Kinh Kha, Con Chủy Thủ và Đất Tần Bất Trắc

Unknown

DƯƠNG NGHIỄM MẬU

1.

– Anh có tin là mình thoát được không, cái khó nhất đã qua nhưng còn đoạn đường dài từ đây xuống dưới đó.

– Tin hay không tin cũng chẳng ích gì, vượt được chừng nào thì vượt chừng đó, cùng lắm bị bắt trở lại, và mình có bổn phận là tìm cách vượt qua, dễ chừng từ trước tới nay anh chưa bao giờ phải vượt khỏi, phải trốn đi…

– Chưa.

– Thật là một người may mắn, với tôi đây là lần thứ bảy hay thứ tám gì rồi, chúng nó nghĩ mang tôi tới một vùng như thế này thì tôi không làm cách nào mà vượt được, tôi nhớ lại những điều mấy thằng nó nói với nhau, chúng nó tưởng tôi không biết đây là đâu, chúng làm như bọn mình đang sống trong một vùng thuộc tỉnh Vân-nam, tôi đã áng chừng từ hôm mới tới, rừng như thế nào, núi như thế nào, tôi lại dò ra ngọn sông thì tôi yên tâm. Trông anh có vẻ mệt rồi…

– Tôi yếu ít lâu nay, vốn không quen kham khổ, nếu không ở giai đoạn đặc biệt thế này có khi tôi không biết núi rừng, kham khổ là gì, cũng may tôi không đến nỗi mất tinh thần như những người khác, một số bạn tôi đã ngã lòng, chúng tôi không đủ một niềm tin, không kiên trì.

– Đa số hàng ngũ những người quốc gia đều thiếu cái đó, mình nhiều cảm tính quá và thường hoài nghi anh thấy đó, nếu bọn mình nghe được nhau, tin được, phối hợp được thì bây giờ đâu đến nỗi này… mình đã mắc những lầm lỗi lớn, đó là một bài học, bọn mình đã bỏ mất nhiều cơ hội …

Giọng người đứng tuổi trầm xuống hơi buồn, người trẻ tuổi lặng thinh nhìn ra dòng sông trước mặt, ánh trăng xanh trải trên mặt sông rộng, những gợn sóng lóng lánh như bạc, bên kia dòng sông những lau sậy trải ngút ngàn như chạy tới tận chân dãy núi đen sẫm phía xa, không khí vây quanh tịch mịch, nền trời như không một gợn mây, gió nhẹ thoảng qua làm xao động những lùm cây, dòng sông này sẽ xuôi đến đâu.

– Mình phải đi thôi, có lẽ mình đã ra thoát vòng vây chính rồi, nhưng mình còn phải qua nhiều vòng vây nữa. Anh đang nghĩ gì vậy?

– Nhớ tới gia đình…

– Một mái nhà, một ông bố, một bà mẹ, một người vợ, một người con, những bữa cơm đầm ấm trong gia đình, nhiều lúc nghĩ đến tôi muốn rớm nước mắt, nhưng lựa chọn ở lại trong khung cảnh ấy chắc mình sẽ khổ tâm về những điều khác. Nghĩ đến cha mẹ già nhiều lúc thấy mình bất nhẫn…

Tiếng người trẻ tuổi ngâm khe khẽ:

“Gió hiu hắt chừ sông Dịch lạnh
Tráng sĩ một đi chừ chẳng trở về…”

Tiếng gió lay động những lá cây, vẻ tịch mịch bao quanh tưởng như giữa chốn hoang đảo nào. Tiếng người lớn tuổi:

– Anh tưởng con sông này là sông Dịch sao?

– Tôi nhớ lại chuyện Kinh Kha sang Tần, Tư Mã Thiên đã viết cảnh qua sông của chàng Kinh thành một thiên anh hùng ca, chắc anh cũng đã đọc qua.

– Anh cũng muốn làm một Kinh Kha nữa sao, tiếc đây không phải là dòng sông Dịch, tiếc tôi không phải là Cao Tiệm Ly, là chủ quán thịt chó hay Thái-tử Đan, và tiếc bên kia sông cũng không có cả một Tần Thủy Hoàng cho anh tới mà hạ con chủy thủ… Để chọn làm một Kinh Kha thì sướng quá đi rồi, hoàn cảnh này đâu còn thích hợp cho Kinh Kha nữa, nhưng tôi vẫn không nghĩ rằng giết Tần Thủy Hoàng là mục đích chính của chàng Kinh, ca tụng cái hành động đó người ta đã giết Kinh Kha để thỏa mãn sự bất lực của mình, để làm hài lòng tự ái của mình. Tôi hỏi anh, một người như Kinh Kha mà lại không nghĩ tới hậu quả khi cầm con dao nhọn sang Tần sao?

– Tại sao không, nhưng chắc chàng ta không nghĩ tới hậu quả mà nghĩ tới kết quả.

– Kết quả là nước Yên bị làm cỏ, những người như chàng Kinh mà hành động là phải nghĩ tới cùng một lúc những thất bại, và những thành công, anh nghĩ giết được Tần Thủy Hoàng là thành công rồi sao. Tôi nghĩ chắc chắn khi cầm mũi nhọn sang Tần chàng Kinh phải nghĩ tới sau khi đã giết được Tần Thủy Hoàng và nếu việc giết thất bại. Giết Tần Thủy Hoàng rồi làm gì với một nước Tàu rối loạn? Giết một kẻ tàn bạo không chết hắn sẽ làm gì với võ lực trong tay hắn?

– Tôi thấy các chính sử chỉ chép hành động của Kinh Kha: giết một kẻ bạo tàn, sự bạo tàn mà về sau này ai cũng thấy, như vậy hành động như Kinh Kha không đáng ca ngợi sao?

– Coi chừng anh nghĩ sai điều tôi nói, tôi không hề không tán đồng hành động của Kinh Kha, nhưng tôi không tán đồng lý do người ta đưa ra, lý do khiến Kinh Kha hành động… Trước đây tôi được một người kể lại cho nghe về một cuốn sách viết về chàng Kinh, một cuốn sách mà những sự việc trong đời chàng Kinh khác hẳn những điều mình đã đọc.

– Sao lại có nhiều Kinh Kha thế?

– Kinh Kha thì chỉ có một người, nhưng những sự thật về Kinh Kha khác nhau, sự thật tùy thuộc con mắt nhìn của kẻ khác. Đọc về Kinh Kha do Tư Mã Thiên viết hay thì hay thật, hào hùng thật nhưng tôi không khỏi thấy hành động của chàng như hành động của một kẻ mà thành ngữ của mình gọi là anh hùng rơm, nếu không thì tôi cũng nghĩ Kinh Kha là một kẻ tầm thường chỉ hành động để thỏa lòng tự ái, tự ái vì hành động của Điền Quang, của Phàn Ô Kỳ, của Thái-tử Đan, nếu hành động vì nghĩa lớn, chàng Kinh đã không hấp tấp sang Tần với một kẻ giết mướn là Tần Vũ-Dương mà chàng phải đợi người bạn có đường kiếm tuyệt luân, chàng cũng không thể có những hành động ăn chơi, mê người đẹp như là cố hưởng cho hết những lạc thú trên đời để rồi chết. Kinh Kha sang Tần không phải vì mắt xanh của Điền Quang, của Thái-tử Đan, của Phàn Ô Kỳ, lại càng không phải vì cái đầu của Phàn Ô Kỳ do chính tay Kỳ chặt lấy, chẳng phải vì đôi tay người yêu của Thái-tử Đan, một người như chàng Kinh từng qua chơi khắp các chư hầu kết bạn với hết cả những bậc hiền sĩ trong thiên hạ, Điền Quang thấy không phải là người thường, luận kiếm với Cát Nhiếp, Nhiếp dọa bằng mắt mà lặng lẽ bỏ đi, vừa thân với những danh sĩ, vừa có thể thân với một tên chủ quán thịt chó; chơi với rượu mà tính thâm trầm ham đọc sách, lại có thể nghêu ngao hát giữa chợ như chỗ không người thì đâu phải là một người thường. Như vậy khiến tôi tin những điều tôi đã được nghe về chàng Kinh.

Giọng nói trầm trầm của người lớn tuổi đầy vẻ say sưa, người trẻ im lặng lắng nghe, trăng giữa tháng vằng vặc trên nền trời đầy sao lấp lánh, con sông như một dòng nước bạc óng ánh, người trẻ nói:

– Anh đã đọc được những gì về Kinh Kha mà anh cho là khác hẳn với những sử sách đã viết về chàng?

– Tôi không được đọc, tôi chỉ được nghe lại do một người anh cả nói cho nghe, anh ấy nói đã được đọc cuốn sách khi lưu lạc bên Quảng-châu.

– Liệu đó là một cuốn sử hay là một tập truyền kỳ?

– Tôi không rõ, nói theo bây giờ, theo người thật, nó như một cuốn ký sự lịch sử, không có tên tác giả, người ta khám phá ra nó giữa những sách được cất giấu khi Tần Thủy-Hoàng ra lệnh đốt hết những sách lưu truyền bấy giờ, cuốn sách có ba chương với cái tên là: Ba lần gặp Kinh Kha, cuốn sách chừng như chưa viết xong và được bỏ lửng. Trăng còn sáng quá, tôi có thể kể lại cho anh nghe trong khi chờ đợi mình lên đường.

2.

Được tin của Kinh Kha tôi vội vàng đeo hành lý lên đường, nhưng khi tới nơi Kha đã đi trước đó một ngày. Thôi thế là hỏng hết mọi chuyện, gặp Cao Tiệm-Ly trong quán rượu chúng tôi chỉ than thở với nhau, tôi nói:

– Đã nhắn tôi sao hắn không chờ tôi?

– Hắn chờ quá, lần lữa mấy ngày nhưng vẫn không thấy gì, hắn cũng như tôi nghĩ rằng một là anh không muốn nhận chuyến đi, hai là người ta không tìm thấy anh, sau nữa Thái-tử Đan có ý ngờ Kha không muốn lên đường vì sợ chết. Trong lúc quân Tần đã ngấp nghé ngoài biên thùy, làm sao để Kha có thể nói được trong một hoàn cảnh như thế, khi xuống thuyền với Tần Vũ-Dương, Kha có ý không vui.

– Tần Vũ-Dương là người thế nào?

– Một kẻ sinh ở đất mường mán, năm mười ba tuổi đã giết người, không ai dám nhìn mặt. Thái-tử Đan cho đó là một dũng sĩ có thể giúp Kha giết được Tần Thủy-Hoàng một cách dễ dàng, Kha đã quát lên với Tần Vũ-Dương: Sao Thái-tử lại sai đến mày, đi mà không về là tại thằng nhãi này, cầm một con chủy thủ vào đất Tần bất trắc phải là một dũng sĩ chứ đâu phải là một kẻ giết người như mày.

Nghe Cao Tiệm-Ly nói tôi chỉ biết thở dài, chúng tôi đều linh cảm thấy công việc của chàng Kinh đã hỏng và chúng tôi chờ đợi để nghe tin chàng chết, ngọn lửa hung bạo lại được tưới thêm dầu, chúng tôi không thể tưởng tượng hậu quả phải gánh chịu. Bây giờ Kinh Kha đang trên con đường tới Hàm-dương, tôi quanh quẩn chỗ này chỗ khác nghe người ta nói tới những ngày chàng Kinh còn ở lại đây, nào là cái chết của Thầy Điền-Quang, dũng khí của Phàn Ô Kỳ tự tay cắt lấy đầu mình cho chàng Kinh mang qua đất Tần mong được gần bạo chúa, người ta nói đến Thái-tử Đan chỉ nghĩ tới việc diệt Tần đã hy sinh ngay cả người yêu để làm vui lòng chàng Kinh. Ngồi uống rượu bên sông Dịch, nghe tiếng tiêu của Tiệm-Ly khiến tôi không khỏi bồi hồi xúc cảm, cái cảnh hơn ba ngàn tân khách, mấy vạn người dân mặc áo tang đã ra đây tiễn chàng đi, tôi tiếc đã không được hưởng khung cảnh ấy, tiếc đã không được cùng chàng lên chiếc thuyền nhỏ qua sông, bao nhiêu năm tập luyện để làm gì, lưỡi kiếm truyền lại từ nhiều đời để làm gì khi đã bỏ lỡ mất cơ hội của nó.

Tôi nhớ lại lần gặp gỡ năm xưa, cũng trong một quán rượu như thế này, lần đó Kha vừa rời khỏi Hàm-đan trên đường sang Yên, tôi nghe tiếng chàng từ lâu nên gặp nhau rất mừng rỡ và chúng tôi thân với nhau ngay, tôi thấy rõ chàng không phải là một người thường, tôi hỏi tại sao lại rời Hàm-đan, Lỗ Câu-Tiễn không dung được anh sao? Kha nói hắn mới quát mắng tôi chỉ vì ganh nhau khi đánh song lục, với những người như thế mình nên đi khỏi là hơn, lúc trước tôi cũng đã phải đi vì Cát-Nhiếp dọa tôi khi luận kiếm thuật với hắn, mỗi lần bỏ đi như thế chắc họ tưởng tôi hèn lắm, nhưng trong những trường hợp đó tôi chọn làm kẻ hèn, tôi đi tìm một kẻ để tôi xách dép cho họ nhưng tôi chưa thấy một người làm tôi nể, tôi nghe nói đất Yên có Thầy Điền Quang rất đáng kính, và Thái-tử Đan có mắt thấy được kẻ sĩ nên sang đó xem sao, trông Tần bạo ngược tôi không yên lòng được, anh có sang Yên cùng với tôi không? Tôi nói tôi không cùng đi được, tôi muốn về thăm mẹ già, nhưng tôi hẹn nếu cần đến tôi thì hãy tin cho tôi biết. Chúng tôi ở với nhau ít ngày luận bàn kiếm thuật rất tương đắc, Kha uống rượu rất nhiều, uống bao nhiêu cũng được và chừng như không bao giờ say, càng uống khí dũng của Kha càng như mạnh thêm, chàng vừa uống rượu vừa múa gươm, giọng ngâm thơ hào sảng, khí khái, tôi chưa được gặp một ai như chàng. Kha nói với tôi: luyện kiếm để làm gì, tôi nói tôi nghĩ tới Tần Thủy-Hoàng, Kha cười, chàng nói: anh có biết Cát-Nhiếp, Lỗ Câu-Tiễn luyện kiếm để làm gì không, tôi nói không, Kha cười lớn, họ luyện kiếm để dọa tôi, họ cầm lưỡi kiếm trong tay với sự đùa giỡn, nước loạn chính vì những kẻ không đáng cầm kiếm đã cầm kiếm trong tay và khoa lên với một đầu óc khoa trương rỗng tuếch, bao nhiêu lưỡi kiếm quý đã phải tủi hờn, tiếc thay.

