mua tặng cô ấy sinh nhật năm trước. Âm thanh trong vắt và rộn ràng.
Nhạc dạo chưa hết cô đã cao giọng hát.
Tôi cởi giầy, xếp gọn một bên cửa, thong thả bước vào phòng khách. Tiếng nhạc rộn ràng không gian.
“À, thưa quý vị, MC của chúng ta đã đến rồi.”
Cô ấy đứng trên chiếc bàn cà phê trong phòng khách. Áo dạ hội hở vai, phủ kín hai bàn chân. Tôi tròn mắt ngỡ ngàng.
Tay trái microphone đưa sát miệng, tay phải đưa ra trước trong một cử chỉ chào đón đầy lịch lãm, cô ấy nghiêng đầu, “Xin chào đệ nhất MC của sân khấu hải ngoại.”
Tôi đảo mắt nhìn quanh. Căn phòng chỉ có cô ấy và tôi. Tôi không phải là MC; tôi chưa bao giờ làm MC, chắc cô ấy nói với ai khác, nhưng trong phòng chỉ có cô ấy và tôi, hơn nữa cô ấy lại đang trìu mến nhìn tôi, bàn tay để ngửa, lòng bàn tay mở ra, những ngón thon hơi cong lại mời chào.
“Xin mời đệ nhất MC.”
Cô ấy nói trong tiếng nhạc và đưa cái microphone về phía tôi.
Tôi hít một hơi thật dài, nén hơi thở đầy hai lá phổi. “Em làm gì vậy?”
Giọng nói tôi chìm trong cơn lũ âm thanh phát ra từ hai cái loa đặt ở hai góc phòng.
Cô ấy nói gì đó nhưng tôi chỉ thấy môi cô mấp máy vì tiếng nhạc quá lớn. Tôi lắc đầu. Cô đưa cái microphone lên miệng, “Xin mời đệ nhất MC của sân khấu hải ngoại.”
Khúc nhạc dạo cũng vừa dứt, cô vội vã bắt tiếp vào tiếng nhạc. Giọng cô quắt queo như thân gỗ mục.
Tôi quơ tay, “Vặn nhỏ một chút đi.”
Cô nhìn chăm chú vào màn hình ti vi. Những dòng chữ liên tục chạy hàng ngang bên dưới khung hình. Tôi đứng sững, nhìn. Tôi như người mất trí.
Cô ấy lại… nữa rồi.
Âm thanh từ hai chiếc loa vỗ vào bốn vách tường, dội ngược trở lại rồi đâm sầm vào nhau, nhũng nhiễu, loạn cuồng.
Bản nhạc kết thúc. Tôi chờ cho tiếng nhạc ngưng hẳn. Cô ấy nghiêng người, khom hai đầu gối, vẽ vòng cánh tay ra trước để chào khán giả tưởng tượng của cô.
Từ cái cách cô ấy cúi chào với nụ cười nở hoa trên miệng, tôi có thể hình dung ra những đầu người loi nhoi chung quanh cô ấy, tôi có thể nghe ra tiếng vỗ tay vang động cả một thính đường rộng mênh mông. Tiếng huýt gió của bọn thanh niên quấn vào tiếng hò reo rách bung màng nhĩ.
Cô ấy cúi chào hai ba lần. Cô ấy xoay qua phải vẫy tay, xoay qua trái hôn gió. Âm thanh chùn chụt vọng ra từ cặp môi khô.
“Cảm ơn. Cảm ơn quý vị. Xin cảm ơn.”
Chợt cô ấy nhìn về phía tôi, tôi nhìn cô ấy, nhưng cô ấy chỉ nhìn về phía tôi chứ cô ấy không nhìn tôi. Cô ấy nhìn xuyên qua tôi, rồi cô ấy vẫy tay, cô ấy cao giọng, nói với đám khán giả sau lưng tôi, “I love you too.”
