Dạ Khúc: Năm Câu Chuyện Về Âm Nhạc Và Đêm Buông ( chương 1)

FILE PHOTO: Author Kazuo Ishiguro photographed during an interview with Reuters in New York, U.S. April 20, 2005. REUTERS/Mike Segar/File Photo

Kazuo Ishiguro

Cái buổi sáng tôi nhìn ra Tony Gardner ngồi giữa đám khách du lịch ấy, mùa xuân vừa mới đến thành Venice. Chúng tôi vừa kết thúc tuần đầu tiên trọn tuần biểu diễn ngoài trời ở  Quảng trường– thực là nhẹ nhõm vô kể, anh nghĩ mà xem, sau những giờ đằng đẵng chen chúc ở góc trong cùng quán, vừa biểu diễn vừa tránh đường cho thực khách lên xuống cầu thang. Sáng ấy gió se se lạnh, và cái rạp mới tinh cứ lật phật quanh chúng tôi, nhưng cả hội đều cảm thấy thư thái và sảng khoái, và tôi nghĩ cái chút thư thái sảng khoái đó có thể nghe ra được trong nhạc chúng tôi chơi.

Nhưng nghe mà xem, tôi đang nói cứ như là mình chơi chính thức trong ban nhạc vậy. Thật ra tôi chỉ là một gã “di gan”, đấy là từ của giới nhạc công chỉ những kẻ đi khắp piazza, hễ có ban nào trongba quán cà phê thiếu người thì ghé chân vào. Chủ yếu tôi chơi ở quán Caffè Lavena, nhưng chiều nào đắt sô tôi cũng có thể làm một suất với ban của Quadri, rồi chạy qua bên Florian, rồi lại băng ngang quảng trường về Lavena. Tôi đánh bạn khá thân với họ – với cả bồi bàn ba quán nữa – và giả dụ là ở đâu khác thì giờ này tôi đã có chốn an cư rồi. Nhưng ở cái thành phố sốt lên vì truyền thống và quá khứ này, mọi thứ đều đảo ngược cả. Ở nơi khác, biết chơi ghi ta là anh đã có lợi thế. Còn đây à, ghi ta! Các chủ quán gãi đầu gãi tai. Ghi ta thì hiện đại quá, khách du lịch sẽ không ưa. Mùa thu rồi tôi kiếm được một chiếc ghi ta jazz loại cổ điển có lỗ thoát âm hình ô van, loại mà ngay Django Reinhardt cũng phải vừa ý, để nhìn vào không ai tưởng là một tay chơi rock. Như thế lẽ ra dễ chịu hơn, nhưng các chủ quán vẫn không hài lòng. Nói đằng thằng ra thì, một khi chơi ghi ta thì dù anh có là Joe Pass đi nữa, người ta cũng chẳng cho anh được một công việc ổn định ở quảng trường này đâu.

Thêm nữa, tất nhiên, lại còn cái chuyện nho nhỏ là tôi không phải dân Ý, nói gì đến dân Venice. Anh chàng người Séc thổi kèn saxo alto cũng chịu chung số phận. Người ta thích chúng tôi, ban nhạc cần chúng tôi, nhưng dù gì thì gì vẫn không có chỗ trong thực đơn chính thức cho chúng tôi. Chơi đi và ngậm mỏ lại, các chủ quán luôn nói thế. Như thế thì khách sẽ không biết cậu không phải người Ý. Mặc áo đuôi tôm, đeo kính râm vào, chải tóc lật ra sau, sẽ chẳng ai nhận thấy, miễn là đừng mở miệng.

Nhưng công việc cũng không đến nỗi tồi. Ban nhạc cả ba quán, nhất là khi phải chơi cùng lúc từ các rạp đối địch nhau, họ đều cần đàn ghi ta – cái gì đó nhẹ, chắc nịch, nhưng được tăng âm, đứng trong cùng mà phả ra các hợp âm. Chắc hẳn anh đang nghĩ, ba ban nhạc cùng chơi trên một quảng trường, hẳn phải hỗn loạn lắm. Nhưng Piazza San Marco rộng rãi đủ cho tất cả. Một người khách đi ngang quảng trường sẽ nghe thấy bản nhạc này dần tắt, giai điệu khác lớn dần, như khi dò sóng radio. Có một thứ mà khách du lịch không thể chịu đựng nhiều quá, đấy là nhạc cổ điển, những bản nhạc không lời phối nhiều cách khác nhau từ những điệu aria nổi tiếng. Tất nhiên, đây là San Marco, không ai đòi các ca khúc pop đang thịnh hành. Nhưng thỉnh thoảng họ cũng muốn thứ gì đó quen tai, có thể là một khúc trong nhạc kịch Julie Andrews ngày xưa, hay nhạc nền một bộ phim tên tuổi. Tôi nhớ có lần hè năm ngoái tôi đi từ quán này sang quán khác, chơi “Bố già” chín lần liền trong một buổi chiều.

Tóm lại là buổi sáng mùa xuân ấy, chúng tôi đang chơi cho một đám du khách khá đông đảo thì tôi nhìn thấy Tony Gardner, một mình bên cốc cà phê, gần như ngay trước mặt mình, cách rạp chỉ khoảng sáu mét. Người nổi tiếng đến quảng trường này không ít, chúng tôi chẳng bao giờ rộn lên làm gì. Kết thúc một bản, có thể sẽ nghe các nhạc công bảo nhỏ nhau. Nhìn kìa, Warren Beatty đấy. Nhìn, Kissinger kìa. Cái bà kia, ở trong cuốn phim có mấy người đổi mặt cho nhau đấy. Chúng tôi quen rồi. Đây là Piazza San Marco cơ mà. Nhưng khi tôi nhận ra đúng là Tony Gardner đang ngồi kia, thì khác. Tôi hào hứng thực sự.

Tony Gardner từng là ca sĩ yêu thích của mẹ tôi. Ngày xưa, ngày còn chính quyền cộng sản, chẳng dễ mà kiếm được những đĩa nhạc kiểu ấy, nhưng mẹ tôi có gần như đủ bộ đĩa của ông. Một lần hồi nhỏ, tôi làm xước mất một trong những đĩa nhạc quý báu đó. Căn hộ thì chật, mà một đứa bé trai như tôi hồi ấy không thể tránh khỏi lúc cuồng chân cuồng tay, nhất là trong những tháng mùa đông lạnh không dám ló mặt ra đường. Thế là tôi chơi trò nhảy từ cái xô pha nhỏ sang ghế bành, và trong một cú nhảy tôi nhắm nhầm mà lao thẳng vào máy quay đĩa. Cái kim rạch lên mặt đĩa đánh xẹt – đó là từ rất lâu trước khi có đĩa CD – thế là mẹ trong bếp chạy ra mắng tôi một trận. Tôi buồn bực lắm, không phải chỉ vì bị mắng, mà vì tôi biết đấy là đĩa nhạc của Tony Gardner, và biết mẹ quý nó đến mức nào. Và tôi biết cả cái đĩa này nữa rồi sẽ có những tiếng lụp bụp đế theo khi ông rủ rỉ những bài hát Mỹ. Nhiều năm sau, khi lên Warszawa làm việc và biết về thị trường đĩa lậu, tôi mua lại cho mẹ toàn bộ các an bum của Tony Gardner thay cho đĩa của mẹ đã mòn hết, kể cả cái tôi làm xước. Tôi mất ba năm cho việc đó, nhưng tôi cứ tìm được thêm, từng cái một, và mỗi lần về thăm mẹ tôi lại mang một cái về.

Vì thế chắc anh hiểu sao tôi lại hào hứng như vậy khi nhận ra ông ngồi cách mình chưa đầy sáu mét. Thoạt đầu tôi không tin vào mắt mình, và chắc là đã lỡ một phách trong chuỗi hợp âm. Tony Gardner! Thử nghĩ mẹ thân yêu sẽ bảo gì nếu biết điều này! Vì mẹ, vì những kỷ niệm về mẹ mà tôi phải đến nói gì đó với ông ấy, kể cả nếu mọi người trong ban nhạc có cười và bảo tôi cư xử như một gã hầu phòng.

Nhưng tất nhiên tôi không thể cứ thế chạy ào đến chỗ ông, đẩy nhào bàn ghế xung quanh được. Vẫn còn phải chơi cho xong suất. Đấy thật là một cực hình, anh thử nghĩ xem, chơi ba bốn bài nữa trong khi bất cứ lúc nào tôi cũng tưởng như ông sắp đứng dậy bỏ đi. Nhưng ông vẫn ngồi đấy, một mình, cứ nhìn cốc cà phê, khuấy chầm chậm như băn khoăn không hiểu bồi bàn mang cho mình thứ gì. Trông ông cũng giống như mọi du khách Mỹ khác, áo sơ mi xanh nhạt bẻ cổ và quần ống rộng màu xám. Tóc ông trên bìa đĩa đen và láng mượt là thế, giờ đã gần bạc, nhưng vẫn còn rất dày, và vẫn chải nuột nà theo cùng một kiểu ngày xưa. Khi tôi mới nhìn ra ông, ông cầm cặp kính đen trong tay – tôi không hiểu nếu không phải thế thì liệu mình có nhận ra ông không – nhưng trong lúc ban nhạc cứ chơi và tôi cứ nhìn, ông đẩy kính lên mắt, rồi lại bỏ ra, rồi lại đeo vào. Có vẻ ông đang chìm đắm trong suy nghĩ, và tôi hơi thất vọng thấy ông không để ý lắm đến nhạc chúng tôi chơi.

Rồi suất diễn cũng xong. Tôi vội vã ra khỏi rạp mà không nói gì với mọi người, đi thẳng đến bàn Tony Gardner, rồi trong một giây hoảng hốt không biết phải bắt chuyện thế nào. Tôi đứng sau lưng ông, nhưng giác quan thứ sáu nào đó đã mách ông quay lại nhìn lên tôi – chắc là do bao nhiêu năm được fan săn đón – và tích tắc sau tôi đã tự giới thiệu mình, rằng tôi hâm mộ ông đến mức nào, rằng tôi chơi trong ban nhạc ông vừa nghe, rằng mẹ tôi là fan ruột của ông, cứ thế một lèo. Ông lắng nghe hết sức nghiêm nghị, lúc lúc lại gật đầu như bác sĩ nghe bệnh nhân. Tôi cứ nói hoài mà ông chỉ đôi lúc bảo “Thế à?” Sau một lúc tôi nghĩ thế là đủ rồi và chuẩn bị xin phép đi thì ông nói:

“Thế ra anh là người ở mấy nước cộng sản ấy đấy. Sống ở đấy chắc khó khăn.”

“Đấy là ngày xưa thôi.” Tôi làm bộ vui vẻ nhún vai. “Bây giờ chúng tôi có một đất nước tự do. Và dân chủ.”

“Tốt quá. Và đội của anh vừa chơi cho chúng ta nghe đấy. Ngồi xuống đi. Anh dùng cà phê?”

Tôi nói không định ép ông chịu đựng mình, nhưng giọng ông giờ đã có vẻ hiền từ nhưng cương quyết. “Không, không, anh ngồi xuống. Mẹ anh thích nghe đĩa của tôi, anh bảo thế mà.”

Thế nên tôi ngồi xuống và kể thêm chút nữa. Về mẹ tôi, về căn hộ, thị trường đĩa lậu. Và dù không nhớ được tên các an bum, tôi quay sang mô tả hình minh họa trên bìa đĩa theo trí nhớ, và mỗi lần như thế ông lại giơ ngón tay lên mà noi, ví dụ: “À, đó chắc là Inimitable. The Inimitable Tony Gardner.” Tôi nghĩ cả hai đều đang thích thú trò chơi này, nhưng rồi, nhận ra ánh mắt ông Gardner trượt qua tôi, tôi ngoảnh lại vừa kịp thấy một người phụ nữ đang đi lại bàn.

Đấy là một điển hình của những bà người Mỹ hết sức quý phái, từ kiểu tóc tới phục trang lẫn dáng người, đến mức anh sẽ ngỡ họ còn trẻ lắm cho tới khi thấy họ thật gần. Nhìn từ xa, có lẽ tôi đã tưởng nhầm bà là một cô người mẫu trong các tạp chí thời trang giấy bóng. Nhưng khi bà ngồi xuống cạnh ông Gardner và đẩy cặp kính đen lên trán, tôi thấy bà cũng phải ít nhất năm mươi rồi, có khi hơn. Ông Gardner bảo tôi: “Đây là vợ tôi, Lindy.”

Bà Gardner thoáng mỉm với tôi một nụ cười có vẻ miễn cưỡng, rồi nói với chồng: “Còn đây là ai? Anh đã kịp tìm ra một người bạn rồi cơ à.”

“Đúng thế, em yêu. Anh đang trò chuyện vui vẻ với… Xin lỗi anh bạn, tôi vẫn chưa biết tên anh.”

“Jan,”tôi đáp nhanh. “Nhưng các bạn tôi gọi tôi là Janeck.”

Lindy Gardner nói: “Anh nói là anh có tên thân mật còn dài hơn tên thật à? Sao lại thế được?”

“Đừng khiếm nhã với anh bạn trẻ, em yêu.”

“Em không khiếm nhã.”

“Đừng bông đùa về tên anh ấy, em yêu. Thế mới ngoan chứ.”

Lindy Gardner quay sang tôi tỏ vẻ bất lực. “Anh có hiểu ông ấy nói thế là sao không? Tôi có lăng mạ anh à?”

“Không, không,” tôi nói, “không có đâu, bà Gardner.”

“Lúc nào ông ấy cũng bảo tôi khiếm nhã với công chúng. Nhưng tôi có khiếm nhã đâu. Nãy tôi có khiếm nhã với anh không?” Rồi sang ông Gardner: “Em nói chuyện với công chúng một cách tự nhiên, cưng ạ. Đấy là phong cách của em. Em không bao giờ khiếm nhã.”

“Được rồi, em yêu,” ông Gardner nói, “không nên chuyện bé xé ra to. Hơn nữa, anh bạn trẻ này không phải là công chúng.”

“Ồ, không phải à? Thế anh ấy là gì? Cháu họ xa vừa tìm được à?”

“Lịch sự đi nào, em yêu. Anh bạn trẻ đây là đồng nghiệp. Nhạc công, dân nhà nghề. Chúng ta vừa hân hạnh được nghe anh trình diễn.” Ông đưa tay về hướng rạp.

“Ồ đúng rồi!” Lindy Gardner lại quay sang tôi. “Anh vừa chơi trên đó phải không? Nhạc hay lắm. Anh chơi phong cầm, phải không? Hay lắm!”

“Cám ơn bà rất nhiều. Thực ra thì tôi chơi ghi ta.”

“Ghi ta à? Anh đừng đùa. Tôi vừa nhìn anh chơi có một phút trước. Ngồi ngay kia, cạnh tay chơi đại hồ cầm, điều khiển phong cầm điêu luyện làm sao.”

“Xin phép bà, thực ra người chơi phong cầm là Carlo. To béo, đầu hói…”

“Anh nói thật à? Anh không đùa tôi chứ?”

“Em yêu, anh bảo rồi. Đừng khiếm nhã với anh bạn trẻ.”

Ông không hẳn là lớn tiếng, nhưng giọng ông đột ngột đanh và giận dữ, và rồi một lúc im lặng khó xử. Rồi tự ông Gardner lên tiếng nhẹ nhàng:

“Anh xin lỗi, em yêu. Anh không định gắt em.”

Ông đưa tay nắm lấy tay bà. Tôi cứ nghĩ bà sẽ hất ông ra nhưng không phải, bà trở người trong ghế để nhích lại gần hơn, và đặt tay kia lên đôi bàn tay đang nắm chặt. Họ ngồi như thế một lúc, ông Gardner đầu cúi xuống, bà vợ nhìn mông lung qua vai ông, sang bên kia quảng trường về phía nhà thờ thánh Peter, dù có vẻ anh mắt bà chẳng đặt vào đâu cả. Trong phút chốc hình như họ không chỉ quên có tôi ngồi đây, mà quên đi cả đám đông nhộn nhịp trên quảng trường. Rồi bà nói, nhẹ như hơi thở:

“Không sao đâu cưng. Lỗi tại em thôi. Em làm anh bực.”

Họ ngồi như thế thêm lát nữa, hai bàn tay siết chặt lấy nhau. Rồi bà thở dài, buông tay ông Gardner và nhìn sang tôi. Bà đã nhìn tôi lúc nãy rồi, nhưng lần này thì khác. Lần này tôi cảm thấy được sức quyến rũ của bà. Cứ như bà có một mặt số chia độ từ không đến mười, và khi nhìn sang tôi, lúc đó, bà đã quyết định xoay tới sáu hay bảy; tôi cảm nhận được nó rất rõ, và nếu bà có mở miệng yêu cầu tôi điều gì – ví dụ như bảo tôi đi suốt quảng trường để mua tặng bà bó hoa chẳng hạn – chắc tôi sẽ hào hứng tuân theo lập tức.

“Janeck,”bà nói, “Đấy là tên anh, phải không? Tôi xin lỗi Janeck nhé. Tony nói đúng. Tôi không có quyền nói với anh như vừa rồi.”

“Bà Gardner, thật tình không có gì phải lo đâu.”

“Mà tôi lại làm phiền hai người nói chuyện nữa chứ. Chắc là chuyện âm nhạc, phải không? Thế này nhé, tôi sẽ để yên cho cả hai nói tiếp.”

“Không việc gì phải đi cả, em yêu,” ông Gardner nói.

“Thế mà có đấy cưng. Em đang thèm được ngó vào cái hiệu Prada đằng kia đến điên lên được. Em chỉ ra đây định bảo là em sẽ đi lâu hơn lúc đầu em nói thôi.”

“Thôi được rồi, em yêu.” Tony Gardner lần đầu tiên ngồi thẳng lên và hít vào một hơi. “Miễn là em biết chắc em sẽ vui.”

“Ởt rong đó em sẽ cực kỳ phấn khởi. Thế nên hai chàng trai cứ nói chuyện vui vẻ nhé.” Bà đứng dậy khẽ chạm vào vai tôi. “Tạm biệt anh, Janeck.”