Giọng Kha trầm trầm, tôi không phải là kẻ đánh gươm có tài, nhưng tôi muốn được dùng tới gươm một lần cho thật xứng đáng. Tôi nói tôi cũng ao ước như thế nhưng chưa được thỏa lòng, thực là một kẻ đánh kiếm không bao giờ nói đến đánh kiếm trừ trường hợp gặp tri âm, tôi đã nhầm khi đánh kiếm, luận kiếm với những kẻ như Lỗ Câu Tiễn hay Cát-Nhiếp, quả là tôi chưa có mắt thấy được người, cũng từ đó tôi bắt đầu sợ khi thấy những kẻ đeo kiếm bên mình, tôi sợ cho những người khác và cho chính hắn mang họa vì lưỡi thép vô tri, cầm một mũi nhọn, cầm một ngọn bút trong tay đâu phải giỡn được.

Ngồi bên quán nơi Kha đã ngồi, uống rượu với những kẻ Kha đã uống, nhìn con sông Kha đã qua tôi bồi hồi lo âu, mũi nhọn trong tay chàng sang đất Tần liệu có mang được gì về, tiếng nói của chàng như còn văng vẳng bên tai tôi. Chúng tôi chỉ gặp nhau mấy ngày rồi chia tay, tôi lên đường trở về cố hương, Kha lên đường sang Yên với lời hẹn gặp lại, nhưng có lẽ không bao giờ chúng tôi còn gặp lại nhau nữa. Ngày ngày chúng tôi ngồi uống rượu bên sông chờ tin người đi, có lúc Tiệm-Ly hỏi tôi:

– Nếu hắn không về chúng ta phải làm gì?

– Đừng vội nghĩ đến điều đó. Tôi tin hắn trở về.

– Anh nghĩ vào đất Tần dễ vậy sao?

– Không, tôi không bao giờ nghĩ vậy, tôi không muốn nghĩ rằng hắn thất bại. Nay Tần đã diệt Hàn, chiếm Sở, lấn Triệu, quân Tần đã đến biên giới nước Yên rồi, nếu hắn thất bại thì không quá một ngày gót quân Tần đã tới đây, chúng ta nào còn được ngồi yên đây, Thái-tử Đan liệu có chạy thoát, cảnh huống nào người dân nước Yên phải chịu, và thân hắn liệu có còn hay đã tan thành muôn mảnh. Vào một đất Tần bất trắc hiểm nghèo tôi vẫn mong hắn có thể trở về được.

Chúng tôi chờ đợi từng ngày nhưng tin từ Hàm dương vẫn biệt tăm, không ai biết những chuyện gì đã xảy ra ở đó, quân Yên dưới quyền Thái-tử Đan đã được điều động để phòng bất trắc có thể xẩy ra, tôi nghe tiếng tiêu của Tiệm-Ly không còn hay nữa, thịt rượu không còn ngon miệng nữa, luyện lưỡi gươm trong bao nhiêu năm đến lúc phải dùng lại không dùng được, đêm đặt mình không sao nhắm mắt. Chợt một đêm kia chúng tôi nghe tiếng gọi cửa, khi ra tới nơi thì thấy Kha, tôi rợn người hỏi:

– Anh thác rồi sao?

Kha cười khan:

– Không đâu, sao anh tới muộn thế, nhưng không sao.

Kha đưa tay cho tôi cầm và biết Kha còn sống, Kha nói:

– Tôi về đây để gặp Thái-tử Đan. Tôi bắt sống được Tần Thủy Hoàng rồi.

Chúng tôi đều tưởng mình sống trong một giấc mơ, nhưng đó là sự thực, Kha nói:

– Tôi muốn nghe câu trả lời của Thái-tử Đan: giết được Tần Thủy-Hoàng rồi thì Thái-tử làm gì với nước Tàu này?

– Anh hãy thuật mọi chuyện cho tôi nghe.

– Tôi vẫn có ý đợi anh cùng đi, nhưng đợi mãi không được tin gì của anh, quân Tần đã lấy Triệu, Thái-tử Đan không còn kiên nhẫn được nữa khiến tôi phải lên đường. Tới Hàm-dương tôi phải mang tất cả vàng bạc đút lót cho kẻ sủng thần của Tần là Mông-Gia để được vào bệ kiến Tần Thủy-Hoàng, với cái đầu của Phàn Ô Kỳ và tấm địa đồ đất Đốc-căng chúng tôi vào bệ kiến vua Tần. Giữa chốn triều đình uy nghiêm, vượt qua bao nhiêu tầng canh gác Tần Vũ-Dương kinh sợ khiến suýt bị bại lộ, may sao con chủy thủ trong tấm bản đồ đã không lộ ra, một kẻ giết mướn làm sao đủ sức để giết được một kẻ như Tần Thủy Hoàng, tôi đứng lên sát tận ngai vàng dâng tấm bản đồ, thừa cơ cầm chắc lấy mũi nhọn túm lấy ngực vua Tần, cả triều đình kinh hoàng nhưng không ai có khí giới trong tay, lệnh vua Tần cấm không cho bất cứ ai mang võ khí vào triều, quân phía ngoài phải có lệnh vua Tần mới được vào, tôi rút lấy kiếm của vua đưa cho Tần Vũ-Dương ra lệnh cho các quan không được nhúc nhích, tôi kề mũi nhọn vào cổ vua Tần, ý tôi muốn bắt sống mang về Yên làm thịt cho hả lòng Thái-tử Đan, sau là moi gan hắn ra tế Phàn Ô Kỳ. Tôi hơi ngạc nhiên về thái độ bình tĩnh của Thủy Hoàng, hắn nói không ngờ trong thiên hạ còn có những dũng sĩ như anh, tôi nói đừng có nịnh ta, ta chẳng phải là dũng sĩ gì, ta là người đánh gươm rất dở, dù vậy những người trong thiên hạ như ta không thiếu, họ không chấp nhận được sự tàn bạo của nhà ngươi và chỉ vì vậy họ thừa can đảm liều mạng tới đây. Nhà ngươi không sợ chết sao? Tôi bảo nếu tôi chết sẽ có kẻ khác noi theo, cho tới khi nào giết được nhà ngươi. Vua Tần gằn giọng: thôi ta chịu chết, nhưng ta hỏi: giết được ta rồi nhà ngươi làm gì với nước Tàu này.

– Thế bây giờ hắn ra sao, anh chưa giết nó?

– Chưa, nhưng hắn ở trong tay tôi lúc nào mình muốn giết thì giết, có điều tôi muốn biết Thái-tử Đan sẽ làm gì với một nước Trung-hoa sau khi tôi đã giết hắn. Câu hỏi đặt ra không những cho Thái-tử Đan mà cho cả tôi lẫn anh, cho những ai không vì địa vị, không vì quyền bính mà chỉ hành động cho chính nghĩa, hành động vì đời sống hạnh phúc của dân chúng. Không chấp nhận sự tàn bạo của Tần Thủy-Hoàng, nhưng tôi cũng không chấp nhận một xã hội rối loạn phân tán, chia rẽ, một nước Trung-hoa hùng vĩ bị chia ra làm nhiều mảnh nhỏ cho mỗi kẻ hùng cứ một phương, lâu lâu kết bè kết đảng đánh lẫn nhau gây cảnh chiến tranh không bao giờ dứt, không thể chấp nhận để một nước Trung-hoa có văn hóa bị chia cắt ra từng vùng văn minh, lại để cho mình bị yếu hèn với sự đe dọa của mọi phương bắc. Bây giờ chính là lúc phải nghĩ tới việc thống nhất một nước Trung-hoa để đối địch với dân Mông cổ, mở lại ảnh hưởng ở miền Nam, như thế phải chấp nhận phá bỏ chế độ liệt quốc, đối với tôi việc giết Tần Thủy Hoàng không phải là điều quan trọng mà chính là phải làm gì sau khi đã giết hắn? Tôi đã bắt mang theo Tần Thủy Hoàng và giao cho Tần Vũ-Dương canh chừng trên đoạn đường từ Hàm-dương về đây, vua Tần đã giải thích cho tôi nghe những việc ông làm, hắn muốn làm những việc mà tôi đã nói với anh ở trên, thống nhất một nước Trung-hoa trong mọi lãnh vực …

Chỉ gặp chúng tôi trong một thời gian rất ngắn, chàng Kinh vội từ biệt để đi gặp Thái-tử Đan, sau một ngày trời chàng Kinh trở lại vẻ thất vọng, chàng nói: các anh phải sang Triệu đi, không thể ở đây được, tôi phải trở lại Tần. Tôi nói anh trở sang Tần làm gì, Thái-tử Đan đã trả lời anh ra sao, tôi phải sang Tần, tôi chưa thể trả lời anh được, còn Thái-tử Đan, thật đáng thất vọng, Thái-tử nói trả đất lại cho chư hầu, mỗi kẻ hùng cứ một phương, và nước Tần phải bị tiêu diệt. Không, tôi không chấp nhận một hành động như vậy, tôi phải trở lại Tần và hẹn lại các anh sau. Và Kinh Kha đã đi.

3.

Người lớn tuổi ngừng kể, gió núi thổi mạnh hơn, trên nền trời những vạt mây theo gió trôi qua mặt trăng có lúc bầu trời tối hẳn đi, khuôn mặt người bạn lạnh như một pho tượng dưới ánh trăng, dòng sông nước bạc vẫn lờ lững trôi. Tiếng thú rừng lạc lõng vẳng xa. Người lớn tuổi đứng lên:

– Mình phải đi thôi, mình phải ra khỏi vùng này trước khi trời sáng.

Người trẻ tuổi đứng lên theo:

– Rồi sau đó ra sao, chẳng lẽ câu chuyện lại ngừng lại ở đó, cái kẻ xưng tôi kia chắc chắn là người bạn mà Kinh Kha đã đợi để cùng sang Tần, trong Sử-ký Tư Mã Thiên có nói đến nhưng không cho biết đó là ai, trước tôi nghĩ là Cát-Nhiếp.

– Không phải Cát-Nhiếp, là một kẻ vô danh.

– Như vậy thì Thủy-Hoàng đâu phải là một kẻ tồi gì, nhưng tại sao sau đó hắn lại có nhiều hành động bạo tàn như thế. Thủy-Hoàng chết rồi, cho đến nay trải qua bao nhiêu thời đại mà tội ác của hắn vẫn được coi là kinh hoàng nhất trong lịch sử Trung-hoa, những tội ác không ai có thể bào chữa được, bao nhiêu kẻ đã chết ở Vạn-lý trường-thành, bao nhiêu kẻ sĩ bị chôn sống, sách vở của thánh hiền đều bị đốt, các chư hầu đều bị thanh toán, nếu quả Kinh Kha đã tha chết cho Tần Thủy-Hoàng thì Kinh Kha đáng là kẻ phải chịu trọng tội và ngày nay người ta sẽ không còn ca tụng Kinh Kha như một dũng sĩ nữa.

– Câu chuyện đâu đã dứt, để rồi tôi kể tiếp cho anh nghe, tại sao phải xây Vạn-lý trường-thành, tại sao phải chấm dứt sự chia cắt, tại sao phải đốt sách chôn học trò, chính là phải đặt mình trong hoàn cảnh của nước Trung hoa thời đó, lại đặt mình trong cương vị của Tần Thủy Hoàng may ra mới thấy được điều đó, phê phán lịch sử một thời phải đặt mình trong hoàn cảnh của lịch sử đó. Tôi hỏi anh, nếu bây giờ anh là người nắm vận mạng của nước ta anh phải làm gì?

– Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó.

– Anh cứ thử đặt mình vào trong một hoàn cảnh như thế.

– Không, tôi không thể đặt được, lớn lên với những ý nghĩ cao đẹp, nào giành lại độc lập, thống nhất, nào kiến tạo tự do hạnh phúc, ai cũng nói thế mà nay anh em giết lẫn nhau, tự do hạnh phúc chưa thấy đã thấy trại giam, đói khổ, độc lập chưa thấy đã thấy gót giày ngoại xâm, tôi chẳng cần giấu anh, ngày nay nhiều lúc tôi buồn chán ngã lòng, sức mình chẳng làm được gì, anh thấy đó, may mà anh với tôi không đến nỗi chết ở đây, nhưng rồi những ngày tới này ra sao?

Giọng người trẻ tuổi buồn buồn xúc động. Người lớn tuổi giọng vững vàng:

– Anh ít tuổi hơn tôi mà còn thấy vậy, nếu anh là tôi anh sẽ thấy còn đáng buồn hơn nhiều, nhưng đã nhận cho mình một trách nhiệm thì không có quyền được ngã lòng. Nhìn ra những khó khăn, những sự thật chắc chắn Kinh Kha cũng ngã lòng và chàng chắc không muốn mình là một kẻ sĩ nữa, chàng muốn là một kẻ thoát ra khỏi đời sống nhưng làm sao để sống một cách yên lòng với hạnh phúc nhỏ bé của mình trong giữa một cõi đời đầy những đau khổ, làm sao để ăn miếng cơm mà thấy ngon giữa những kẻ đói khát, làm sao để thấy mình ấm áp giữa mùa đông đầy những người không có tấm áo che thân, làm sao để yên lòng phiêu diêu giữa một xã hội đầy những nhà giam, những đàn áp, bóc lột, bị tước đoạt tự do. Làm sao để yên ngủ với những mộng đẹp triền miên khi đất nước khói lửa, khi ngoại xâm giày xéo, khi đất nước bị những kẻ vô đạo, bất nhân cai trị … Cũng như bây giờ tôi hay anh có đang nhiên mà ngồi nguyên được không? Chúng ta chống Tây để rồi nhận Tàu sao, chúng ta chống chế độ thực dân hà khắc để nhận chế độ độc tài đảng trị sao, chúng ta bằng lòng nhìn sự thay thế tinh thần quốc gia bằng một tinh thần quốc tế sao?… Bao nhiêu câu hỏi đặt ra cho mình, thất bại nhưng không được bỏ cuộc, tôi vẫn nhủ thầm với tôi như thế, mình còn nhiều cơ hội, dù thế nào cũng không thể ngồi yên được.