Hình như có tiếng đập cửa. Tôi vội vã bước ra. Tiếng nhạc vẫn náo động không gian. cô ấy đang lim dim hai mắt, trôi dạt về một xứ sở xa xôi nào đó có một ông hoàng đầy quyền uy, có những lâu đài rực rỡ hoa đèn đón bước chân cô ấy.
Tôi mở cửa.
Hai người cảnh sát đứng trước mặt tôi. Người nam cảnh sát đứng tuổi, đuôi mắt có những nếp nhăn. Người nữ cảnh sát còn trẻ, có đôi con mắt xanh biếc.
Tiếng hát của cô ấy lùa qua khung cửa hẹp, ùa ra sân, tan loãng vào khoảng không. Cô cảnh sát khẽ nghiêng đầu, nheo mắt như thể bị khối âm thanh kéo nhùng nhằng hai đuôi con mắt.
“Có người gọi điện thoại than phiền,” người nam cảnh sát nói.
Không hỏi tôi cũng biết người ta than phiền vì chuyện gì. Tôi lúng túng gật đầu.
“Ông phải điều chỉnh âm thanh nhỏ lại,” người cảnh sát vừa nói vừa chỉ ngón tay vào trong nhà.
Tôi vội vã xin lỗi và quay lưng bước nhanh về phía phòng khách, hấp tấp quơ tay ra dấu. Cô ấy vẫn lim dim hai con mắt đã đầy những vết chân chim ở hai đuôi, cái miệng đỏ chót son môi vẫn uốn éo âm thanh mê đắm. Tôi biết cô ấy đang ở một xứ sở nào xa xôi lắm. Tôi bước lại nắm lấy cổ tay cô.
Cô chuyển microphone qua tay kia, nói bằng giọng nồng nhiệt, “Cảm ơn lòng ái mộ của quý vị. Thưa quý vị khán giả thân thương, vị mạnh thường quân này tặng hoa và muốn xin được song ca với em…”
Tôi lắc mạnh cánh tay cô, “Cảnh sát gõ cửa kìa.”
Cô ấy nhìn tôi, “Cảm ơn anh đã tặng hoa cho em…”
Người nam cảnh sát bước hẳn qua khung cửa, ló mặt nhìn vào phòng khách. Tôi nắm chặt cánh tay cô ấy, kéo cô ấy xuống khỏi cái bàn cà phê trong phòng khách. Cô ấy bước đi nhùng nhằng trong chiếc áo dạ hội phủ kín gót chân.
“Cảnh sát đến kìa.” Tôi gào vào tai cô.
Cô ấy đưa microphone lên miệng, “Thưa quý vị, xin quý vị giữ trật tự, nếu chúng ta không giữ trật tự, cảnh sát sẽ bắt chúng ta giải tán…”
Tôi chạy lại bên cái máy truyền hình, vội vã bấm nút tắt. Âm thanh tắt ngấm.
Người cảnh sát tròn mắt nhìn cô ấy.
Tôi thì thầm vào tai cô ấy, “Làm ồn hàng xóm, cảnh sát phạt bây giờ.”
Cô ấy gỡ tay tôi ra, xoay mặt lại phía cái ti vi, tôi nắm vội lấy cổ tay cô. Cô nhìn tôi đăm đăm, “Cho em nói vài lời với khán giả đã. Em là diva, em phải cư xử như diva!”
Rồi cô nhìn quanh căn phòng – những khán giả vô hình đang dán mắt vào cô, tôi biết thế bởi hai con mắt cô chớp nhanh bối rối, bờ môi cô run run, và lời cô nói ra thấm đượm nỗi buồn, “Thưa quý vị khán giả thân thương, vì sự cố ngoài ý muốn, MC bị cảnh sát bắt giữ, chương trình tạm gián đoạn. Hẹn gặp lại quý vị trong chương trình nhạc hội kỳ tới.”