Hai chúng tôi nhìn theo bà đi, rồi ông Gardner hỏi tôi dăm câu ba điều về chuyện đàn hát ở Venice, cụ thể là về ban nhạc quán Quadri lúc này vừa bắt đầu chơi lại. Ông không có vẻ chú tâm vào những câu trả lời mấy, và tôi đã định xin phép đi thì ông thình lình bảo:

“Có một điều tôi muốn đề nghị với anh, anh bạn trẻ. Tôi sẽ nói với anh ý nghĩ của mình và anh cứ việc từ chối nếu muốn.” Ông ngả người về phía tôi và hạ giọng. “Tôi kể với anh chuyện này. Lần đầu Lindy và tôi đến Venice là để đi trăng mật. Hai mươi bảy năm về trước. Và mặc dù đã có rất nhiều kỷ niệm tuyệt vời ở đây, chúng tôi chưa bao giờ quay lại, hay ít nhất là không quay lại cùng nhau. Thế nên khi lên kế hoạch cho chuyến đi này, chuyến đi đặc biệt này, chúng tôi tự nhủ mình cần nghỉ lại vài ngày ở Venice.”

“Đây là kỷ niệm ngày cưới của ông bà ạ, thưa ông Gardner?”

“Ngày cưới?” Có vẻ như ông giật mình.

“Xin lỗi,” tôi nói. “Chỉ là tôi đoán, vì ông vừa nói đây là chuyến đi đặc biệt.”

Trông ông vẫn ngơ ngác mất một hồi, rồi ông bật cười, tiếng cười lớn, rền vang, và bỗng nhiên tôi nhớ ra bài hát mà mẹ tôi vẫn hay bật nghe suốt trong đó ông có nói một đoạn ngắn ở giữa bài, đại ý là ông không bận tâm đến người đàn bà đã bỏ ông mà đi, rồi thì ông cười khinh miệt đúng y như thế này. Giờ tiếng cười ấy vang khắp quảng trường. Đoạn ông nói:

“Ngày cưới à? Không, không phải ngày cưới. Nhưng điều tôi định đề nghị với anh cũng không khác lắm. Bởi tôi muốn làm một điều thật lãng mạn. Tôi sẽ hát cho bà ấy nghe từ dưới khung cửa sổ. Đầy kiểu cách, đúng chất Venice. Đây là lúc cần đến anh. Anh chơi ghi ta còn tôi hát. Ta sẽ dùng một chiếc gondola, ta bơi thuyền đến dưới cửa sổ, tôi hát vọng lên chỗ bà ấy.Chúng tôi thuê một palazzo cách đâykhông xa. Cửa sổ phòng ngủ trông thẳng ra kênh. Khi trời tối, đấy sẽ là khung cảnh lý tưởng. Đèn trên tường tạo sáng đúng như ý. Anh và tôi trên thuyền, bà ở bên cửa sổ. Tất cả những bài bà ấy thích. Chúng ta không cần phải làm nhiều, ban tối vẫn còn khá lạnh. Chỉ độ ba bốn bài thôi, tôi hình dung thế. Tôi sẽ lo cho anh được bồi dưỡng đủ. Anh nghĩ sao?”

“Ông Gardner, đấy sẽ là vinh dự lớn nhất đời tôi. Như tôi đã nói, ông là một nguồn ảnh hưởng quan trọng đối với tôi. Ông định khi nào?”

“Nếu trời không mưa thì sao không phải luôn hôm nay? Khoảng tám giờ rưỡi? Chúng tôi ăn tối rất sớm, giờ ấy đã về rồi. Tôi sẽ bịa chuyện gì đó để ra khỏi căn hộ, ra ngoài gặp anh. Tôi sẽ lấy một chiếc thuyền, chúng ta quay lại dọc con kênh, dừng ngay dưới cửa sổ. Đâu sẽ vào đấy. Anh nghĩ thế nào?”

Chắc anh cũng thấy, thật chẳng khác gì giấc mơ thành sự thực. Thêm nữa, đây là một ý tưởng đáng yêu biết bao, đôi vợ chồng này – chàng sáu chục, nàng năm chục xuân xanh – cư xử như một đôi thiếu niên mới biết yêu. Thực tế là ý tưởng ấy đáng yêu đến nỗi suýt nữa – nhưng chỉ suýt thôi – tôi quên bẵng cảnh tượng vừa xảy ra giữa họ. Ý tôi là, ngay cả lúc ấy, ở đâu đó tận sâu bên trong, tôi cũng linh cảm mọi việc sẽ không giản dị như ông vẽ ra.

Một lúc sau ông Gardner và tôi ngồi lại bàn bạc các chi tiết – ông muốn bài nào, chơi tông gì, những chuyện kiểu đó. Rồi đến lúc tôi phải về rạp tiếp tục suất diễn sau, nên tôi đứng dậy, bắt tay ông và nói ông có thể tuyệt đối tin tưởng ở tôi tối nay…

Advertisement

HỒI

 

Rồi J sẽ về lại nhà cũ. J đi quá lâu rồi. Nhà hoang vắng theo bụi mù . Ngày J đi, đang còn mùa xuân, nay xuân tàn hạ tận. J về lại chỗ cũ, nghe mưa thu, gió lật sau hè nhà. J về, rồi cũng một mình như ngày J đi.

 

Những ngày J về lại, đêm dài ơi là dài. J gọi đêm vắng, mày trắng hay đen, đêm không trả lời. Không một cái bóng nào hiện hình trên tường trắng. J hỏi bức tường, người đi đâu hết rồi, bức tường câm lặng nhìn J. Mưa vẫn rì rào ngoài hiên, J ngồi nhìn tiếng mưa, sao không có tiếng ai cười? J hỏi, nhưng mưa vẫn cứ mải miết rơi. J hỏi nhiều nơi, nhiều thứ. Nhưng chừng như cả thế giới quay lưng lại với J, như khi mà một người quay lưng với J.

Ở một kiếp nào đó, J thấy mình là cây tuyết tùng cô đơn trên đồi hoang, nơi nhưng cơn mưa không động đến, những cơn gió không thổi đến. Gió ơi, J gọi không nguôi trong những đêm đen, nhưng gió không trả lời. Cầm chắc sự đơn độc trên hai tay, J gọi trên một ngọn đồi , J gọi trên những ngọn đồi, những ngọn đồi không có gió.

J trở về , với mảnh vỡ của tấm gương trong mắt, tấm gương của con quỷ bị vỡ ngày Anderson ra đời, mảnh vở nằm buốt lạnh trong tim Kay đã lâu, nay ghim sâu vào mắt J nhức nhói. Cánh đồng trong mắt J không còn màu xanh, cánh đồng úa vàng rồi. Những buổi sáng không còn tươi tắn trong mắt J, những buổi sáng mỏi mòn. Con suối nhỏ cũng không còn trong veo nữa, con suối đục ngầu réo thác giận dữ.

Ở một kiếp nào đó, J chơi trò đuổi bắt một mình, như con rắn nuốt đuôi mình. Vòng xoay vòng xoay vòng xoay. Trong những đêm u ám kéo dài, J tự đuổi bắt bóng mình trước mặt, trong những chiều gió hú, J ngồi bên hè nhà và tự nói chuyện với mình, hai con búp bê ngồi nhìn nhau, và J luân phiên đổi vai. Này búp bê, cuộc sống này có gì vui không? Không, không còn gì ngoài những lừa dối cay đắng. Những lời yêu dấu ngọt ngào sẽ nhanh chóng chấm dứt, khi sân khấu hạ màn. Này búp bê, có yêu thương thật sự trên cõi đời này không? Đừng mơ mộng nữa, yêu thương cũng như khói thuốc tan mau thôi. Này búp bê, thế em có thật không? Tình yêu của em có thật không? Thôi, tỉnh lại chưa? Em chỉ đến với J lúc em chán nản với tình yêu của em, em mượn J để lấp những trũng sâu hoang vu nhất thời của em thôi. Khi mà mọi thứ trở lại quỹ đạo của nó, em rồi sẽ quên J. Con búp bê khép mắt lại, trên môi vẫn nụ cười đông cứng muôn thuở. Ngủ đi búp bê ơi.

J trở về chỗ cũ trong một ngày cuối mùa thu, khi giấc mộng biến tan như sương buổi sớm trên đầm lầy. Giá như có một cái với tay níu giữ J nhỉ, J thầm ước như thế, nhưng không có bàn tay nào. Xung quanh ẩm và lạnh. Thảo nguyên hoang vắng như những chiều mưa rừng. Ừ mưa rừng ơi, nhớ ai mà triền miên vậy? J muốn gào lên, những chỉ có tiếng J vọng qua vách núi đáp lời.

J trở về và soi mình trong tấm gương của Anderson, chỉ thấy hình hài méo mó gầy gò thảm hại, nhan sắc đã rời bỏ J mà đi, khi vùng thương tổn lan từ phổi rộng ra gan ruột và di căn trong não J, J biết mình vĩnh viễn không thể phục hồi. Hãy nhìn xuống chân đi J. Những ngọn cỏ nói, giun dế đang chờ đón đấy. Một ngày, chúng sẽ đục những lỗ đều đặn trên mặt J, trên má J, trên mắt J, cả trên đôi môi xinh đẹp vẫn còn kịp thắm đỏ kia. Hãy nhìn xuống chân đi J, những bông hoa không hề nở nữa, khi những giọt nước cuối cùng đã bốc hơi từ lâu qua các ngọn đồi.

Ở một kiếp nào đấy, J quên mất tiếng nói, những âm thanh trong suốt như ngọc Mị Châu rơi lả tả trên đất ẩm, tan nhanh như sương. Bên cửa sổ, J ngóng trăng như sói, chờ tiếng tru của đồng loại mình, nhưng trăng im lặng, và trong vắt, chảy nhểu nhão qua kẽ lá rồi xiên lỗ chỗ trên tay trên mặt J. J cúi tìm mình trên mặt đất, không nhìn thấy gì, chỉ có hình hài hoang vu của mặt đất trong cơn u ám. Bóng J ở đâu, J tìm quanh căn phòng vắng, mặt sàn trắng bóng không chút tỳ vết, cái bóng của J lọt qua kẻ gạch men mà thấm đi? J lần mò trên tường, lần mò trên bàn phím, màn hình lộn xộn những lật lọng quái đản, những cuộc tập trận mù khói thuốc súng, những hình hài khô đét quắt queo dự thi nhan sắc, tuyệt nhiên, J không thấy bóng mình. J lần tay trên mặt đàn, chỉ những âm thanh rời rạc rớt ra rồi rơi xuống loảng xoảng như gương ở, âm thanh của tiếng cello trượt qua cầu thang tối ẩm của khu chung cư cũ nát, rơi xuống lòng đường. J lục tìm hai con ngươi của mình, ở đấy chỉ còn hai hố rỗng sâu hút, hèn chi, J nghĩ, mình không còn nhìn thấy bóng mình. J lắng tai nghe tiếng bước chân của bóng, bóng ơi, có còn bên J không? Nhưng không có tiếng trả lời. Hai tai của J đã mất, cõi thinh lặng chỉ mình J độc thoại. Những ngón tay chạy trên các quãng tám câm lặng. Như những tiếng chuông kêu trong tranh, kêu và không phát ra âm thanh, không phát ra ánh sáng.

J về, ngồi bên bờ suối, tảng đá lạnh lẽo dưới chân. Bờ vai gầy guộc già nua run lên theo từng nhịp lục huyền cầm. Chiếc mũ vải úa tàn che nửa khoảng tối khuôn mặt. Những thanh âm cũ nát, rã rời vọng giữa những con nước.

J về, ngồi lại lắng nghe giữa những buổi chiều tàn, hay giữa những bình minh hoang vu, tiếng bước chân em vọng qua những phiến đá lát sân nhà, nhưng những âm thanh ấy cứ mỗi ngày một yếu dần đi rồi mất hẳn.

J về, lại vây hãm mình trong bốn bức tường trắng. Tự vây hãm mình trong những âm u ngàn năm của phận người. Mỗi ngày, mặt trời thủng lỗ chỗ qua kẽ lá, đổ ào ạt qua khung cửa sổ, những giọt nước mắt mỗi ngày vẫn rơi xuống trong tối tăm. Chảy loang loáng trên những đường ray bỏ hoang , những ga tàu bỏ hoang, những trạm điện thoại bỏ hoang từ lâu không ai dùng đến.

Ở một kiếp nào đấy, J thấy mình là cây tuyết tùng cô đơn với cành lá xõa xượi trong cơn mưa đêm qua. Nghi thức triệu hồi không còn gióng lên những tiếng chuông lảnh lói nữa. Hàng vạn đêm đen đã trôi qua J. Hàng ngàn tiếng thét đớn đau đã trôi qua dưới bầu rời nắng lạnh lẽo này. Những vị thần đã ra đi, đã rời khỏi Olympus từ lâu, trên ngọn đồi này, chỉ còn mình J, hốc hác, rách rời.

Ở một kiếp nào đấy, J ngồi trên ngọn đồi, nơi cây tuyết tùng vừa bị đốn bỏ bằng lưỡi cưa đêm qua. Người con gái qua đường với mái tóc rực lửa đã dừng lại, những tiếng nhạc ngân nga vẳng qua các ngọn đồi. Chiếc violon làm bằng những sợi tơ máu của J, của cây tuyết tùng đã bị đốn, và với thanh vĩ bằng nhánh hoa hồng. Những giọt thanh âm thẫm màu rơi xuống, lăn ra xa và nhuốm đỏ những ngọn đồi.

Hoàng Phương Uy

( J là Jane, là người đã kể câu chuyện này)

Giấc mơ cỏ dại.

tranthitrucha

Có phải em là Tịnh Thảo không ?
Ôi! Thầy… Hoàng tử…

Đã từ lâu anh không còn đợi ai
Mùa đông đã vắng tiếng mưa dài
Mùa thu áo trắng tìm đâu nữa
Mộng cũ ơ hờ theo gió bay …

Anh nhớ ngôi trường Phan Châu Trinh và con đường Quang Trung rợp bóng cây xanh đi qua đường Lê Lợi đầy phượng vỹ ngày đó lắm Thảo à. Bây giờ ngôi trường và con đường có còn như xưa không em?
Con đường vẫn như ngày cũ nhưng ngôi trường thì không còn nữa anh à !
Vì sao hở em ?
Nó gần đổ nát rồi, người ta đã xây dựng một ngôi trường mới khang trang hơn đối diện với ngôi trường cũ…
Vậy sao?!… Vậy mà anh vẫn mơ một ngày nào đó về thăm lại ngôi trường cũ. Anh nhớ lắm!
Anh nhớ ngôi trường hay nhớ kí ức tuổi thơ?
Anh nhớ ngôi trường, nhớ bãi cỏ xanh ven triền sông quê ngoại của em. Ttrong giấc mơ anh vẫn thường nhìn thấy một ngôi nhà trên cỏ…
Hoàng tử ơi, em cũng nhớ về những ngày tháng cũ!….

Một bầy con gái bu quanh gốc mận trong khu vườn đầy nắng, nhỏ Niên đeo tòn ten trên cây mận nói với xuống:
Nè, nhỏ nào chạy vào bếp lấy cái rổ to to hứng mận, chứ ta đôi xuống dập hết còn đâu mà ăn. Nhớ lấy muối ớt luôn.
Con Tịnh Thảo vào lấy chứ ai, nó rành đường đi nước bước nhà nhỏ Niên quá mà.
Ơ!… Sao lại ta mà không là đứa khác.
Nhỏ Niên nó chấm mày làm chị dâu nó, mày phải tập làm quen với bếp núc nhà nó là vừa…
Thôi ta không thèm ăn mận đâu, kệ tụi bây. Thảo phụng phịu gần khóc, nhỏ Niên từ trên cây hét toáng:
Tụi bây nhiều chuyện quá, ta tụt xuống là tụi bây nhịn nghen.
Nhỏ Hằng giở màn năn nỉ thật đểu:
Thôi Thảo à, nhà mi hy sinh vì mận đi, tổ quốc sẽ ghi công mi.
Những chùm mận lủng lẳng trên tay nhỏ Niên thật hấp dẫn, cả bọn nuốt ực nước miếng, Thảo đành ngậm đắng đi vào bếp nhà nhỏ Niên. Anh Sang đã đứng đó tự bao giờ, chìa cho Thảo cái rổ và đĩa muối ớt, anh cười với Thư thật hiền:
Anh tìm sẵn cho Thảo rồi đây. Nói với các bạn ăn lẹ rồi vào học chứ thầy gần đến rồi đó!
Dạ!… mà anh Sang nè, thầy là bạn anh hở? Thầy dạy có dễ hiểu và có hiền không?
Yên chí đi nhóc, đó là một Hoàng tử, ngày xưa học toán giỏi nhất lớp anh nhưng anh nói trước không hiền đâu, hiền làm sao dạy nổi mấy cô.
Hoàng tử? Sao lại là Hoàng tử ?
Vì thầy thuộc dòng họ vua chúa , tên thầy là Bảo Yên, ngang vai với con vua Bảo Đại… Hiểu chưa?
Nhưng sao Hoàng tử mà phải dạy kèm?
Lo học đi, đừng thắc mắc nhiều mau già đó nhóc, thời thế thế thời thời phải thế.
Thảo tròn xoe mắt nhìn anh Sang không hiểu anh nói gì, nhưng ở ngoài vườn tiếng bọn nó chát chúa vang vang:
Đó, ta nói có sai, hắn vào trong đó là bị ông anh quý tử của nhỏ Niên bắt cóc rồi. Thảo ơi là Thảo, nhà mi ở đâu, hú ba hồn chín vía hiện về ngay.
Anh Sang tủm tỉm cười còn Thảo thì nóng ran hai má , vội vàng cầm rổ chạy ra, vấp phải cục đá té cái ạch, đau thấu trời xanh, bọn nó cười nghiêng ngã:
Niên ơi là Niên! Sao nhà mi lại chọn chi con nhỏ hậu đậu nhất bọn làm chị dâu hở Niên?
Thảo vừa đau vừa xấu hổ oà lên khóc tức tưởi. Nhỏ Niên tuột từ trên cây xuống nạt:
Im hết, tụi bây ăn hiếp hắn vừa thôi.
Anh Sang cũng bước ra vườn, tay cầm bông gòn và chai thuốc đỏ, giọng lo lắng:
Có sao không Thảo? Chảy máu đầu gối rồi kìa, để anh bôi thuốc cho.
Thảo hoảng hồn. Úi ! Úi, không được đâu.
Cả bọn cười ồ
Nó là con ma xấu hổ, anh để em bôi thuốc cho nó và anh chịu khó trèo lên hái mận cho nó ăn là nó hết đau liền.
Anh Sang lắc đầu: “Tui hết biết mấy cô luôn”. Nói vậy nhưng anh vẫn thoăn thoắt trèo lên. Anh lúc nào cũng chìu em gái và lũ bạn của nó mà.