Hai bóng người yên lặng len lỏi trong lối đi hẹp, một con đường mòn luồn dưới những hàng cây rậm rạp, ánh trăng thấp thoáng qua những bóng lá.

– Còn câu chuyện chàng Kinh?

– Đoạn tôi vừa kể lại với anh là hai phần đầu của cuốn sách, tôi kể lại theo một người kể cho tôi nghe, chừng như tôi đã toát lược thêm đi một phần, tôi không phải là một người có tài kể chuyện, tiếc rằng anh không được nghe người anh cả của tôi kể, câu chuyện anh ấy kể trong một đêm cũng có trăng sáng như đêm nay trong chiến khu ở Vĩnh-yên, thời gian chúng tôi phải sống những ngày đêm dài nhất trong cuộc chống trả lại Việt-Minh, rồi anh thấy đó, chúng tôi thất bại, mỗi kẻ lưu lạc một phương, người anh cả chúng tôi sau đó đã bị giết một cách bí mật, có người không tin anh đã chết, nhưng tôi có nhiều bằng chứng để tin anh không còn lại với chúng tôi nữa. Tôi nhớ rõ khuôn mặt anh, tôi còn nhớ tiếng anh nói, giọng tha thiết, ấm, mạnh khỏe, tôi tiếc không nhớ hết và nói được cái giọng của anh ấy cho anh nghe, không bao giờ tôi còn được thấy lại anh, không bao giờ được nghe giọng nói đầm ấm thiết tha và đầy tin tưởng ấy nữa.

Hồi bấy giờ anh cũng ngừng câu chuyện ở lại đó, anh hỏi chúng tôi: nếu đã nắm được quyền lãnh đạo trong tay rồi chúng ta phải làm gì, anh nói chúng ta hành động không phải chỉ để hành động, chúng ta hành động để giữ lấy vai trò lãnh đạo, với quyền lãnh đạo chúng ta mới thực hiện được cuộc cách mạng chúng ta mong muốn, tạo dựng một xã hội chúng ta hằng mơ tưởng, chúng ta không hành động như một kẻ nổi loạn hư vô, chúng ta muốn tiến tới một đổi đời… Những điều anh ấy nói trong đêm trăng ngày nào vẫn còn văng vẳng bên tai tôi, không bao giờ tôi quên những điều đó, chính nó như ngọn đèn cháy mãi soi sáng cho tôi… Và sau đó anh kể tiếp câu chuyện chàng Kinh.

4.

Chẳng bao lâu Tần đã thu tóm thiên hạ về một mối, thống nhất luật lệ, cân đo, chữ viết, cải tổ toàn thể cơ cấu xã hội, thanh toán những kẻ chống lại chế độ, bắt dân chúng xây Vạn-lý trường-thành ngăn rợ phương bắc, cải cách điền địa… tạo thành một nước Trung-hoa hùng mạnh chưa từng có trong lịch sử. Nhưng những đau khổ mỗi ngày một chồng chất lên dân chúng. Chúng tôi đã rời khỏi ngay nước Yên khi chàng Kinh ra đi. Câu chuyện ngày nào còn như một giấc chiêm bao đối với chúng tôi, chúng tôi vẫn hỏi nhau có thực Kinh Kha đã bắt được vua Tần, có phải người hôm gặp chúng tôi thật là Kinh Kha hay chỉ là một hình bóng trong giấc mộng chúng tôi, chúng tôi hỏi nhau như thế nhiều lần nhưng không sao trả lời được. Chỉ biết sau đó ít ngày tin dữ từ Hàm-dương đưa về: Kinh Kha đã nát thân dưới lưỡi kiếm bạo chúa, đâu đâu cũng nghe nói tới chuyện chàng Kinh khi tiến lên dâng địa đồ đất Đốc-cang đã thừa lúc bất ngờ cầm con chủy thủ định giết vua Tần nhưng việc không thành, nhiều chi tiết trái ngược nhau được nói đến, có người nói tại Tần Vũ-Dương mất can đảm nên để lộ cơ mưu, có người nói vì chàng Kinh không biết đánh gươm, nhưng ai cũng cho đó là số trời không cưỡng lại được, dân chúng còn phải lầm than nên mưu toan của chàng Kinh bất thành. Có điều chắc chắn là sau đó không bao lâu vua Tần phái Vương-Tiễn mang quân sang Yên, thế quân như nước lũ, gót quân Tần đến đâu cỏ không mọc lên được, chưa đất nào bị giày xéo như đất Yên, chừng như vua Tần muốn trả cái thù của Kinh Kha, không đầy một năm thành trì của Yên đã lọt vào quân Tần, vua Yên nghe lời vua Đại-Gia rằng Tần chỉ căm giận Thái-tử Đan, nếu giết Đan dâng cho Tần thì sẽ tránh được chết, nhưng dù giết Đan vua Yên vẫn bị giết theo.

Tiệm-Ly như phát điên: phải trả thù cho hắn, trả thù cho những kẻ đã bị tàn sát, phải giết tên bạo chúa. Tôi nói thì giết tên bạo chúa nhưng sau đó… Tiệm-Ly kêu: hãy giết hắn đã rồi sau sẽ hay, nghĩ mãi rồi làm sao mà hành động, trông những việc hắn làm đó mà ngồi yên được sao. Chúng tôi sống chui nhủi, bôi mặt đổi tên để tránh sự lùng bắt của quân Tần vì từ sau khi bị mưu sát vua Tần đã cho lệnh lùng bắt những bạn hữu của chàng Kinh mà giết đi, Tiệm-Ly nương náu nơi nhà Tống-tử, nhờ tài thổi ống tiêu được tiến vào cung vua Tần, nhưng có kẻ nhận ra mặt nói cho Thủy-Hoàng biết, vua Tần tiếc tài cho khỏi chết, khoét mắt chàng bảo thổi ống tiêu, dần dần Tiệm-Ly được ngồi gần Thủy-Hoàng, chàng liền đổ chì vào ống tiêu, nhân lúc ngồi gần liền giơ ống tiêu đánh vua Tần nhưng không trúng, từ đó Thủy-Hoàng không bao giờ gần người ở các nước chư hầu nữa. Hai người bạn thân đều đã chết, còn lại người chủ quán thịt chó, chúng tôi lang bạt khắp nơi mong có ngày nhà Tần bị diệt.

Còn đâu tiếng tiêu của Cao Tiệm-Ly, còn đâu tiếng nói, khí phách một người vào đất Tần bất trắc với một mũi nhọn. Tôi cô đơn trong niềm bất lực đau đớn. Tôi không còn chàng Kinh nữa. Tôi tưởng tôi đã có trách nhiệm trong sự thất bại của chàng, nếu tôi đi được chắc tôi đã không để cho hắn sống.

Một ngày kia khi đang ở nước Hàn, lang thang ngoài chợ bỗng nghe tiếng gọi, tôi ngạc nhiên không nhận ra người trước mặt.

– Kha đây.

Tôi kinh hoàng nói:

– Tôi tỉnh hay mê vậy?

– Tỉnh, tôi thật đây.

Vừa nói Kha vừa nắm lấy tay tôi: Tôi đang đi kiếm các anh, khi tới Triệu thì tôi nghe Tiệm-Ly đã chết, tôi nghe ở Hàn có hàng thịt chó rất ngon, đoán chắc các anh ở đó, quả không sai.

– Hóa anh chưa chết, tôi không hiểu được. Sau khi anh đi chúng tôi hỏi nhau hôm gặp anh thực hay mơ, và cho đến bây giờ vẫn vậy, anh đã tha chết để cho hắn hành động như vậy sao?

Chàng Kinh lặng đi, chúng tôi trở về quán, nhìn thấy một chiếc ống sáo của Tiệm-Ly còn để lại chàng Kinh cầm lấy mà khóc:

– Tôi đâu nào sợ cái chết, giết hắn đâu phải là khó với tôi, nhưng chính là tôi đã nghe người, quả tôi không có mắt thấy được người.

Bây giờ chàng Kinh tóc đã có những sợi trắng, má đã nhăn, nhưng khí dũng vẫn còn cương cường. Trong cảm xúc nghẹn ngào Kha đã nói lại với chúng tôi:

– Chắc chắn sau này sử sách sẽ viết rằng: năm ấy, ngày ấy có một tay dũng sĩ tên là Kinh Kha đã mang một con chủy thủ vào đất Tần bất trắc mưu mô giết vua Tần nhưng việc không thành. Nào phải thế, như tôi đã nói hôm gặp lại các anh trên bờ sông Dịch đó. Giữa chốn triều đình nhà Tần, tôi đã tay trái túm lấy ngực hắn, tay phải áp con chủy thủ vào cổ hắn, tôi muốn mang hắn về Yên cho Thái tử Đan hài lòng, sau là moi gan hắn mà tế anh linh của Thầy Điền-Quang, Phàn tướng quân, tôi cũng muốn như Tào Mạt xưa kia bắt hiếp Tề Hoàn-Công ký giấy trả đất cho chư hầu. Tôi nghe hắn hỏi tôi: nhà ngươi sẽ làm gì với một nước Trung-hoa này, ta không muốn chết một cách ân hận. Lật bỏ một chế độ là người ta muốn có một chế độ tốt đẹp hơn. Xô đổ một ngai vàng là để lập một ngai vàng mới, nhưng ngày nay ai là kẻ đáng mặt lên ngôi? Tôi so sánh giữa hai chế độ: những ngày đầu tiên trong chế độ nhà Tần và tình cảnh Trung-hoa trong chia cắt, phân tán, mỗi kẻ hùng cứ một phương tác oai tác quái, nỗi khốn khổ của dân chúng kéo dài quá lâu. Tôi không muốn thấy mãi một tình trạng tranh chấp liên miên, không muốn thấy một thời liệt quốc mới. Tôi muốn có một nước Trung-hoa thống nhất, một nền cai trị mạnh, hữu hiệu, sáng suốt. Thủy-Hoàng nói với tôi cũng muốn vậy đó là lý do khiến ông tiến tới thống nhất Trung-hoa, phá bỏ các chư hầu. Chúng tôi thảo luận với nhau và tôi đồng ý tha chết cho Tần Thủy-Hoàng để cùng nhau bàn kế hoạch, chúng tôi làm việc hoàn toàn bí mật: phải thống nhất một nước Trung-hoa, phải thay đổi hẳn căn bản xã hội, phải làm lại hết cả…

– Anh đã đồng ý để chôn học trò, đốt sách?

– Từ sau thời Thầy Trọng-Ni tư tưởng của Thầy đã bị không biết bao nhiêu kẻ làm sai lạc, sách vở nhảm nhí không biết bao nhiêu, để những sách ấy tôi hỏi anh di hại biết đến bao giờ. Phải chỉnh lại văn hóa, cuộc sống chỉ yên vui được khi xã hội chỉ sống với một tư tưởng, một cuốn sách cho một chân lý, một lẽ phải. Còn chôn sống học trò thì không đúng, giết hết những người có học thì lấy ai để điều khiển guồng máy cai trị. Nhưng không thể dung túng những tên khuyển nho những kẻ có học mà sống xa nghĩa sách thánh hiền, học ba chữ thánh hiền chưa vỡ mà tưởng mình đội đá vá trời được, muốn nước hùng mạnh xã hội trật tự cuộc sống hạnh phúc thì phải chôn đi những kẻ không chấp nhận sự tiến bộ, chôn đi những kẻ mãi mãi muốn duy trì địa vị quyền lợi của mình.

– Anh chấp nhận để xây Vạn-lý trường-thành bằng xương máu của người dân?

– Chúng tôi nhân danh sự bền vững muôn đời, sự sống còn của nước Trung-hoa mà xây trường thành. Muốn có đời sống buộc mọi người cùng nhau đóng góp hy sinh… Nhưng thôi anh đừng hỏi tôi nữa, tôi là một kẻ có tội, tôi cũng đã bị phản bội… Mộng tưởng của tôi chỉ là ảo tưởng, Tần Thủy-Hoàng đã đổi thay, Hoàng-đế nhà Tần ngày nay không phải là kẻ mà xưa kia tôi đã tha chết cho hắn.

– Vậy ai đã chết thay cho anh?

– Như tôi đã nói đó, tôi thất vọng với Thái-tử Đan nên đã thấy Tần Thủy-Hoàng có lý, chúng tôi cộng tác với nhau, Thủy-Hoàng nguyện thi hành những kế hoạch tôi đã đề ra, để cho vua Tần có thêm uy thế chúng tôi vẽ ra cái chuyện Kinh Kha nát thây dưới lưỡi kiếm vua Tần. Nhưng ai ngờ khi đã thu thiên hạ về một mối, dẹp tan các chư hầu, ổn định được tình thế thì vua Tần thay lòng đổi dạ. Khi đã thống nhất được giang sơn, diệt hết các địch thủ hắn không còn nghĩ tới lý tưởng tới đất nước nữa, hắn nghĩ tới hắn, hắn nghĩ tới trường sinh bất tử, tôi biết tôi đã bị phản bội, không làm cách gì khác hơn là bỏ đi.

Chàng Kinh lấy ra con chủy thủ mỉm cười:

– Anh nhớ cái này không?

– Nhớ.

– Nó nguyên là của Từ Phu-nhân nước Triệu, lúc trước Thái-tử Đan mua với giá một trăm lạng vàng, đã được tẩm thuốc độc, tôi còn giữ nó đây và đi tìm các anh. Bây giờ mình phải bắt đầu lại, bắt đầu lại trong khó khăn, thiếu vắng bạn hữu và một chế độ đã được củng cố… Xưa kia cầm con chủy thủ vào một đất Tần bất trắc tôi chỉ nghĩ tới lúc giết được bạo chúa, nhưng nay cũng với con chủy thủ này vào một đất Tần bất trắc gấp trăm lần tôi nghĩ tới một xã hội sau khi đã giết được bạo chúa, điều đó khiến tôi yên tâm hơn, nhất nữa nay tôi không phải vào đất Tần với một tên giết mướn mà vào đất Tần với anh…

5.