Rồi cô quay về phía chúng tôi, mắt nhìn ai oán, “MC phá hợp đồng, em sẽ đưa vụ này lên Tối Cao Pháp Viện.”
Khi chết tôi sẽ lên thiên đàng. Tôi tin chắc như thế. Bởi đã từ lâu, tôi không còn phạm tội. Lương tâm tôi yên ổn. Linh hồn tôi đã được tẩy rửa từ hôm ấy. Vậy mà hôm nay cô ấy lại tìm đến tôi! Tôi bảo cô ấy ngồi xuống bên gốc cây bạch dương trước nhà. Cô ấy thắc mắc sao không vào trong nhà. Trong nhà có còn ai nữa đâu mà sợ. Cô ấy thì thào. Cái giọng tẩm mật ong rót vào tai tôi, vị ngọt của chất giọng ấy đổ đầy lồng ngực tôi cái rạo rực ong óng. Tôi đặt đầu lưỡi giữa hai hàm răng. Chỉ cần cắn mạnh xuống, mọi chước cám dỗ sẽ tan đi, nhưng tôi chần chừ. Thôi thì cứ hãy ngồi ngoài này mà trò chuyện. Và tôi kể lại cho cô ấy câu chuyện ngày hôm ấy. Hôm ấy. Tôi phải nhanh chân nếu không sẽ không kịp. Phiên xử sẽ tiến hành khi mặt trời đứng bóng. Khi bóng cây trắc bá gom lại thành một vòng tròn là lúc người ta bắt đầu phiên xử, và nhanh chóng tiến hành cuộc hành hình. Tôi vội vã sửa soạn. Tôi chạy ra bờ con rạch sau nhà, tìm hòn đá. Cầm chắc hòn đá trong tay, tôi chạy vào nhà, đến bên chiếc giường làm bằng những thanh gỗ vênh vẹo kê trên những phiến đá gồ ghề to nhỏ không đều. Tôi đưa hòn đá cho vợ xem. Vợ vội lau nước mắt, nhướng mắt lên nhìn, rồi bảo Nhỏ quá, nhưng chắc cũng được. Tôi quay đầu bước đi, vợ gọi níu lại. Tiếng gọi của vợ chìm vào tiếng ọ oẹ của hài nhi. Con thứ nhì và duy nhất của vợ chồng tôi. Nó nằm trong cái rổ cói đặt trên giuờng, sát vách tường đất. Vợ sụt sùi bảo ghé sát đây tôi dặn câu này. Tôi ghé sát bên vợ. Mùi tóc ngai ngái thoang thoảng trong không gian. Vợ nhìn quanh như sợ ai trông thấy dù đang nằm trên chiếc giường gỗ cũ, trong căn phòng vắng vẻ. Rồi vợ thì thào. Nhớ ném ra ngoài nhé. Khổ thân nó. Đầu tôi lắc lư trên chiếc cổ khẳng khiu. Nhưng tôi hiểu. Mỗi lần có chuyện như thế, và vì ốm đau không tham dự được, lần nào vợ cũng nhìn quanh quất trước khi thì thầm câu dặn dò Nhớ ném ra ngoài nhé. Tôi quay lưng dợm bước, vợ lại gọi giật lại, “Có một thôi à?” Tôi trả lời, không quay mặt lại, “Hai chứ.” “Hòn kia đâu?” “Ngoài sân,” tôi sẳng giọng. “Nói hoài mỗi câu ấy.” “Không nhắc lỡ quên thì ai đeo gông thế cho ông?” Nói xong vợ òa khóc. Trong cái âm thanh tức tưởi ấy, tôi nghe ra câu thở than đắng giọng, “Khổ thân nó!” Tôi lê những bước nặng nề ra sân. Trời ong ong nắng. Tôi nhìn khoảng sân hẹp. Bóng cây bạch dương còn lệch khá nhiều về một bên. Như vậy là còn sớm. Khi bóng cây bạch dương trong sân nhà tụ lại thật tròn quanh gốc cây thì ở pháp đình bóng cây trắc bá cũng gom lại thật