Thầy đến bằng chiếc xe đạp cà tàng, dáng cao gầy, khuôn mặt nghiêm nghị lạnh băng. Nhỏ Hằng nói nhỏ với Anh Thư :
Thầy là Hoàng tử đó, mi coi thử có bà con gì với cái họ dài lòng thòng “Công Tằng Tôn Nữ Anh Thư” của mi không “?
Im mầy, Thầy cùng vai vế với ông nội ta đó !
Hihi… Vậy mi phải gọi thầy là” ông nội Thầy”.
Giọng thầy thật ấm nhưng rõ , dứt khoát:
Chương trình Toán lớp 12 hơi nặng, các em cố gắng học đều để học hết chương trình sớm , sau đó chúng ta sẽ tập trung giải đề thi.
Nhỏ Tuyết láu táu:
Gì mà căng dữ vậy thầy, mới ngày đầu tiên, cho giao lưu đi thầy.
Thầy thản nhiên như không nghe tiếng mè nheo, cầm viên phấn trắng tiến về phía bảng đen và bắt đầu thao thao bất tuyệt. Cả bọn lắc đầu ngán ngẩm.

Mùa hè oi nồng, nắng rát bỏng, ve râm ran trên cành mận nghe muốn điếc tai và nhưng đề toán khô khốc thật khó thương, Thảo rên rĩ:
Thầy ơi, thư giãn một chút đi thầy, bọn em stress rồi.
Thầy đôi viên phấn vụn ra ngoài cửa sổ và cười thật hiền:
Niên vào mượn cây đàn của anh Sang, thầy sẽ đàn cho các em nghe bài hát thầy mới viết.
Hoan hô thầy Hoàng tử!
Nhưng nghe xong l phải học trở lại nghiêm túc nha!
Nhỏ Tuyết lắc đầu:
Thầy nghiêm túc phát… sợ!
Tiếng đàn guitar dìu dặt thật da diết quyện với giọng ca của thầy thật ấm..
Thảo như bị thôi miên…
Tiếng nhỏ Tuyết vang lên
Thầy ơi , thầy bắt mất hồn Tịnh Thảo rồi.
Thảo vùng chạy ra khỏi ngôi nhà của Niên, ánh mắt anh Sang buồn bã nhìn theo…

Buổi sáng trời mưa tầm tã. Gần thi rồi,Thảo không dám đến nhà nhỏ Niên từ hôm đó, sợ khuôn mặt lạnh lùng với đôi môi mín chặt của Niên, sợ ánh mắt buồn buồn của anh Sang nên Thảo trốn biệt ở nhà tự ôn bài. Những bài giải tích hóc búa, phải chi có thầy Hoàng tử… Mưa mùa hè mà dầm dề như mùa đông, suốt hai ngày không dứt . Nhà Thảo ở gần sông, từ cửa sổ của căn gác gỗ Thảo nhìn thấy mặt sông bình yên trắng mờ trong mưa. Có tiếng gọi trước cổng nhà. Trời mưa mà ai đến lúc này? Thảo cầm chiếc dù chạy ra :
Ôi Thầy!… Sao thầy biết nhà em ?
Gần đến ngày thi rồi mà sao em không đến học hở Thảo?
Tại vì…
Thầy hiểu… Thôi thầy sẽ đến đây dạy riêng cho Thảo vậy.
Ơ… Thầy…
Thầy biết Thảo mất căn bản về toán giải tích, thầy sẽ dạy lại phần cơ bản cho Thảo.
Thầy đã nói là làm. Khi nắng vàng rơi rớt trên bãi cỏ triền sông, khi mưa giông ào ào kéo về như thác lũ, thầy vẫn đến đều đặn mỗi chiều. Và khi đã dạy, thầy say sưa giảng giải, lạnh lùng, nghiêm khắc, mặc cho Thảo mệt mõi mè nheo:
Đau đầu quá thầy ơi, cho giải lao đi thầy!
Ráng học cho xong, rồi thầy sẽ đàn cho Thảo nghe.
Dạ!..
Thảo ngoan lắm!
Mắt thầy nhìn Thảo thật lạ.

Thầy ơi, cho Thảo hỏi thầy một câu thôi:
Thầy nghe đây, em hỏi gì cứ hỏi, nhưng không được dài dòng lôi thôi nha:
Thầy có phải là Hoàng tử không?
Vì sao em hỏi vậy?
Vì… Thầy hứa đừng cười Thảo nha.
Thầy hứa .
Vì lúc nhỏ Thảo thích làm công chúa lắm. Ai cũng trêu chọc Thảo, chỉ có ba gọi Thảo là “công chúa của ba”.
Thầy là Bảo Yên, ngang vai vế với con vua Bảo Đại. Thầy là cháu đời thứ năm của vua Minh Mạng.
Ôi!… Sợ bệ hạ quá ! nô tỳ có lỡ dại nói gì phạm thượng bệ hạ xá tội ha ?
Không phải ai trong dòng họ Hoàng tộc cũng có thể làm vua đâu em à.
Thầy mất mẹ từ năm lên hai tuổi, sống với ba và mẹ kế, còn bất hạnh hơn những người ngoài hoàng tộc.
Thảo lặng người !

Ngày cuối cùng của buổi học, thầy và Thảo cùng trầm ngâm. Thầy tập trung giảng nốt những bài toán khó, Thảo chăm chú lắng nghe, nhưng dường như không hiểu gì. Thầy nhìn Thảo lắc đầu:
Thảo đừng nói gì lúc này hết, thầy cũng vậy, hãy tập trung thi thật tốt, điều gì đến rồi sẽ đến Thảo nha.
Dạ…
Thầy biết là Thảo ngoan mà!.

Những ngày chờ đợi kết quả thật căng thẳng, chán nản. Thầy dỗ dành, động viên Thảo như trẻ con:
Đừng lo, thầy tin là Thảo sẽ thi đỗ mà .
Thầy xót xa nhìn Thảo gầy rộc và xanh mét vì lo âu.
Thầy à, Thảo muốn về thăm ngoại một thời gian
Nhà ngoại ở đâu?
Đi đến cuối con sông này là nhà ngoại
Ngoại ô thành phố ?
Dạ, gần chiếc cầu gãy, nhà ngoại cũng nằm bên sông.
Để thầy đưa Thảo về đó .
Con đường đi về quê ngoại có những bãi cỏ xanh ngút ngát, những chú trâu hiền lành gặm ngon lành từng vạt nắng chiều, những cánh cò trắng hồn nhiên đi lại trên lưng trâu thật yên bình.
Tuyệt vời Thảo à, ước gì mình có một ngôi nhà trên cỏ.
Để làm gì hở thầy?
Thầy nhìn vào mắt Thảo thật lâu… rồi lắc đầu
Em còn nhỏ quá Thảo ơi!… Thầy không nỡ… Thầy sắp đi thật xa, không biết có còn gặp lại?
Đất dưới chân như lún sâu đến tận cùng, Thảo oà khóc:
Thầy ơi!… Đừng đi
Thảo nghe thầy nói nè.
Thảo đừng gọi thầy nữa, vì từ bây giờ anh không còn dạy Thảo và anh sẽ ở bên cạnh để dỗ dành nên Thảo phải mạnh mẽ hơn, Thảo phải sống thật hạnh phúc thì anh mới yên lòng.
Thảo nói trong tiếng khóc:
Em hiểu rồi, anh thuộc về dòng họ Hoàng tộc, còn em chỉ là cô Tấm nghèo hèn, em phải ở lại với ruộng đồng, cây cỏ, với dòng sông…
Đừng nói vậy đau lòng lắm Thảo. Nếu là Hoàng tử anh cũng sẵn sàng quỳ xuống chân một cô Tấm ngoan hiền như em. Em biết điều đó không hở Thảo?
Hoàng tử ơi.
Vậy mà anh đi biền biệt!…

Anh về gom nắng hư hao
Dây tơ hồng úa
Trăm năm tình lỡ
Nghẹn ngào những giấc mơ…
Giấc mơ cứ trở về trong anh , lãng đãng như sương như khói…
Anh đưa Thảo băng qua những đồng cỏ xanh ngút ngàn dẫn vào con đường làng quanh co…
Em ghét tên của em lắm Hoàng tử à, nghe sao yếu đuối, hèn mọn quá!
Em khờ khạo quá Thảo à, em tưởng đá cứng rắn lắm sao ? nước chảy đá cũng mòn và nước cũng chẳng mạnh mẽ gì, nước cũng trôi đi và hoá thành mây. Còn cỏ có một sức sống bền bĩ. Người ta có vùi dập, có đốt cháy thì đến mùa xuân cỏ vẫn hồi sinh trở lại.
Em không thích sống dai dẳng vậy đâu Hoàng tử à.

Bây giờ nơi anh ở là mấy giờ rồi hở anh?
Năm giờ chiều em à, có gì không em? Sao em cứ hỏi hoài về thời gian vậy?
Vì em muốn tưởng tượng ra nơi anh ở như thế nào. Buổi chiều ở đó đang nắng hay mưa? Chắc trời lạnh lắm hở anh?
Nắng ở đây hiếm hoi lắm em à! Tuyết đang rơi, may mà anh đi làm về kịp, nếu không sẽ không thấy đường lái xe về nhà đó em.
Anh ăn tối chưa ? Nàng có nấu cho anh những món anh thích không?
Nàng cũng vừa lái xe về sau anh năm phút, ăn uống đơn giản thôi em à! Nàng làm việc cả ngày cũng mệt lắm rồi!
Em hiểu . Anh cố gắng chăm sóc nàng và các con thật tốt nha anh.
Tịnh Thảo ơi, em vẫn hồn hậu như ngày xưa!

Hoàng tử! chiều nay gió thật lạnh nhưng em vẫn lang thang bên bờ sông với những cơn ho rát buốt, em thèm được khóc như một đứa trẻ …
Chẳng hiểu như thế này là em đã tự làm mình đau hay ai làm em đau?!…
Em là ai hở anh ? Sao suốt cuộc đời này em cứ mãi miết đi tìm một cái ta u buồn của chính em!
Lễ hội đã tan, Hoàng tử trở về cung, chàng chẳng đi tìm cô Tấm tội nghiệp làm gì, chiếc hài đỏ nàng vội vàng bỏ lại nằm chơ vơ trên cỏ…
Tịnh Thảo ơi, trái tim anh nhói đau khi đọc những dòng em viết !…

Hoàng tử à, bây giờ là 3 giờ chiều thì bên đó là mấy giờ?
Anh đã thắc mắc vì sao em cứ hỏi hoài câu đó?
Vì em lãng đãng hay quên, mà lại muốn biết về thời gian và không gian nơi anh đang sống. Như bây giờ đây em phải khó nhọc hình dung ra anh đang làm gì, nghĩ gì, vui hay buồn, thanh thản hay bất an?
Anh nói rằng anh hết buồn rồi và cảm giác trống rỗng thật đáng sợ? Cảm giác đó thường xuyên có trong em anh à! Đó là cảm giác của sự cô độc, chông chênh… Ta sống trong ngôi nhà của cùng với những người thân vậy mà sao như ta đang sống một mình trên hoang đảo?!…Cảm giác đơn độc như Robinson đang khó nhọc nhóm lửa trong cơn mưa?!… Và nước mắt cay nồng!… Gió se sắt lạnh và nắng cũng nhạt nhoà u buồn… Trời đã bắt đầu sang đông rồi anh à, em muốn anh thức dậy và nói cười với em, Hoàng tử à, như có lần anh đã nói: “Anh sẽ làm bất cứ điều gì cho Tịnh Thảo cười “. Sao bây giờ anh không làm điều đó như anh đã hứa?

Ôi Tịnh Thảo !
Bình minh của em là bóng đêm của anh.
Dường như chúng ta đã sống ở hai thế giới khác nhau.
Chẳng khác gì âm dương cách trở.
Biết làm sao bây giờ hở em ?!…

Hoàng tử yêu thương!
Bây giờ là đêm, em không ngủ được.
Làm sao em có thể vượt qua bóng đêm cô độc này hở anh?
Anh đã hao gầy trong nỗi buồn nào đó mà em vẫn chưa biết được, cuộc đời anh như khép kín trước em, vậy mà em vẫn yêu anh đến rát buốt …
Phải chăng đó là định mệnh!
Định mệnh thật khắc nghiệt khi để anh và em gặp lại nhau ở cuối con đường mây bay, không phải là con đường trên mặt đất.
Những giọt nước mắt của anh trong cơn say là những giọt nước mắt đẹp nhất mà anh chắt lọc nó từ tâm hồn anh … Cho em được trân trọng nắm giữ nó trong sâu thẳm nhất của trái tim em…Hình như ta đã đi tìm nhau từ tiền kiếp Hoàng tử à! Trong giấc mơ trinh nguyên của thời con gái bóng dáng chàng hoàng tử Bảo Yên đã hiển hiện tự thưở nào
Anh và em gặp lại nhau trong giấc mơ và chia tay vội vã trong bóng đêm chập chờn, để rồi khi bình minh thức giấc ta trở về với những lo toan của cuộc sống đời thường…
Chúng ta đã tìm đến nhau trong nỗi cô độc tâm tưởng và chia sẻ tất cả buồn vui của một kí ức tràn ngập yêu thương. Ta đã bình yên và hạnh phúc trong thế giới riêng của ta . Tâm hồn ta đã bay lên với những với những hoài vọng tinh khôi… Vậy mà ta vẫn không thoát khỏi cội rễ đời thường đã bám sâu từ mặt đất .
Chúng ta đều đã đi qua một đoạn đường quá dài, ở đó ta vướng vào những món nợ của cuộc đời mà ta chẳng bao giờ trả hết, một mái nhà và những người thân… Ta mắc nợ họ và biết ơn họ vì họ đã cho ta một chốn về ấm áp… Có phải không anh ?
Dù chỉ là cõi tạm ở chốn nhân gian thì ta cũng từng gắn bó và yêu thương …
Nhiều lần em đã tự hỏi rằng ta có quyền sống cho niềm đam mê của riêng mình hay không?!… Lúc nào em cũng cố kiềm nén cảm xúc của chính em để sống cho người thân… Cho đến khi gặp lại anh thì em quên tất cả… Những lúc giật mình nhìn lại, em sợ chính em,
Bảo Yên thương yêu !
Em biết làm gì bây giờ ?!
Ngoài trốn chạy anh…
Dù điều đó làm đau buồn suốt quãng đời còn lại của em!…

Anh van xin em, đừng rời bỏ anh, anh không chịu nổi đâu Tịnh Thảo ơi!…

Anh thương yêu
Lần cuối viết cho anh thật nhiều muộn phiền và đắng đót!
Em chuẩn bị vào bệnh viện và lại đối đầu với một cuộc phẫu thuật. Em đã trải qua nhiều cuộc phẫu thuật nguy hiểm mà không hiểu vì sao em vẫn vượt qua, vẫn tồn tại trên cuộc đời này với những đớn đau dằn vặt cả thể xác lẫn tâm hồn.
Không biết phải bắt đầu từ đâu, sao anh lại tìm gặp em và nói những lời yêu thương, khi chúng ta đã đi gần hết con đường…
Phải chi anh đừng nhớ về kí ức, anh đừng khóc vì tuyệt vọng, anh đừng gởi cho em những bài ca với giai điệu da diết, đầy khắc khoải về thân phận con người…
Chúng ta là những kẻ bất hạnh ! Dường như chúng ta không có quyền được sống, chúng ta chỉ tồn tại… Tự do, tình yêu, hạnh phúc, đam mê về nghệ thuật thi ca nhạc hoạ… đều bị kiềm chế đến mức dồn nén để lúc nào ta cũng như kẻ mộng du hoang tưởng lang thang trong bóng đêm cô độc…
Đó là lí do mà có lúc em hỏi anh: Em là người hay là ma ?!…
Anh thương yêu
Cô bé đó như một thiên thần! Em ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thánh thiện của nó. Không biết các nàng công chúa trong triều Nguyễn ngày xưa có đẹp như nó không?!… Nó đã thừa hưởng tất cả những ưu điểm của anh và nàng. Em như sững sờ trước vẻ đẹp của nó. Và nó đã xử xự rất thông minh, khôn khéo. Con là Miên Thảo, thì ra ba đã đặt tên con trùng với tên cô, điều đó chứng tỏ rằng ba con dù có ở đâu , sống với ai cũng không nguôi nhớ thương cô… Nhưng ở đây lạnh lắm cô à, gia đình con cần có ba…
Nó đáng yêu hơn là đáng trách, Nó yêu anh và muốn anh là của nó và gia đình nó. Đó là điều hoàn toàn chính đáng anh à! Thế hệ nó lớn lên may mắn hơn thế hệ chúng ta nên nó rạch ròi và sòng phẳng, hơn nữa nó vẫn hoàn toàn còn là đứa trẻ, vậy nên chúng ta không có quyền đánh mất niềm tin thơ trẻ. Anh và em cách nhau nửa vòng trái đất, sẽ không bao giờ gặp lại, dù chỉ là cuộc gặp gỡ trong thế giới ảo mong manh này.
Thôi đành vậy! Vĩnh biệt anh! Hoàng tử u buồn!
Em trở về với thân phận cô Tấm, một cô Tấm không bao giờ trở thành hoàng hậu, không bao giờ trả thù một cách độc ác, cay nghiệt như cô Tấm trong giấc mơ cổ tích. Em sẽ mãi mãi là cô Tấm hiền lành sống an nhiên sống với cây cỏ, ruộng đồng, dòng sông…

Tịnh Thảo ơi, vậy là thêm một lần anh mất em.
Hãy tha thứ cho bất hạnh của cuộc đời anh, vì đã không giữ em được, làm sao được?!

