Chương 18
“Vừa đánh vừa đàm”
Vùng I Chiến Thuật
Mùa Thu 1971
Số lượng người Mỹ còn lưu lại tại Việt Nam cho đến cuối năm sẽ chỉ còn ít hơn con số 160.000. Trong số này hầu hết là những người phụ trách các vai trò về tiếp liệu hay yểm trợ cho tác chiến. Đến cuối năm 1971 thì mọi đơn vị bộ binh chiến đấu TQLC Hoa Kỳ đều đã triệt thoái ra khỏi vùng Đông Nam Á, và trên thực tế quân đội Hoa kỳ chỉ còn rất ít người cầm súng ở lại. Những người ở lại chỉ đóng các vai trò yểm trợ cho Quân Lực VNCH trong chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh.”
Điều duy nhất được coi là kỳ dị hơn cả các quy tắc chiến đấu mà các lực lượng bộ binh và không quân Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tuân theo là cái nguyên tắc rối rắm theo kiểu “lắm thầy thối ma” theo đó đường lối chính trị đã ảnh hưởng vào các hoạt động quân sự. Từ giữa tháng Tư cho đến tháng Mười năm 1968, trong một số các động tác bày tỏ thiện chí một cách ngây thơ đối với phe Cộng sản, Hoa Kỳ trên thực tế đã ngưng tất cả các cuộc không kích Bắc Việt ở phía trên vĩ tuyến 20. Điều này coi như đã bỏ ngỏ 90% lãnh thổ kẻ thù không được đụng đến. Phía Bắc Việt thực tế và quyết thắng hơn đã lợi dụng đúng mức cơ hội này để bố trí lại các phương tiện quân sự chiến lược trọng yếu và xây dựng một hệ thống phòng không tối tân, hoàn thiện hơn do Liên Xô cung cấp chung quanh Hà Nội và Hải Phòng.
Tiến trình hòa đàm tại Paris với bọn Cộng sản cứng đầu và ngoan cố đã tỏ ra là một quá trình cực kỳ khó chịu vì người Mỹ chỉ muốn có kết quả và nóng lòng đạt một sự thỏa thuận nào đó. Phải cần tới chín tháng trời hai bên mới đồng ý xong về hình dáng cái bàn hội nghị và điều này ngầm báo trước những điều chẳng tốt lành gì. Trong khi đó cả hai bên, với bọn Cộng sản rõ ràng là xảo quyệt và nhạy bén về chính trị hơn, đều áp dụng đường lối “vừa đánh vừa đàm” của Mao Trạch Đông, tức đánh lúc không đàm phán và đàm phán trở lại lúc không còn đánh nhau nữa.
Chuyện quan trọng nhất đối với dân chúng Hoa Kỳ, ngoài sự kiện triệt thoái toàn bộ ra khỏi Đông Nam Á là chuyện hồi hương các tù binh chiến tranh Mỹ bị bắt với số lượng ngày càng tăng thêm. Họ đang bị giam giữ trong những điều kiện tồi tệ và bị tra tấn tại những nơi được đặt cho cái tên mỉa mai là “Khách sạn Hilton.”
Mặc dù cuộc đột kích vào tháng Mười Một năm 1970 của người Mỹ vào Sơn Tây, nằm vào khoảng 20 dặm về hướng Tây của Hà Nội bởi một lực lượng đã được huấn luyện kỹ lưỡng và có quyết tâm cao do Đại tá Arthur “Bull” Simons chỉ huy, đã thất bại trong toan tính giải cứu các tù binh chiến tranh bị giam giữ tại đó – họ đã bị chuyển đi nơi khác không lâu trước đó vì nguy cơ lũ lụt – nhưng hành động này đã có một hiệu quả tích cực đáng kể. Hành động Hoa Kỳ dám tung ra một lực lượng biệt kích lớn, can đảm xông vào thẳng sào huyệt của Bắc Việt đã báo lên một thông điệp mạnh mẽ đến tất cả các phe có liên quan. Người Mỹ có thể chịu linh động hay nhân nhượng ở một số điểm nào đó nhưng sự đối xử với những người đã được công nhận là tù binh là một chuyện mà sau này phía kẻ thù sẽ phải chịu trách nhiệm. Sau cuộc đột kích Sơn Tây, điều kiện các tù binh bị đối xử đã được cải thiện khiến tinh thần họ cũng được nâng cao lên. Lực lượng xung kích cũng đã có cơ hội, trong thời gian ngắn tại Sơn Tây, “xơi tái” được một số đáng kể những tên xấu xa. Không có người Mỹ nào bị thiệt hại trong cuộc mưu toan giải cứu tù binh.