gọn trong sân pháp đình. Và ấy là giờ hành quyết. Tôi bước xuống sân, chiếc túi vải đeo trên vai. Hai hòn đá trong túi chạm nhau lạch cạch. Bọn quan chức, lũ lâu la và đám thu thuế lao xao trò chuyện. Chúng gật gù, bá vai nhau và cười rộ lên từng chặp. Tôi chen chúc cùng đám đông đến trước chiếc bàn đá nơi những nhân viên kiểm tra số người tham dự ngồi với cuộn giấy da dê li ti những chữ. Tôi đưa tay đuổi ruồi, kiên nhẫn chờ đến phiên mình. Hàng người nhích đi từng chút một. Thoáng gió thoang thoảng quyện lên từ bờ hồ đem theo cái thoáng mát dịu dàng, mơn trớn. Tôi nhìn về phía ấy. Mặt hồ Galilee vạch một đường ngang xanh thẫm, lấp lánh ẩn hiện sau những nếp nhà nhấp nhô, cao thấp không đều. Một đống những cuộn da dê vàng úa chồng lên nhau. Đám quan chức loay hoay bới, tìm. Mỗi khu xóm có một cuộn riêng ghi danh sách từng nhà, và số người trong nhà. Nhà tôi ngoài hai vợ chồng còn có đứa con vừa chưa đầy tháng. “Vợ anh đâu?” Đến lượt tôi, viên quan hỏi. Tôi nhanh nhảu, “Vợ tôi mới sinh con, không đi được.” Gã thư lại quan quyền nhìn chăm chú những con chữ ngoằn ngoèo trên tấm da dê trải rộng trên mặt bàn đá. “Sao lần nào cũng không đi được vậy?” “Cô ấy ốm đau luôn.” Tôi nói ra cái điều ám ảnh. Vợ tôi đau ốm thường xuyên. Bệnh tật gì mà cứ như ma ám. Có lần tôi định rước nhà Tiên Tri vẫn thường giảng trên bờ hồ ngoài kia nhờ ông chữa cho khỏi hẳn cái chứng hoại huyết độc địa ấy. Ông ấy đã từng làm cho kẻ mù sáng mắt. Và ông ấy cũng đã từng chữa cách gì đó cho em trai cái cô ở tận xóm trên sống lại. Nhưng tôi ngại, cái nhà ông Tiên Tri ấy luôn nói ra những điều ngược ngạo, dù đúng với tim đen lũ người chúng tôi, nhưng đã chói tai thì ai mà chịu được. Vì vậy mà tôi chần chừ, vì vậy mà tôi để vợ tôi ốm đau oặt oẹo mãi. “Không đi được thì anh phải làm thay cho cô ấy.” “Vâng, tôi sẽ làm thay cho cô ấy.” “Hòn đá của cô ấy đâu?” Tôi luồn tay vào bọc lấy ra hai cục đá xanh xám hầm hập nóng ra, đặt lên bàn. Tôi cố đặt nhẹ nhưng viên đá cũng gõ lên mặt đá một tiếng cạch thật to khiến tay thư lại trợn mắt nhìn tôi. Tôi cuống cuồng, “Thưa, hòn đá nặng quá, tôi lỡ tay.” Gã cầm hòn đá của vợ tôi lên, nhìn chăm chú cái màu xám xanh như nhìn con vật lạ, rồi gã ngước nhìn tôi, “Đá nhỏ thế này không hợp lệ.” “Vợ tôi mới sinh,” tôi lắp bắp, “Chân tay còn yếu ớt, không ném được hòn đá to.” “Lại gian xảo rồi!” “Không, tôi nói thật.” Chuyện này tôi không giấu diếm chút nào. Vợ tôi mới sinh. Đứa con trai còn đỏ hỏn. Dạo này trẻ sơ sinh rủ nhau sài đẹn, và theo nhau chết. Con đầu lòng của chúng tôi cũng cùng số phận ấy hai năm