Tôi đã mơ về ngôi nhà trong cỏ
Ánh bình minh mời gọi tiếng chim về
Áng mây trắng bồng bềnh trong nắng ấm
Những giọt sương long lanh trên đầu ngọn cỏ
Có tiếng em lay thật khẽ:
Dậy đi anh!
Đón ngày mới cùng em

Khi bóng chiều nhuộm hoàng hôn tím thẫm
Chúng tôi nhìn đàn chim bay về tổ
Những cơn gió heo may se sắt đi qua
Tôi ấp ủ em trong vòng tay ấm
và ru em bằng lời ca của cỏ

Rồi một ngày giông gió
Tôi giật mình thức giấc
Không còn bình minh
Không còn bóng chiều
Không còn em
Chỉ còn chút nắng hư hao
Những sợi tơ hồng héo úa
Và một giấc mơ nghẹn ngào
Trong bóng đêm thăm thẳm …
Trần thị Trúc Hạ

Ừ THÌ NĂM MỚI

dangchaulong

ừ thì năm mới sắp sang
ừ thì ngày lụn tháng tàn năm qua

Cuối năm, ngày vẫn chậm nặng trôi như bao ngày, nhưng sao lòng tôi nao nao bần thần ngồi điểm lại những năm tháng đã qua đời tôi, những năm tháng mùa xuân không còn thắm, những năm tháng mùa hè chói chan đầu tiên.
Năm mùa xuân trôi qua khung cửa sắt, nghe báo tin xuân ừ thì biết là xuân.. Chạnh buồn, chạnh nhớ, nuốt ngược những giọt nước mắt vào trong, giả lả cười vui cùng bạn đồng cảnh:
Thấy hoa nở khắp núi rừng xa tít
Anh giật mình mới biết đã sang xuân
Trong giao thừa không lấy gì đón Tết
Anh thở dài khói thuốc cũng bâng khuâng
Nơi quê cũ không biết em còn thức ?
Thắp giùm anh ngọn nến giữa đêm đen…
(nhạc Nguyễn Hữu Ninh, thơ NC)

Lời ca thầm thì như bản thánh ca buồn não nề
Ba mươi lăm mùa xuân còn lại, ngược xuôi bỏ sức lực để giành lấy tàn hơi, âm thầm như con dế trũi nép bên góc tối sâu, muốn ca lên thân phận cũng không có nổi làn hơi. Lại nhớ và thầm thì cùng mình bài ca Năm mới như ủi an người thân trong dịp sang mùa:
Hãy thắp giùm anh ngọn đèn
Cho anh nhìn rõ mặt ngày vừa đến
Cho anh thấy chỗ chúng ta đang nằm
Cho anh thấy căn nhà chúng ta đã sống
Lần cuối cùng cho đến ngàn sau
(nhạc Phan Ni Tấn, thơ Chu Trầm Nguyên Minh)

Tâm cảnh nào, thân phận nào đã xô đẩy lòng mình chung nỗi niềm xưa. Cũng vẫn vậy một thân phận mỏng, một nỗi âu lo kiếp sống kéo dài theo bước ta đi, nhếch môi chùng một nụ cười đa nghĩa, ngùi buồn.
Hôm nay nhìn tờ lịch sắp sửa vô dụng, quyển lịch sắp sửa quẳng đi để thay vào đó quyển lịch mới, tôi thấy dững dưng, lòng nguội. Dường như trong tôi chỉ còn sót lại chút ý nghĩa cần phải gìn giữ: Ngày cuối năm, dù thế nào cũng phải lết về gia đình, cũng phải nhóm lên ngọn lửa cuối năm cho nồi bánh tét xum họp. Ngày đầu năm viết cho cháu con một câu đối nhắc nhớ tình nhau. Cái thành trì cuối cùng của tôi chỉ còn có vậy. Ba mươi lăm năm nổi lửa chong đêm nấu bánh chờ xuân bên rận rà tiếng cười nói của những người thân. Mỗi người một việc, nhưng tâm điểm nồi bánh tét đã cho chúng tôi đậm đà tình nghĩa gia đình. Những bộn bề, những nghịch cảnh đã không còn tồn tại khi ngọn lửa ấm thâu đêm sưởi nồng nàn chân tình cùa đại gia đình đêm đen tối 30.
Các em tôi đôi lúc bàn năm nay mua bánh cho đỡ mệt công, tôi gạt phắt đi. Chỉ còn một chút đóm nồng nàn này, phải để thế hệ sau thấy rõ tình cảm bùng dậy theo ánh lửa bánh Tết ba mươi này, có thế, chúng mới biết cách nhen lửa cho đời sau.
Người lớn tuổi chỉ biết đón năm mới theo cách của riêng mình, chẳng phải là mừng nhưng là một cách dạy cháu con giữ lửa.
Ngày mai Tết ư, ừ thì Tết

đặng châu long
31-12-2014

NGÀY XƯA NGƯỜI ĐẸP…

thuyvi

thấy hình ảnh thiên hạ giành nhau mua ” hàng hiệu ” tại VN vừa rồi trên báo. Tự nhiên muốn post lại bài NGÀY XƯA NGƯỜI ĐẸP cùng với lời muốn nhắn đến các nàng : ĐẸP, LÀ PHONG THÁI, DÁNG VẺ DUYÊN DÁNG, QUÝ PHÁI CHỨ KHÔNG PHẢI DO HÀNG HIỆU HAY TRÉT ĐẦY SON PHẤN !

Nếu ai hỏi tôi đám cưới của Hoàng tử William và Công nương Kate vừa qua, hình ảnh nào đẹp nhất? Một đám cưới của Hoàng gia Anh quốc ước tính tốn 34 triệu Mỹ kim thì chắc chắn mọi cái đều tuyệt hảo đến từng chi tiết nhỏ.

Bài này người viết không bàn đến sự xuất hiện của các công tước, mệnh phụ hoặc những người nổi tiếng – Không bàn đến đến những chiếc song mã cầu kỳ hay những chiếc xe đắt tiền – Không bàn đến chiếc vương miện truyền thống lấp lánh kim cương được nhà Cartier chế tác từ năm 1936, là chiếc vương miện Nữ hoàng Elizabeth dành tặng cho công nương mới nhất của Hoàng gia – Không bàn đến tòa kiến trúc lộng lẫy của ngôi nhà thờ ngàn năm tuổi. Theo tôi, đẹp nhất, thu hút mọi mắt nhìn nhất là chiếc áo cưới của cô dâu. Vâng, chiếc áo cưới do nhà thiết kế Sarah Burton mà cô Kate chọn cho đám cưới mình đánh giá cô có gout thẩm mỹ khá cao. Tôi không quan tâm nó được may bằng loại hàng gì, chắc chắn đó là một loại tơ lụa thật giá trị, phải được may tỉ mỉ với những bàn tay khéo léo…. Nó không phải đẹp ở điểm đuôi váy dài khiêm tốn hơn đuôi váy dài 7,5m của Công nương Diana. Nó không phải đẹp vì thân váy được trang trí bằng những hoa văn hết sức tinh tế làm bằng ren và đính lên váy bằng tay phương pháp thủ công được gọi là làm ren Carrickmacross có nguồn gốc tại Ireland từ những năm 1820. Nó không phải đẹp vì những bông hoa như hoa Hồng, hoa cây Kế, hoa Thủy tiên và loại cỏ 3 lá trên thân váy là bốn loài hoa cỏ đặc trưng của Vương quốc Anh. Đối với tôi, chiếc áo cưới bằng vải satin trắng ngà đẹp ở chổ kiểu áo như cố tình làm trang nhã đi để phô bày một thân hình thon thả mềm mại và tôn cao cặp ngực vun lên thật thanh tú của cô dâu. Hèn nào chú rể và cô dâu quen nhau gần nhau bấy năm trời, khi cô dâu được ông bố đưa lên nơi hành lễ đã khiến chú rể sững sờ buột miệng “Em đẹp tuyệt!”

Hình ảnh Kate đẹp tự nhiên không điệu bộ trong chiếc áo cưới vừa qua khiến tôi nhớ lại hình ảnh những chiếc dài Việt Nam một thời – Ngày trước các thiếu nữ mặc áo dài đẹp lắm, chiếc áo mặc ôm sát dáng dấp mỏng manh, ôm thắt vòng eo nhỏ xíu với vùng bụng phẳng lỳ khiến vô tình đã làm nổi bật lên vòng ngực e ấp dưới lớp lụa mềm của con gái VN. Chiếc áo dài VN thật gợi cảm, thật sexy mà không gợi dục. À có thể nói như người nào đó đã phân biệt tranh khỏa thân của danh họa Nguyễn Trung trên Facebook “Nếu được hỏi, tôi sẽ nói: Ở Sài Gòn người vẽ nude ấn tượng nhất là Nguyễn Trung…Anh đã tạo nên thứ chuẩn mực phụ nữ của riêng cho mình: tóc dài, ngực nhu nhú, gương mặt thanh thoát, nhẹ nhàng và có đôi tay dài ngoẵng… Sự nâng niu trau chuốt, thể hiện tài hoa ở các chi tiết và ở kỹ năng hòa sắc đầy biểu cảm với gam sáng như vàng – trắng, lam – trắng, nâu nhạt – trắng… thật tinh khôi, thanh khiết. Có lẽ vậy mà tranh khỏa thân của Nguyễn Trung không gợi cho người xem ý tưởng về tính dục chăng?”. Có lẽ vậy mà chiếc áo dài ngày đó đẹp không thể tưởng được, nó vừa dễ thương, vừa quý phái, hai tà áo phất phơ quấn quít khiến cho dáng đi càng thanh thoát mềm mại yểu điệu thục nữ.

Ngày nay chiếc áo dài đã bị các cô nghệ sĩ, người mẫu làm cho mất đẹp. Nhìn những tấm lịch thấy mấy cô mặc áo dài ểnh ngực, hẩy mông, kiểu catwalk kệch cỡm chướng mắt không chịu được. Mỗi lần thấy họ uốn éo trong các lễ hội tiệc tùng, chắc hẳn nhiều người chép miệng: Còn lâu họ mới theo kịp những phong thái thanh lịch của người Tây phương. ( ngày xưa lứa chúng tôi hoặc các bậc lớn hơn từ nhỏ hầu như được gia đình dạy ăn, dạy nói, đi đứng….. Hoặc tự tìm học trong sách như sách của BS Nguyễn Ngọc Bảy chẳng hạn…).

Đâu phải ngày xưa người đẹp. Bây giờ người càng đẹp đó chứ – quần áo, mỹ phẩm, thể dục, tiện nghi giúp rất nhiều cho người phụ nữ giữ gìn cái đẹp. Tuy nhiên nếu chúng ta biết cách tôn lên những ưu điểm, trau chuốt lại những khuyết điểm thì chúng ta càng không sợ thời gian.

Sắc đẹp rồi sẽ tàn tạ, nhưng phong thái dáng vẻ còn mãi. Cốt cách là ở chỗ đó.


thuỵvi

(Hầm Nắng Michigan đầu tháng 5-2011)

CON CÓ MỘT TỔ QUỐC

 

trantrungdao

 