Hai người dừng lại, người đứng tuổi ngồi xuống một cành cây, trăng đã ngả xuống, ánh sáng đục hơn, trước mặt họ con sông vẫn lờ lững chảy, người trẻ tuổi nhận ra họ đã đến một bến sông, hai bên bờ sông có mấy quán lá xơ xác, không một bóng người, dưới bến có một chiếc thuyền cột vào một gốc cây. Người lớn tuổi nói:

– Người kể câu chuyện cho tôi nghe đã dừng lại ở đó. Tôi hỏi rồi sau đó ra sao? Người anh cả trả lời: không biết, tôi chỉ thấy cuốn sách hết ở đấy. Còn sử chép: Thủy Hoàng chẳng hề bị giết mà sau chết vì dư máu, như thế có nghĩa rằng chàng Kinh Kha kia đã thất bại, nhưng đó đâu phải là kết luận của cuốn sách.

Người trẻ tuổi tư lự:

– Tôi cho rằng đây là huyền thoại do một người nào đó tạo ra để gửi gắm tâm sự của mình. Lịch sử còn chép rành rành ra đó.

– Anh tin sử ký đều là sự thực?

– Chẳng lẽ nó đều là những điều dối trá sao?

– Tôi không nói vậy. Đó là sự thực theo một con mắt nào đó. Anh cũng đã từng tham dự vào một số những biến động lịch sử trong những ngày gần đây, anh đã biết những vụ Ôn Như-hầu, Cổ-am, Vĩnh-yên… vô phúc lịch sử lại được viết bởi những người vừa bỏ tù chúng ta thì anh sẽ thấy, có khi chúng ta còn được gọi là những kẻ phản quốc nữa. Những người sau này đọc còn biết đâu là sự thật. Nếu những người đã chết đều đội mồ mà sống lại được thì chắc lịch sử còn được làm sáng tỏ nhiều uẩn khúc. Có thể câu chuyện chàng Kinh tôi vừa kể với anh chỉ là một huyền thoại, nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn tin rằng một kẻ như Kinh Kha đâu chỉ hành động để hành động hay hành động để lấy chết.

Hai người im lặng theo đuổi những ý nghĩ riêng, họ đưa mắt nhìn lơ đãng xuống bến sông mơ hồ trước mặt, mấy quán lá quạnh hiu trong màn sương đục, bên kia sông lờ mờ hình bóng những lũy tre mỏng đi như nét bút vờn nhẹ trong bức tranh thủy mạc đã lâu đời. Người lớn tuổi nói:

– Chúng ta phải chia tay nhau thôi.

– Sao vậy?

– Nơi chúng ta đang đứng đây người ta gọi là vùng tự do hay vùng giải phóng; còn bên kia sông được gọi là vùng địch hay vùng tề. Muốn cộng tác với Pháp thì qua sông, muốn sống trong giam hãm, đày đọa hay chết thì ở lại đây. Anh thấy chưa, bây giờ đâu phải là thời của Kinh Kha, còn Kinh Kha thì Kinh Kha cũng bó tay. Bây giờ có nhiều đất Tần bất trắc, nhiều Tần Thủy-Hoàng, nhiều sông Dịch phải vượt qua… Chiến sĩ một đi không trở lại, tôi không chấp nhận quan niệm ấy, lên đường là phải nghĩ đến ngày trở về, nhưng đó lại là chuyện khác, bây giờ anh qua sông hay ở lại?

– Còn anh, anh lựa chọn đường nào?

– Tôi từ chối lựa chọn cả hai con đường ấy. Ai buộc chúng ta phải chấp nhận những con đường có sẵn?…

.

(1962)

Dương Nghiễm Mậu

(Văn số 58 ngày 15/5/1966)

Nhân nghĩ về Khái Hưng

Duong-Nghiem-Mau

Dương Nghiễm Mậu

Khái Hưng đã chết như thế nào? Từ rất lâu, mỗi lần gặp lại tên Khái Hưng, tôi lại nghĩ đến điều đó và cùng lúc tôi vẫn muốn biết Khái Hưng, cùng Tự-lực văn-đoàn,cũng như tất cả những người ở thế hệ Khái Hưng đã làm cách mạng như thế nào, họ đã nghĩ gì, làm gì. Họ đã hoạt động trong giai đoạn kháng chiến giải phóng dân tộc ra sao?

Tại sao Cộng sản thủ tiêu Khái Hưng? tôi nhớ câu thơ ấy của Thanh Tâm Tuyền. Khái Hưng đã bị thủ tiêu, điều ấy đã chắc. Hồi còn nhỏ ở Hà-nội, đọc một tờ tuần báo vào khoảng năm 1950 gì đó tôi có được thấy trong một thiên hồi ký, không nhớ tên tác giả, không nhớ rõ tên thiên hồi ký, tôi chỉ nhớ thiên hồi ký mô tả lại những ngày tù tội của các chiến sĩ quốc gia bị V.M. bắt giam, trong thiên hồi ký có một đoạn tác giả cho biết đã gặp Khái Hưng trong một trại giam ở Việt Bắc, tác giả cho biết lúc đó Khái Hưng ốm yếu, bị đi kiết vì bị hành hạ và cuộc sống đầy ải của nhà tù, rồi Khái Hưng chết ở đây, những chiến sĩ quốc gia, những bạn của Khái Hưng đã đẵn tre làm phên quấn xác Khái Hưng thay quan tài và an táng trong một khu rừng ở Đại-từ, những điều này tôi nhớ mơ hồ lắm và cùng đó hình như tác giả còn nói ngày Khái Hưng chết là 17-11 năm 1947. Tôi không nhớ rõ, nhưng trí óc tôi còn mường tượng nên viết ra, nó không nhằm cung cấp chính xác một tài liệu, mà tôi chỉ muốn ghi lại những điều mà trong tâm tưởng tôi hai chữ Khái Hưng vẫn có lúc nhớ đến.

Trong thời gian làm tờ Văn Nghệ tại nhà in ở đường Cô Bắc tình cờ tôi được nghe truyện về Khái Hưng, người nói chuyện giới thiệu là một người cháu về đằng bà Khái Hưng, người này nói chính ông đã gặp Khái Hưng lần cuối vào ngay buổi chiều cán bộ V.M. bắt Khái Hưng dẫn đi, bọn cán bộ này là một thứ du kích tự vệ xã, Khái Hưng mặc quần áo thường, mang theo một chiếc chăn dạ màu cứt ngựa, người kể truyện gặp Khái Hưng ở đầu làng, Khái Hưng có nét mặt rầu rầu buồn bã mỉm cười và giơ tay chào. Sau đó, người nói chuyện bảo dù rất kín, mấy tên du kích đã lộ ra rằng họ bỏ Khái Hưng vào bao bố đâm chết rồi quăng xuống sông.

Không hiểu ngoài những điều mơ hồ, không có gì làm bằng chứng kia, còn có những điều nào khác được kể về cái chết của Khái Hưng? Có điều Khái Hưng đã chết. Khái Hưng đã chết thực và tác phẩm cuối cùng của Khái Hưng -theo như ghi chép- để lại cho chúng ta là tác phẩm Băn khoăn, trước khi Khái Hưng bước vào đoạn đường tranh đấu cách mạng cùng các bạn, cùng toàn dân để giải phóng dân tộc và Khái Hưng đã chết trong cuộc tranh đấu đó.

Nghĩ về cái chết của Khái Hưng, cùng lúc tôi nghĩ đến cái chết khác của các chiến sĩ quốc gia kéo theo sự thất bại của những người quốc gia trong lúc đối đầu với  Cộng-sản, tôi muốn tìm hiểu và rút ra từ đó những nguyên nhân đưa đến hoàn cảnh lịch sử đương thời mà với chúng tôi buộc phải có trách nhiệm. Trở về khung cảnh, những hoạt động của sau năm 1901 khi Đông-Kinh Nghĩa-thục phải ngưng hoạt động, sau năm 1924 chiến khu Yên-thế của Hoàng Hoa Thám bị tan, sau năm 1930 Nguyễn Thái Học bị chết ở Yên-báy, Tự-lực văn-đoàn với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ … hoạt động trên mặt trận báo chí, văn chương không phải chỉ là để làm báo, làm văn chương, mà những công việc của nhóm đã chứng minh rõ, họ chỉ dùng văn chương báo chí để hoạt động cách mạng, hay nói khác đi, nhẹ hơn, đúng hơn dùng văn chương báo chí cho một vận động cải cách xã hội theo tinh thần Tây-phương. Những gì đã được viết ra trên báo Phong Hóa, báo Ngày Nay, cùng các tác phẩm đã minh chứng điều này. Sau bao nhiêu năm bế môn tỏa cảng, người Tây-học, người trí thức mới của thế hệ 1930 đã nhận thấy sức mạnh của Tây-phương, cụ thể là nền đô hộ của người Pháp, người trí thức mới nhận ra sự bại trận, nô lệ của mình: xã hội ta lạc hậu, tinh thần Nho-giáo suy đồi, hủ lậu, dân ta cực khổ thất học, với quá nhiều tệ đoan, mê tín. Họ thấy rõ muốn thoát cảnh lệ thuộc trước hết phải nâng cao dân trí, cải cách xã hội. Và họ đã làm. Các tác phẩm văn chương của Tự-lực văn-đoàn đã đóng một vai trò lớn trong công việc này: mô tả tranh chấp mới cũ, đề cao đời sống mới. Trên căn bản chấp nhận tinh thần tự do, dân quyền của những nhà tư tưởng đã làm thành cuộc cách mạng tư sản 1789 của Pháp. Lý thuyết gia chỉ đạo của Tự-lực văn-đoàn là Hoàng Đạo đã viết: Mười điều tâm niệm, Nhất Linh đã viết Đoạn tuyệt, Khái Hưng đã viết Nửa chừng xuân. Trên phương diện xã hội đã đưa ra phong trào Ánh Sáng. Sau cùng Tự-lực văn-đoàn thành đảng Hưng Việt hoạt động cách mạng, kéo liền theo đó, Khái Hưng chết. Nhất Linh bỏ ghế bộ trưởng chạy sang Tầu, Hoàng Đạo chết ở Tầu, Tú Mỡ, Thế Lữ ở lại với Cộng-sản, còn một mình Nhất Linh bơ vơ, lạc lõng ở Miền Nam đề cao văn chương vượt thời gian không gian, và với chính bản thân chọn cái chết chống lại chế độ Ngô Đình Diệm.

Suốt một lịch sử kéo dào ba mươi năm, trong đó liên tiếp 20 năm chiến tranh trên quê hương chúng ta, nếu đổ tội cho cái vận nước mình khốn khổ, khốn nạn thì không nói làm gì nữa, nhưng nói đến trách nhiệm của những ai tự nhận như một chiến sỹ quốc gia thì chúng ta phải nhận chúng ta đã thua, chúng ta phải chịu trách nhiệm nghiêm khắc với hiện tình, và từ đó phải nhận định: từ những vận động của thế hệ 1930, qua cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đến nay, cuộc cách mạng phải có của chúng ta vẫn chưa chấm dứt, vì chúng ta vẫn chưa có một mẫu người mới, một xã hội mới được xây dựng trên một ý thức hệ Việt mới. Có phải tôi đã nói lông bông lang bang, vì tôi đang viết những gì về Khái Hưng không? Có thể phải mà cũng có thể không vì tôi đã nghĩ đến nó khi nhớ lại những điều Khái Hưng đã viết, và cái chết của Khái Hưng để lại cho tôi. Và vì tôi, chính tôi, đang có những vấn đề đặt ra: văn chương với xã hội, văn chương với cách mạng, sự liên hệ của người cầm bút với xã hội, quê hương và nhất nữa khi đặt mình là nhà văn tôi phải làm gì? Có văn chương nghệ thuật thuần túy không?

Trong số các tác phẩm của Khái Hưng, cuốn được ghi cuối cùng là Băn khoăn, cuốn sách hình như đã được viết ngay vào lúc đầu những hoạt động cách mạng của tác giả cùng với lúc Nhất Linh viết cuốn Bướm trắng. Tôi vẫn tự hỏi: tại sao giữa tác phẩm và đời sống tác giả lại không có một chút liên hệ nào như vậy. Tại sao Nhất Linh và Khái Hưng lại viết được hai tác phẩm thuần túy như thế vào giữa lúc họ bắt đầu hoạt động cách mạng. Có thực Băn khoăn và Bướm trắng đã được viết lúc ấy hay đã viết từ trước mà mãi lúc đó mới in ra?

Hơn nữa Nhất Linh đã viết Đôi bạn, và tôi nhớ có đọc được một vài số báo nào đó Khái Hưng viết truyện Xiềng xích rõ ràng là những tác phẩm liên can mật thiết đến tư tưởng và đời sống tác giả trong xã hội đương thời ấy.

Có hai tác phẩm của Khái Hưng tôi lưu giữ mà với chủ quan tôi cho là quan trọng và giá trị là Tiêu-sơn tráng sĩ và Băn khoăn. Cuốn trên tôi thích có lẽ một phần vì nhân vật Phạm Thái, một nhân vật vừa là chiến sĩ, vừa là tu sĩ, vừa là nghệ sĩ mà Khái Hưng đã làm sống lại được, còn cuốn sau, tôi cho đó là một tiểu thuyết rất mới của thời đó, và cho đến bây giờ nữa về nội dung đã cho tôi một phần nào lý do sự thất bại của những trí thức mới trong giai đoạn lịch sử vừa qua.