trước. Nhà chỉ có hai vợ chồng, những ngày vợ ở cữ, cô em vợ tôi – dù đã có gia đình riêng – vẫn phải chạy đi chạy lại đỡ đần bà chị. Tôi, đàn ông biết xoay sở thế nào. “Hòn đá nhỏ như đồ chơi trẻ con thế này,” gã nói. Hòn đá chuyển động nhịp nhàng trong lòng bàn tay gã. “Nhỏ cô ấy mới ném được. To quá, ném không tới thì cũng vậy thôi.” Tôi lý sự với gã. Từ trước đến giờ tôi chẳng lý sự với ai, nhất là với đám quan quyền và lính La Mã, nhưng lần này có kẻ nào đó trong sâu thẳm lòng tôi thúc dục tôi cãi lý. Vậy mà gã cho qua. “Được rồi, nhớ ném cho mạnh thay cho vợ anh.” Dĩ nhiên tôi sẽ mạnh tay ném. Chuyện ném này tôi cũng đau, cái đau của gã đàn ông bị phản bội. Nhưng việc cần làm thì vẫn phải làm. Bỏ hai hòn đá vào túi vải, đeo lên vai, tôi lủi thủi luồn lách ra phía sau chiếc bàn kiểm tra, vào sân pháp đình. Nắng vỡ trên đầu, tuôn chảy xuống vai, hừng hực. Quanh tôi, thiên hạ chen lấn nhau, chuyện trò lao xao. Những hòn đá trong những cái rổ sâu lòng buộc bằng dây luộc đeo lủng lẳng trước bụng, sau lưng vài người. Bọn phi nhân tính. Mỗi người một hòn đá cũng đủ để biến phạm nhân thành một đống thịt bầy nhầy, lấy nhiều đá thế làm gì không biết. Từ ngày có pháp lệnh của quan Tổng Trấn, đá ở bờ sông, đá ở ven hồ ngày càng khan hiếm. Đó là dấu hiệu không tốt. Đá bờ sông, bờ hồ khan hiếm có nghĩa là số phạm nhân ngày càng tăng vọt. Sau những buổi hành hình, người ta đổ dồn vào đống đá, xô đẩy bọn lính La Mã, nhặt nhạnh những hòn đá đem về. Chẳng để làm gì cả, chỉ để đó, chờ đến dịp hành hình kế tiếp. Đám đông ồn ào cười nói trong sân pháp đình. Tôi nhìn gốc cây trắc bá giữa sân. Các phán quan lao xao trên bệ đá. Những cái lọng ngả nghiêng phủ bóng mát lên đầu đám quan lại. Những khuôn mặt căng tròn, những cái trán trơn bóng nhập nhòe, những mũi giáo, những thanh gươm loang loang trong nắng. Cây trắc bá giữa sân pháp đình là nơi hành hình phạm nhân. Hôm nay sẽ là phiên xử người đàn bà ngoại tình. Người ta sẽ trói kẻ dâm phụ ấy dưới gốc cây. Một vòng tròn vây quanh gốc cây. Dân chúng sẽ bao quanh gốc cây ấy. Mỗi người sẽ ném hòn đá của mình vào phạm nhân rồi bước lui nhường chỗ cho người khác. Hôm nay sẽ là phiên xử người đàn bà gian dối, người đàn bà ngoại tình. Người đàn bà ấy chẳng xa lạ gì với tôi, người đàn bà ấy cũng chẳng xa lạ gì với vợ tôi, vì vậy vợ tôi dặn tôi ném đá trật ra ngoài. Người đàn bà ấy đáng tội chết. Tôi xốc cái túi vải trên vai. Hai hòn đá chạm vào nhau lách cách. Tôi sẽ ném hòn đá nhỏ của vợ tôi vào đầu con đàn bà ấy để xóa đi hết những tình cảm lạc đường. Hòn đá to để dành cho hàm răng