Hai tháng trước tôi được ban tổ chức đại hội sinh viên Bắc Mỹ đề nghị đến nói chuyện với các bạn trẻ đại diện của khoảng 50 tổ chức thanh niên sinh viên Hoa Kỳ và Canada về tham dự đại hội lần thứ nhất, được tổ chức đại học Emerson, thành phố Boston. Vì khẩu hiệu chính của đại hội là “Tôi là người Việt Nam” nên buổi tâm tình của tôi cũng tập trung chung quanh ý nghĩa của câu khẩu hiệu này. Một dương ảnh với kỹ thuật khá công phu được chiếu trong lễ khai mạc với tiếng hô “Tôi Là Người Việt Nam” của các bạn trẻ nối tiếp nhau, vang lên khắp năm châu, ngoại trừ trong nước, đã làm mọi người xúc động.
Trong buổi sáng tâm tình đó, tôi có dịp chia xẻ với các em niềm vui khi biết các em đã trưởng thành. Sự trưởng thành của các em, không chỉ chứng tỏ một cách đơn giản bằng tiếng hô “Tôi Là Người Việt Nam” đã được ít nhiều kỹ thuật hóa, nhưng bằng việc theo dõi công việc các em đã và đang làm trong thời gian qua. Mặc dù được mời làm cố vấn cho ban tổ chức đại hội, tôi chẳng những không cố vấn được một lời nào, trái lại trở thành người học trò chăm chỉ của các em. Tôi học ở các em cách tổ chức, cách suy nghĩ, cách làm việc và cả cách giải quyết những bất đồng. Tôi sung sướng tự nhủ, sau gần 30 năm, những nhánh sông, những con nước trôi lạc loài trên biển ngày nào đang trên đường trở về nguồn cội. Giấc mơ Việt Nam mà tôi đang tha thiết kêu gọi đang dần dần hiện rõ.
Nếu chúng ta xuống khu người Ý để hỏi một thanh niên Mỹ gốc Ý anh là ai, anh ta chắc chắn sẽ trả lời rất gọn “Tôi là người Mỹ.” Tương tự, nếu chúng ta qua khu người Đức để hỏi một phụ nữ Mỹ gốc Đức chị là ai, chị cũng sẽ trả lời “Tôi là người Mỹ.” Nhưng một cô bé Việt Nam đang định cư ở Atlanta đã trả lời với tôi em là người Việt Nam. Em nói một cách chân thành. Các em là người Việt Nam và hãnh diện là người Việt Nam, dù đa số các em có mặt trong ba ngày đại hội, đã sinh ra tại hải ngoại, và thậm chí có em chưa bao giờ đặt chân lên đất nước Việt Nam. Sau buổi nói chuyện tôi dành thời gian để trao đổi thêm với các em có những ưu tư bức xúc riêng nhưng không kịp hay không tiện trình bày trong buổi nói chuyện. Tôi xúc động khi biết nhiều em đã dành suốt mùa hè để học tiếng Việt, nhiều em lo lắng không biết bao giờ mới có đủ khả năng tiếng Việt để đọc được Kiều, nhiều em phân vân không biết các tác phẩm về chiến tranh Việt Nam do các tác giả ngoại quốc viết có phản ảnh trung thực và khách quan cuộc chiến Việt Nam hay không. Nghe các em nói, tôi cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên vai mình.
Qua nhiều lần tiếp xúc với các bạn trẻ, tôi hiểu được rằng, trong các thế hệ Việt Nam tỵ nạn, thế hệ của chúng tôi có nhiều may mắn nhất. Trong thời kỳ chiến tranh đẫm máu, chúng tôi còn ngồi trong trường trung học hay một, hai năm đầu đại học. Trong thời kỳ đói khổ sau 1975, chúng tôi đã vào tuổi hai mươi và có khả năng bương chải qua ngày. Khi đặt chân sang nước ngoài, chúng tôi lại là thế hệ sở hữu những kinh nghiệm sống cần thiết để đương đầu với những khó khăn trong đời sống mới và có số vốn liếng Việt ngữ, tuy khiêm tốn nhưng cũng tạm đủ để tiếp tục học hỏi và duy trì văn hóa Việt. Các em thì không. Tuổi thơ của các em được ru, không phải bằng những câu ầu ơ dí dầu thân thương tha thiết nhưng là các chương trình truyền hình Mister Rogers’ Neighborhood, bằng Sesame Street, Mickey Mouse. Thế nhưng các em đã ngồi lại với nhau, học hỏi lẫn nhau, tìm cách giúp đỡ cho nhau và cho quê hương của cha mẹ em đang cần được giúp. Điều đó cho thấy, tình yêu nước Việt là một thôi thúc kỳ diệu, không đơn giản được xác định bằng tấm giấy khai sinh, bằng quốc tịch nhưng bằng máu huyết luân lưu suốt mấy nghìn năm, bằng đời sống và giáo dục gia đình, bằng truyền thống và tập tục văn hóa đã không ngừng được duy trì và phát triển tại hải ngoại. Đặc tính kế thừa và gắn bó với quê cha đất tổ đó rất khó tìm thấy trong cộng đồng của một sắc dân nào khác.
Một bằng chứng khác, rất hùng hồn và dễ thương tôi đã chứng kiến cũng trong ngày đại hội sinh viên Bắc Mỹ vừa qua, là cách trả lời câu hỏi của một thí sinh trong giải Hoa Hậu Nhân Ái, một tiết mục bên cạnh chương trình chính của ba ngày đại hội. Câu hỏi thế này: “Nếu em chỉ có 24 giờ để sống trên đời, em sẽ làm gì trong 24 giờ đó?” Và đây là nguyên văn câu trả lời của thí sinh trúng giải: “Nếu em chỉ có 24 giờ để sống, em sẽ dành 24 giờ đó cho ba mẹ em. Em sẽ thưa với ba mẹ em rằng em cám ơn ba mẹ đã sinh em ra, đã trải qua nhiều cực khổ từ những ngày mới đặt chân đến Mỹ để nuôi em nên người như ngày hôm nay. Em có một đứa em nhỏ, nếu còn thời gian em sẽ dành cho nó, dặn dò nó chăm lo học hành, có hiếu với ba mẹ và thay em chăm sóc ba mẹ trong tuổi già.” Cô bé đứng trên khán đài cao, nhìn xuống ba mẹ em ở dưới, vừa trả lời vừa rưng rưng nước mắt, tưởng chừng 24 giờ tới đây em sẽ ra đi thật. Em có thể đã có người yêu. Em có thể đã có hàng trăm nhu cầu, ham muốn khác của tuổi mười tám, hai mươi. Nhưng không, cuối cùng em chỉ muốn trở về với nơi em đã sinh ra. Ý thức về nguồn, qua câu trả lời tuy không được chuẩn bị trước nhưng rất tự nhiên, chân thành bằng tiếng Việt, đã cho thấy sức sống kỳ diệu của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh của văn hóa dân tộc Việt Nam như một dòng sông dài, có lúc trôi êm ả và cũng có lúc phải vượt qua nhiều ghềnh đá cheo leo, nhưng chưa bao giờ gián đoạn.
Câu nói “Tôi là người Việt Nam” thoạt nghe qua rất đơn giản, ai cũng có thể nói được, người Việt Nam nào, dù trong nước hay đang sống ở ngoài nước, cũng có thể nói như thế. Nếu chúng ta hỏi một em du học sinh từ trong nước vừa ra đến hải ngoại, em sẽ trả lời một cách hãnh diện “Tôi là người Việt Nam” và tương tự nếu chúng ta hỏi một sinh viên Việt Nam lớn lên ở Mỹ, Canada, Đức, Pháp, Úc hay xứ nào khác, em cũng sẽ vui sướng trả lời “Em là người Việt Nam.” Tuy nhiên nếu chúng ta hỏi tiếp “Việt Nam của em là Việt Nam nào?” thái độ, phản ứng và cách trả lời của mỗi em sẽ khác.
Em sinh viên ở hải ngoại sẽ ngập ngừng, vì trước hết, em không thể tin được trên thế giới này có thể có hơn một nước Việt Nam.
Nước Việt Nam duy nhất mà em biết là một dân tộc tuy có lịch sử anh hùng, bất khuất, có tinh thần tự chủ cao độ, truyền thống giáo dục gia đình tốt đẹp nhưng hiện nay đã trở thành lạc hậu.
Việt Nam mà em biết là quốc gia có lợi tức đầu người vỏn vẹn 401 Mỹ Kim, thấp xa so với nhiều quốc gia kém phát triển khác ở Châu Phi, và với một nền kinh tế sống nhờ vào khu vực nông nghiệp và dịch vụ.
Việt Nam mà em biết là quốc gia có những người lãnh đạo đất nước già nua, độc tài, cực đoan, bảo thủ ngồi trên ghế quyền lực tròn nửa thế kỷ nhưng vẫn còn muốn duy trì quyền chuyên chế ngay cả trong lúc đang nằm trên giường bịnh chờ chết.
Việt Nam mà các em biết là một trong năm nước trên thế giới vẫn tiếp tục bám vào chủ nghĩa Cộng Sản, một ý thức hệ một thời bành trướng nhờ vào chiến tranh, đấu tố, ám sát, hiện nay đã lùi xa vào quá khứ.
Việt Nam mà các em biết là quốc gia có 100 ngàn phụ nữ chỉ vì chén cơm manh áo mà phải bán thân lưu lạc xứ người, bị đánh đập, xô đuổi, ném ra đường phố như những nô lệ tình dục thời Trung Cổ.
Việt Nam mà các em biết là quốc gia có 45 triệu thanh niên nhưng đa số không có sức sống, không có hoài bảo cho tương lai của đời mình và cho đất nước mình, sống trong chờ đợi một bình minh chưa đến và có thể sẽ không bao giờ đến trong đời họ.
Tóm lại, Việt Nam mà thế hệ trẻ ở hải ngoại biết là một dân tộc đáng yêu nhưng cũng là quốc gia đang cần một cuộc thay đổi toàn diện để hy vọng có thể hội nhập vào dòng tiến hóa của loài người.
Trái lại với một Việt Nam bi thảm đó, đối với đa số các em du học sinh từ trong nước mới sang hay đang ngồi trong trường đại học tại Việt Nam, Việt Nam mà các em được dạy là “xứ sở của anh hùng, độc lập, tự do, hạnh phúc, một đất nước, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam, đã liên tục đánh gục ba tên đế quốc đầu sỏ Pháp, Nhật và Mỹ. Cả thế giới nghiêng mình kính phục khi nghe nhắc đến hai chữ Việt Nam.” Nói chung, ý thức của các em là bản sao của một bài hát tuyên truyền được lặp đi lặp lại suốt gần ba chục năm qua, nhiều đến nỗi đã trở thành tự nhiên như một đặc tính bẩm sinh. Thật khó có thể tin được, giữa lúc cả nước chìm trong nạn đói của những năm sau 1975, trong đó hàng triệu người dân bị đày đi kinh tế mới, hàng triệu người không có ngay cả mỗi ngày chén cháo để ăn, nhưng trên các loa phóng thanh đầu làng cuối phố, người dân Việt Nam vẫn sáng chiều hai buổi nghe toàn là những thành quả vượt chỉ tiêu, những khẩu hiệu đầy hứa hẹn.
Trong phạm vi văn học, những ngày sau 1975, bài thơ được diễn ngâm nhiều lần trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình Việt Nam là bài “Tổ Quốc Bao Giờ Đẹp Thế Này Chăng” của Chế Lan Viên. Mặc dù bài thơ viết năm 1965, nhưng Ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng chỉ thị phát thanh nhiều lần sau 1975 với ngụ ý thời đại họ gọi là “thời đại Hồ Chí Minh” mới thật sự là thời đại vàng son nhất trong lịch sử Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Chưa đâu !
Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng…
Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả…
Dù mai sau đời vạn lần hơn....
Khi so sánh những ngày đói khổ sau 1975, ở đó, mỗi ngày khi trời chưa sáng, trước bịnh viện Chơ Rẫy, Bình Dân, đã có hàng trăm người chờ bán máu, mỗi ngày trước cửa hàng thực phẩm hàng ngàn người sắp hàng chờ mua từng cân thịt, là đẹp hơn, là vinh quang, là hào hùng hơn cả thời “Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng” hay “Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc”, quả thật, giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam đã khinh mạn tổ tiên, xúc phạm một cách nghiêm trọng đến anh linh của những bậc anh hùng đã đem máu xương để viết lên như trang sử hào hùng của dân tộc Việt. Thật khó tin, Chế Lan Viên, tác giả của Điêu Tàn, một thời là thần tượng thi ca của thế hệ ông, đã viết những lời nịnh bợ Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam một cách trơ trẽn đến như thế. Khi nghe bài thơ này, tôi thắc mắc không biết tổ quốc của Chế Lan Viên là tổ quốc nào. Bài thơ của Chế Lan Viên cho chúng ta thấy ý thức hệ Cộng Sản có khả năng đầu độc và làm thay đổi toàn bộ ý thức của con người về lịch sử, nhân sinh và vũ trụ.
Nói đến sự độc hại của ý thức hệ Cộng Sản tôi nhớ một câu chuyện vui về hai học sinh Bắc Hàn, được nhà nước cử đi học chuyên môn tại một đại học Mỹ. Hai em phải viết một luận văn như một phần trong thủ tục nhập học. Tòa đại sứ Bắc Hàn dùng đó như cơ hội tuyên truyền nên chỉ thị hai em viết về đất nước Triều Tiên của các em dưới sự lãnh đạo của Kim Chủ Tịch anh minh và vĩ đại. Hai bài luận văn, dù viết rất hay nhưng sau đó đã bị nhà trường từ chối không cho phép nhập học. Lý do nhà trường nghi ngờ hai em đã chép nguyên văn bài của nhau. Thật ra, hai em không chép bài của nhau nhưng đó là tất cả những gì các em biết về xứ sở của các em, nơi chỉ có một tờ báo, một đài phát thanh nội địa, một đài truyền hình nội địa, một đường dây điện thoại nội địa, một khẩu phần ăn giống nhau cho mọi gia đình, một giáo trình duy nhất cho tất cả trường học và một quốc gia duy nhất trên thế giới còn xử dụng phòng hơi ngạt trang bị chất độc để tra tấn kẻ thù chế độ. Câu chuyện về hai cậu học sinh Bắc Hàn, có thể chỉ là chuyện vui nhưng nếu chúng ta đọc các bản tường trình về tình trạng nhân quyền tại Bắc Hàn của các tổ chức nhân quyền quốc tế như Amnesty International hay của Human Rights Watch, sẽ biết đời sống con người tại Bắc Hàn còn bi thảm hơn thế nữa.
Việt Nam là một trong số vài đồng chí thân thiết còn lại của Bắc Hàn, thân đến mức đảng Cộng Sản Việt Nam đã bắt cả nước phải để tang Kim Nhật Thành khi tên bạo chúa của 20 triệu dân Bắc Hàn vĩnh biệt cuộc đời năm 1994. Hành động trơ trẽn này đã bị Hòa Thượng Thích Quảng Độ vạch ra trong lá thư gởi Tổng Bí Thư Đỗ Mười như sau: “Riêng ông Kim Nhật Thành của Bắc Triều Tiên thì mới chết gần đây và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dành trọn ngày 17-7-94 để “quốc tang” cho ông ấy. Tôi thiết nghĩ nếu ông Kim Nhật Thành đã giúp đỡ gì cho đảng Cộng Sản Việt Nam, hoặc vì tình “anh em như môi với răng” giữa những người Cộng Sản quốc tế với nhau, thì chỉ đảng và 1 triệu 800 nghìn đảng viên để tang cho ông ấy thôi, chứ ông Kim Nhật Thành đã làm gì cho đất nước Việt Nam và 70 triệu nhân dân Việt Nam có là đảng viên đảng Cộng Sản cả đâu mà đảng bắt toàn dân phải để tang ấy, dù chỉ một ngày? Thế sao đảng không làm một ngôi đền thật lớn ở ngay Hà Nội để thờ tổ Hùng Vương và tuyên bố lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch – ngày giỗ tổ – làm ngày Quốc lễ, nghĩ trọn ngày để cho toàn dân có dịp tưởng nhớ đến công ơn của đức Quốc tổ và các bậc tiền bối đã có công mở nước và dựng nước, nhờ thế ngày nay mới có đảng Cộng Sản Việt Nam? Mồ cha sao mình không khóc! Ông Kim Nhật Thành là người ngoại chủng thì đảng Cộng Sản Việt Nam đối đãi như thế, còn đối với người đồng bào đồng chủng với nhau thì đảng Cộng Sản lại bắn giết.”
Nhiều độc giả có thể không hoàn toàn đồng ý với tôi trong việc so sánh giữa xã hội Bắc Hàn và Việt Nam vì sinh hoạt xã hội tại Việt Nam dù sao cũng khá hơn nhiều so với xã hội Bắc Hàn. Vâng. Báo chí Việt Nam được phép thăm dò đời sống tình dục trong giới trẻ, được phép thống kê những cách ăn chơi trong giới trẻ nhưng có bao giờ những tờ Tuổi Trẻ hay Thanh Niên dám hỏi thanh niên Việt Nam nghĩ gì về chế độ chính trị mà các em đang sống và hướng đi đích thực nào dành cho dân tộc Việt Nam. Báo chí Việt Nam được phép khai thác những ham muốn vật chất, những thú vui sa đọa, trụy lạc trong xã hội nhưng không được phép cổ võ cho các giá trị cao đẹp của quyền sống, quyền tự do dân chủ của con người. Nếu hai em học sinh phổ thông Việt Nam ngồi viết hai bài luận văn về đất nước của em, nội dung có lẽ cũng không khác hai em học sinh Bắc Hàn kia bao nhiêu. Các em sẽ viết gì ngoài việc ca ngợi những thành tích của đảng Cộng Sản, về cuốc chiến thắng được gọi là “Chống Mỹ cứu nước”, về những thành quả kinh tế vượt chỉ tiêu nhưng không bao giờ được kiểm chứng một cách khách quan và độc lập. Và hẳn nhiên, các em sẽ không bao giờ dám viết về những bữa ăn chiều không đủ cháo thay cơm, những ngày đi lượm giấy, lượm bao, những đêm ngủ bờ ngủ bụi. Xét cho kỹ, về tư tưởng, người dân Việt Nam cũng không may mắn gì hơn một người dân Bắc Hàn, nghĩa là cũng hoàn toàn bị khống chế bởi một bộ máy tuyên truyền duy nhất mà thôi. Tự do, nếu định nghĩa như Các Mác, là sự thừa nhận các quy luật tất yếu của xã hội, thì quy luật tất yếu tại Việt Nam là sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của đảng Cộng Sản.
Khi nói đến tình trạng vong thân trí thức trong giới trẻ Việt Nam, tôi không có ý cho rằng tất cả thế hệ trẻ Việt Nam đều đánh mất quê hương trên chính quê hương mình, đều ngoảnh mặt làm ngơ trước sự chịu đựng của cha mẹ và bà con thân thuộc mình. Không. Trên kẽ đá hẹp giữa lòng núi, dù cheo leo nguy hiểm bao nhiêu vẫn mọc lên những bông hoa rừng tuyệt mỹ. Đất nước chúng ta cũng thế. Lịch sử đã chứng minh, thời đại nào người yêu nước cũng đông hơn kẻ phản dân hại nước. Trong cơn lũ độc tài áp bức kéo dài mấy chục năm qua, những búp măng non vẫn cố vươn mình lên. Những Phạm Hồng Sơn, Lê Chí Quang, Nguyễn Vũ Bình và nhiều khuôn mặt trẻ can đảm khác vẫn còn sángsuốt, bằng nhiều cách khác nhau, đang cố đánh thức thế hệ họ, đồng bào họ đang chìm trong cơn mê dài.
Đối với các em du học sinh, những người sinh sau cuộc chiến Việt Nam, có được cơ hội ra nước ngoài học hỏi, không phải em nào cũng là Cộng Sản. Thành phố nơi tôi ở là thành phố đại học nên tôi có cơ hội gặp khá nhiều sinh viên từ trong nước sang. Trong những lần gặp gỡ đó, có khi tôi cũng nghe vài em thao thao bất tuyệt về một “Bác Hồ anh minh và vĩ đại”, nghe các em đọc dăm bài thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên đầy sắc máu hận thù, và cũng có khi nghe các em nói lên niềm hãnh diện về nước Việt Nam, nơi đó, cái gì cũng vượt trên tầm thời đại. Bạn bè tôi, nhiều người cảm thấy khó chịu, đứng dậy đi ra, một số khác e ngại và từ đó tìm cách tránh xa, nhưng tôi thì không. Tôi ngồi lại và kiên nhẫn chờ đợi một cơ hội để nói với em những điều em chưa hề được nghe, cơ hội để mang các em về với thực tế đầy đau xót của đất nước, về với cái chung của anh em chúng tôi đang bị chìm khuất phía sau đám mây đen vong bản.
Tôi ở lại với các em vì tôi thật sự không tin những điều các em nói phát xuất từ trái tim trong sáng Việt Nam hay những bài thơ các em đọc phát xuất từ tâm hồn đầy ắp thi ca và nhân bản Việt Nam. Ý thức của các em khi sinh ra giống như một tờ giấy trắng, đảng Cộng Sản vẽ lên đó hình gì, sẽ hiện lên hình đó, chế độ độc tài sơn lên màu gì, sẽ hiện ra màu đó. Trách nhiệm lương tâm và đạo đức của những ai còn nghĩ đến tương lai dân tộc, không phải xé bỏ tờ giấy đó đi nhưng chỉ nên xóa đi màu đỏ của hận thù, xóa bỏ bức hình độc ác trong tâm thức của các em. Nếu làm được vậy, tấm giấy kia vẫn sẽ là tấm giấy Việt Nam. Thay vì đẩy các em về phía bóng tối, hãy giúp các em đi về phía ánh sáng của tình đồng bào, tình đất nước.
Tôi muốn nói với các em về một nước Việt Nam mà có thể các em chưa biết, một Việt Nam đang bị bỏ rơi tận đàng sau đuôi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng của nhân loại. Thế giới mà các em đang đối diện không phải là thế giới mà các em đã học ở trong nước. Sau1975, những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam tự mãn với hào quang chiến thắng của họ đến nỗi trở nên cô lập với thế giới bên ngoài. Hậu quả của căn bịnh kiêu căng đầy hoang tưởng đó là một Việt Nam suy thoái về mọi phương diện. Về kinh tế, Việt Nam nghèo nàn còn hơn cả những nước châu Phi chưa ra khỏi tình trạng bán khai, bộ lạc như Congo, Yemen, Senegal. Về mặt quốc phòng, Việt Nam không có ngay cả một chiếc tàu chiến hiện đại để bảo vệ lãnh hải dài trên ba ngàn cây số, không có một chiếc chiến đấu cơ bay đủ cao, đủ xa để bảo vệ vùng trời tổ quốc. Về ngoại giao, Việt Nam, tuy đứng trước Trung Cộng lúc nào cũng lăm le xâm chiếm nhưng không có một đồng minh nào trên thế giới, dù chỉ để nói đôi lời an ủi.
Tôi muốn nói với các em về lòng yêu nước, một đức tính vô cùng cao quý và đáng ca ngợi của dân tộc Việt Nam. Chúng ta hãnh diện với truyền thống yêu nước và tinh thần tự chủ đã được may mắn kế thừa từ tổ tiên suốt bốn ngàn năm lịch sử. Nếu không nhờ tinh thần đó thì ngày nay Việt Nam không phải là nước Việt Nam mà là tỉnh Việt Nam, giống như tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hay đã chịu chung số phận của Mãn Châu, Nội Mông, Tây Tạng. Nhưng yêu nước là một tình yêu cần được soi sáng và hướng dẫn bằng trí tuệ chứ không phải là một thứ tình yêu cực đoan và mù quáng. Hãy nhìn lại cuộc đấu tranh chống Thực Dân Pháp đầy gian khổ của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh đó, không phải chỉ miền Bắc là chống Pháp và miền Nam thì theo Pháp, không phải chỉ những người Cộng Sản là hô hào đánh Pháp và người Quốc Gia thì chạy theo chân Pháp. Không. Từ sông lạch miền Nam đến núi rừng Việt Bắc, nhân dân Việt Nam đã tùy theo điều kiện địa lý, hoàn cảnh chính trị của mỗi miền, và cả của mỗi người để đánh đuổi Thực Dân. Có vị chủ trương cứng rắn, có vị chủ xướng ôn hòa, có vị chủ trương võ lực, có vị chủ xướng Duy Tân. Nhưng nếu họ cùng có một tấm lòng vì nước, một đức tính trung thành và chung thủy với quê hương, nhân dân Việt Nam vẫn biết ơn họ và lịch sử Việt Nam sẽ ghi công họ. Giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam thì khác, chưa đánh đuổi được ngoại xâm đã tàn sát không nương tay những người Việt Nam yêu nước mà họ nghĩ sẽ tranh quyền đoạt lợi với họ sau này. Và trong suốt nửa thế kỷ qua, giới lãnh đạo Cộng Sản lại một lần nữa lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, đẩy hàng triệu thanh niên Việt Nam vào chỗ chết cho các mục tiêu bành trướng ý thức hệ Cộng Sản, cho quyền lợi của đàn anh Trung Cộng, Liên-Xô dưới hình thức cuôc chiến tranh gọi là “Chống Mỹ cứu nước” vô cùng ngu xuẩn. Hôm nay, cơn lũ chiến tranh tuy đã qua đi nhưng trên cánh đồng Việt Nam vẫn còn phơi đầy thân xác anh em, máu xương của đồng bào ruột thịt.
Tôi muốn nói với các em về những kẻ trước đây đã từng ca ngợi chế độ Cộng Sản Việt Nam như “ngọn hải đăng thời đại”, những kẻ “mơ sáng mai thức dậy biến thành người Việt Nam” và họ thật sự là ai.
Họ là đảng và nhà nước Liên Xô thời chế độ này còn thoi thóp, họ là đảng Cộng Sản Trung Hoa, họ là những nhà văn, nhà thơ chống chiến tranh và họ là lãnh tụ các phong trào phản chiến châu Âu.
Đảng và nhà nước Liên-Xô ca ngợi Cộng Sản Việt Nam bởi vì chiến tranh Việt Nam đã giúp làm chậm lại cuộc chạy đua vũ khí với Mỹ mà chính họ đang dần dần kiệt quệ. Trung Cộng ca ngợi Cộng Sản Việt Nam đơn giản vì nhân dân Việt Nam đã chết thay cho họ để bảo vệ biên giới phía Nam. Trong ly rượu sâm-banh của các tên lái buôn chiến tranh đế quốc chúc tụng nhau ở Nhân Dân Đại Sảnh Bắc Kinh, ở điện Kremlin có máu của đồng bào Việt Nam đổ xuống khắp ba miền. Trong tiếng cười rạng rỡ của các chủ tịch nhà nước, các tổng bí thư trong đêm liên hoan mừng chiến thắng, không phải chiến thắng của nhân dân Việt Nam nhưng vì các mục tiêu riêng của họ đã đạt được, có nước mắt của hàng triệu bà mẹ Việt Nam khóc cho những đứa con của mẹ đã gởi xác ở Trường Sơn, Khe Sanh, Bình Long, Trị Thiên, An Lộc.
Lãnh tụ các phong trào phản chiến Châu Âu ca ngợi Cộng Sản Việt Nam chỉ vì sự ganh tị trước một nước Mỹ giàu sang hơn là lòng trắc ẩn dành cho dân tộc Việt Nam. Bằng chứng, chính những phong trào được mệnh danh hòa bình này trong chiến tranh Iraq vừa qua, đã vận động người sang Iraq làm thành những vòng chắn người (Human shields) để bảo vệ cho chế độ Saddam Hussein khi liên quân Anh Mỹ chuẩn bị dội bom Baghdad. Các lãnh tụ hòa bình, phản chiến đó ở đâu khi tên đồ tể Saddam Hussein và tập đoàn tàn sát hàng triệu người dân Kurds, kể cả trẻ em vừa mới ra đời, bằng những phương tiện vô cùng phi nhân như hơi ngạt và vũ khí vi khuẩn. Hành động nhân đạo bao giờ cũng cần được khuyến khích nhưng hành động đó phải phát xuất từ tình người chân thật thay vì từ sự ganh tị cá nhân, quốc gia, tôn giáo.
Các nhà văn, nhà thơ phản chiến Mỹ ca ngợi Cộng Sản Việt Nam chỉ vì mặc cảm bị lãng quên sau cuộc chiến và ngây thơ về hoàn cảnh chính trị xã hội tại Việt Nam. Tôi đã hơn một lần ngồi chung với các nhà văn nhà thơ phản chiến này trong một số hội luận văn học dành cho các nhà văn, nhà thơ từ các quốc gia đã từng chịu đựng chiến tranh. Họ ngạc nhiên khi nghe những người cầm bút trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại nói về đời sống của một người Việt Nam sau 1975 với những trại tập trung, với nhà tù, sân bắn, với những khu kinh tế mới, với thảm cảnh hàng triệu người đã phải bỏ nước ra đi. Họ đến Việt Nam để gọi là góp phần xoa dịu vết thương của nạn nhân chiến tranh nhưng không hề biết nạn nhân thật sự của cuộc chiến Việt Nam là ai. Họ mời các nhà thơ, nhà văn mang quân hàm đại tá, được nhà cầm quyền Cộng Sản chỉ định hay cho phép sang tham quan hàng năm, để gọi là hòa giải với những cựu thù nhưng không biết rằng, những ngưòi họ thật sự cần hòa giải, những thương phế binh đang vá xe nuôi một bầy con ở góc đường Hà Nội, những “cô gái Trường Sơn” ngồi khóc tuổi thanh xuân không bao giờ trở lại trong căn nhà tập thể chật hẹp ở Hải Phòng, lại không được quyền có mặt và sẽ không bao giờ biết được những gì xảy ra ở thế giới bên ngoài.
Tôi muốn nói với các em, dân tộc chúng ta đã được những gì sau cuộc chiến Việt Nam. Một thành quả của đảng Cộng Sản mà các em nghe hàng triệu lần là thống nhất dân tộc. Vâng, thống nhất dân tộc là một nhu cầu cần thiết. Không một người Việt yêu nước nào không muốn dân tộc Việt Nam thống nhất, nhưng liệu cần thiết đến nỗi phải đổi bằng thân xác của 5 triệu người dân vô tội, hủy diệt mầm sống của 80 triệu người còn lại trong suốt nửa thế kỷ qua và hậu quả xã hội sẽ kéo dài không biết đến bao giờ? Tại sao Đông Đức không chọn con đường võ lực? Tại sao Bắc Hàn, sau cuộc thử lửa với Mỹ vào năm 1953, đã không tiếp tục chọn con đường võ lực? Nếu Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Cộng Sản thật sự là những người yêu nước, họ ít nhất phải học ở Erich Honecker và Kim Nhật Thành, dù độc ác bao nhiêu cũng biết sợ hậu quả không thể đo lường được khi phải đương đầu với Mỹ, một cường quốc mạnh nhất thế giới về khoa học kỹ thuật, kinh tế và quốc phòng. Con số năm chục ngàn binh sĩ Mỹ đã chết trong cuộc chiến Việt Nam tuy không nhỏ nhưng chỉ bằng một phần trăm mức tổn thất của phe hãnh diện rằng mình đã thắng. Nếu Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Cộng Sản miền Bắc thật sự là những người yêu nước, họ phải biết dừng lại ở hiệp định Geneve và chờ một cơ hội hòa bình, một giải pháp không đổ máu để thống nhất đất nước, thay vì thống nhất bằng xe tăng T54, bằng đại pháo, bằng trại tập trung, bằng nhà tù và sân bắn, để rồi gần ba mươi năm sau, con sông Gianh vẫn chảy trong lòng người.
Và tôi cũng muốn nói với các em một điều hệ trọng hơn tất cả những điều đã nói, rằng, dù em sinh ra ở Huế, Hà Nội hay Sài Gòn, ở San Diego, Santa Ana, San Jose, Sydney, Victoria, Oslo, Berlin, Paris hay một nơi nào khác, em cũng nên hãnh diện để nói lớn rằng “Tôi là người Việt Nam.” Định mệnh lịch sử khắc nghiệt đã đẩy các em vào nhiều hoàn cảnh khác nhau, điều kiện trưởng thành khác nhau, nhưng tôi tin rằng, một ngày không xa, tất cả những người con yêu của mẹ Việt Nam sẽ gặp lại nhau tại một điểm hẹn huy hoàng của lịch sử, đó là ngày phục hưng dân tộc Việt Nam. Em đang ở đâu và đang làm gì, hãy nỗ lực cho ngày đẹp trời đó của dân tộc. Những buồn đau chia cắt sẽ qua đi và một nước Việt Nam mới, tự do, dân chủ, nhân bản, khai phóng sẽ ra đời. Đó cũng là ngày, những người con của Mẹ Việt Nam ở năm châu bốn biển, sẽ hẹn nhau về lại Phong Châu, quỳ trước điện Hùng Vương và cùng thưa với anh linh Quốc Tổ Việt Nam: “Con có một tổ quốc.”
Tổ quốc của các em cũng là tổ quốc của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Trong đêm tối giữa nhà lao Phan Đăng Lưu hay trong buổi chiều mưa tầm tãm, tay dắt bà mẹ già 90 tuổi trên đường lưu đày ra huyện Vũ Đoài, Thái Bình, ngài vẫn một tấm lòng son sắt với quê hương:
Nghe lòng xa vắng những chiều đông
Nhìn nước mênh mông khắp mặt đồng
Bát ngát núi xa mờ bóng cọp
Thăm thẳm trời cao bặt cánh hồng
Bao độ cà tan cà nở nụ
Mấy mùa lúa rụng lúa đơm bông
Năm tháng mỏi mòn đầu đã bạc
Còn chút lòng son gởi núi sông
(–Thơ HT Thích Quảng Độ–)
Tổ quốc của các em cũng là tổ quốc của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Trong giờ phút cùng cực của khổ đau hoạn nạn tại Cây Vông, Phú Khánh ngày 8-12-1975, ngài đã dặn dò lấy chính ngài và cũng nhắn nhủ các thế hệ mai trong bài thơ Con Có Một Tổ Quốc hùng hồn như trang sử:
Con có một Tổ Quốc: Việt Nam
Quê hương yêu quý ngàn đời
Con hãnh diện
Con vui sướng
Con yêu non sông gấm vóc
Con yêu lịch sử vẻ vang
Con yêu đồng bào cần mẫn
Con yêu chiến sĩ hào hùng
Sông cuồn cuộn máu chảy cuộn hơn
Núi cao cao, xương chất cao hơn
Đất tuy hẹp nhưng chí lớn
Nước tuy nhỏ nhưng danh vang
Con phục vụ hết tâm hồn
Con trung thành hết nhiệt huyết
Con bảo vệ bằng xương máu
Con xây dựng bằng tim óc
Vui niềm vui đồng bào
Buồn nỗi buồn của dân tộc
Một nước Việt Nam
Một dân tộc Việt Nam
Một tâm hồn Việt Nam
Một văn hoá Việt Nam
Một truyền thống Việt Nam.
(–Thơ Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận–)
Tôi tin một ngày không xa, các em học sinh Việt Nam sẽ có cơ hội đọc lớn những bài thơ của các ngài trong giờ Việt Văn ở trường học các em, và bên ngoài cửa lớp, những cánh chim họa mi đang cất cao tiếng hót, báo hiệu mùa Xuân đang về trên quê hương không còn hận thù, rẻ chia, ngăn cách. Cám ơn Đức Hồng Y, cám ơn Hòa Thượng Viện Trưởng đã trao cho chúng con và các thế hệ mai sau niềm hy vọng Việt Nam.