Băn khoăn của Khái Hưng muốn nói là “băn khoăn” của ai? Của Cảnh chăng? Cậu sinh viên trường luật học giỏi đã hai mươi nhăm tuổi đang yên ổn học hành… nhưng sang năm thứ ba một hôm như chợt lởn vởn trong đầu chàng câu hỏi: “Học để làm gì, và đỗ để làm gì?” Rồi câu hỏi trở thành ám ảnh dòng dã hàng tháng, ám ảnh kỳ cho tới khi nẩy ra câu trả lời mới thôi. Câu trả lời ấy là: “Học để chẳng làm gì ráo. Đỗ cũng chẳng ích lợi gì cho chàng, cho tương lai của chàng.” Rồi chàng lý luận ầm ỹ trong thâm tâm để tìm nguyên tắc, quan niệm, ý nghĩa của sự sống, của đời mình. Luận lý cho tới lúc đến một kết cục chán nản, đau đớn. sống không mục đích, đời là vô vị[if !supportFootnotes][1][endif]. Cảnh không học nữa, và mới bắt đầu một cuộc phiêu lưu, dấn mình vào cuộc sống chơi bời. “Muốn thì được” Cảnh thường nói. Mà khi người ta giàu như Cảnh thì người ta lại càng dễ được cái người ta muốn. Vì thế mà ngay đêm hôm ấy Cảnh đã trở nên tình nhân người yêu của bạn. Khi đã phạm tội, hai người ngỏ với nhau những ý riêng caủ mình rồi ôm nhau cười ngất.

Liên bảo Cảnh:

– Đối với bọn chúng ta chả còn cái gì chúng ta cho là thiêng liêng nữa.

Cảnh lạnh lùng:

– Rõ em khéo nói kiểu cách!… Và ở cái thời gian khoa học này, đến thần thánh cũng đã mất hết thiêng liêng đối với lòng tín ngưỡng thành kính của người đời, thì còn cái gì đáng gọi là thiêng liêng nữa. Họa chăng chỉ có cái tính xác thịt, cái thú vui hiện tại đáng gọi là thiêng liêng cho một cái gì. Rồi Cảnh yêu Lan Hương, rồi yêu Hảo, ăn chơi, đánh bạc, bán cả nhà của bố cho, sau chót bỏ đi, đi đâu, phải chăng đó là cái “băn khoăn” Khái Hưng muốn nói?

Hay cái “băn khoăn” đó là cái “băn khoăn” của ông Thanh Đức, xuất thân từ một gia đình buôn bán, cai thầu, kinh doanh, và ông đi theo con đường ấy, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến tiền, đến mỏ, đến đồn điền, cho ngay tới khi đang đánh bạc với một người tình mà ông đã say đắm theo đuổi nghe nói đến cơ hội làm giàu cũng rũ áo đứng lên ngay. Hoằng, người đang ngồi cùng chiếu bạc đã phê phán: “Kim tiền! Trời ơi! Kim tiền! Kim tiền làm cho người ta quên hết ghét, yêu, thù, tức để chỉ nghĩ đến nó, chỉ nhớ đến nó, chỉ chạy theo một nó. Kim tiền vạn tuế! Sống mãi trong xã hội này, thì một ngày kia tôi điên thật. Chừng như với ông Thanh Đức tiền có thể mua được tất, mua người này một đêm, mua người kia một đêm, mua nhà, mua mỏ, mua nhân nghĩa danh vọng. Như vậy ông Thanh Đức “băn khoăn” cái gì, “băn khoăn” vì không lấy được Hảo chăng?

Hay cái “băn khoăn” đó là “băn khoăn” của Hảo, con gái độc nhất của bà án, giàu có, trẻ đẹp, 20 tuổi sống một cuộc đời nhung lụa với bên cạnh vô số bậc thượng lưu trí thức, vô số thanh niên tân học tán tỉnh, một người mà bố con Thanh Đức cùng yêu, cùng muốnchiếm đoạt mà cuối cùng lại lấy một người khác. Phải chăng “băn khoăn” bày tỏ tâm trạng lưỡng lự khi lực chọn trước vô số người trước mặt mình của Hảo?

Ba nhân vật Cảnh, ông Thanh Đức, cô Hảo là chính trong câu chuyện “băn khoăn” của Khái Hưng. Thời gian của tác phẩm ngắn ngủi, khởi đầu từ lúc có tin ông Thanh Đức muốn tục huyền cho tới khi cô Hảo, người con gái mà ông Thanh Đức theo đuổi, báo tin lấy ông huyện Tô thì chấm dứt.

Khung cảnh xã hội “một đời nhiễu loạn, vô gia đình giáo dục, vô gia đình luân lý, đưa thanh niên đến nhận định “sinh ra ở đời để mà sung sướng, để mà thỏa mãn, chớ không phải để khổ sở; để than phiền, hay để theo đuổi một mục đích viển vông nào. Khung cảnh của một xã hội thượng lưu với rượu, với cà-phê rum ngây ngất, với những canh bạc không nghĩ đến ăn thua; với một phút quyết định đã đủ phương tiện để rời Hà-nội đi Sầm-sơn tắm biển, rồi từ Sầm-sơn đi Hải-phòng coi chớp bóng, ngủ với gái, với sinh viên luật thấy chẳng cần phải thi đỗ, với bác sĩ có bịnh viện giao cho người phụ trông nom, với những cô gái mà tất cả các bạn đều là tình nhân chung chăn chung gối, chán người này đổi người khác, một xã hội mà ngay trong đó đã có người phán xét… “thấy đám thanh niên sống không mục đích, hay với mục đích độc nhất là sự chơi bời phóng lãng thì em ghê sợ… cho họ quá, và tiếc cho họ nữa… Những bực thanh niên trí thức như anh Đoan em mà chịu khó làm việc, làm việc với lòng tín ngưỡng thì… hay biết bao, có ích cho đồng bào biết bao?

Những nhà luân lý đã từng nói đến những truyện của Sagan thời hậu chiến vô luân, mà có ai nhớ đến rằng, chính đời sống vô luân, cảnh chồng chung vợ chạ, cảnh đề cao thú vui xác thịt đã có trong tác phẩm Khái Hưng từ thời tiền chiến ở Việt Nam.

Trình bày câu chuyện Băn khoăn của Khái Hưng tới đây, tôi ngưng lại để trở về nhận định tôi đã đưa ra: vì sao người trí thức Tây-học đã thất bại trong giai đoạn vừa qua khi lãnh đạo tranh đấu.

Lớp trí thức mới sinh ra sai khi tinh thần Văn-Thân khởi nghĩa đã hết, sau khi lớp trí thức Nho học đã tàn, và người Pháp đã mang văn hóa Tây-phương vào đào tạo một lớp người mới. Từ tình thế lụn bại của tinh thần quốc gia đó, người trí thức Tây-học chạy theo ngay, hạ bệ cái cũ một cách tàn tệ, kịch liệt, và cái mới chói lòa trước mắt làm họ không nhìn thấy gì nữa. Họ du nhập đơn phương, không lựa lọc, không nhìn chính vào mình. Họ lên án nhà Nho câu nệ khuôn bó theo Khổng-học, thì chính họ lại bước theo con đường đó để đến với Tây-học, và tạo ra một lớp trí thức mất gốc, rơi vào cái thực trạng mà cuốn Băn khoăn của Khái Hưng đã phản ảnh. Với lớp người như thế, với tư tưởng như thế, họ làm sao không thất bại, phải chăng, đó chính là điều “băn khoăn” của Khái Hưng?

Lỗi lầm của lớp trí thứ Tây-học từ ngay lúc đầu đã gây ra, đưa đến hiện trạng này, và ngày nay,lớp thanh niên mới,với bài học cũ của lịch sử, đã nhận ra chưa trách nhiệm của mình từ ngay trên căn bản tư tưởng trong cuộc dấn thân mà họ phải thực hiện. Hay họ đang tiếp tục đi trên con đường mòn nối dài khi xưa mà họ cố tình làm ngơ như không biết?

Nhưng tôi vẫn tự hỏi: vì sao giữa lúc bước chân vào cuộc tranh đấu cách mạng mà Khái Hưng lại viết được Băn khoăn? Không hề có ảnh hưởng giữa đời sống và tư tưởng tác giả với tác phẩm sao?

Dương Nghiễm Mậu
11-1964
Văn, số 22, ngày 15-11-1964, trang 33-39

Lấy Máu

duong-nghiem-mau

Dương Nghiễm Mậu

Tôi buồn nản bảo Năm Sàigòn:

– Cứ thế này mãi sao? Đến lúc anh phải đổi cách khác đi, nó quen thuộc quá rồi, người ta chẳng thèm ngó lại nữa đâu, cả đến trẻ con nữa.

– Làm những gì nữa?

Năm Sàigòn chẳng thèm ngó, hắn cúi lom khom để khoảng lưng lớn vòng lên, tay nhặt chồng ống bơ sữa bò ném loảng xoảng vào cái bao tải, tôi thu nốt cái chậu thau xóc những đồng hào kêu lẻng xẻng. Năm Sàigòn lấy tay phủi bụi, háp miệng thổi thổi vỉa hè rồi xoay người ngồi xuống, hắn móc túi lấy hộp thuốc lá đã đen sì đưa ngón tay chấm nước bọt dính lấy một tờ giấy cuộn điếu thuốc tổ sâu để lên miệng bặt diêm châm hút, hắn thở ra hơi khói đầu dài một cách khoái trá.

Tôi thấy buồn nản nhỏ bé vô tri nằm trước mặt, ống bơ, chậu thau, đống thuốc bao bạc, thuốc đau răng hiệu Con Bướm và mấy cuốn sách làm trò ảo thuật. Tôi cảm con búp bê bẩn thỉu đầu đội chiếc khăn đỏ – “ông thần” của Năm Sàigòn sai khiến mỗi khi làm trò mua vui – lúc này chẳng còn cái vinh dự đứng ngang nhiên hách dịch, cử động trên bàn tay thô bạo và vạm vỡ của hắn.

Tôi ân hận, mối ân hận và tiếc một cái gì – có phải chiến tranh đã bắt tôi sống như thế này không? Hay một số mệnh nào đó, điều này tôi không thể hiểu được. Nhưng có một điều dù tôi muốn sống với người khác tôi cũng không thể làm theo ý mình, rời Năm Sàigòn chắc chắn tôi chết đói, tôi nhớ lại hôm mẹ tôi chết. Đã hơn ba tháng rồi, mẹ tôi bị đạn trong một trận càn quét rồi được đưa ra nhà thương Phủ Doãn để cứu chữa, nhưng vô hiệu, viên đạn nằm hai ngày trong mạng mỡ, đến khi mổ để lấy ra mẹ tôi cũng vừa chết, ở Hà Nội lạ nước lạ cái, chẳng quen thuộc một người tôi chỉ còn biết vuốt mắt mẹ tôi thẩm thì: “Tại sao mẹ bỏ con, con sẽ sống với ai? Làm sao con về được nhà”. Những điều ấy mẹ tôi không nghe, không trả lời và tôi cũng không biết nói với ai. Tôi ngồi ở nhà thương, bên xác mẹ tôi cho đến khi có một chiếc xe đến khuân những xác không có ai nhận chôn cất. Tôi không hiểu họ sẽ chôn như thế nào, họ sẽ đào một hố lớn rồi đổ xuống đó là xong? Thật không thể biết được. Sau đó tôi ra ngồi ở cổng nhà xác bên những hàng cắt tóc che bạt, kê một chiếc ghế ngoảnh vào một tấm gương treo vào tường.

Tôi ngồi đó ngó những đám ma đi ra có tiếng khóc, tiếng kèn đưa tiễn, tiếng kêu gào. Tôi ngắm nghía những vòng hoa, những cờ đen, đôi trướng bay phấp phới. Tôi nghe tiếng khóc để mình khóc tấm tức trong họng không nước mắt, tôi chẳng biết tìm cách nào để lấy cái ăn vào miệng ngoài việc ngồi ngó những bát cơm đầy cắm đôi đũa bông kẹp ở giữa một quả trứng – tôi muốn được bưng bát cơm đó mà ăn – nhưng khó quá. Cho đến lúc không thể chịu được nữa, tôi xô đến quờ mạnh lên, bát cơm đổ theo, và người ta cũng vừa chụp được tôi mà đánh cho một trận nên thân. Tôi nghĩ: sao tôi không có bát cơm đó. Mấy hôm sau tôi mới tìm được một chút đồ ăn, tình cờ tôi ngó thấy một chiếc xe bò đen đậu ở nơi cổng nhà xác, có một người gánh từng gánh cơm ở trong nhà thương đi ra đổ vào những chiếc thùng để trong xe.

Tôi mừng rỡ tới bốc mà ăn – cơm đã có mùi thiu, nát nhẽo – họ thầu về cho lợn ở ngoại thành ăn thì phải, mỗi ngày tôi chờ đợi để được ăn một bữa như vậy rồi tôi về ngồi ở mái hiên ngõ Chân Cầm, cạnh một đăngxinh mà ngủ. Một hôm tôi ra ăn cơm như mọi khi thì bị người gánh đuổi không cho ăn. Hắn ta quát lớn: “Mày ăn cho tao sạt nghiệp à – đồ chó đói” Tôi nhoẻn miệng cười cho đỡ buồn và hắn đuổi đi không cho ăn. Tôi ngồi ở vỉa hè mút những ngón tay nhớp nhúa. Tôi thấy có một người đứng lại ở đằng sau, tôi ngoảnh lại. Hắn nói: “Mày có muốn được tao nuôi không?” – “Thưa ông con đang chết đói”. Hắn rủ tôi về một căn nhà đổ nằm ngay nơi ngõ Hàng Hành, trong một xó bếp chưa đổ hẳn, là nơi hắn cư ngụ – người đó chính là Năm Sàigòn đang ngồi trước mặt tôi đây.

Tôi ở với hắn và làm những việc rất kỳ cục – việc trước tiên là hắn mang tôi vào nhà tắm công cộng ở Ngõ Gạch cùng với hắn tắm cho sạch, hắn kiếm một nút rơm mà kỳ cọ cho tôi, hắn vứt bỏ quần áo rồi đưa cho tôi một cái áo của người lớn đã cắt cho ngắn bớt, tôi mặc lụng thụng, và một cái quần lót đen – chắc là của chính hắn. Mái tóc tôi dài quá mang tai nhưng hắn để nguyên mà ngắm nghía miệng kêu “Được! Được!”. Hắn nhận là “Năm Sàigòn” và bắt chước giọng nói trọ trẹ. Mỗi ngày hắn mang tôi đi theo bán thuốc ở bờ Hồ hoặc ở các chợ. Đồ nghề của hắn được thu trong một cái bao tải: nào ống bơ, que, vải đỏ – và thuốc giun, đau răng. Hắn cho tôi cầm cái thau đồng và một cái que, trước khi đi hắn bôi vào gò má tôi một chút phẩm đỏ tròn như hai đồng tiền trinh, hắn đội cho tôi một chiếc mũ bằng giấy cao như tụi hề vẫn đội.

