NGƯỜI VIỆT “NĂM BỜ OĂN”.

NGHĨ VỀ NHỮNG NGƯỜI CHA CÔ ĐƠN.

 

Trên một tờ báo điện tử, người ta đọc thấy một câu chuyện xúc cảm đầy nước mắt, tuy không hề nghe thấy một tiếng khóc. Một nhân viên người Việt còn trong giai đoạn tập sự tại một tỉnh trên miền Bắc xa khuất, nhận lời đến giúp một nhà hưu dưỡng hẻo lánh ít người thăm nom. Con đường đi vào căn nhà hưu dưỡng này quanh co và khúc khuỷu, chỉ có tiếng than van rền rĩ của rặng thông già âm u và cằn cỗi. Khi anh thanh niên này đến nơi và bắt tay vào việc, anh nhận ra có một ông già cứ ngồi trên xe lăn mà quay lưng vào trong, với một thái độ im lặng buồn bã. Anh đã đến gần và nhận ra đó là một người Việt Nam đã bước vào tuổi lão niên. Nhận ra anh là người Việt, ông già đó mừng rỡ lắm. Có lẽ không có sự mừng rỡ nào lớn hơn nữa, vì bao nhiêu năm, ông cụ không có dịp nói chuyện với ai. Cụ không rành tiếng Anh, mà chung quanh cả chục dặm cũng không có một người Việt nào lui tới. Sau khi hàn huyên và làm quen nhau, anh thanh niên hứa hẹn sẽ đến thăm cụ hoài. Anh đã giữ lời hứa trong một thời gian dài. Từ đó, anh mới biết tâm sự của cụ là một người cha đã hy sinh trọn cuộc đời cho một đứa con trai duy nhất.

Khi bà vợ đã khuất núi, cụ ở với đứa con trai và bao nhiêu thương yêu, cụ đã dành cho con hết cả. May mắn, cụ đã dựng được một cơ nghiệp đàng hoàng trên xứ Mỹ, có nhà đẹp, có xe tốt và có cả một tương lai thênh thang, hạnh phúc, không thiếu thốn điều chi. Hai cha con êm ấm sống chung với nhau cho đến khi cậu con trai đòi di chuyển đến thành phố lớn để theo đuổi việc học ở một trường danh tiếng hơn. Suy đi nghĩ lại mãi, cụ ông quyết định chiều ý con, mà bán hết cơ ngơi sự nghiệp của mình để đi theo cậu đến một nơi xa lạ. Ở đấy, vì không quen chỗ, cụ cứ phải từ từ tiêu dần tài sản dành dụm của mình cho sự học của cậu con mà không có cơ hội làm lại cuộc đời chi nữa, những mong cho con học thành tài là cụ vui sướng rồi. Điều cụ mong muốn đã đến. Sau nhiều năm học hành, cậu con ra trường, có việc làm tốt. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, cậu đi theo tiếng gọi của con tim, bỏ cụ lại một mình, bỏ lại người cha hy sinh suốt đời cho con, bỏ lại bao kỷ niệm buồn vui giữa hai cha con, những ngày tháng xưa cũ đó. Cụ đau buốt tâm can. Nhất là tin tức của cậu dần dần biệt tăm. Quá đau khổ, cụ đã té ngã và bị liệt. Người ta đưa cụ vào nơi hẻo lánh này để chờ chết. Từ đó đến khi anh thanh niên tập sự kia gặp cụ, cũng đã mười năm…

Mười năm cô đơn, mười năm không có dịp nói tiếng quê hương, mười năm không thân nhân, thăm hỏi, mười năm đợi chờ trong tuyệt vọng… Mười năm hay mười thế kỷ?

Thời gian đằng đẵng trôi qua, mọi thứ hy vọng đã tàn lụi, cụ chỉ có một thèm khát duy nhất là một bát bún riêu nóng hổi. Chiều ý cụ, anh thanh niên kia đã lui cui tìm mọi cách để mang đến cho cụ một bát bún riêu theo như ý cụ mong muốn. Cụ đã vui mừng chầm chậm cho một tí mắm tôm vào tô bún, chầm chậm thưởng thức hương vị của bát bún riêu, như thưởng thức một phần đời người đang chết dở mà được sống lại.