ĐỪNG RÓT TRÀ CHO EM NỮA…

nguyendinhbon

-Đừng rót trà cho em nữa! Cô gái trẻ khẽ khàng nhắc.
Người đàn ông như tỉnh lại từ cơn trôi nổi phù du, ông mỉm cười: “Xin lỗi! Anh lại quên.”

Họ cùng nhìn ra ngoài trùng khơi nơi có từng đợt sóng phũ phàng đang lao vào đập ầm ầm trên những thân thuyền bé nhỏ nằm cặp sát những hàng dừa. Người đàn ông:
-Em tắm biển không?
-Tắm biển vào thời tiết này hả anh? Với lại anh biết em đang…
-Ừ, có sao đâu. Biết đâu ngày mai, ngày kia chúng ta không còn biển để mà tắm.
– – ….
-Lúc đó chúng ta chỉ còn biển để nhớ, như những ngày điên rồ này của em.
– ???

Như trong vô thức, bàn tay ông lại cầm bình trà đã nguội rót vào tách của mình và ly của cô gái.
-Em không uống nữa đâu. Đêm qua em mất ngủ vì uống trà với anh!
-Anh xin lỗi! Nhưng mà đi với anh, em phải tập uống trà!
… Và cả những cơn mộng mơ hư huyễn…

Ngoài xa, trên mặt biển màu thép lạnh, mây giông đang kéo tới. Những đám mây thấp ngang trên đầu sóng. Những con thuyền bập bềnh, đôi lúc như chìm mất giữa những đợt sóng hung hản.
-Ở đây là Mũi Né đúng không anh?
-Ừ! Em đến đây lần đầu?
-Dạ, cũng là lần đầu tiên em thấy biển.

Người đàn ông mỉm cười một mình. Nụ cười nhỏ bé đến nỗi khó nắm bắt. Nhưng cô gái vẫn cảm nhận được nó. Cô nắm bàn tay ông. Bàn tay ẩm và lạnh:
-Anh cười em?
-Ừ, anh nghĩ lần đầu tiên mà nhìn thấy biển như thế này hẳn em sẽ chán ngán lắm!

Mưa ập đến ào ạt. Một thanh niên phục vụ từ bên trong chạy ra. Anh ta vội hạ những tấm màn sáo bằng tre xuống để mưa không tạt vào nơi hai người đang ngồi.Người đàn ông nói:
-Không sao đâu em. Không ướt đâu!

Trong tâm thức người đàn ông bỗng hiện hình những ngày cuối tháng ba xưa. Con đường xuống bến cảng ngập xác người. Đạn pháo kích từ trên mấy cụm núi đá vôi ào ạt rơi xuống trung tâm thành phố và những con đường dẫn ra biển. Mặc kệ đạn và pháo, mặc kệ súng, từng đoàn, từng đoàn người bồng bế nhau, la hét, kêu gào chạy về hướng biển. Cầu cảng được nối dài để đoàn người tan tát chạy loạn xô đẩy nhau xuống một chiếc xà lan lớn. Trời nắng như hắt lửa từ trên cao nhưng đoàn người quá đông đến nổi chiếc xà lan mau chóng đông nghẹt. Những loạt đạn pháo càng lúc càng dày. Thịt và máu vung vải khắp nơi trên cầu cảng…
-Đừng rót trà cho em nữa!

Người đàn ông giật mình, ông lại cười khi nhìn thấy nước trà tràn ra khỏi ly nước của cô gái.
-Đó là một ngày rất lạ lùng!
-Anh nói sao?

Mắt cô gái mở lớn. Cô ái ngại nhìn ông và lại tìm nắm bàn tay ẩm lạnh. Một bàn tay mềm mại. Cô nhớ bàn tay thô ráp của cha mình. Cô chưa bao giờ nắm tay cha nhưng cô vẫn biết nó sần sùi cứng cáp với những ngón ngắn và thô. Bàn tay ấy đã từng tát vào má cô, làm hằn lên năm ngón tay trong suốt nhiều ngày. Nhưng nó không làm cô đau đớn như khi nhìn ông khóc trong cơn say chiều hôm đó. Ông rền rỉ: “Con ơi là con ơi, ai đã đưa đẩy con đến con đường này? Trời ơi,là ai? Là ai? Tui phải giết nó. Là ai? Là ai?”

Phải chi ông biết cái người đưa con gái mình vào con đường mà ông cho là xấu xa ấy chính là em gái của mình, không biết ông sẽ xử sự ra sao?
“Đó là một ngày rất lạ lùng!” Không, cái ngày hôm ấy tràn ngập sợ hãi và cay đắng. Cái ngày hôm ấy cô chỉ muốn chết đi cho nhẹ bớt nỗi buồn lo. Người đàn ông đó, người đàn ông đầu tiên trong cuộc đời cô cũng trạc tuổi người đàn ông đang ngồi bên cô. Nhưng giữa họ là một sự tương phản cùng cực. Thế nhưng với “bà chủ” , ông ta là một “người đáng kính”. Trong căn phòng khách sạn không mấy sạch sẽ, hắn đã lao vào cô như một kẻ chết đói nhìn thấy mâm cơm… Trong sự sợ hãi, toàn bộ thân mình, các cơ, hai đùi của cô đã khép lại, căng cứng bởi những đề kháng vô thức. Hắn hầm hừ, làm đủ mọi cách để chiếm đoạt và gần như xé rách thân thể chưa kịp nầy nở của một cô gái nghèo khó vừa mới lớn. Đêm, hắn bỏ về. Một mình cô trong căn phòng khách sạn chật hẹp, âm u…
-Em uống thêm một ly nước cam nữa nha? Người đàn ông dịu dàng nâng mặt cô lên.Ông thảng thốt khi thấy những giọt nước mắt trên mi cô gái:
-Sao em khóc? Đi chơi với anh buồn quá đúng không?
Cô khẽ khàng lắc đầu. Ông quàng nhẹ tay qua đôi vai bé nhỏ của cô, mắt mông lung nhìn ra ngoài trời mưa, nói thật nhỏ:
-Ngày anh còn nhỏ, biển vui lắm…Rồi có một ngày…
-Sao hả anh?
-À, có một ngày nó thấm máu… Máu… những người thân yêu nhất của anh!
-Em xin lỗi!

Người đàn ông cười buồn, Ông châm một điếu thuốc và ra dấu cho người phục vụ đang đứng thật xa trong một quầy nhỏ bên trong, người phục vụ lại gần:
– Cho chú thêm một bình trà, một ly nước cam!

Biển đã đen thẩm, không nhìn thấy gì ngoài bóng đêm đen. Tiếng mưa rơi rào rạt trong tiếng sóng…

Đèn trong quầy giải khát vàng vọt. Đang mùa mưa và là ngày đầu tuần nên khách sạn vắng ngắt. Hình như chỉ có hai người…
– Năm đó anh mười lăm tuổi.. Người đàn ông thì thầm.
– Dạ! Cô gái trẻ nắm chặt bàn tay rịn mồ hôi của ông. Bỗng cô rùng mình. Ừ, năm đó, không phái cái “năm đó” xa xôi của người đàn ông đau khổ ngồi bên cô, mà mới vài năm đây thôi, đứa em trai cô cũng tròn mười lăm tuổi. Chính cái ngày nó vô lớp mười, cũng là ngày cô cắn răng chấp nhận lời đề nghị bán thân mình, chỉ vì cô biết nêu không làm như vậy thì em trai mình không có quần áo, sách vở, tiền trường… và tệ hại hơn, mẹ cô sẽ chết vì thiếu thuốc.
-Chị anh đã che đạn cho anh! Mắt người đàn ông dại đi, có cảm giác ông đang khóc dù không thấy lệ rơi .

Cô gái bật khóc, đầu dựa vào vai ông. Bỗng dưng cô thấy mình thương ông lạ lùng. Thấy ông không khác gì đứa em trai ốm yếu của cô. Cô nhớ đêm đầu tiên gặp ông, khi ấy cô đã rời khỏi “động quỷ” của “má Châu” một thời gian, đêm cô xin đi làm ở một quán bar nhỏ bán thức ăn Nhật còn ngày thì học uốn tóc, trang điểm… Quán cô làm phục vụ nằm trên một con đường nhỏ. Ông đến, rất lịch sự bảo với cô mình muốn một chén sakê đứng gốc Nhật Bản. Sakê là một loại rượu ngũ cốc nhẹ. Ở cái quán của cô nó có màu vàng nhạt, thơm thơm như rượu gạo Việt. Ông ngồi uống một mình, đờ đẫn… Vài hôm sau ông lại đến. Bà chủ quán của cô, là em gái của chủ tiệm cô học trang điểm không phải là người khó tính với nhân viên nên khi ông bắt chuyện cô có thể thoải mái chuyện trò nếu quán vắng khách. Dần dần ông có cảm tình với cô. Nhiều khi ông tế nhị để lại tiền “boa” sau khi ra về. Cô cũng thích ông dù ông nhiều hơn cô ba mươi tuổi và họ nói chuyện rất ít. Cô không hiểu vì sao mình lại có cảm tình với con người đó. Phải chăng đó là một mối đồng cảm sâu xa? Qua cách sinh hoạt của ông, cô đoán ông đang sống độc thân và ở đâu đó không xa lắm nơi cô đang làm đêm vì vài lần cô biết ông đi bộ đến. Nhiều tháng trôi qua từ khi cô may mắn rời bỏ nơi cô dấn thân vào dù rằng vẫn bị ám ảnh đến sợ hãi. Một vài ông khách Nhật, khách Đại Hàn nhờ người hướng dẫn hỏi thẳng cô có muốn đến khách sạn với họ sau giờ làm việc với giá khá cao nhưng cô từ chối. Mẹ cô đã mất. Chuyện phải có tiền không còn là chuyện bắt buộc nghiệt ngã. Và cô tự hứa với mình dù giá bao nhiêu cũng không chấp nhận bán thân thêm lần nữa.