Mỗi lần tới chỗ đất rộng hắn trải ra một tờ báo bày ra những thứ đó, tôi đi quanh gõ lớn chiếc thau đồng, hắn lăng xăng vỗ tay miệng lặp đi lặp lại – “Bà con cô bác ghé lại, ghé lại coi trò quỷ thuật, vô cùng lạ lùng hấp dẫn của chú Năm Sàigòn. Chưa bao giờ có! Chưa bao giờ – ê các em ngồi xuống, rộng ra và yên lặng để coi…” Tôi gõ chiếc thau nhăn nhở cười, pha trò theo hắn dạy, nào trồng cây chuối, nhào lộn cho mọi người tụ lại – khi đông hắn làm trò rồi bán thuốc – tôi đưa thuốc cho người nào hỏi và chìa chiếc chậu thau đồng cho người ta bỏ tiền vào đó.

Chúng tôi kiếm chẳng được nhiều dù Năm Sàigòn đã xoay xở nhiều cách cả đến việc làm thuốc giả mà bán nữa. Tôi ăn uống không được đầy đủ nên mỗi ngày một gầy ốm đi, mái tóc dài thêm, khuôn mặt tóp mãi lại và đôi mắt lồi ra. Có lần đứng trước tấm gương của một tiệm tạp hóa tôi đã ngỡ ngàng không biết tôi có phải là tôi không? Có còn tôi những ngày ở nhà quê dù lam lũ chăn trâu cắt cỏ đi mướn? Tôi nhớ mẹ tôi. Tôi chẳng biết mẹ tôi có nhìn ra tôi không nếu mẹ tôi sống lại. Tôi chắc là không. Tôi thường tự nghĩ về một bộ mặt. Tôi tưởng tượng một buổi tối trời nào tôi đẩy cửa vào một căn nhà có trẻ con, người lớn đang vui đùa, quây quần bên nhau nếu thấy tôi xuất hiện thì họ cho đó là ma ngay và đánh cho chết đi dù tôi nhận là một đứa trẻ hay là một người. Tôi miên man nghĩ những điều không đâu, mãi khi Năm Sàigòn đứng lên đập vào chiếc thau đồng làm tôi giật mình đứng dậy:

– Thôi, về!

– Còn sớm mà?

– Nhưng làm gì, gào thét cho chóng chết đói à?

– Thế mai?

– Tính sau.

– Em thấy tụi hát xẩm nó chả bán gì mà cũng xin được tiền nhiều lắm, hay ta cũng làm thế chứ chịu chết à?

– Nhưng tao không biết hát, và tao hay mày không mù thì ai người ta cho.

– Ờ! Phải mù kia, mình đeo kính vào ai biết đâu. Đó coi mấy ông đeo kính đó thì biết, trông họ như mù vậy thôi, ở Sài Gòn chắc anh biết hát cải lương chứ?

– Tao đâu ở Sài Gòn. Tao ở Thái Bình. Thôi đi đừng nói nữa.

Vừa nói, hắn vừa cầm tóc lôi tôi đứng lên, tôi cắp chiếc thau đi theo. Thế ra hắn không phải dân Sài Gòn.

– Nhưng sao anh nhận là Năm Sàigòn.

– Nhận là gì không được, phải vậy mới dễ làm ăn chứ. Thôi đi nhỏ ơi, tao chán mày hết chỗ nói.

Sau khi vào một quán ở ngay lề đường ăn cơm, về nhà hắn suy nghĩ ra vẻ lung lắm, tôi lặng thinh rúc vào đống khố tải ngủ. Tôi thấy thương hại hắn như thương chính tôi. Hắn cũng chẳng có ai thân thích gì, hẳn hồi nhỏ hắn cũng như tôi – và có lẽ bởi thế hắn chẳng bao giờ nói đến cha mẹ, anh em, làng xóm. Có lúc tôi định nói cho hắn nghe về bố tôi, tôi muốn bảo bố tôi là một người ghê gớm lắm – bởi vì bố tôi xa nhà lúc tôi còn nhỏ, về sau có một đôi lần về nhưng chẳng ở lại lâu. Tôi cũng không hiểu bố tôi làm gì. Mẹ tôi chỉ nói là bố tôi có việc phải ở xa, mỗi khi tôi gặng hỏi. Trong gia đình ít ai nhắc đến – nhất là sau khi ông tôi bị bắn chết thì chả còn ai – ngoài mẹ tôi và tôi ra. Tôi nhớ căn nhà lá nhỏ ở xóm Ngang, chẳng hiểu bây giờ ra sao. Những con chim khuyên vàng có còn về làm tổ nơi cây ngâu đầu nhà, những con chim sẻ có còn làm tổ nơi ống tre đầu bếp nữa không, những đứa bạn tôi, thằng Sừng, thằng Thịnh bây giờ ra sao, và con trâu của ông chánh Thú bây giờ ai cho nó ăn cỏ… Tôi muốn tôi về ngay đó – nếu như tôi bôi một chút phẩm đỏ, đội cái mũ làm hề kia về, chắc cả làng tôi phải chạy ra mà cười ồ, nhưng liệu họ có còn đủ sức để cười nữa không. Chiến tranh đã đến làng tôi từ lâu rồi và trước hồi tôi theo mẹ tôi đi cũng đã nhiều người chết, nước mắt và những nấm đất mới nơi bãi tha ma. Tôi nghĩ chắc chẳng bao giờ còn được về đó và nếu về thì những nơi cũ có còn không?

Năm Sàigòn loay hoay với những đồ làm trò như tìm một mứu kế mới rồi tôi thấy hắn mỉm cười, chắc đã có cách, tôi liền hỏi:

– Sao anh cười vậy? Có trò mới à?

– Tao nghĩ đến trò hồi xưa. Mai ta làm.

– Trò gì vậy?

– Trò “nực cười”, mai mày sẽ biết.

Chẳng nói thêm, hắn đi ra ngoài – hồi sau mang về mấy tờ giấy bóng đỏ, ít hồ dán. Hắn ngồi cắt giấy và làm những cái bao nhỏ bằng nửa bàn tay. Tôi chẳng hiểu hắn định làm gi, tôi ngồi mãi mỏi mắt nên lăn ra ngủ lúc nào không biết.

Sáng hôm sau, hắn khua tôi dậy sớm, cũng vẫn mang những đồ dùng cũ. Hắn đưa tôi lên chợ Đuổi. Trước tiên chúng tôi vào nơi chỗ đổ rác ở trong chợ, mùi thối đến ngạt thở, ruồi nhặng bay vo ve cùng khắp, hắn bỏ ra một cái vợt bằng vải chụp vào chỗ nào có nhiều ruồi nhất, hắn bắt từng con một, bỏ vào mỗi túi hai con rồi vê miệng lại cho khỏi bay ra, người đi chợ có kẻ đi qua hiếu kỳ ngó măt vào và không hiểu chúng tôi bắt ruồi làm gì, cả ngay chính tôi. Có người cất tiếng. Năm Sàigòn mỉm cười nói nhẹ nhàng: “Nhà tôi nuôi chim”.

Chỉ bắt một lúc đã được khá nhiều, những bao giấy phồng có nhốt ruồi được bỏ vào chiếc hộp, hắn cặp vào nách rồi chúng tôi xuống bến xe điện bờ Hồ. Hắn giải tờ báo bày vài vật, bảo tôi gõ thau đồng, miệng hắn nói liên tiếp: “Thưa bà con cô bác, một dịp may hiếm có, một trò lạ chỉ có một lần không hai, xin ghé lại, chúng tôi không bán thuốc, không xin tiền mà muốn được trao ông bà cô bác một kỷ niệm, đó là gói ‘nực cười’. Xin dừng lại, xin dừng lại quý ông bà cô bác suốt ngày cực nhọc lo nghĩ, những ai buồn vì chồng chết, con chết, những ai sầu vì cha con, anh em ngăn cách, vì chiến tranh loạn lạc làm mọi người buồn bã… tất cả mọi phiền muộn ưu tư, sẽ chắp cánh bay đi nhờ một gói kỷ niệm ‘nực cười’, xin dừng lại để cùng nhau cười một chút cho đời sống bớt khổ ải. Một liều thuốc tiên giá chỉ một đồng sẽ được cười một trận vô giá không dễ gì mua được – các bạn sẽ không nhịn được cười, chúng tôi cam đoan như thế… xin hãy dừng lại…” Những người qua đường bắt đầu đông đảo, tôi vừa gõ chậu thau vừa nhắc lại những câu cuối của Năm Sàigòn:

– Xin mời bà con cô bác dừng lại…

-… Dừng lại.

– Trò vui “nực cười”…

-… Nực cười rất nực cười.

– Ai nhanh tay mau miệng…

-… Miệng – một đồng một trò, chúng tôi có rất ít xin bà con cô bác nhận ngay kẻo hết…

– Kẻo hết…

Mọi người nhao nhao giơ tay, Năm Sàigòn thu tiền xong mới cầm lấy hộp đựng ruồi – hắn rỉ vào tai tôi:

– Thu xếp đi để nếu có đứa nào nó nổi sùng đánh thì chạy cho gấp không mất mạng toi.

– Xin gửi bà con…

Vừa nói hắn vừa đưa từng gói cho người qua đường. Tôi ngắm một người cầm cẩn thận trên tay gói giấy bóng, gương mặt nghiêm trang chờ đợi. Khi vừa mở được gói chưa kịp tìm kỹ thì hai con nhặng đã bay ngay vào mặt, vội vàng vứt gói giấy, há hốc mồm – có tiếng cười của những người đứng coi vang lên, cười vì những người mắc lừa – có lẽ thế. Có tiếng chửi:

– Đồ bịp! Đồ bịp! Bà con cô bác ơi đánh bỏ mẹ nó đi.

– Mình dốt, ngu để người ta dạy khôn cho như thế mà mất có đồng bạc còn gì nữa…

Giữa lúc mọi người điều qua tiếng lại thì Năm Sàigòn cũng đã tìm cách chuồn lẹ. Hắn ra hiệu cho tôi vác chiếc bao tải chạy theo. Tôi còn nghe thấy những tiếng nói ở phía sau: Đứng lại, bắt lấy nó, bắt lấy nó, tụi bịp, tụi bịp… Chạy một lúc lâu tôi mới bắt kịp được Năm Sàigòn. Hắn bán được khá, còn lại một ít gói ruồi hắn vứt bỏ xuống lề đường.

– Rất may, rất may, chạy thoát nếu không cũng ăn đòn hội chợ.

– Thôi mai đừng dại làm trò này nữa.

– Mai mình sẽ làm trò “đấm kẹo”.

– Sao lại “đấm kẹo”.

– Mình đi bán kẹo ở trường học, cứ mỗi đứa bỏ ra một đồng hoặc năm hào rồi đưa tay bốc lấy kẹo theo như ý nó muốn, được bao nhiêu thì lấy.

– Thế thì hết.

– Không dễ, cứ cho bốc, nhưng bốc rồi nó phải đưa tay cho mình đấm một cái vào tay nắm kẹo, nó giữ được bao nhiêu thì lấy, mình sẽ tùy từng đứa mà đấm mạnh hoặc khẽ, như thế tức là mình bán kẹo mua vui dạy luân lý cho những đứa ít tiền mà tham có nhiều kẹo: một trò rất lương thiện, không ai nói được mình… hồi xưa tao đã từng làm trò đó nhưng trò này không kiếm được bao nhiêu, rồi cũng phải kiếm trò khác làm ăn…

Đúng như Năm Sàigòn nói, sau bữa bán kẹo chúng tôi không kiếm được bao nhiêu và chúng tôi nghỉ không làm gì, Năm Sàigòn đi suốt ngày tối về rúc vào xó ngủ vùi. Có bữa hắn say lảo đảo trở về la thét đập phá rồi khóc, cười cho tới lúc xỉu mà ngủ đi. Tôi buồn bã nằm bên hắn ngửi mùi rượu nồng nặc, mùi mồ hôi nóng bức. Chúng tôi chẳng khác gì mấy kẻ hành khất, nhưng chúng tôi không có được như họ một đôi mắt mù, cụt bớt chân tay để đi hát xẩm hay đứng ở đầu đường mà kêu gào lòng thương hại của mọi người, hoặc được gửi vào một nơi nuôi nấng bố thí nào đó. Tôi cũng đã có lần đứng nơi cửa đền Ngọc Sơn nghe nhiều người tàn tật kêu gào về cảnh huống của họ, nào khói lửa chiến tranh, tai ương bom đạn, cha chết, mẹ chết, không cơm ăn, việc làm, nhà cửa… Tôi cũng muốn kể lể như thế. Nhưng sao tôi thấy những người chung quanh quá thản nhiên, chuyện đó đã thành thường, thành thản nhiên rồi sao? Ngó vào một xác chết cũng như ngó vào một con lợn bị làm thịt, ngó vào một người thường cũng như ngó vào một người tàn tật?… Chiến tranh nằm ngồi chung quanh cuộc sống quen thuộc. Bao nhiêu thảm khốc có thêm cũng không thay đổi cuộc sống bi thảm đã sẵn có một khuôn mặt tệ hại, không gây thêm xúc động hay mối thương tâm, mọi người đã chung chịu những bom đạn, đói khát, nỗi bi thảm đến từ ống bơ, chiếc thau đồng, nhà cửa con phố, con trâu. Nơi nào chiến tranh cũng ngự trị. Người ta sống vất vưởng cùng những lo âu từng giờ phút bởi de dọa của cái chết. Tôi nhủ thầm: chắc con chết khác mẹ, rồi một ngày nào đó, bụng rỗng không, chân tay rời rá, miệng khát con sẽ ngã xuống và đi theo mẹ, rồi người ta nhặt xác con đi…

Tôi không muốn nghĩ đến điều đó, tôi không muốn chết, và có lẽ cả Năm Sàigòn, chúng tôi không muốn chết, như mọi người, nhưng cái chết như nằm ngay bên cạnh cuộc sống của chúng tôi.