Anh thanh niên không quen biết kia đã trở lại vài lần rồi vì công việc mới phải đi xa, nhưng anh hứa sẽ đến thăm cụ bất cứ khi nào tiện dịp. Rồi một ngày, anh nhận được tin báo của nhà hưu dưỡng: ông cụ đã qua đời, đúng ra là đã may mắn chấm dứt được cuộc sống đau khổ, buồn bã, cô đơn mà cụ đã phải gánh chịu nhọc nhằn trong nhiều năm qua. Thằng con trai của cụ, không biết lúc ấy ở đâu, nếu có vợ con, thì đứa bé cũng trên mười tuổi, và mỗi khi đến ngày Từ Phụ, chắc thằng con bất hiếu bất mục, vô ơn, khốn nạn ấy, lại nâng ly rượu đầy ắp, cười đùa vui vẻ khi nghe đứa bé nào đó chúc mừng “Happy Father Day, Dad!”

Hình ảnh người cha bất hạnh không phải là thiếu ở đâu đây. Hãy đến nhà hưu dưỡng ở Garden Grove, gần Trung Tâm Thủ Đô Tị Nạn này, sẽ thấy ngay một cụ ông trên 70 tuổi, còn nhanh miệng lắm, nhưng ngồi trên xe lăn mà nếu thấy ai có lòng, thì thế nào cũng nhờ “Ông ơi! Ông đẩy xe tôi ra bến xe Cần Thơ đi ông! Thằng con tôi nó đang đợi ở đó!” Rồi ông cụ giục “Nhanh lên! Nhanh lên! Kẻo nó không chờ nữa!” Và sau khi được đẩy ra tới cửa, thì ông cụ giơ tay, ngừng lại. “Đây rồi! Bến xe Cần Thơ đây rồi! Ông chờ tôi một tí nhé!” Người đẩy xe thế nào cũng nghẹn ngào, nghe nước mắt trong lòng đang chẩy xuống lặng lẽ. Con của cụ đâu cả rồi? Những đứa trẻ ngày xưa mà ông bồng bế, xi ỉa, tắm rửa, lau mặt, dậy cho nó đánh răng, dậy cho ngồi bô, ngồi cầu tiêu, dắt tay đi học… Những đứa trẻ hớn hở nhìn những quần áo mới mà bố chúng mới mua cho, ngày lễ, ngày Tết, bố con tung tăng trên đường phố Cần Thơ, hay ra bến Ninh Kiều hóng gió, mua cho con một quả bong bóng, một cây kem… Những đứa trẻ mà khi vượt biên còn đỏ hỏn, hay đã bắt đầu lớn, nhưng sợ hãi lo lắng thì nhiều, chỉ biết bám vào tay bố như một chỗ tựa nương duy nhất trong đời. Chúng nó bây giờ ở đâu? Bố chúng vẫn đợi chúng ở bến xe Cần Thơ ngay tại thủ đô tị nạn đấy…

Hãy vào trong nhà già này, thấy một cụ già ngồi trên xe lăn, không còn nói được, chỉ còn ánh mắt và hai bàn tay xếp những chữ A, B,C thành câu: “Ông bà đến chơi, tôi vui lắm!”

Cụ ông ngày xưa cũng đã một thời thanh niên bay nhẩy tung tăng, đi học, đi chơi với đào, rồi lấy vợ vui vẻ, hạnh phúc, nhìn những đứa con lớn lên với tất cả sự thoả mãn của một người cha trọn vẹn hy sinh. Giờ đây, những đứa con ấy ở đâu? Phương trời xa xôi nào? Có một lần nhớ đến người cha đã từng ẵm bồng chúng không?

Hãy đi thêm một bước nữa, để gặp một cụ chưa tới 80, nhưng chiều nào cũng thế, nhờ người đẩy xe lăn ra cửa, ngồi đó nhìn ra ngoài đường cho đến khi mặt trời lặn sau những mái nhà trước mặt, bóng tối phủ xuống âm u rồi mới chịu cho người đẩy xe vào phòng, nơi những kỷ niệm không bóng không hình chìm chìm ngập ngập, lãng đãng xa gần, những bóng hình thân yêu, người vợ tận tuỵ, mấy đứa con tung tăng chạy nhẩy, đấm đá um nhà…

Hãy đi khắp các nhà hưu dưỡng hay “nhà già” này để thấy đâu đâu cũng có những người cha cô đơn, những tâm hồn kiệt quệ, mà nỗi chết gần kề không đáng sợ bằng ngày tắt hơi không người thân vuốt mắt, không có tiếng khóc nức nở nỉ non, chỉ có âm thầm vài người áo trắng, lăng xăng thu dọn cho lẹ, cho nhanh, gói ghém phủ liệm chỉ trong giây phút, rồi tống ra dàn thiêu…

Thế là hết những người cha, đã có một thời oanh liệt, hoặc thương gia, hoặc quân đội.