Một đêm người đàn ông ấy đã ngập ngừng đề nghị:
-Em … có thể đi chơi với anh?
-Đi chơi? Không, em không làm… Cô nói, giọng buồn bã.
-Không, anh không nói ý đó, anh muốn rủ em đi chơi ở biển…
-Biển? Mắt cô tròn xoe. Cô sinh ra ở đồng bằng và chưa bao giờ nhìn thấy biển.Chừng nào đi hả anh?
– Em đồng ý?
-Dạ… không!
Người đàn ông im lặng. Ông yêu cầu một ấm trà. Khi trở ra, cô rụt rè:
– Chừng nào anh đi?
– Ngày mai!
– Em sẽ xin nghỉ, đi với anh, nhưng…
– Nhưng sao?
– Em đang… em đang… Và sẽ khộng có chuyện đó.
Người đàn ông bật cười, ông nắm tay cô:
-Cô bé ngốc… Em xin phép đi nha. Sáng mai anh đến đón.
Ông thuê một chiếc taxi đến chỗ cô hẹn là đầu hẻm phòng cô trọ. Trên xe cô nói thật với ông là mình đang “kẹt”. Ông cười như rất hạnh phúc, nắm chặt tay cô và thì thầm: “Em điên! Em điên”

Biển đã đón họ với những ngày áp thấp mịt mù. Chủ khách sạn hình như có quen biết với ông. Khi ông trao chìa khóa phòng cho cô, cô ngạc nhiên:
– Em …. Suýt nữa cô đã hỏi: – Em ngủ một mình sao? Nhưng cô đã kìm lại được. Hai ngày nữa cô mới “hết” và chuyện ở một mình làm cô cảm thấy vừa thoải mái, vừa buồn buồn vì khi đồng ý đi chơi với ông, cô đã dự liệu và chấp nhận mọi điều có thể xảy ra.

Gần hai ngày đã trôi qua. Trời vẫn mưa và họ chưa một lần thật sự hòa vào biển dù ông đã kêu taxi ghé vào một tiệm quần áo thể thao để cô chọn một bộ áo tắm. Cả ngày người đàn ông chỉ ngồi nhìn ra biển và uống trà. Đêm đầu tiên họ cũng ngồi như đêm nay và khi đưa cô đến trước cửa phòng ông nói thật nhỏ: “Em ngủ ngon nha! Anh chỉ sợ sóng biển làm em khó ngủ” . Và đúng là tiếng sóng cùng với những cảm xúc lạ lùng đã làm cô chập chờn suốt đêm. Phòng ông sát cạnh với phòng cô. Cô nằm lắng nghe tiếng sóng, đôi khi cô mơ hồ nghe tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng mình và vội vã bật dậy, nhưng không hề có ai…

Hôm nay biển vẫn động…
Trời tối mù mịt. Người thanh niên trẻ hạ hết những màn sáo xuống. Cặp vợ chồng già người nước ngoài mới thuê cùng khách sạn đã đứng lên từ hơn nửa giờ trước. Bàn tay người đàn ông bứt rứt trong tay cô. Chợt ông rút tay ra, thì thầm:
-Tại sao số phận chúng ta lại như thế này? Tại ai?
-Đừng rót trà cho em nữa anh!
-Ừ, em có muốn xuống biển không?
-Trời mưa mà anh, với lại tối hù à, em sợ…
Ông nắm tay cô, họ đứng lên. Cô thoáng thấy ánh mắt người thanh niên phục vụ trạc tuổi cô nhìn mình vừa tò mò vừa ái ngại.
Ông dừng lại thật lâu trên hành lang, thì thầm:
-Ngủ ngon nha. Mai anh sẽ không rót trà cho em nữa!
-Dạ, không sao mà anh…

Tiếng sóng vẫn ầm ào khi cô đã nằm trong chiếc mền dày vì phòng khá lạnh. Mơ hồ cô lại nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Cô nhẹ nhàng rời khỏi giường, đi chân trần về phía cửa. Xoay nắm cửa. Và cô suýt kêu lên vì kinh ngạc. Không có ai nhưng trời đã trong sáng tự lúc nào. Ánh trăng trải rộng khắp khu vườn nhỏ dẫn về phía biển. Cô bước về phía phòng ông. Đèn bên trong vẫn sáng. Cô nhè nhẹ gõ vào cánh cửa…
10.2009
NGUYỄN ĐÌNH BỔN

Ngưỡng mộ đã lâu, xin cho biết quý danh!

phamhoainhan

Trong truyện kiếm hiệp, các tay hảo hán giang hồ khi gặp nhau lần đầu thường khách sáo nói: Ngưỡng mộ đã lâu, hân hạnh được diện kiến.
Còn khi gặp nhau mà chưa biết tên, họ sẽ lịch sự hỏi: Xin các hạ cho biết quý danh!
Đúng bài vở là vậy, có những trang tuấn kiệt mới hành hiệp chốn giang hồ, thuộc bài như cháo, cho nên gặp người lạ là mở miệng nói trơn tru ngay: Ngưỡng mộ đã lâu, xin cho biết quý danh!
Câu này mới nghe qua cũng êm tai ra phết, nhưng nghĩ kỹ lại thì hơi bị… ngu, nếu không ngu thì hơi bị… đểu! Bởi vì tên còn chưa biết, lấy cái quái gì mà ngưỡng mộ!

Ở Facebook, chuyện tương tự như trên xảy ra như cơm bữa.
Chúng ta hãy đến với một gã có tên là Mộ Dung Phục để minh họa chuyện này nhé.
Mộ Dung Phục có một tài khoản trên Facebook. Hắn nghe mọi người nói rằng muốn thể hiện đẳng cấp cao thì phải có nhiều bạn, càng nhiều càng tốt. Cho nên Mộ Dung Phục quyết có thật nhiều bạn. Như chúng ta biết, muốn có thêm một người bạn trên Facebook phải qua 2 bước:
1.Ta mời người (hoặc người mời ta)
2.Người được mời chấp nhận lời mời của ta (hoặc ta chấp nhận lời mời của người).
Chờ người ta mời mình thì lâu lắm, nên Mộ Dung Phục chủ động mời (invite) bạn bè. Nhờ Facebook có cơ chế giới thiệu người để mời kết bạn, nên Mộ Dung Phục cứ bấm để mời lung tung, mỗi lần hàng trăm người. Hắn chả kịp xem mỗi người được mời ấy là ai, tại sao hắn phải mời kết bạn, miễn có thêm bạn là được!

Giờ chúng ta chuyển sang một nhân vật khác, cũng có tài khoản trên Facebook, đó là Kiều Phong. Kiều Phong đang nhởn nhơ lướt qua các thông tin trên Facebook thì thấy báo tin có một thằng mời mình kết bạn, tên nó là Mộ Dung Phục. Thiệt tình mà nói, Kiều Phong chả biết Mộ Dung Phục là thằng nào, mặt mũi tròn méo ra sao. Vô trang của Mộ Dung Phục để đọc thì có thể biết được đôi điều (nhưng biết nó nói thật hay nói dóc?), Kiều Phong chả mất thời giờ cho một tên vô danh tiểu tốt như vậy.
Thế nhưng click chấp nhận kết bạn thì có mất mát gì đâu? Lại tăng được số bạn bè thêm một người. Còn không chấp nhận, có khi nó lại nói mình chảnh. Thế là Kiều Phong click chấp nhận kết bạn với Mộ Dung Phục.
Vậy là chúng ta có 2 người kết bạn với nhau là Mộ Dung Phục và Kiều Phong. Dù là bạn nhưng chẳng ai biết ai thế nào cả.
Với những tình huống tương tự như vậy, ta có vô số Mộ Dung Phục và Kiều Phong tiếng là bạn bè của nhau nhưng quanh năm suốt tháng chẳng hề nói với nhau nửa lời. Chúng ta cũng có những người có danh sách bạn bè to như trái núi nhưng thực chất họ chẳng quen với bao nhiêu người trong số đó cả (thành thật mà nói, tui cũng vậy đó!).
Đến một lúc nào đó Mộ Dung Phục nói chuyện với Kiều Phong, thì câu đầu tiên sẽ là:
Kết bạn đã lâu, nhưng xin hỏi, mày là thằng nào vậy?
Thì có gì khác câu Ngưỡng mộ đã lâu, xin cho biết quý danh đâu!

À, sẵn đây xin nói thêm một chuyện: Khi bạn nói chuyện với Kiều Phong trên Facebook thì chưa chắc đó là Kiều Phong đâu nha! Ở Facebook tha hồ chọn nick, ai muốn lấy tên Kiều Phong chả được!

PHẠM HOÀI NHÂN

__________

SẮC

nguyenthiminhngoc

Tôi gặp nàng ở quán cà-phê “Còn chút gì…”. Tôi không thích quán ấy. Thằng em út của tôi, cu Trần, thì yêu quán ấy cực kỳ. Tôi không thích thằng Trần cũng như không thích gia đình tôi, cái gia đình đã phải đẩy thằng út xuất gia để bù trừ cho phần nào những điều tham, ác mà họ đã lỡ làm và vẫn mãi làm khi nào còn sống.

Tôi không thích nhiều thứ. Trừ nàng. Nàng hớp hồn tôi ngay từ đầu bởi cái bộ lảo đảo hồn phách của nàng khi vừa mới gặp tôi. Nàng là người làm quen trước. Nàng nói tự nhiên như là nếu không nói được câu này nàng sẽ chết. Cách tôi một cái bàn trống, nàng gõ ly:

– Ôi, anh ơi, nói chuyện được không? Ngó anh “thiền sư” quá, dù anh không mặc áo như cái anh kia…

Cái anh kia là cu Trần, đang vung vẩy tay tán tỉnh về những nỗi vui trần thế cho bọn gái, trai phục vụ, ngồi quầy. Tội nghiệp thằng bé, nó đang tuổi lớn, tuổi yêu lại phải khoác áo lên chùa, tập đời chay tịnh… Ai cũng thấy cái người hợp với nhà chùa nhất chính là tôi. Chỉ vì ở nhà tôi ít nói, đố ai đoán được những gì tôi đang nghĩ.

Đáp lại câu hỏi của nàng, tôi chỉ cười. Thế là nàng hiên ngang ngồi chống cằm vừa ngó tôi vừa gọi thêm một loại rượu nào đó như thể tôi là một thứ mồi để đưa cay. Trong ánh đèn mờ của quán, nàng thoắt đẹp, thoắt xấu… Nói thế nào cho chính xác đây. Nàng rất “ma”!. Và rất không giống chị Phương.

Quả tình trong lúc bị nàng ngồi ngó, tôi cứ miên man nghĩ tới chị Phương, mối tình tuyệt vọng của tôi… Chị Phương có cái sắc hương của một người mệnh yểu… Đang sống rất mặn nồng với anh Hai tôi, nửa đêm chị lay anh dậy báo cho biết chị chỉ còn sống vài tiếng nữa vì chị vừa tự tiêm thuốc độc vào người. Cuộc đời chị tưởng đã chết trước khi gặp anh. Tình yêu của anh là một loại hạnh phúc trào ngập tăng dần đến độ chị ngộp thở đành phải ra đi vì… “phúc bất tận hưởng”.

Chị chuẩn bị cái chết của mình khá chu đáo. Buổi chiều, từ giã học trò chị không nói “Au revoir” mà đổi bằng “Adieu”… Chị chỉ cho anh thấy gói quà nào để lại cho ai. Người độc nhất không được gì là cha ruột của chị vì sự độc ác của ông suýt gây nên cái chết của chị trước khi được gặp anh. Quà của tôi là một con trâu nước xanh biếc như ánh trăng đêm chị ra đi.

Lần gặp nhau đầu tiên của chúng tôi chỉ có vậy. Chuẩn bị cho lần gặp sau, nàng đề nghị:

– Anh chọn điểm, tôi chọn giờ. Anh là người ở đây còn tôi là người đi ngang qua. Tôi có một số công việc cùng với những người khác nên không thể bỏ đi chơi bất cứ lúc nào…

Tôi chọn một quán cà-phê gần Hổ Quyền. Nàng thích những cây thằn lằn bấu sát bức tường thành sắp đổ. Chúng tôi vẫn không biết gì về nhau hơn, sau đó. Nàng khoe:

– Tôi có nhiều tên. Anh cứ đặt tôi một tên nào anh thích. Phần tôi, lỡ gọi anh là Thiền Sư thì anh vĩnh viễn là Thiền Sư.

Tôi cố tìm một cái tên ngược với chữ Phương, đầu tiên nên là vần trắc. Nàng chọn ngay:

– Vậy gọi là Sắc đi. Mình gặp nhau mùa xuân, có lẽ sẽ chia tay vào mùa đông. Hãy tạm gọi tôi là Thu Sắc.

Giọng nàng chợt chùng thấp, tâm sự:

– Có lần tôi chia tay một người bạn trai khá thân vì anh ta nhận ra trong tôi, phần thú nhiều hơn phần người.

Bữa đó, nàng thể hiện khá xuất sắc thần khí của một con thú trúng đạn, đơn độc, kiếm chỗ liếm vết thương và hãi sợ tiếng người. Thế nên tôi chẳng dám nói gì nhiều. Nhưng khi chia tay, nàng dư thừa nét đam mê và bí ẩn để xui tôi xin nàng một lần hẹn thứ ba.

Nàng có vẻ phân vân:

– Cuộc sống của chúng tôi phù du lắm. Chúng tôi sẽ ở thành phố này vài ngày nữa rồi phải đi. Vầy đi, tám giờ tối thứ sáu, 13 tây này, anh nên đi xem chúng tôi biểu diễn. Sau đó mình đi chơi cho đến 5 giờ sáng, anh phải trả tôi về để kịp cùng đoàn dọn gánh ra đi.

Hóa ra đây là một cô gái hát rong. Tấm vé nàng đưa có nền màu xanh lục. Những hoa văn, họa tiết trong đó nhắc tôi nhớ nơi đây đang diễn ra một lễ hội lớn với khá nhiều khách đến từ các nước. Nàng có vẻ là một cô gái lai. Mắt nâu trong, tóc màu hạt dẻ. Hôm đầu nàng búi đầu như sương phụ nửa chừng xuân, hôm sau cài một băng giữ tóc kết từ nhiều sợi tóc. Cùng với jupe jean xanh, pull trắng, ngó ngây thơ khỏe mạnh như cô học trò nhỏ của một trường thể dục thể thao.

Cả nhà nhận ra sự khác lạ nơi tôi. Tôi cố hòa vào các sinh hoạt của lễ hội với hy vọng tìm người. Người ta chỉ cho tôi một khu tường rộng bao quanh cho biết đoàn của nàng đang tập dượt bên trong. Tôi đành phải lang thang đi vào các phòng triển lãm, len vào các khu phố ẩm thực, đi dọc bờ sông xem thả diều và ngó những khối đá, thạch cao ngã xiên với những cái tên được xài hoang phí như: “Lời nguyền dòng sông”, “Mây, em và tôi”, “Vũ trụ đìu hiu”, “Sa mạc tình yêu”, “Đời cá”, “Sát na”, “Đại hồng thủy”, “Tiếng thở dài của thời gian”, “Thu cố đô”, “Khúc trầm ca nghiệt ngã”, “Mộng”…

Lạc tới một bãi sông đầy chong chóng giấy quay cuồng trong gió, cảm giác bị nhìn, tôi quay lại và thấy nàng đang chụp trộm lưng tôi. Tôi không dấu được nỗi mừng khi tình cờ gặp không hẹn trước đến độ bị nàng chê:

– Đừng trải phơi ra như vậy, mất đi chất thiền sư.

Tôi nắm chặt tay nàng:

– Mặc kệ, tôi không thể dấu tôi quá vui khi gặp lại Thu Sắc.

Nàng gỡ tay tôi ra:

– Nhưng tôi thích anh vì cái vẻ thiền sư không bỏ được đạo của anh.

Kéo tôi ngồi phệt xuống một phạt cỏ ở bờ sông, nàng say sưa kể cho tôi nghe mối tình tuyệt vọng của cô gái em vua xứ này và vị Thiền sư đến từ đất Gia Định. Lặn lội vào ngôi chùa ở Cù lao Phố với danh nghĩa triều đình để tìm cách tiếp cận người yêu, cô chỉ được Thiền Sư ngồi tiếp sau một bức vách. Đêm ấy cô rủ ông đi trốn. Đến giờ hẹn, ông từ chối. Cô xin nắm một bàn tay, ông đưa tay ra để rồi sau đó chặt tay phóng hỏa đốt mình… Bàng hoàng cô đã lao vào lửa ôm lấy nhục thể của ông để được cùng thiêu chung.

Tôi xỉa trán nàng, cười:

– Ghép ở đâu vào cái chuyện chặt tay… Hình như tích đó là của bà thứ phi Phi Yến.

Ngó bộ nàng sững sờ khi phán:

– Cười đẹp quá, nhưng không nên cười nhiều, chỉ cười với tôi thôi.

Rồi ngó chằm chằm vào tay tôi đến độ tôi phải chìa cả hai tay:

– Nắm đi!.

Nàng lắc đầu, dẫu môi:

– Không dại! Đó là vật dễ cháy, dễ lây lan…

Tôi thèm hôn ngay lên đôi môi nàng lúc đó. Đó là một đôi môi thách thức người ta chiếm đoạt với khá nhiều bạo lực, một đôi môi biết cách đòi hỏi để được hôn…

Như đoán được ý tôi, Thu Sắc áp đôi môi nàng xuống đôi tay tôi đang mở ra. Lửa từ đó lan tỏa toàn thân tôi. Tôi lờ mờ cảm nhận lý do tại sao có người cho là trong nàng phần thú nhiều hơn phần người. Nàng sanh ra để được yêu. Và dường như nàng thích chọn những mối tình không dễ…

Tôi hồi hộp chờ đến giờ người ta cho vào khu đất trống… Còn ba mươi phút nữa vở diễn mới bắt đầu. Trên sân khấu, một người đàn bà trùm khăn áo, ngồi ngó khán giả với giỏ đồ bên cạnh… Chiêng trống khua, người ào ra tới lui, lúc mau, lúc chậm, lúc đông, lúc thưa với những khuôn mặt trắng bệch như ma khiến tôi hoa mắt chẳng đoán nổi ai là Thu Sắc… Nàng là cô công chúa ở xứ cũ, vì mê trai bị vua cha từ phải lìa xứ hay là cô công chúa xứ mới trẻ xinh hơn, được trai mê đến độ dứt nghĩa với vợ xưa. Nàng là chàng thiền sư si tình công nương xinh đẹp hay nàng chính là mụ phù thủy tiên tri những đứa trẻ sẽ xinh đẹp vĩnh viễn ở tuổi lên năm (hay chính nàng là một trong hai đứa?). Nàng là tên quân câm trung thành uốn người qua ống sắt hay nàng là thiếu phụ ngồi dương đôi mắt cú vọ quan sát khán giả từ ba mươi phút trước giờ diễn với túi thức ăn, đồ uống thoáng chốc và bất ngờ được mang ra.