Một hôm, Năm Sàigòn đi nhận ở đâu về một thủng thuốc cao dán, hắn nói với tôi:

– Có người bằng lòng thuê mình bán thuốc cao gia truyền, nhiều hoa hồng và còn được trả lương nữa, của một thằng lang băm mà, thuốc của nó chắc làm bằng nhựa đường cũng nên, nhưng mặc cha nó, miễn sao mình bán cho được nhiều là có tiền. Như vậy phải làm sao quảng cáo cho gay cấn, hắn nói thuốc cao này có thể cầm ngay máu khi đang chảy.

Hắn nghĩ cách quảng cáo, hắn đi đi lại lại suy nghĩ, hắn bắt tôi tập hát, giả làm một thằng ngọng đi hỏi vợ, hắn dạy tôi pha trò cảnh cô gái kia chửa hoang, cái bụng cô tỏ tò to, vì cô ăn phải cái gân bò già… Tôi làm đủ cách nhưng không gây được buồn cười, hắn thất vọng nhìn tôi:

– Mặt mũi mày như một đứa chết trôi vậy, cười tao coi, cười đi.

Tôi nhe răng cười và gặng ra thành tiếng, tôi thấy tôi kỳ cục vì tôi không biết phải cười ra sao.

Năm Sàigòn la lên:

– Khỉ, nhe ráng dọa ai vậy, cười mà cũng không biết cười thì làm ăn cái gì… cười lại tao coi. Mày thử tưởng tượng một cái gì thật tức cười, như khi mày được mẹ mày cho kẹo chẳng hạn, nhớ chưa, cười đi…

Tôi rưng rưng nước mắt. Hắn nhìn tôi chán nản, thất vọng. Tôi cúi đầu. Đã lâu tôi không biết thế nào là cười. Tôi cũng quên đi cảnh mẹ tôi cho kẹo, hay đánh mắng… Tôi mất đi những gì đó, tôi tấm tức nói với hắn:

– Tôi chưa được kẹo bao giờ, thôi kiếm trò gì cho tôi khóc chắc dễ hơn.

– Có ra mà khóc đường, khóc mướn cho đám ma, ai người ta còn muốn coi trò khóc làm gì. Mày ngu thì cũng ngu vừa vừa thôi chứ. Cứ thử một vài lần nữa coi.

Tôi thử nhiều lần nhưng không ăn thua gì, cuối cùng hắn đành bỏ vậy, hắn ngồi hút thuốc nhìn tôi, lúc sau hắn đứng lên, hai tay giữ lấy vai tôi nhìn kỹ vào mặt, hắn nắn vai tôi miệng lẩm nhẩm: “Cũng chẳng còn gì, hết rồi…” Tôi chẳng hiểu gì cả. Hắn đi đi lại lại hai tay bỏ trong túi quần, một lúc hắn dừng lại, nói với tôi:

– Mày có can đảm không?

– Làm sao?

– Chẳng hạn khi mày bị đứt tay mày có khóc không?

– Đời nào, tôi bị đứt tay là thường.

– Thế à, nghĩa là không khóc, nhất định không khóc chứ?

– Không hề, cam đoan như thế.

– Vậy được rồi. Chiều nay sẽ bắt đầu.

– Nhưng làm trò gì mới được chứ?

– Mình cũng giáo đầu như mọi khi, nhưng đặc biệt ở chỗ mình sẽ chứng minh tận mắt rằng thuốc rất công hiệu. Tao sẽ cắt tay mày cho chảy máu ra rồi rịt thuốc vào đó, mày phải tỏ ra can đảm, lúc cắt thì phải kêu đau, nhăn nhó… Khi đã dịt thuốc vào xong một lúc thì phải tươi tỉnh như không còn đau một tí gì cả… Khi họ đã thấy thuốc cao công hiệu như vậy thì họ sẽ đổ xô vào mua mỗi miếng giá năm đồng, trong khi mình mua có năm hào bạc, mày thấy không, mình sẽ hốt bạc, mình sẽ sướng hơn. Chứ sống mãi như con chó như thế này được sao…

– Liệu thuốc có hết đau thật không?

– Ngu quá đi con ơi, thuốc ấy thì vứt đi, nhưng miễn sao mình bán được thuốc, rồi mình sẽ lấy thuốc khác công hiệu mà chữa khi về nhà chứ…

Buổi chiều đó, ở ngay dưới gốc đa đền Bà Kiệu chúng tôi diễn trò, vì đúng là ngày thứ bảy nên thiên hạ rong chơi rất đông, thấy có trò lạ đứng bu quanh đông nghẹt. Năm Sàigòn khua chân múa tay, la thét, tôi gõ thau đồng nhảy múa chung quanh, sau khi biểu diễn mấy trò ảo thuật Năm Sàigòn mới bắt đầu giới thiệu thuốc cao:

– Thưa bà con cô bác, hôm nay, lần đầu tiên, thầy chúng tôi là Đại Hán Đường có cho phép chúng tôi ra đây giới thiệu với bà con cô bác một thứ thuốc cao gia truyền mà thầy chúng tôi đã công lao nghiên cứu thêm hơn gần ba chục năm cho công hiệu. Đó là thuốc cao Giang Đông. Thuốc cao Giang Đông chuyên trị bá chứng, từ đau xương, nhức mỏi, mụn nhọt, đau đầu, công hiệu của nó như thần, ngay như một vết thương ra máu nó cũng có thể cầm ngay lại được, chúng tôi có thể chứng minh ngay để bà con cô bác thấy rõ, thuốc chỉ đắp vào trong năm phút là máu hết chảy, không đau nhức và sau đó lành thịt. Nhỏ đâu?

Tôi chạy đến, vén cao tay áo đưa ra cho Năm Sàigòn cầm lấy, hắn cầm tay tôi kéo đi chung quanh cho mọi người nhìn thấy:

– Em nhỏ đây mạnh khỏe, bây giờ tôi sẽ cắt một chút để thấy rõ công hiệu của thuốc cao.

Tôi nghe tiếng xì xào ở người: vô nhân đạo, thằng nhỏ thế kia mà thành một con khỉ cho nó cắt tay à. Tôi muốn bảo: dù nó vô nhân đạo nhưng nó cho tôi ăn để sống, tôi đổi máu để lấy những miếng cơm cho vào miệng, câm đi, đừng nhân đạo giả, thì ai đã cho tôi một hào bạc nào chưa, chúng tôi như nhau, như những con chó. Tôi nhìn vào con dao díp mà rùng mình, hôm trước con dao còn rỉ, Năm Sàigòn đã mài xuống vỉa hè cho sáng và sắc hơn. Hắn cầm chặt lấy tay tôi, tôi rùng mình chờ đợi. Cả người tôi run rẩy. Tôi cố gắng trấn tĩnh. Lưỡi dao chạm vào da tôi và cảm giác đau đớn tràn ngập thân thể. Con dao nhụt khiến Năm Sàigòn phải cứa đi cứa lại máu mới chảy ra. Tôi có nhiều máu hơn tôi vẫn tưởng. Những giọt máu đỏ từ từ ứa ra chảy ròng xuống tay. Năm Sàigòn cầm lên nói lớn:

– Đây bà con cô bác hãy nhìn rõ, một vết thương lớn, máu chảy nhiều, một sự thật không thể giấu diếm, bịp bợm, che đậy. Em nhỏ đây đang đau đớn, như các em nhỏ ở nhà khi không may bị đứt tay chảy máu, có khi ở bất cứ chỗ nào, bất cứ vì tai nạn gì làm xây xát thân thể, gây thương tích, chảy máu. Cả những vết thương vì bom đạn trong khi chưa được cứu chữa. Bà con cô bác hãy dùng thuốc cao Giang Đông, thứ thần dược cấp cứu, thầy chúng tôi đã dành gần hết đời mình để hiến cho bà con cô bác một thứ thần dược có một không hai dùng trong những phút nguy hiểm cho tính mạng. Đây, bà con cô bác hãy nhìn công hiệu của thần dược, thuốc rịt vào máu sẽ cầm ngay tức khắc…

Năm Sàigòn lấy một miếng thuốc lớn dán cho kín ngón tay, nhức nhối ở vết thương chừng như còn tăng lên:

– Đây bà con cô bác coi, em nhỏ vừa xong còn đau đớn, máu còn chảy nay đã như thường, nơi đó sẽ liền thịt và lên da non, chỉ một miếng thuốc là như thường.

Hắn quay lại nháy mắt nói với tôi như một kẻ xa lạ.

– Em đã hết đau chưa?

– Hết đau rồi.

Tôi cố gắng thu hết can đảm, mím môi giữ cho mình khỏi bật khóc.

– Em thấy dễ chịu không?

– Như thường…

– Bà con cô bác thấy chưa. Chỉ một miếng thuốc cao Giang Đông đã khiến cho các em nhỏ đau đớn khi vô ý, trở lại vui đùa như thường không còn kêu khóc làm mất vui trong gia đình. Một dịp may duy nhất… Xin bà con cô bác nhanh tay mau miệng lên tiếng lấy thuốc dùng thử, ở đây chúng tôi muốn gửi tặng bà con cô bác thêm một miếng nữa để mọi người đều được dùng thử thần dược, giá mỗi miếng mười đồng, tặng thêm một miếng, chỉ mất năm đồng bà con sẽ tai qua nạn khỏi khi không may…

Tôi cầm thuốc cao tới trước mặt từng người, có những con mắt nhìn tôi thương hại, và những câu nói cùng bàn tán: Nó thuê em bao nhiêu thế – Thật khổ thằng nhỏ – Em không biết đau ư?

– Tội nghiệp con nhà ai không biết.

– Chắc là lạc, hay cha mẹ chết cả rồi, chứ ai đang tâm để cho con cái phải thế kia?

– Trông nó xanh xao vàng vọt thế kia, rồi máu chảy ra nhiều, mấy mà chết. Cái thằng nó làm trò ác quá.

Tôi thấy đau đớn ở tay – và ở trong thâm tâm những giọt máu của tôi đã chảy ra đó và những con mắt ngó vào bàn tán – dễ chừng họ chưa nhìn thấy máu bao giờ sao? Mà thương tâm, bàn tán như vậy có ích gì cho tôi – và cho cả họ. Máu tôi nhỏ ra vì miếng cơm. Nhưng còn những giọt máu của mẹ tôi do viên đạn bắn vào mạng mỡ đó – để đổi lấy cái gì – chẳng lẽ để đổi lấy cái chết do chính mẹ tôi gánh chịu – và cho tôi như thế này. Tôi tươi tỉnh chìa thuốc cao ra miệng nói:

– Cám ơn cô bác, tôi phụng sự sức khỏe mọi người, thuốc cao tài tình lắm, tôi chẳng hề đau đớn chút xíu…

Tôi cười hô hố nghe rất kỳ cục – cũng có người mua thuốc. Tôi luôn miệng cám ơn.

Có lẽ nhờ cái trò lạ mắt – cắt tay một đứa nhỏ cho chảy máu để chứng minh một thứ thuốc vứt đi – mà người ta đổ xô vào mua để rồi một chút thương tâm, khen một câu can đảm.

Trong ngày hôm đó tôi phải cắt tay như thế ba lần. Buổi tối về tay tôi nhức nhối và có vết đã bắt đầu sưng lên. Tôi mở bỏ thuốc cao nhìn những vết dao cắt – hai mép da co sang bên để lại ở giữa màu thịt đỏ tím, ba ngón tay gần mang ba vết cắt đó. Ngón tay đau không cử động thường được. Mỗi lần cụp ngón tay lại thì những vết thương đau đớn. Những vết máu đọng còn nằm trong lòng tay bẩn. Tôi dùng một ngón tay cạo cạo, một cảm giác buồn buồn dễ chịu. Tôi nghĩ đến những lần đứt tay hồi nhỏ – mẹ tôi căn dặn giữ chắc lấy chỗ đứt, ra bờ rào kiếm một cây duối bứt lấy ít lá bỏ vào miệng nhai rồi đắp lên, hoặc kiếm một ít mạng nhện ở góc nhà quấn lại, cùng lắm là một chút thuốc lào – nhưng tôi còn được thấy gương mặt mẹ tôi lo sợ cuống quít miệng xuýt xoa: có đau không con, mẹ đã bảo chơi đùa, hay làm gì phải cẩn thận mà, nếu không có lần đứt mất ngón tay thì xấu lắm đấy – nghe mẹ không. Nhưng bây giờ thì chẳng phải nghịch ngợm hay vô ý, tôi đưa tay ra cho người ta cắt, cho máu chảy mà chẳng ai thương xót – nỗi thương xót máu mủ ruột thịt – cũng như người ta đã thản nhiên giết nhau hằng ngày không lý do – hay vì ai xui khiến cho người ta ham muốn chứng kiến sự chết chóc, máu đổ. Ở nơi này tôi cũng không kiếm đâu ra lá duối, thuốc lào, mạng nhện. Tôi chẳng còn nước mắt để khóc, chẳng còn ai để than van. Cả người gần tôi nhất ngồi kia – Năm Sàigòn – đối với tôi cũng chỉ là một sự trao đổi về đời sống. Cả hai ở với nhau chẳng qua cũng như hai con chó đói trong một bầy chó đói cần phải giúp nhau dành lấy một mẩu xương mà gặm, nhưng chúng tôi là một thứ chó hoang, vô chủ, là thứ chó của một giai cấp chó hạng bét. Tôi cũng chẳng thể hiểu chúng tôi phải sống như thế này làm gì. Hắn kiếm ra tiền để ăn, để có mấy điếu thuốc và khá ra như hôm nay đi kiếm một con điếm mang về rúc rích ở xó tối, rồi một hôm nào đó lăn ra chết, và tôi nữa. Người ta sống vì sự có mặt của người thân yêu – tôi hay hắn chỉ có một mình – vì làng xóm, vì đất nước, điều sau này tôi chẳng hiểu ra sao cả… những sự thật diễn ra trước mắt đây… Những giọt máu chảy ra đó. Tôi thấy khổ hơn cả một con vật – cho cả những con vật được người ta nuôi để ăn thịt đi nữa – nhưng trong khi nuôi cho béo không bao giờ bị đánh đập – và một lần chết như người ta. Còn tôi hay cả hắn… thật hồi xưa chưa bao giờ nghĩ đến chuyện phải tự hành hạ thân mình để kiếm lấy miếng ăn mà nuôi lại cái thân bị hủy hoại dần mòn đi đó.