Có thể họ đã từng xông pha mũi tên hòn đạn, đã từng gào lên hai tiếng “xung phong!” rồi băng mình về phía trước. Có thế họ đã là những thầy giáo, đứng trên bục giảng, hướng dẫn tương lai cho lớp trẻ lên đường. Có thể họ là những người thợ máy, công nhân, ngày ngày đi làm đổ mồ hôi, chỉ mong về đến nhà trông thấy thằng cu Tý, cu Tèo đùa đùa giỡn giỡn, tung con lên cao và nở những nụ cười hạnh phúc…

Giờ đây, chúng đang ở nơi nào? Trong những căn phòng ấm cúng, có thể chúng cũng lặp lại y hệt những cử chỉ của cha chúng ngày xưa, cũng tung con lên, đùa đùa giỡn giỡn..

Hỡi những người con còn có trái tim, hãy đi và hãy đến những nơi gọi là “nhà già”, nơi chỉ có cặp mắt là sáng còn mọi vật đều tối đen…

Ngày Từ Phụ đang đến.

Chu Tất Tiến

SAN JOSE CÓ GÌ LẠ KHÔNG, EM?

 

Có lẽ trong số dân trung niên, tầm tầm, rất ít người không biết đến câu: “Paris có gì lạ không, em?” Hồi ấy, nghe câu thơ này, tự dưng trong hồn thấy cơn lãng mạn dâng trào, con trai thì phải làm ngay một ly cà phê cho đã, hoặc “rít” một hơi thuốc lá cho tới tận cuống, rồi bâng khuâng nhả khói chầm chậm, nhẹ nhàng để làn khói bay lảng vảng trong không một lúc rồi mới tan đi. Còn con gái? Nho nhỏ thì  ôm lấy cuốn “Lưu bút ngày xanh” vào lòng, mắt lơ đãng nhìn vào những tấm hình bạn bè và những dòng chữ thân thương, để nhớ đến cánh bướm vàng khô ép trong cuốn vở trắng tinh, những lời gán ghép đỏ mặt,và những giây phút vui đùa rũ rượi bên nhau. Nhớn nhớn một chút thì cắn môi, tay vân vê những sợi tóc dài buông thả trên bờ vai, nhìn qua cửa sổ, hướng về phía cánh cửa nhà của “chàng” cách đấy không xa, lắng nghe tiếng đàn ghi-ta chập chững của chàng mà tơ tưởng đến một thành phố diệu vợi bên trời Tây biền biệt kia, có dòng sông Seine lờ lững uốn quanh phố thị như cánh tay của nàng Venus đa tình đang vươn ra, mời mọc.

Nhưng rồi, thời gian qua, có dịp đến Paris, để thấy Paris chẳng có gì lạ cả! Y hệt như trong những tấm “carte postal” ngày xưa. Dù hai, ba chục năm trôi qua, Paris vẫn thế, vẫn nóc thánh đường cổ kính, vẫn tháp Eiffel xương xẩu, và những con đường chật hẹp chỉ đủ lọt một chiếc xe hơi và một chiếc xe đạp. Dân Paris đi làm, ăn mặc chững chạc, “complê, cravát”, nhưng tay lại cắp một ổ bánh mì dài thòng không  nhân, cuộn trong một tờ giấy vàng ố. Ðường xá nhiều xe, nhưng đa số là xe tàn và tắc xi, những anh tắc xi “chém” bạo hơn máy chém thời Robespiere, vừa bước lên xe đã thấy đồng hồ nhẩy vài đôla rồi; hỏi tài xế thì cho biết đó là tiền “baga”, nghĩa là tiền chở đồ! Vào tiệm uống cà phê thì coi chừng cà phê Paris làm loãng máu, vì giá dành riêng cho du khách được tính đặc biệt, uống xong một ly thì xây xẩm mặt mày, máu tan ra như nước. Nếu đói bụng mà muốn thưởng thức cơm Tầu, Paris đãi khách bằng loại hủ tiếu không thịt, chỉ toàn bánh và nước. Muốn có thịt, phải kêu riêng một tô thịt riêng, giá tương đương với tô bánh.  Paris chật hẹp, Paris không có nước xài thả giàn như ở Mỹ, dân Paris hai, ba ngày tắm một lần, nên nước hoa Paris bán đầy phố. Khách sạn Paris có hai loại: loại quyền quý, loại trung bình. Loại quyền quý thì không dám bước chân vào, sợ khi trả buồng, bước ra thì cụt cẳng. Loại trung bình thì chán phè, buồng chật, thang máy hẹp, phòng tắm bé tẻo tèo teo, nhìn khăn trải giường không dám nằm úp mặt xuống. Bởi vậy, Paris chẳng có gì lạ cả. Chắc thêm ba chục năm nữa, Parisvẫn là một vũ nữ về chiều, ngồi trên ghế đá, lắc lư đầu nhìn khách vội vã bước qua.