trắng muốt, vẫn nở ra những khóe cười đằm thắm, hòn đá ấy sẽ làm tóe máu đôi môi vẫn rải lên tôi những ẩm ướt, mượt mà suốt những buổi chiều dấm dúi bên nhau sau khoảnh vườn rậm lá, những ngày vợ tôi ốm đau, nằm mê mệt trên chiếc giường gỗ cũ. Tiếng lao xao của đám đông kéo tôi về khoảng sân rực nắng của pháp đình. Tôi ngước nhìn cây trắc bá trơ trọi giữa khoảng sân loang nắng. Người đàn bà ấy đâu sao chưa đem ra, sao chưa buộc chị ta vào cái thân cây lực lưỡng mấy vòng ôm. Bóng râm đã cuộn tròn quanh gốc cây. Mọi người nhốn nháo hỏi nhau rồi nghểnh cổ nhìn về phía ngôi pháp đình bề thế choán hẳn một khoảng trời biếc xanh. Có tiếng lao xao ở một góc sân. Tôi nghểnh cổ nhìn về phía ấy. Ba người lính đang kéo lê một người đàn bà trên nền đất. Tim tôi thắt lại trong lồng ngực. Phạm nhân đây rồi. Từ khoảng cách khá xa tôi vẫn nhìn ra đôi con mắt xớn xác của người đàn bà. Đôi con mắt đen nhánh quen quá là quen. Đôi con mắt đã nhìn tôi đăm đắm những buổi chiều nắng nghiêng khóm cây vả sau vườn, khi vợ tôi nằm bệnh trên chiếc giường gỗ cũ, và làng mạc vắng hoe vì thiên hạ túa ra bờ hồ nghe người con trai bác thợ mộc, vị tiên tri trẻ tuổi rao giảng những điều chói tai, ngược ngạo. Tôi chưa ngồi với đám đông để nghe con trai bác thợ mộc rao giảng lần nào, nhưng nghe nói ông ta hay thẳng thắn chỉ trích những hành vi sai trái của quan lại, những cách hành xử hôn ám nhưng đã quen thuộc của con người, tôi cũng muốn ra bờ hồ ngồi nghe một lần cho biết. Nhưng rồi vợ tôi ốm đau, rồi vợ tôi có thai, rồi vợ tôi sinh cháu nhỏ. Em gái của vợ tôi phải sang giúp. Những buổi chiều tôi nói dối vợ rằng tôi ra bờ hồ nghe vị tiên tri ấy nói những câu chuyện lạ lùng là lúc tôi quấn quýt bên người đàn bà ấy; cái người lúc này đang bị hai người lính xốc nách lôi đi. Tôi lại xốc cái túi vải lên vai. Hai hòn đá chạm nhau lách cách. Hòn đá to là của tôi. Tôi sẽ ném thẳng tay bởi người đàn bà kia đã phản bội tôi. Hai hòn đá gõ vào lưng nhắc tôi nhớ lời vợ dặn. Nhớ ném ra ngoài nhé. Cô ấy dặn thế bởi cô ấy thương người đàn bà kia. Bởi người đàn bà kia là em gái cô ấy. Thương cho mấy cũng chẳng làm gì được. Luật lệ đã quy định rồi. Lúc trước khi xử phạt tội nhân, những ai ghét điều xấu xa, tội lỗi thì ra sân pháp đình mà ném đá, nhưng tội nhân càng lúc càng nhiều, và số người tham dự ngày càng ít đi, những cuộc hành hình nhạt dần cái hào hứng, sôi nổi, quan Tổng Trấn ra lệnh bắt buộc mọi nhà phải tham gia và mỗi người lớn phải ném vào phạm nhân ít nhất là một hòn đá để chứng tỏ mình là người chính trực. Đám quan lại vẽ thêm ra những quy định về