Tôi nhìn Năm Sàigòn đang nằm kia – hắn hút thuốc lá một cách khoan khoái – từ mấy tháng nay hắn chưa bao giờ có một vẻ thảnh thơi như thế – có phải vì mấy giọt máu của tôi không? – Chiều tối nay chúng tôi đã được ăn một bữa khá và Năm Sàigòn say sưa hơn. Lúc ngậm trong miệng một chút xương cá, tôi mới nghĩ ra rằng có nhiều điều hanh phúc không đến với đời sống tôi – nên dù chỉ ngậm một chút xương cá tôi cũng không muốn nhả ra vì tiếc, nhưng nuốt vào sợ hóc. Tôi ăn uống được hơn nhờ đồng bạc của những kẻ lạ mặt, nhờ Năm Sàigòn thương hại tôi? Hay là họ chỉ muốn nuôi tôi cho có nhiều máu mà cắt ra cho họ ngắm nghía? Thật là một sự trao đổi khốn kiếp và bỉ ổi.

Trông dáng điệu của Năm Sàigòn tôi khó chịu. Tôi thấy hắn xa lạ – nó là một người khác. Một kẻ lạ mặt như mọi người ở trong đám đông đời sống vây quanh tôi đây. Tôi ngồi ôm mặt khóc thút thít, Năm Sàigòn khó chịu quát lớn:

– Ê khóc cái gì? Cha mày chết đó à… câm đi cho người ta ngủ chớ, còn mai phải làm nữa.

– Mai tôi không làm, tôi đau lắm không chịu được.

– Ê điên hả, người ta đang dễ làm ăn. Mày ăn cơm cá đó không thấy ngon hả?

– Thôi tôi nhịn cho chết còn hơn.

– Mày không muốn ở với tao nữa thì đi đi, tao kiếm đứa khác cho xong, mới có một chút mà ồn.

Tôi không nói nữa và cứ khóc, Năm Sàigòn cáu tiết đứng dậy cầm cây đánh vào lưng tôi túi bụi, tôi ngước mặt lên nhìn hắn – đau quá không sao khóc hay kêu được, tôi bò lết mà chạy. Vì cử động mạnh làm những vết cắt ở tay chảy máu tung tóe. Tôi ngồi ôm lấy tay mà bảo.

– Cứ việc đánh cho chết – hãy ngó vào tay đây này. Tôi cũng cần chết ghê lắm.

Hắn nhìn xuống tay tôi thấy máu chảy tung tóe nên thôi không đánh nữa. Hắn cúi xuống cầm lấy tay tôi co đi.

– Ra đây, ra đây tao buộc cho – mày phải biết chẳng bao giờ tao muốn như thế – nhưng mày thấy chưa: còn làm thế nào để có miếng mà đút vào lỗ mồm. Phải giữ thân không chết uổng mạng.

– Uổng mạng?…

Hắn bỏ tay tôi vào chậu nước, hắn loay hoay rửa bàn tay thô bạo của hắn chỉ muốn làm một cách dịu dàng cũng vẫn thô lỗ, vụng về như chưa bao giờ cầm đến một bàn tay kẻ khác – và chắc cử chỉ đó hắn chưa bao giờ được nhìn thấy ai chỉ dạy cho. Tôi cảm động ngoan ngoãn ngồi yên cho hắn rửa. Có lẽ vì gặp nước lạnh tay tôi đỡ đau, và máu cũng chảy ít thôi. Xong hắn kiếm cái khăn lau cho ráo, xé một miếng giẻ rách buộc chặt lấy chỗ đau. Tôi bảo:

– Sao không dán thuốc vào.

– Mày ngu – dán vào cho thối tay mày ra à. Để mai tao kiếm một chút thuốc đỏ bôi vào là lành.

– Còn mai.

– Cứ việc cắt vào chỗ gần đó nó quen rồi và không đau nữa đâu mà sợ.

Hắn dỗ tôi, hứa sẽ may quần áo cho tôi và để một hôm nào sẽ cho đi coi cải lương ở Quảng Lạc. Khi sắp ngủ hắn cho tôi một cái kẹo bạc hà, hắn nằm bên kể cho tôi nghe một câu chuyện tiếu lâm tuc tĩu, tôi chẳng thể cười được và ngủ thiếp đi.

Qua một tuần lễ như thế tay trái tôi đã gần nát ra rồi, có những vết tay mưng mủ và thối, nó rỉ nước vàng. Mỗi bữa bưng bát cơm không nổi tôi phải dùng cùi dĩa mà xúc ăn như một kẻ tàn tật. Thấy không thể tiếp tục cắt máu ở bàn tay đó nên Năm Sàigòn bắt đầu cắt ở bàn tay phải. Người ta vẫn xúm đông xúm đỏ lại coi, và mua thứ thuốc vứt đi đó. Con vật thí nghiệm bịp bợm con mắt mọi người đó vẫn phải đổ máu ra. Trong một lần ở ô Chợ Dừa trong khi Năm Sàigòn đang cắt tay tôi, bỗng có người lớn tiếng:

– Phải đi báo cảnh sát chứ sao để cho thằng đó nó cứ cắt tay đứa bé mãi, hôm trước tôi trông thấy đứa bé còn khá, mà chỉ mới có mấy bữa đã vàng và đét hẳn đi. Trong người nó còn được mấy giọt máu mà chảy nữa. Bà con hãy coi bàn tay kia của nó thì biết, hàng chục vết cắt bắt đầu thối ra đó – thuốc gì mà thuốc – là nhựa đường hoặc đất bùn gì đó. Bây giờ nó còn định làm hư nốt bàn tay nữa của đứa nhỏ – và liệu được mấy bữa nữa mà chết vì hết máu.

Có một giọng khác.

– Có lẽ gần hết rồi – coi đó thì thấy, nó cắt dao vào tay mà chỉ có một vài giọt – chắc ở trong người còn độ vài cù-dìa nữa thôi. Đứa nhỏ chết đến chân rồi.

Người ta bàn tán xôn xao, chẳng ai còn chú ý tới những lời khoa trương của Năm Sàigòn. Hôm nay tôi mới nghe thấy giọng hắn đã bắt đầu khàn khàn như một thứ ống bơ rỉ, hay có khi cuống họng hắn đã vỡ ra rồi cũng nên, hắn cứ phải la lên, nếu tôi phải làm như thế chắc cũng không còn hơi để thở nữa. Trông cái bộ dạng lom khom khổ não cứ loay hoay, cúi xuống ngẩng lên, chân tay khoai múa, tóc tai bù xù, mồ hôi ướt đẫm mà thương hại. Nhưng nói chán, chìa thuốc ra cũng chẳng ai hỏi đến một câu. Những trẻ con ở lại sau chót cũng đã quay ra nô đùa với nhau rồi – và mọi người bỏ quên hai con vật múa rối muốn mang thuốc đến để bảo vệ sức khỏe cho họ, và chính hai con vật đó cũng không cứu được chính nó.

Trời nắng thiêu đốt trên đầu chúng tôi. Hai bàn tay tôi đều đau rần, tôi đứng ở khoảng đất bột nhìn xuống bóng mình dưới chân, tôi hoa mắt trước những bóng sáng quay cuồng đảo lộn xanh đỏ trước mắt, tôi ngồi bệt xuống mặt đất nóng rẫy. Tôi muốn lê vào một mái lều chợ cách đó độ mười bước nhưng hai chân run lên không cất được nữa. Hai mắt mỏi phải nhắm nghiền lại – “chắc trong người nó chỉ còn độ vài ‘cù-dìa’ máu mà thôi” – tôi muốn áng chừng xem tôi đã cắt ra bao nhiêu máu, nhưng chẳng thể nào áng được, chắc nhiều lắm, rất nhiều đối với số máu tôi có. Với thân hình gầy đét, và nước da vàng tái này tôi đủ hiểu, những người khỏe mạnh, hồng hào béo tốt ra hết máu còn chết, huống hồ là tôi.

Có lẽ tôi đã chết đến chân thật rồi, chứ sao mọi hôm tôi thấy đôi chân còn khỏe mà hôm nay nó mềm và run lên như thế. Cái chết đến từ từ, rồi nó lên đến bụng, đến ngực, đến cổ là tôi sẽ nằm sóng soài ra và tắt thở. Cái chết đó. Cái chết đó. Không thể được. Tôi đưa hai bàn tay đau nhức lên dụi vào hai mắt cho tỉnh ra để đứng dậy – Năm Sàigòn đang thu xếp. Hắn thấy tôi ngồi yên thì kêu lên:

– Thôi đi chứ, hay là phải để tao gọi xe đến đón quan lớn!

Tôi muốn mở miệng quát lớn cho hắn nghe – nhưng miệng tôi khô và khát quá độ. Tôi cố đứng dậy cầm cái thau đồng theo hắn sang bên kia đường. Chân tôi rời rã, mắt vẫn hoa lên, tôi bước đi lảo đảo. Mặt nhựa nóng bỏng dưới gan bàn chân, tôi nghe tiếng còi xe cộ nhưng cũng không còn để ý đến. Bỗng tôi nghe tiếng kêu thất thanh:

– Kìa, đồ chó chết.

Rồi một cánh tay rất mạnh xô tôi vào hè đường, một tiếng phanh xe tắc-xỏng rít lên. Rồi những âm thanh ồn ào vang động vây lấy thân thể tôi. Khi tôi đủ sức bò dậy, thấy người bu lấy chung quanh, tôi kiếm gọi Năm Sàigòn, nhưng chẳng thấy – tôi ngó ra giữa đường thì thấy hắn nằm ở ngang đầu chiếc G.M.C của nhà binh. Một bên chân kẹp vào dưới xe. Tôi hoảng hốt bò đến.

– Làm sao vậy, làm sao đấy anh…

Hắn không trả lời được nữa. Chiếc khố tải những thuốc cao, ống bơ tung tóe chung quanh. Tôi chẳng hiểu vì sao tai nạn đã xảy ra. Có người đứng ngoài bàn tán với nhau.

– Trời đất, xe nhà binh mà, coi thường mất mạng như chơi. Thằng bán thuốc cao hả?

– Đúng nó. Tại nó trông thấy thằng nhỏ của nó đang đi và gần như sắp ngã ở giữa đường trong khi xe phóng tới, hắn nhào ra đẩy đứa nhỏ vào trong, nhưng chính nó không chạy kịp. Thật khổ.

Bây giờ tôi đã hiểu câu chuyện. Sao tôi lại không chết? Sao lại hắn, hóa ra tại tôi, vì tôi hắn bị nạn. Chiếc xe cứu thương thét còi chạy đến. Chiếc xe G.M.C. đã lùi lại một chút để gỡ chân Năm Sàigòn ra, dưới bụng hắn máu chảy đầm đìa. Trông ghê khiếp hơn cả vũng máu của mẹ tôi hồi bị đạn nữa. Người ta khiêng hắn bỏ lên băng-ca đẩy vào lòng xe, tôi vứt bỏ cả chậu thau leo lên theo.

– Mày là đứa nào?

– Tôi là em ông ta, cho tôi lên với.

Xe mở máy chạy và những hồi còi réo lên nhức óc. Năm Sài gòn nằm mê mệt trên băng-ca, đầu ngoẹo sang một bên mặt tái mét, một bên chân bị nát, máu bết cả quần áo đỏ lòm và vẫn còn dỏ giọt xuống sàn xe. Tôi thấy những giọt máu đỏ cũng giống máu của tôi, và mẹ tôi.

Người ta đưa vào nhà thương Phủ Doãn, chính ở đây mẹ tôi đã chết – người ta vội vã đưa vào phòng cứu cấp, máu chảy ra quá nhiều, người ta lo băng bó chân – và tìm máu để tiếp cho Năm Sàigòn, và sau khi thử máu người ta không có sẵn loại máu của hắn vì có bao nhiêu người từ những mặt trận mang về đều thiếu máu cả, mà người cho máu không có, chỉ có một vài loại khác còn nhưng không thể tiếp cho hắn được – người y tá nói cho tôi biết thế. Tôi ngỏ ý:

– Dạ thưa bà có thể lấy máu của tôi tiếp cho anh tôi được không, anh tôi cần được cứu chữa.

Người nữ y tá nhìn tôi từ đầu đến chân – dễ tôi không là con người sao?

– Nhưng trông em gầy yếu thế này sợ không đủ sức.

– Thưa bà không sao, tôi rất mạnh.

– Để tôi nói với bác sĩ.

Vị bác sĩ cũng nhìn tôi như người y tá – tôi khẩn khoản với ông ta. Sau khi thử, máu tôi cùng loại với máu của Năm Sàigòn. Nhưng đến khi lấy thì không được bao nhiêu. Với số máu ít ỏi đó không đủ để cứu hắn sống.

Tôi nhủ thầm bên tai cho Năm Sàigòn nghe:

– Anh biết không, đáng ra anh không chết nếu em có đủ máu – nhưng máu của em đã phải cắt ra cho mọi người coi để đổi lấy miếng cơm nên chẳng còn để cứu anh nữa – làm sao bây giờ? Tại em mà anh chết đấy…

Năm Sàigòn cố mấp máy, tôi phải háp tai vào tận miệng hắn mới nghe được.

– Không phải tại em, tại chính anh… Phải cố… cố…

Tôi cũng chẳng còn sức để khóc hắn. Tôi trở ra tìm vị bác sĩ. Tôi chìa hai bàn tay sưng thối ra trước mặt ông. Tôi muốn nói: Con muốn được chết thêm ở nhà thương này. Thưa mẹ, con cũng chả hơn gì, đó mẹ thấy chưa?

Dương Nghiễm Mậu

1961