Các cuộc thương lượng và chỉ trích lẫn nhau tiếp diễn trong những phiên hòa đàm miệt mài tại Paris. Ngay từ ban sơ, khi các cuộc đàm phán khởi sự vào tháng Năm 1968, thái độ của phe Cộng sản nhắm vào nhiều mục tiêu cùng một lúc: đòi hỏi sự công nhận của Hoa Kỳ và VNCH đối với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (phe Cộng sản miền Nam Việt Nam có đại diện của họ), phân hóa đế quốc Mỹ và “đầy tớ” đồng minh bất chính VNCH, buộc Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm về tất cả những đau thương đã xảy ra và phải rút về nước, cũng như cam kết không viện trợ cho phe VNCH nữa.
Trong vòng hơn ba năm, những cuộc đàm phán của các phía đều vô ích. Vào tháng Năm năm 1969, Tổng thống Nixon đã đưa ra đề nghị rút tất cả các lực lượng không phải của miền Nam Việt Nam ra. Điều này có nghĩa là bao gồm các lực lượng Hoa Kỳ lẫn Bắc Việt. Vào tháng Mười năm 1971, người Mỹ lại một lần nữa đưa ra đề nghị tương tự. Chẳng may cho Nixon là Cộng sản Bắc Việt không hề có ý định vội vã triệt thoái ra khỏi miền Nam như Hoa Kỳ. Người Mỹ đằng nào cũng sẽ phải rút về, dù có hòa đàm hay không cũng vậy. Cộng sản vẫn cương quyết tập trung giành chiến thắng bằng bất cứ mọi giá, giá nào cũng được, vượt hẳn quyết tâm của người Mỹ đang trông đợi kẻ thù nhân nhượng.
Vào tháng Bẩy năm 1971, Tổng thống Nixon làm bất ngờ cả nước và thế giới khi ông tuyên bố sẽ ghé thăm Bắc Kinh với ý định rõ rệt muốn bình thường hóa quan hệ với một quốc gia đông dân nhất thế giới. Những lợi ích về mặt chiến lược rất đáng kể. Trong hai năm vừa qua, Liên Xô và Trung Cộng đã tranh dành lãnh thổ với nhau trong một số trận đánh đẫm máu tại nhiều điểm dọc theo đường biên giới dài giữa hai nước. Nếu có thể thúc đẩy được sự tan vỡ của cái khối Đỏ to lớn và lợi dụng sự mất tin tưởng lẫn nhau của hai nước đó thì may ra Hoa Kỳ có thể lấy lại uy tín và xây dựng lại được sức mạnh đã bị chỉ trích là đầu tư quá nhiều mà chẳng lấy lại được bao nhiêu tại Đông Nam Á. Liệu Tổng thống Nixon có thể biến điều này thành một thắng lợi về mặt chính trị và quân sự tại Việt Nam hay không vẫn còn phải chờ xem. Tuy nhiên nhưng tay đầu sỏ Bắc Việt có vẻ đang lo lắng một cách thật sự. Họ hiểu rằng, nhất là sau bài học cuộc đột kích Sơn Tây, yếu huyệt của người Mỹ là vấn đề tù binh. Họ sẽ tiếp tục chơi lá bài đó trong mọi cuộc đàm phán tiếp theo. Trong khi đó thì các lực lượng Hoa Kỳ tiếp tục triệt thoái không gián đoạn ra khỏi Việt Nam.
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
Lễ mãn khóa
Đà Lạt, Việt Nam Cộng Hòa
Tháng Mười Hai 1971
Đó là một ngày nắng ấm tuyệt vời tiêu biểu của khung trời Đà Lạt, nhiều gia đình, bạn bè và quan khách đã tụ họp nhau lại để tham dự lễ mãn khóa và chúc mừng các thanh niên tân Thiếu úy và tân Chuẩn úy sắp lên đường phục vụ cho một đất nước đang bị tàn phá bởi chiến tranh. Sự kiện Việt Nam Cộng Hòa và khóa 24 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt đã tồn tại cho tới nay không phải do phép lạ nào cả. Thật vậy, vào cuối tháng Mười Hai năm 1971, đất nước còn tự hào là đã có được những điều báo hiệu cho niềm hy vọng, thậm chí cả sự chiến thắng nữa.