kích thước hòn đá. Hình phạt ấy khiến đá trở thành khan hiếm. Đám con buôn bắt đầu hùa nhau mở cửa tiệm bán đá cho những buổi hành hình. Bọn lính mạnh tay đẩy người đàn bà ngã giúi giữa sân nắng. Phía trước chiếc bàn có lọng che của pháp quan. Lại những tiếng lao xao, và ở góc sân, một người đàn ông râu tóc rậm rạp đi giữa hai người lính, tiến về phía chiếc bàn của pháp quan. Tiếng thì thào dấy lên trong đám đông. Đấng Tiên Tri, Vị Thầy khả kính, Con Trai Bác Thợ Mộc đã đến. Tôi nhướng mắt nhìn. Đúng là con trai bác thợ mộc. Hai người lính đẩy Con Trai Bác Thợ Mộc đến sát bên người đàn bà đang ngồi co ro dưới nắng, rồi lui ra phía sau những chiếc lọng rua vàng. Người phán quan dõng dạc đọc cáo trạng. Cái giọng oang oang tan loãng vào không gian. Bản cáo trạng tuôn chảy từ miệng ông ta như nước suối ào ào tuôn ra từ vách đá. “Mọi người đã sẵn sàng cả chưa?” Ông ta hét lớn. Đám đông rầm rộ vung tay đáp trả một cách nôn nóng. Vị phán quan gật gù mãn nguyện, rồi ông ta nhìn Con Trai Bác Thợ Mộc, hất hàm, “Thầy phán quyết thế nào?” Ông ta nhấn mạnh chữ “thầy” bằng cái âm thanh mỉa mai, châm chọc và đầy thách đố. Con Trai Bác Thợ Mộc ngước nhìn mọi người rồi thong thả ngồi xuống. Một thoáng gió lạc lõng thổi lên từ mặt hồ làm những sợi tóc đen nâu rũ xuống trán ông ta. Những ngón tay gầy thuôn vạch trên sân cát. Ông ấy viết gì thế? Thầy viết gì thế? Ngài viết gì thế? Mọi người lao xao hỏi nhau. Tôi chờ bản án gắt gao. Vị tiên tri trẻ, con trai bác thợ mộc; người đến đây để chấn chỉnh lại cuộc sống và lương tâm nhân loại hẳn sẽ kêu án người đàn bà thật nặng. Người đàn bà tóc tai rũ rượi kia đã có chồng, vậy mà cô ta đã dám nói với tôi rằng cô ta muốn có tôi suốt đời bên cạnh cô ta. Rồi vướng vít thế nào mà lại bị bắt quả tang đang nhập nhằng với một tay thu thuế. Đấy là chỗ đau trong trái tim tôi. Đó là lý do tôi chọn hòn đá thật to. Vị phán quan đứng dậy, vuốt nhẹ hàm râu. Tên lính hầu vội vã dương cao cái lọng. Vị phán quan đủng đỉnh bước ra giữa sân, chỗ Con Trai Bác Thợ Mộc đang đứng và người đàn bà ngồi co ro bên cạnh. Phán quan cúi xuống, lầm thầm đọc. Rồi ném cho Con Trai Bác Thợ Mộc một cái nhìn gươm giáo và lặng lẽ xoay lưng, nhanh chân bước lên những bậc tam cấp của pháp đình, và mất hút bên trong. Tên lính hầu cuống quýt chạy theo. Ông ấy viết gì thế? Thầy viết gì thế? Ngài viết gì thế? Ngàn cái miệng réo lên câu hỏi. Âm thanh rào rào như sóng dấy mặt hồ những ngày dông bão. Người chỉ huy đám lính bước nhanh đến chỗ ngồi của Con Trai Bác Thợ Mộc. Ông ta nhìn chăm chú những chữ ngoằn ngoèo trên cát. Và