Trong khi đó, thì tại Tiểu Bang miền viễn Tây này, có một thành phố mà lúc nào lên chơi cũng thấy lạ: San Jose!

Từ  Orange lên miền Bắc, xe vượt qua những con đèo ngoằn ngoèo, rồi tới một khoảng dài xa lộ mà chỉ có một “lane”, đi ban đêm, tim đập thình thịch, chỉ sợ vừa quẹo ra là thấy lù lù một chiếc xe tải khổng lồ đâm sầm tới. Và những khúc xa lộ chạy trong thành phố, những vườn nho lẩn giữa những trang trại kiểu xưa đột ngột biến hiện trong những tòa nhà đang xây cất hiện đại. Rồi thung lũng hoa vàng từ từ hiện ra, rất sương khói, rất mờ nhạt, và rất lạ. Xa lộ cũng từng ấy “lane” mà hình như khác với xa lộ Orange, không diễn tả được. Cũng kẹt xe, cũng xe cộ nối đuôi nhau, nhưng một khi vào tới xa lộ San Jose rồi, thì cảm giác lâng lâng sao đó, không còn cảm thấy sự căng thẳng của lái xe lâu giờ, không thấy “road rage” làm muốn chửi thề liên tục, không thích bấm còi dầu người bên cạnh lái ẩu, mà chỉ muốn tha thứ, muốn mỉm cười với người không quen. Sao vậy, nhỉ? San Jose có chi lạ mà mỗi lần lên, lại như trẻ hẳn ra? Quán ăn San Jose cũng bàn, cũng ghế, cũng phở, cũng bún bò Huế, cũng hủ tiếu, cơm tấm, nhưng hình như bà chủ San Jose dễ thương hơn, tươi mát hơn, nên thức ăn có vị đậm đà hơn.

Quán cà phê San Jose buổi sáng vắng hoe, không ồn ào như Orange, nên thưởng thức một ly nong nóng vào lúc sương còn lảng vảng trong hồn, thấy như cà phê San Jose độc nhất vô nhị. Trong cà phê có pha sương, trong sữa đậu nành có chút gió, trong tô phở có nụ cười. Giá sống ở đây trắng nuốt như nàng sơn nữ Phà Ca, rau răm ở đây nhấp nháy như cặp mắt ai Quan Họ. Ăn uống ở đây, tình tứ và lãng mạn hơn Paris  nhiều.

Buổi tối, lái xe đi vòng vòng thành phố, thấy San Jose như cô thiếu nữ kiều diễm, nửa Tây Phương, nửa Châu Á, thay đổi mầu áo từng giờ, từng phút. Những quán sách, dĩ nhiên ít sách hơn ở Orange, nhưng lại cám dỗ vô cùng. Những chợ, những quán “to go”, dĩ nhiên nhỏ hơn Orange, nhưng lại đầm ấm hơn, thân thiết hơn, bước vào chỉ muốn mua một chút gì đó, rồi tần ngần bước ra, muốn để một chân lại trong cửa. Hình như khí hậu ẩm ẩm, lành lạnh làm cho San Jose có một không khí lúc nào cũng lạ.