Năm 1971 sắp chấm dứt và tương lai tuy chưa có gì chắc chắn nhưng đã tỏ ra có những khúc quanh sáng sủa hơn. Chính quyền Sài Gòn đã kiểm soát được nhiều phần lãnh thổ hơn là lúc đất nước mới được thành lập ngót 18 năm về trước. Những công cuộc cải tổ chính đáng đã được áp dụng và mặc dù chưa được nhanh chóng theo mức độ cần thiết để tránh cho chính quyền bị các sự chỉ trích trong nước cũng như từ giới truyền thông Tây phương và các trường đại học tại Hoa Kỳ, nhưng cũng đã đủ để chận đứng tuyên truyền của Cộng sản. Hạ tầng cơ sở của Việt Cộng đã bị thiệt hại nặng nề trong kỳ Tết Mậu Thân, họ vẫn chưa đủ khả năng để chỉnh đốn hay tự vực dậy được. Công cuộc triệt thoái các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ đã được cân bằng lại với lời hứa viện trợ tối đa cho bạn đồng minh và tiếp tục hỗ trợ bằng không lực.
Sắp sửa được mang lon Thiếu úy, Nguyễn Lương đã tốt nghiệp với số điểm đủ cao trong lớp để đạt cái danh dự trong nhóm 14 khóa sinh được khoác bộ quân phục rằn ri của binh chủng TQLC trong ngày chọn đơn vị phục vụ. Người Mỹ bình thường chắc sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Việt Nam cũng có TQLC, nhưng họ sẽ còn ngạc nhiên gấp bội khi hiểu ra là chỉ có những khóa sinh đậu cao nhất, những sĩ quan trẻ xuất sắc và thông minh nhất mới được chọn để phục vụ trong các đơn vị ưu tú như TQLC, Nhẩy Dù và Biệt Động Quân. Do đó sự tranh đua để chọn đơn vị rất là gay go.
Bãi diễn hành cho buổi lễ là một phiên bản thu nhỏ hơn một chút của trường West Point. Tuy nhỏ hơn về kích thước so với mô hình của Hoa Kỳ nhưng hoàn toàn không kém phần trang trọng, tự hào và nhiệt tình cho buổi lễ tốt nghiệp tại Đà Lạt. Trong số 311 thanh niên nhập khóa 24 từ năm 1967, chỉ có 245 người đã chịu đựng nổi quân trường và sắp sửa bước lên khán đài để nhận bằng cấp tốt nghiệp và trách nhiệm của người sĩ quan trước mặt toàn thể các người thân và bạn bè hâm mộ. Sự phấn chấn và lời thề, giống như trong mọi buổi lễ mãn khóa khác, đã được ghi khắc vào trong tâm hồn của những thanh niên lên đường chiến đấu với niềm tin vững chắc là tất cả mỗi người trong số họ đều sắp sửa được chỉ huy binh lính để chống lại kẻ thù Cộng sản.
Ngày 27 tháng Mười Hai năm 1971 là cái ngày cuối cùng mà khóa 24 còn tụ họp lại với nhau như một tập thể đồng nhất. Họ tự nhủ không biết trong những lần hội ngộ sau này, có thể là năm, mười hay 30 năm nữa, sẽ có bao nhiêu đồng đội trong số họ, có lẽ là một con số không nhỏ, sẽ hy sinh đền nợ nước trong cuộc chiến hiện tại vì sự sống còn này.




Quan Trên có thể Tiên đoán -Diễn tiến -Kết cục cuộc chiến ?Đơn giản Trò chơi Tranh Quyền!-Lợi Ích vẫn là đặt Trên!-Những chàng binh sĩ thanh niên!Trái tim lý tưởng nhiệt huyết!Vẫn là con Cờ thí mạng!Dưới Tay Thượng Đế Uy Quyền!…Cuộc sống Danh Lơi- Chức Quyền!Muôn đời vẫn Thế:Dưới – Trên!”Vẫn đầy thủ thuật Tranh – Chiến!”Vừa Đánh vừa Đàm” nhử tìm…”Thủ chờ kế sách Công…Tiến…?
ThíchThích