ông ta quay mặt ra đám đông dõng dạc đọc cái câu ông ta bắt gặp. Mọi người đồng loạt ồ lên, rồi người ta tranh nhau nói. Rồi tiếng ồn ào lắng xuống. Cuối cùng là cái im lặng chết người. Cái câu mà người chỉ huy toán lính vừa đọc làm lồng ngực tôi thắt lại. Những ông già, những bà già vạch đám đông bỏ về. Những gã trung niên, những phụ nữ đứng tuổi lũ lượt xô đẩy nhau. Những hòn đá bỏ lại lổn nhổn trên sân cát. Cái túi vải bỗng dưng nặng trĩu trên vai tôi. Tôi nhớ những cái vuốt ve cháy xém thịt da. Người đàn bà kia đã bao nhiêu lần lộng lẫy chấp chới nhưng cũng vô cùng thăm thẳm vực sâu trong cõi tối lòng tôi. Cái túi vải kéo lệch một bên vai tôi. Hai hòn đá màu xanh xám tôi dự tính ném vào nụ cười, vào câu nói ngọt ngào, vào cái vuốt ve rát ngọt của người đàn bà hư đốn. Tôi tưởng chừng mình đang vác trên vai những núi non tội lỗi. Sẽ phải làm gì với người đàn bà bội bạc kia. Đám đông thưa dần. Tôi hốt hoảng nhìn quanh. Cái im lặng chết người phủ chụp khoảng sân ngập nắng. Sân pháp đình chỉ còn trơ trọi Con Trai Bác Thợ Mộc và người đàn bà tội lỗi. Nắng đổ lửa khắp nơi. Tôi làm gì ở đây thế này. Sao tôi không tuông chạy ngay từ khi dòng chữ của Con Trai Bác Thợ Mộc được người chỉ huy toán lính cao giọng đọc cho đám đông nghe. Người đàn bà ngước nhìn tôi. Và cái xớn xác quyện lên trong mắt nhìn. Tôi thành tượng đá. Hai núi đá đè nặng trên vai. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Tôi muốn hét lên như thế. Vị tiên tri trẻ tuổi nhìn tôi. Ánh mắt trùng trùng sự bao dung. Tôi run rẩy tháo cái túi vải đeo vai xuống. Hai hòn đá nặng trĩu cánh tay. Tôi luống cuống dốc ngược cái túi. Hai hòn đá nặng nề lăn ra trên mặt cát. Tôi muốn nói với vị tiên tri trẻ rằng thưa Thầy, con xứng đáng nhận cả hai hòn đá này và tất cả những hòn đá thiên hạ bỏ lại rải rác quanh đây. Nhưng tôi không thốt lên lời. Và cũng sức mạnh vô hình nào đó đẩy tôi xoay người bước đi. Một luồng gió nhẹ hiu hiu thổi, thả đến tai tôi giọng nói trầm của Con Trai Bác Thợ Mộc, “Hãy về và đừng phạm tội nữa.” Tôi không biết nhờ gió đưa hay tại vị tiên tri cố tình muốn tôi nghe được câu nói ấy, nhưng tôi tin đó là lời dặn dò Ngài nói với tôi. Và tôi lủi thủi ra về. Và từ đấy tôi thôi phạm tội. Tôi đã giữ mình trong sạch được – tính đến hôm nay là – sáu mươi mốt ngày. Lời dặn dò Đấng Tiên Tri dành cho người đàn bà ấy. Cô em vợ, người tình của thằng tôi tội lỗi. Lời dặn dò ấy cũng dành cả cho tôi. Tôi còn nhớ. Và tôi tưởng cô ấy sẽ không bao giờ quên lời của Ngài. Vậy mà hôm nay – vợ tôi mất chưa tròn một tuần trăng – cô ấy đã lại tìm đến tôi.