Như thế, đến San Jose rồi là không muốn về, dù San Jose đất chật, người đông. Nhất là một hôm, San Jose tặng cho một kỷ niệm đẹp, mãi mãi không quên. Chiều Chủ Nhật ấy, San Jose mưa như mưa tháng Bẩy, người Orange đi lễ tại một ngôi nhà thờ cổ kính nằm giữa lòng thành phố. Orange đậu xe lại, giương dù định bước ra, chợt thấy ngay bên cạnh, San Jose cũng vừa đậu xe, mà ngập ngừng nhìn lên trời, đếm những hột mưa ào ào rơi xuống như những sợi chỉ thủy tinh trắng trong. San Jose quên dù ở nhà mất rồi! Orange suy nghĩ trong một giây, rồi bước đến cạnh xe San Jose, gõ cửa nhè nhẹ, rồi lấy tay chỉ chỉ vào cây dù. Cặp mắt nai San Jose mở to, ngần ngại trong giây lát rồi khép nhẹ. Cánh tay nhẹ nhàng đưa xuống mở cửa. Cây dù của Orange nghiêng vào, che mái tóc, rồi che cho cả chiếc váy đen dài của San Jose. Từ ấy, dưới mái dù ấy, chân Orange và San Jose đi cạnh nhau, tránh vũng nước này, nhẩy lên viên gạch nọ, lách qua bụi cây, bước lên thềm giáo đường. Tới dưới mái hiên, dù gấp lại, và nghe rõ tiếng cây dù thở dài. Sao mưa không tạt vào ướt cả thánh đường để dù được giương lên mãi? Dù bâng khuâng, và ráng mỉm miệng cười khi nghe tiếng “thanks” nhỏ nhẹ, ngân vang trong lòng dù.

Thánh lễ hôm ấy hình như dài hơn mọi hôm. Cha giảng hình như hơi nhiều, người ta chịu lễ hơi đông. Và rồi, chờ mãi thì cũng thấy lễ tất. Bước ra khỏi cửa, gặp ngay cặp mắt San Jose đang đứng chờ. Vẫn lặng lẽ, không một lời chào, không một gật đầu, dù giương cao, che cho mái tóc San Jose khỏi ướt, và lại trở lại con đường cũ. Không, không phải, đường này sai rồi, tại cây dù lúng túng nên đi lạc rồi, không thấy xe đâu. Hay Orange cố tình đi lạc? Không phải đâu, Orange đang cố dõi mắt tìm xe chứ! Ðây, đây rồi. Xe San Jose đậu cạnh xe Orange đây. Cánh cửa mở ra, San Jose bước vào và ngước lên nhìn. Mắt San Jose mở lớn đến nỗi Orange thấy cả mình trong đó. “Thanks.” Tiếng nói thứ hai và là tiếng cuối cùng. Xe San Jose từ từ chuyển bánh. Orange bỗng tự nhiên thấy mình già hẳn. Mới phút trước là chàng thanh niên trung niên, hùng tráng, mạnh bạo; chỉ phút sau, chân đã lập cập kiểu ông già tám mươi, tay rung rung cắm chìa khóa mãi mà không vào, đóng cửa mãi mà không kín, “đề” mãi mà xe không nổ máy làm nước mưa tung tóe vào, ướt cả tóc tai… Tự dưng, Orange muốn ngâm câu thơ cuối của một bài thơ xưa: “Orange ơi! Hồn ở đâu bây giờ?” nhưng thấy một câu thơ không đủ, người Orange bèn phải viết nguyên một bài thơ tặng cho San Jose như sau:

 

San Jose có gì lạ không, em?

San Jose có gì lạ không, em?
Hình như, ở đó, tóc em rất mềm
Hình như gió núi làm em mỏng
Ðêm lạnh, thở dài, bỗng lạnh thêm.

 San Jose có gì lạ không, em?
Cà phê buổi sáng chưa đã cơn thèm
Nhìn qua cửa sổ, như chim sâu nhỏ
Nửa muốn nằm vùi, nửa muốn bay lên

 San Jose có gì lạ không, em?
Quán xá về khuya, khách ngồi như thiền
Thinh lặng ngó hồn theo dòng nhạc
Thơ thẩn về nơi rất thân quen

 San Jose có gì lạ không, em?
Chủ Nhật, mưa bay, đi dù rất hiền
Chân “ma sơ” chạm chân trần thế
Anh bỗng thèm một vòng lưng êm

 San Jose có gì lạ không, em?
Giữa ban ngày mà lòng như đêm
Giọt mưa hôm ấy còn lành lạnh
Cánh cửa nào đã khép lại hồn em?

 Và San Jose lúc nào cũng lạ
Người tình lúc nào cũng lãng đãng xa
Ðến hoài mà vẫn như tờ giấy trắng
Chưa nụ hôn nào nóng bỏng môi ta…

CHU TẤT TIẾN