Nhạc chuyển đám cưới xôn xao, cô vợ cũ chuẩn bị mọi thứ như hôn lễ của chính mình, cô cúi xuống cửa mình dùng miệng nhổ ra từ đó một lưỡi dao. Ngậm cán dao trong miệng, cô ngoắc cặp con của mình đến để ôm ấp như mọi ngày. Hai đứa nhỏ xinh như hai con gà kết bằng len tung tăng đến mẹ. Mẹ hôn con để lưỡi dao trong miệng mẹ đâm suốt tim con, cả hai đứa. Lưỡi dao đã được rút ra từ chốn mẹ đã bồng bềnh với hạnh phúc rồi từ đó nẩy nở ra con…

Gây cho người xem cảm giác buốt đau như cũng bị dao đâm khi mẹ hôn con bằng nụ hôn như thế, chẳng biết đây là loại nghệ thuật thấp hay cao. Chỉ biết rất ít khán giả còn tỉnh táo nhận ra đôi mắt cú vọ đã trôi ra gần giữa sân khấu, tiếp tục ăn trái cây, uống nước và ngó khán giả, rồi lại trôi hướng khác một cách chậm chạp đến độ khó ai phát hiện được bà đang chuyển động. Mãi đến khi tuồng vãn vài mươi phút sau, khi khán giả cuối cùng là tôi chuẩn bị rời rạp vẫn thấy trên kia đôi mắt cú vọ tĩnh tại ngồi nhìn…

Tôi đợi nàng ở ngả ba Âm hồn, nơi có gốc si già tương truyền được nhiều người chọn làm nơi treo cổ. Nàng đến từ sau lưng, ôm quấn lấy bụng tôi bằng đôi tay mát lạnh như rắn trườn với lời thì thào:

– Chạy đi anh!.

Tôi đưa nàng đi, như mộng du, ra khỏi thành phố. Ánh đèn đường và ánh sáng trong các loại nhà ở hai bên quốc lộ loáng thoáng hắt vệt ra. Chúng tôi chỉ còn vài giờ ở bên nhau. Trước mặt tôi, vài chục cây số nữa là vài ngọn đèo lớn, một cung biển đẹp, tôi biết đưa nàng đi đâu để không hoang phí vài tiếng đồng hồ quý báu này. Chuyện gì sẽ xảy ra với cô gái tên Thu Sắc và chàng trai bị gọi là Thiền Sư. Hay chính nàng mới là Thiền Sư còn tôi đang sôi sục toàn thân nỗi nôn nao làm thú. Ở một cây xăng dọc đường, nàng nhắc:

– Nhớ 5 giờ sáng cho về lại chỗ diễn kẻo tôi bị bỏ lại mà tôi thì chưa thể sống lạc bầy…

Một tiếng sau chúng tôi phải chọn giữa biển và đèo. Tôi hỏi, nàng nói, anh là đàn ông, hãy chọn đi… Tôi chẳng phân biệt được trăng 14, 15 hay 16, chỉ biết đêm ấy trăng ngập ngụa lá rừng và pha sắc biển trời đêm một màu lạ lẫm. Nàng kêu lên những tiếng rên đầy hoan lạc trong cổ họng đến độ tôi ngỡ phải ngừng xe. Nàng bấm tôi thì thào, chạy tiếp lên đỉnh đi anh, em chẳng ngờ được tắm trong một ánh sáng lạ lùng như vậy và hương biển pha rừng trộn trăng cho ra một loại mùi vị quá sức gợi tình.

Chúng tôi phải né đỉnh đèo vì dù là nửa khuya nơi ấy vẫn là giao lộ chộn rộn các xe qua lại. Tẻ vào một nhánh đường cứu nạn, tôi loay hoay tìm chỗ dấu xe. Tìm ra được một chỗ có thể lót trải một nệm lá êm cho nàng vừa xong, ngó qua thì không còn nàng bên cạnh khiến tim tôi ngưng vài nhịp. Đến khi nghe tiếng cành lá khô khuơ tôi mới nhận ra nàng đang bò ra một khúc đá nhô cao.

Khi tôi theo kịp nàng, Thu Sắc đang quỳ ngửa nhắm mắt, ưỡn người ra phía sau để mặt hứng đầy trăng. Tôi run rẩy tháo những lớp vải trên người nàng. Nàng đưa tay tìm tay tôi, nói khẽ:

– Nghe nè, không phải doạ đâu, nhưng ai đi sâu vào trong người tôi đều chết mà tôi thì không muốn anh chết chút nào. Anh không giống những người tôi đã gặp, anh là Thiền…

Chữ “Sư” chưa thoát ra được đã bị tôi bịt lại bằng một nụ hôn. Tôi không thích phụ nữ nói nhiều… Tôi quý nàng vì sau bao lượt gặp, số lượng chữ nàng rót sang tôi không nhiều mà vừa, gọn.

Đúng như tôi nghĩ, môi nàng sinh ra để khiêu khích người ta cưỡng đoạt nụ hôn. Nàng vùng vẫy một cách tuyệt vọng, đồng thời tôi cũng nhận ra sự côïng hưởng tuyệt vời. Rồi một lúc nào đó, tôi nhận ra mình là người được. Bằng cách nào không rõ, nàng như từng đợt sóng, nâng quấn rồi đẩy chìm tôi để môi tôi được trôi đến đỉnh cao cảm xúc, uống no nê tất cả những mật ngọt tận nguồn. Đôi chân nàng quấn cổ tôi như muốn nghiền cổ kẻ tội đồ tham lam là tôi chẳng bao giờ thấy đủ… Tay tôi quờ quạng tìm kiếm cho đến khi chạm được cảm giác an tâm của trẻ thơ lúc đày đọa được bầu vú mẹ hiền. Mắt tôi không thể mở như là nó chưa hề tồn tại và thật sự tôi chỉ muốn thiếp ngủ một chút để quên đi những nhọc mệt khi leo được đến đây và trước một chút nữa, chuẩn bị một nệm lá vô dụng dưới chân ghềnh…

Lẽ ra tôi nên dừng ở đó hay ngủ thiếp đi lúc đó.

Nhưng tôi, đã không xứng với hai chữ Thiền Sư nàng tặng, không biết vâng lời để ngừng lại trước những bí ẩn đã được cảnh báo. Tôi nhổ mặt mình ra khỏi hai chân nàng. Nàng có vẻ đuối sức nằm đó, thân hình như đá trắng tạc dưới trăng xanh, đẹp đến không ngờ. Phải, lúc đó tôi mới bình tỉnh nhìn toàn thể người nàng. Thân thể nàng đẹp đến độ làm cho người ta sợ, và càng nhớ hơn lời cảnh báo của nàng. Tôi quỳ bên cạnh cái sinh vật sống ấy, hôn từng phân vuông trên khắp người nàng.

Nàng nằm yên với chút ít hơi thở gợn mong manh dưới ngực, mắt ngó trăng hay ngó trời, ngó biển hay cây lá rừng đêm? Tiếng tôi nhỏ nhưng đêm vắng nên nghe vang vang:

– Em… chính là… Thiền Sư…

Nàng cười mệt nhọc, không nói, tay níu tay tôi đặt lên ngực nàng. Tôi nghe tiếng đập hết sức nhỏ nhẻ tội tình và đột nhiên thấy cần thiết biết bao, phải CÓ nàng. Tôi tháo hết áo quần của mình ra, liệng vương vãi một cách nhẹ nhàng và chợt nhận ra nãy giờ nàng nằm trên đá.

Tôi nâng nàng lên, phủi đi những vụn cát đá còn bám vào người rồi bế nàng xuống mảng nệm lá bên dưới. Tiếng nàng van vỉ:

– Sẽ chết mà, nghe em đi, phần thú trong em mạnh mẽ hơn người.

Lỗi tại ai khi trong câu năn nỉ cản ngăn của nàng lại hàm chứa một lời khuyến khích. Như là nàng nói em thèm chết quá, cho em chết đi và tôi hiểu chữ chết là yêu.

Tôi đâm sâu vào người nàng. Người chết là tôi. Tôi rú lên vì cảm giác có một khe hẹp đầy dao nhọn bén chặt rọc đi phần mềm yếu nhất của tôi.

Tôi ngã ngửa người ra, vừa khi nàng uy nghi trỗi dậy. Chúng tôi vẫn chưa thoát khỏi nhau. Và tôi ngất đi trong ý nghĩ hoang mang nàng là ai vậy?.

Là cô công chúa giết con bằng nụ hôn chứa lưỡi dao rút từ nơi đỉnh cao hoan lạc nên cũng là cửa tử. Hay nàng là người mang đôi mắt cú vọ gắn trên một mặt trắng đá lạnh băng.

Khi tôi tỉnh dậy, thấy mình vẫn trần truồng nằm trên nệm lá, áo quần tung vãi ở những ngọn cây thoát khỏi tay tôi với một vùng hạ bộ đau buốt cho thấy những điều đã xảy ra là có thật.

Nắng chiếu vào những mẫu kính và kim loại trên chiếc xe lấp ló sau lùm bụi rồi hắt vào người tôi nóng rát.

Phải chăng nàng đã lấy đi khúc đời còn lại của tôi? Phải chăng sẽ không còn cơ hội cho tôi gặp lại phần thú tuyệt vời nằm tiềm ẩn trong mình lần nữa?.

Tôi chỉ biết chắc mình đã có thể nói adieu với nỗi ám ảnh tên Phương để bắt đầu nỗi ám ảnh mới với “cô-gái-thiền-sư ”

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

Kí ức Nha Trang

tranthitrucha

Tôi rời Đà nẵng trong buổi sáng mưa dầm ướt át để chạy phía trời nắng ấm. Đó là Nha Trang! Vùng đất xa lạ có gì quyến rũ mà cứ đọng mãi trong tôi những kí ức khó quên?!….

Mùa hè năm đó tôi 18 tuổi, sau khi thi xong đại học, nằm lên nằm xuống, đi ra đi vào trong chờ đợi âu lo, thắc thỏm, bạn bè đứa thì vượt biên, đứa thì trốn nắng ở đâu đâu…Mẹ tôi nói :
Con sắp xếp hành lí đi Đà lạt với me!
Thật hở me? Đi chơi hở me?
Đi tìm cậu con.
Tôi mở to đôi mắt nhìn me, me tôi nói nhỏ nhưng mắt me cúi xuống thật buồn:
Là con rơi của ông ngoại me, đã thất lạc từ nhỏ, ông bà ngoại chỉ có một mình mẹ của me là con gái nên me muốn đi tìm cậu về để cậu thờ tự …
Sao me biết cậu đang ở Đà lạt?
Cậu đã viết rất nhiều thư cho me và nhờ xe khách đi ngang qua đây đôi xuống, nhiều người nhặt được đem đến cho me.
Câu chuyện của me tôi thật kì lạ nhưng chuyến đi xa đầu tiên làm tôi háo hức mà chẳng để ý gì những giọt nước mắt của mẹ lặng lẽ suốt cả chuyến đi.
Ngày đó không có những chuyến xe chạy suốt Đà nẳng – Đà lạt như bây giờ, muốn đến Đà lạt phải dừng lại ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau sắp hàng chen lấn mua vé lên Đà lạt…
Hành trình khoảng hơn 500 cây số dài như bất tận và mệt mõi vì những kiểm soát, bắt bớ, xin xỏ…và hàng hoá thì tả phỉ lù…hình như không có gì là ngưới ta không mua bán, giấu diếm…
Tôi ngồi lặng bên cửa xe nhìn bóng chiều đang xuống dần trên biển Nha Trang, có một đôi mắt từ dãy ghế bên kia đã nhìn tôi chăm chú trong suốt chuyến đi. Xe dừng lại bến, người có đôi mắt đó đã nói chuyện với mẹ tôi thật thân tình, mẹ tôi vốn kĩ tính hay đa nghi vậy mà đã đi theo chàng đến một khách sạn nhỏ để me con trú ngụ qua đêm ” Cháu là người Nha Trang, khu nhà trọ dành cho khách ở bến xe phức tạp lắm, cô và em ở đây yên tâm hơn…Bây giờ cháu về nhà gần đây, chào cô và em!….”
Sáng hôm sau, sự việc không dễ dàng như me con tôi nghĩ, chen lấn, sắp hàng đến phiên mình thì hết vé….Bó tay!…Cả hai me con đều chán nản, thất vọng, lo lắng…Đúng là tiến thoái lưỡng nan!..Chàng đã xuất hiện như một vị cứu tinh, me tôi kể lể với chàng như kể lể với người thân, chàng cười với me tôi nhưng mắt thì không rời tôi.
Cô đừng lo, ngày mai bằng mọi giá cháu sẽ mua được vé cho cô, còn bây giờ cô và em cứ nghỉ ngơi, tham quan…Nha Trang đẹp lắm !…
Buổi chiều chàng lại đến khách sạn trò chuyện với me tôi thật lâu… không biết nói những gì mà me tôi lại dễ dàng giao tôi cho chàng chở tôi đi chơi trên chiếc xe honda 50, có lẽ sự cảm nhận của người mẹ rất nhạy từ sự chân tình, thật thà của đối phương…
Con đường dọc theo biển dài hun hút, tóc tôi tung bay trong gió, chàng dừng xe ở một ngọn đồi thoai thoải nhìn lên biệt thự Cầu Đá, biệt thự của vị vua cuối cùng nhà Nguyễn. Tôi im lặng theo chàng trèo lên các bậc đá, cả một rừng phượng vĩ đỏ rực rợp kín biệt thự, bổng dưng tôi thấy rưng rưng…Màu đỏ của phượng đã gợi nhớ đến sân trường trong ngày hạ cuối… Thời làm học trò sách vở cầm tay với những giấc mơ trinh nguyên không còn nữa, những chiếc áo dài lụa trắng sẽ cất vào ngăn kéo…Con đường phía trước sẽ ra sao?!….Chàng rút khăn tay trong túi áo trao cho tôi thật nhẹ nhàng:
Hình như em sợ tôi phải không?
Dạ…
Em có biết vì sao tôi giúp mẹ con em không?
Dạ…không…
Vì mắt em trong và ướt quá!…nhìn thấy cứ ngơ ngác và tội nghiệp lắm….tôi không đành lòng…Thôi tôi đưa em về…
Vậy mà tôi cứ hoang mang, cứ sợ sệt cho đến sáng sớm hôm sau, khi chàng đưa me con tôi lên chiếc xe du lịch màu trắng, nhìn chăm chú vào mắt tôi qua cửa kính:
Em nói số nhà em ở Đà nẵng đi, tôi sẽ ra thăm em
Sao tôi lại cố tình nói sai địa chỉ vào lúc đó để tôi không bao giờ gặp lại chàng ?!…Để rồi từ đó nỗi ân hận cứ dày vò tôi suốt những năm tháng sau này. Tôi đã phụ bạc một tấm chân tình. Tôi mắc nợ Nha Trang cho tận đến bây giờ, chỉ cần nghe đâu đó giọng nói Nha Trang cất lên thì kí ức ùa về với bâng khuâng tiếc nhớ…

Hai năm sau, anh tôi đã chọn Nha Trang để dừng chân như một sự đền bù với nhiều cung bậc: hạnh phúc, chông chênh, bình yên…Tôi không biết anh đã ngồi bên bờ sông này bao nhiêu lần trong chiều dài bất tận của thời gian hơn hai phần ba đời người cùng với những người bạn của anh ?! Và tôi tha thiết được một lần nhìn thấy họ, ngồi với họ, hoà nhập cùng họ trong nỗi buồn vui. Tôi đã nổ lực để có cuộc gặp gỡ đó bởi vì đã thầm thì mãi câu thần chú nhiệm màu ” Đi sẽ đến, gõ sẽ mở, tìm sẽ thấy”.

Tôi đã tìm thấy những gì?!….
Anh tôi đã ngồi bên những người bạn ở bến sông để chờ đợi tôi trong hoàng hôn đã chuyển dần sang bóng tối, tôi nhìn thấy họ thật thân quen, không có gì lạ lẫm, không có gì e ngại…Họ là bạn của anh, đã chia sẻ với anh trong những ngày tháng cô độc khi rời xa quê hương…Bỗng chốc những mệt nhọc của hơn 500 cây số mà tôi đi qua bay mất, tôi thật sự thấy ấm lòng!…
Chị đã ngồi ở đó cùng với anh tôi và những người bạn, đôi gọng kính trên khuôn mặt hài hoà, nhìn chị cũng bình thường, hiền lành như bao nhiêu người phụ nữ khác mà khi đi qua ta rất dễ quên…vậy mà ngôn ngữ của chị thì thật khó quên…Thật là khó khi diễn đạt!…vừa hồn nhiên vừa ương bướng, vừa chân tình vừa gai góc, vừa thiện chí vừa bất cần…Chị muốn nói gì thì nói không cần dàn dựng, không cần giữ kẻ…giữa những người đàn ông tóc trắng kiêu bạc, phiêu diêu…Họ cười với chị và nhìn chị bằng đôi mắt của những người anh bao dung nhìn đứa em ngỗ nghịch mà họ đã yêu thương, chìu chuộng…Chị uống và hút thuốc như họ và có phần hơn họ.
Hình như quán bắt đầu thưa khách, thành phố này cũng đi ngủ sớm, chị đứng dậy và nói :
” TH, chị về đây!… chị say rồi !…”
Rồi đi thật nhanh…Tôi chỉ kịp nhìn thấy đôi mắt chị sóng sánh ướt sau làn kính trắng và giọng nói nghèn nghẹn…Có cảm giác như chị đang đi về phía tận cùng của nỗi cô độc!…Tôi tiếc là sao lúc đó đã không cầm lấy tay chị và nói một điều gì đó cho chị cười…

Chao ôi Nha Trang! thành phố này thật hào phóng và mã thượng!…
Thành phố đã đón tôi trong khoảnh khắc đẹp nhất của thời con gái….và thành phố này cũng quyến rũ anh tôi bằng tiếng hát ma mị của loài chim suốt đời cứ bay vờn trên sóng biển… để anh phải chông chênh, đau buồn nhưng rồi cũng chính vùng đất hiền hoà này đã trả lại cho anh sự bình yên, một mái ấm, người vợ hiền với những đứa con ngoan…. Và những người bạn Thơ!….

Trần thị Trúc Hạ

( Viết cho anh tôi và những người bạn Nha Trang…)